Sài Gòn CMC - Giới thiệu 1 vài thông tin về cát trong xây dựng và các thành phần của cát xây dựng

MrXxx1992

Thành viên
Tham gia
2/9/2016
Bài viết
0
Sài Gòn CMC - Giới thiệu 1 vài thông tin về cát trong xây dựng và các thành phần của cát xây dựng

Cát xây dựng là vật liệu dạng hạt nguồn gốc tự nhiên bao gồm những hạt đá và khoáng vật nhỏ và mịn. Vật liệu xây dựng Sài Gòn CMC xin giới thiệu tới các bạn 1 số thông tin về cát xây dựng và những thành phần của cát.

Cát xây dựng là gì?

Cát xây dựng
là loại vật liệu dạng hạt có nguồn gốc từ tự nhiên, bao gồm các hạt đá và một vài khoáng chất nhỏ mịn. Cát xây dựng ở Việt Nam được chia ra làm 4 loại thông dụng chính đó là: Cát san lấp nền, cát bê tông, cát xây tô và cát vàng.

Tìm hiểu thêm:
Công ty cung ứng cát xây dựng tại hồ chí minh
Bảng giá cát san lấp tại tphcm


khi được dùng như là một thuật ngữ trong ngành nghề địa chất học, kích thước cát hạt cát theo các con phố kính trung bình nằm trong khoảng từ 0,0625 mm đến 2 mm (thang Wentworth dùng tại Hoa Kỳ) hay từ 0,05 mm tới 1 mm (thang Kachinskii dùng tại Nga và Việt Nam hiện nay). Một hạt vật liệu tự nhiên nếu có kích thước nằm trong các khoảng này được gọi là hạt cát. Lớp kích thước hạt nhỏ hơn kế tiếp trong địa chất học gọi là đất bùn (Mỹ) với những hạt có tuyến đường kính nhỏ hơn 0,0625 mm cho tới 0,004 mm hoặc bụi (Nga) với các hạt có các con phố kính nhỏ hơn 0,05 mm cho tới 0,001 mm. Lớp kích thước hạt lớn hơn kế tiếp là sỏi/cuội với các con phố kính hạt nằm trong khoảng từ 2 mm tới 64 mm (Mỹ) hay từ 1 tới 3 mm (Nga). Xem thêm bài kích thước hạt để biết thêm về các tiêu chuẩn được dùng. lúc cọ xát giữa những ngón tay thì cát tạo ra cảm giác sàn sạn (chứ ko như đất bùn tạo cảm giác trơn như bột).

Dựa trên kích thước hạt, cát được phân chia tiếp thành những lớp phụ.

(*): đơn vị tính mm
phan%20loai%20cat.jpg

Bảng phân loại cát xây dựng dựa theo kích cỡ

các kích thước này dựa trên thang đo kích thước trầm tích Φ, trong đó kích thước tính theo Φ = -log cơ số 2 của kích thước tính bằng mm. Trong thang đo Wentworth, giá trị của Φ cho cát nằm trong khoảng từ -1 tới +4, với sự phân chia các lớp phụ nằm tại những số nguyên.

Thành phần

Thành phần phổ biến nhất của cát tại các môi trường lục địa trong lục địa và những môi trường chẳng hề duyên hải khu vực nhiệt đới là silica (điôxít silic hay SiO2), thường ở dạng thạch anh, là chất với độ trơ về mặt hóa học cũng như do có độ cứng đáng đề cập, nên có khả năng chống phong hóa khá tốt.

tuy nhiên, thành phần hợp thành của cát có sự biến động lớn, phụ thuộc vào những nguồn đá và các điều kiện khác tại khu vực. các loại cát trắng tìm thấy ở những vùng duyên hải nhiệt đới và cận nhiệt đới là đá vôi bị xói mòn và có thể cất những mảnh vụn từ san hô hay mai (vỏ) của động vật cùng các vật liệu hữu cơ hay có nguồn gốc hữu cơ khác.[1] những đụn cát thạch cao ở Di tích quốc gia White Sands tại bang New Mexico (Hoa Kỳ) lừng danh vì màu trắng chói của nó. Acco (arkose) là cát hay sa thạch với hàm lượng fenspat đáng kể, có nguồn gốc từ thời kỳ phong hóa và xói mòn của đá granit (thường là cận kề). 1 vài loại cát còn chứa manhêtit, chlorit, glauconit hay thạch cao. Cát giàu manhêtit có màu từ sẫm tới đen, giống như cát có nguồn gốc từ đá bazan núi lửa và opxidian (obsidian). Cát chứa chlorit-glauconit bình thường có màu xanh lục (còn được gọi là cát lục), như cát có nguồn gốc từ bazan (dung nham) với hàm lượng olivin lớn. Nhiều loại cát, đặc thù cát ở Nam Âu, đựng những tạp chất sắt trong những tinh thể thạch anh của cát, tạo ra cát có màu vàng sẫm. Cát trầm lắng tại một vài khu vực đựng ngọc hồng lựu và một số khoáng chất có sức kháng phong hóa tốt, bao gồm một lượng nhỏ những loại đá quý.

Cát được gió và nước chuyên chở đi và trầm lắng thành những dạng bãi biển, bãi sông, cồn cát, đụn cát, bãi cát ngầm v.v.
 
×
Quay lại
Top