Tuyển tập truyện ngắn O. Henry

dgoanh

Ước mơ tôi...
Thành viên thân thiết
Tham gia
19/11/2010
Bài viết
1.453
O. Henry (tên thật là William Sydney Porter, tên khai sinh là William Sidney Porter; 1862–1910) là nhà văn nổi tiếng người Mỹ .Truyện ngắn của O. Henry nổi tiếng là dí dỏm, dễ hiểu, giàu tình cảm và luôn có những cái kết bất ngờ một cách khéo léo.


Có lẽ nhờ cuộc đời phong phú của tác giả nên các truyện ngắn của O. Henry (tổng cộng gần 400 truyện cộng thêm vài bài thơ) cũng thể hiện các nét đa dạng của xã hội Mỹ đương thời. Người ta có thể tìm thấy những nhân vật làm các nghề mà chính tác giả đã trải qua, và còn nữa: chủ cửa hiệu, nhân viên bán hàng, ký giả, họa sĩ, bác sĩ, diễn viên sân khấu, thợ cắt tóc, cảnh sát, thanh tra, dân đi tìm vàng, cũng có những người vô nghề nghiệp vô gia cư, và kể cả kẻ tội phạm và tù nhân.

Những bối cảnh trong các truyện ngắn cũng phong phú, với nhiều truyện lấy Thành phố New York - nơi O. Henry sống tám năm cuối đời ông - làm bối cảnh, cộng thêm những mẩu chuyện phiêu lưu trong vùng Trung và Tây-Nam nước Mỹ. Tất cả đều biểu hiện khung cảnh xã hội kinh tế nước Mỹ vào thời khoảng cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, lúc đường Thành phố New York còn được thắp sáng bằng đèn ga, người còn dùng xe ngựa để di chuyển, nhiều dân chăn bò (cowboy, hay "cao bồi") vẫn còn sống bờ sống bụi và xem pháp luật bằng nửa con mắt, dân đi tìm vàng tự lập nên những thị trấn mới rồi "tự cai tự quản", v.v.

Điểm đặc sắc trong truyện ngắn của O. Henry là những tình tiết ngẫu nhiên, có lúc khắc nghiệt hoặc oái oăm hoặc mỉa mai, nhiều lúc khôi hài hoặc dở khóc dở cười, để rồi kết thúc trong bất ngờ làm người đọc hoặc thích thú nhưng không quá sướng thỏa, hoặc bâng khuâng nhưng không quá nặng nề. Những dư hương nhẹ nhàng như thế đọng trong tâm tư người đọc khá lâu. Có lẽ do vậy mà vài truyện của O. Henry đã được chuyển thể qua sân khấu, sau này là điện ảnh và truyền hình, kể cả sân khấu kịch ở Việt Nam. Riêng truyện A retrieved reform, rút tư liệu từ thời gian tác giả ngồi tù (có ý kiến cho là dựa trên chuyện có thật), được chuyển thành kịch sân khấu rất thành công.

Nhiều người ngạc nhiên về tính đa dạng trong các truyện của O. Henry. Một ngày, khi ngồi với nhà văn trong một hiệu ăn, một người bạn ông đặt câu hỏi thay cho số đông người đọc: làm thế nào ông kết cấu được các tình tiết, ông tìm đâu ra những cốt truyện như thế? Nhà văn đáp: "Từ mọi nơi. Mọi thứ đều mang câu chuyện". Rồi cầm lấy tờ thực đơn trên bàn ăn, ông nói: "Có một câu chuyện trong bản thực đơn này." Đúng như thế: sau đấy ông viết nên truyện Springtime à la carte.
Xin giới thiệu tuyển tập truyện ngắn tiêu biểu của O. Henry.
Nguồn

