Kênh Sinh Viên

Petty Yoshida
Petty Yoshida
-Đặc điểm của ngôn ngữ văn học. Nhà nghệ sĩ, ngay từ ý đồ sáng tạo và tư duy hình tượng đã dựa vào khả năng, phẩm chất và thuộc tính của chất liệu. Cũng như vậy, nhà văn không thể tư duy nghệ thuật bên ngoài các khả năng, phẩm chất và thuộc tính của ngôn từ. Nhưng thế nào là ngôn từ? Ngôn ngữ học hiện đại phân biệt một cách rạch ròi và xác tín giữa ngôn ngữ và lời nói. Ngôn ngữ (Tiếng) là tổng thể tất cả các đơn vị, phương tiện, các kết hợp mà lời nói sử dụng (ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng, các phương thức tu từ). Lời nói (phát ngôn nói và viết) là hình thức tồn tại thực tế của ngôn ngữ vốn phong phú, sinh động, đa dạng. Hiểu như vậy thì ngôn từ là một kiểu lời nói có đặc trưng của nó. Ngôn từ là lời nói được sử dụng với tất cả phẩm chất thẩm mĩ và khả năng nghệ thuật của nó. Nói văn học là nghệ thuật ngôn từ, thực chất là nói văn học là nghệ thuật sử dụng câu văn, lời văn, bài văn vào mục đích nghệ thuật.
-Ngôn ngữ đời sống và ngôn ngữ văn học.Ngôn ngữ đời sống là ngôn ngữ nhân dân, sử dụng trong đời sống hằng ngày, là công cụ giao tiếp, tạo thành văn bản trong quá trình phát và nhận thông tin. Ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ của quần chúng đã được cách điệu hoá, nghệ thuật hoá qua bàn tay “phù thuỷ”, qua sự nắm bắt tinh tế và nhạy cảm các tác động và hiệu quả thẩm mĩ của ngôn từ của nghệ sĩ sáng tạo văn học. Gorki: “Ngôn ngữ nhân dân là tiếng nói nguyên liệu, còn ngôn ngữ văn học là tiếng nói đã được bàn tay thợ nhào nặn”. Chế Lan Viên: “Nhà văn như nhà khoa học tìm cho vật chất những tính năng mới. Than đá là chất đốt, giờ lại thành chất chế ra vải mặc, thuốc uống”. Như thế, ngôn ngữ nhân dân là “than đá”. Từ “than đá” ấy, nghệ sĩ sáng tạo đã phát kiến chế tác thành “vải mặc, thuốc uống”, đó là ngôn ngữ văn học.
-Có thể lẩy ra một vài ví dụ: Chữ “chia”, chữ “dài” quen thuộc trong ngôn ngữ quần chúng. Nhưng khi Nguyễn Du viết:
“Người lên ngựa kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san”
Hay: “Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”

(Truyện Kiều)
Cũng hai chữ ấy, với Cao Bá Nhạ lại có một thông tin ngữ nghĩa, hiệu quả thẩm mĩ mới trong một cấu trúc mới:
“Sầu dài chia nửa vào trong
Bước ra dúng dắng lại trong trở vào”