Chiếc lá cuối cùng


Trong một quận nhỏ phia đông Washington, các con đường chạy ngoằn nghoèo một cách điên dại, cắt quãng thành những dải nhỏ gọi là “vùng”. Những “vùng” này lọt thỏm trong những góc và đường cong lạ kì. Một con đương cắt ngang với chính nó một, hai lần. Một hoạ sĩ đã có lần khám phá là con đường có thể có giá. Ví dụ như khi một nhân viên thu ngân cầm hoá đơn của mầu vẽ, giấy và vải, sau khi đi dọc theo đường này bỗng thấy mình đã đi vòng lại chỗ cũ mà không hề thu được một xu nào cả!
Thế nên đám hoạ sĩ chẳng bao lâu đã kéo đến phường Greenwich, săn lùng phòng cho thuê có cửa sổ thông ra hướng bắc, góc mái kiểu thế kỷ 18, gác lửng kiểu Hà Lan, và giá thuê lại rẻ. Sau đấy họ mang vào vài lọ hợp kim thiếc, một hai cái chảo nấu ăn dã chiến, và thế là một “quần cư” thành hình.
Hai cô Sue và Johnsy cùng thuê chung một căn phòng đơn giản ở tầng trên cùng của một toà nhà ba tầng lụp xụp. “Johnsy” thực ra là tên thân mật của California. Họ đã gặp nhau tại một hiệu ăn trên đường Số Tám, và khám phá ra là họ có những sở thích tương đồng về nghệ thuật, rau diếp xoắn trộn dấm, và thời trang với tay áo giám mục. Thế là họ cùng thuê chung một căn phòng.
Đấy là vào tháng 5. Vào tháng 11, có một kẻ ngoại nhập mang theo giá lạnh nhưng vô hình, mà các bác sĩ gọi là Viêm Phổi, rình rập trong “quần cư”, móng vuốt giá băng quệt vào đây đó. Tên giặc đã ngang nhiên hoành hành khu phía đông, hạ gục nhiều nạn nhân, nhưng hắn chỉ mới đặt chân chầm chậm qua các lối ngõ như bàn cờ của mấy “vùng” nhỏ hẹp phủ đầy rêu.
Bạn sẽ không xem Thần Viêm Phổi như một quân tử già đầy hào hiệp. Người con gái nhỏ vốn đã mất máu vì những trận gió ở California thì lẽ ra không đáng cho một kẻ bất tài già nua bận tâm đến. Nhưng hắn đã tấn công Johnsy. Thế là cô nằm bẹp, không mấy cử động, trên chiếc gi.ường sắt, xuyên qua khung cửa sổ kiểu Hà Lan nhìn ra bức tường trơ trụi của căn nhà gạch kế bên.
Một buổi sáng, vị bác sĩ đầy bận rộn mời Sue ra hành lang. Ông đang vẩy cái nhiệt kế thăm bệnh để mực thuỷ ngân trong đó hạ xuống.
- Cơ may khỏi bệnh của cô ấy áng chừng chỉ một phần mười. Và cơ may này là tuỳ vào việc cô ấy có ý chí muốn sống hay không. Với cách con bệnh chỉ ngóng chờ công ty mai táng đến thì sách thuốc nào cũng vô dụng. Cô bạn nhỏ của cô đã bị ám ảnh là cô ấy sẽ không qua khỏi. Cô ấy có ý định gì không?
- Chị ấy... chị ấy muốn có ngày nào đó vẽ tranh phong cảnh vịnh Naples.
- Vẽ tranh à? Thật là điên rồ! Cô ấy có bận tâm nặng nề về việc gì không, chẳng hạn về một người đàn ông nào đó?
Cô Sue khịt mũi:
- Một người đàn ông à? Một người đàn ông thì có thể... mà không, bác sĩ ạ, không có chuyện như thế.
Vị bác sĩ nói:
- Thế thì là do cô ấy quá yếu rồi. Tôi sẽ cố làm mọi cách mà khoa học cho phép. Nhưng mỗi khi con bệnh của tôi bắt đầu nhẩm tính số lượng xe trong chuyến đưa đám của họ thì xem như hiệu lực của thuốc men chỉ còn một nửa. Nếu cô có cách khiến cho cô ấy hỏi han cô về thời trang mùa đông thì tôi có thể đoán chắc cơ may là một phần năm, thay vì là một phần mười.