(Tự tình khúc)
-Như vậy, qua những câu thơ trên chữ “chia”, chữ “dài” đã lãnh một nhiệm vụ mới, bày tỏ một khả năng mới. “Chia” và “dài” không chỉ có nghĩa hiển ngôn mà có cả nghĩa hàm ngôn, tính hình tượng và sắc thái biểu cảm.
Những đặc điểm cụ thể của ngôn ngữ văn học.
Petty Yoshida
Petty Yoshida
1.Ngôn ngữ văn học phải chính xác, tinh luyện và hàm súc:
- Tính chính xác:
+ Tính chính xác là yêu cầu đầu tiên của việc sử dụng ngôn ngữ văn học. Muốn miêu tả một mảng hiện thực nào đó hay biểu hiện những cảm nghĩ của bản thân về một sự vật và hiện tượng nào đấy, nhà văn nói theo Maiacôpxki: “Phải từ hàng ngàn tấn quặng từ tinh luyện chọn ra một từ để câu thơ câu văn đạt hiệu quả nghệ thuật cao nhất” hay M. Gorki: “Ngôn ngữ của tác phẩm phải gẫy gọn, chính xác, từ ngữ phải được chọn lọc kĩ càng. Chính các tác giả cổ điển viết bằng ngôn ngữ như vậy đã kế tục nhau trau dồi nó từ thế kỉ này sang thế kỉ khác”.
+ Viết văn phải dùng từ chính xác mới tái hiện và tái tạo đúng sự vật hiện tượng, miêu tả đúng cảnh vật, khắc hoạ đúng hình dáng, cá tính, tâm lí nhân vật. Qua đó nghệ sĩ bộc lộ tư tưởng, tình cảm, thái độ và cả tài năng của mình nữa.
+ Hơn năm trăm năm trước, Nguyễn Trãi viết:
“Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén
Ngày vắng xem hoa bợ cây”
Khi phiên đọc sang chữ Nôm, chữ quốc ngữ, có người đọc “bợ” thành “bẻ”. Xuân Diệu đã tìm ra sự sai sót này. Ông cho rằng “bợ” mới đúng tâm hồn cốt cách phong thái của người ánh hùng - nghệ sĩ giàu lòng nhân ái, tâm hồn yêu thương cái đẹp như nước triều đông cuồn cuộn. Chữ “bợ” khiến hình tượng chủ thể trữ tình trong thơ hiện lên với vẻ đẹp của nhà hiền triết phương đông. Nhà hiền triết ấy, thích ẩn dật nơi thanh vắng, tìm thú thanh cao để tâm hồn tự tại, thanh tĩnh vĩnh hằng. Vì vậy đêm, Nguyễn Trãi làm bạn với trăng. Ông nghiêng chén để ánh trăng hoà vào ruợu và hớp nguyệt say với chất men nồng nàn mà cao nhã ấy. Và ánh sáng của vũ trụ đã nhập vào tâm hồn ông, nên ông sáng như sao Khuê. Ngày ông “bợ” hoa vì hoa là cái đẹp mong manh và yếu ớt. Ông yêu cuộc sống, nên trân trọng sự sống. Nếu đổi “bợ” thành “bẻ”thì đã vô tình đày ải thơ và Nguyễn Trãi giữa chốn trần tục một cách thô bạo. Và như thế chất thơ sẽ tiêu và hồn thơ sẽ tan.
+ Trong “Thề non nước”, Tản Đà trước đó viết
“Non cao những ngóng cùng trông
Suối tuôn dòng lệ chờ mong tháng ngày”
Sau đó nhà thơ chữa lại:
“Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày”
Chữ “khô” thích hợp với khả năng diễn tả sâu hơn ý thơ trên. Nhà văn Pháp, Mauspassant đã viết: “Đối tượng mà anh muốn nói dù là cái gì cũng chỉ có một từ để biểu hiện nó”.
+ Âu Dương Tu (Trung Quốc) kể lại rằng: Trần Tông Dị nhận được tập thơ Đỗ Phủ trong đó có bài “Tống Sai Lễ đô uý” có câu: “Thân khinh nhất điểu”, nhưng sau chữ “điểu” mất một chữ. Bạn bè Trần Tông Dị bình luận, họ thêm chữ “tật” (nhanh chóng), chữ “lạc” (rơi xuống), chữ “khơi” (bay lên), chữ “hạ” (xuống, dưới); nhưng sau khi xem nguyên tác thì là chữ “quá” (vút qua). “Thân khinh nhất điểu quá” (Xem nhẹ tính mạng như con chim vút qua). Mọi người lúc đó mới vỡ lẽ khen hay bởi chữ “quá” thể hiện tinh thần dũng cảm xông pha giữa chốn mũi tên hòn đạn của Sái Hi Công.
Đỗ Phủ dùng chữ chính xác, đã đạt đến tột cùng cái đẹp của nghệ thuật như Thẩm Đức Tiềm đã nói: “Người xưa không bỏ phép luyện chữ nhưng lấy cái hơn về ý, không lấy cái hơn về lời. Cho nên chữ bình dị mà thấy lạ, chữ thường mà thấy hiếm, chữ cũ mà thấy mới, chữ mộc mạc mà thấy màu sắc”.
Nhà văn luôn có trách nhiệm với ngòi bút của họ. Mỗi từ trong tác phẩm của họ “không có từ nào khác trong ngôn ngữ có thể thay thế nó được” (L. Tolstoi).
Petty Yoshida
Petty Yoshida
2. Tính hàm súc và tính đa nghĩa:
+ Tsêkhôp: “Ngắn gọn là bà chị của thiên tài”. Lê Quý Đôn: “ý hết mà lời dừng, ấy là cái lời rất mực trong thiên hạ; song lời dừng mà ý chưa hết được lại càng hay tuyệt”. Và sau này, nhà thơ Phạm Hổ cũng nói: “Tiêu chuẩn nghệ thuật đời nào cũng giống nhau: nói ít mà gợi được nhiều là tiêu chuẩn cao nhất”.
+ Như vậy, ngôn từ trong tác phẩm văn chương phải cô đọng, phải “nén chặt” ý nén tối đa trong lời làm cho mỗi từ có sức nặng, có độ thừa và có nhiều lượng ngữ nghĩa.
+ Tính hàm súc và đa nghĩa do phương thức chuyển nghĩa của ngôn ngữ nhờ vào các biện pháp tu từ. Ngô Lôi Pháp: “Thơ phải được ý ngoài lời. Trong thơ hàm súc vô cùng thế mới là tôn chỉ của người làm thơ”.
+ Một số ví dụ
“Gánh cực mà đổ lên non
Cong lưng mà chạy cực còn chạy theo”

(Ca dao)
“Tưởng nước giếng sâu
Em nối sợi gàu dài
Ai ngờ giếng cạn
Tiếc hoài sợi dây”

(Ca dao)
Quay lại
Top