Sau khi vị bác sĩ đi khỏi, Sue đi vào phòng vẽ và khóc cho đến khi cái khăn giấy Nhật tơi tả thành bột giấy. Rồi cô đường bệ đi vào phòng của Johnsy với cái giá vẽ, miệng huýt sáo một điệu dân ca Mỹ rộn ràng.
Johnsy vẫn nằm bẹp, xem chừng không động đậy chút nào dưới tấm vải gi.ường, mặt hướng về cái cửa sổ. Sue ngưng huýt sáo, nghĩ là bạn mình đang ngủ. Cô sắp xếp giá vẽ và bắt đầu dùng viết và mực để vẽ hình minh hoạ cho một truyện để đăng trong một tạp chí. Trong khi các hoạ sĩ trẻ tuổi phải dọn đường cho Hội Hoạ bằng cách vẽ tranh cho truyện ấy để dọn đường cho Văn Chương. Khi Sue đang phác hoạ cái quần bảnh bao và gọng kính một tròng của một anh hùng (một tay cao bồi bang Idaho), cô nghe một tiếng nho nhỏ, lặp lại vài lần.
Cô đi vội đến bên mép gi.ường. Johnsy đang mở mắt, nhìn ra cửa sổ, và đang đếm, đếm ngược: “mười hai”, và ít lâu sau: “mười một”, và sau đấy “mười”, rồi “chín”, rồi “tám” và “bảy” gần như liền nhau.
Sue nhìn chăm chú bên ngoài cửa sổ. Có gì ở ngoài đấy đâu mà đếm? Chỉ có một khoảng sân trống buồn nản, và bức tường trơ trụi của một căn nhà gạch xa hơn chừng mười thước. Một dây thường xuân thật già cỗi, gốc vặn vẹo mục nát, leo đến giữa bức tường gạch. Ngọn gió thu lạnh đã làm rơi rụng đám lá, phơi bầy các nhánh gần như trơ trụi bám vào mấy mảng gạch vụn vỡ. Sue hỏi?
- Cái gì vậy hở bồ?
Johnsy nói, gần như thì thầm:
- Sáu. Bây giờ rơi nhanh quá. Ba ngày trước còn gần cả trăm, đếm muốn nhức đầu. Nhưng giờ thì dễ rồi. Thêm chiếc nữa. Giờ chỉ còn lại năm.
- Năm cái gì, nói cho Sue của bồ nghe nào!
- Năm chiếc lá. Trên cây thường xuân. Khi chiếc lá cuối cùng rụng thì mình cũng sẽ ra đi. Mình đã biết như thế ba ngày nay rồi. Bác sĩ không nói cho bạn biết à.
Sue càu nhàu, với giọng khinh miệt cao quý.
- Ô hay! Mình chưa bao giờ nghe có chuyện điên khùng như vậy. Mấy cái lá thường xuân thì có liên hệ gì đến việc bồ khỏi bệnh đâu nào? Và bồ vẫn thích cái cây này, cô nàng hư đốn ơi! Đừng có ngốc nghếch. Sáng nay ông bác sĩ nới với mình là cơ may của bồ khỏi bệnh hẳn... xem ông ấy nói gì nào... ông ấy nói cơ may chính xác là mười trong một! Đấy cũng bằng với cơ may chúng mình có ở New York để đáp tầu điện hay đi qua một toà nhà mới. Bây giờ ăn một tí cháo, rồi mua ít rượu vang porto cho cô bé đang bệnh, và thịt lợn cho chính tác giả ăn.
Johnsy vẫn dán mắt ra ngoài cửa sổ:
- Không cần phải mua rượu vang. Thêm một chiếc nữa. Không, mình không muốn ăn cháo. Thế là còn có bốn. Mình muốn xem chiếc lá cuối cùng trước khi trời tối. Khi ấy mình cũng sẽ ra đi.
Sue nghiêng mình trên cô:
- Johnsy ơi, bồ có thể hứa nhắm mắt lại và không nhìn ra ngoài cửa sổ khi mình làm việc được không? Ngày mai mình phải đi giao mấy bức vẽ. Mình cần ánh sáng, nếu không mình phải kéo rèm xuống.
Johnsy hỏi, giọng lạnh tanh:
- Bạn có thể vẽ trong phòng kia được không?
- Mình muốn ở kề bên bồ. Hơn nữa, mình không muốn bồ cứ nhìn mãi mấy chiếc lá thường xuân vô duyên đó.
- Cho mình biết khi nào bạn làm xong, vì mình muốn xem chiếc lá cuối cùng rụng xuống. Mình chán chờ đợi rồi. Mình chán suy nghĩ. Mình muốn buông xuôi tất cả, và thả người trôi xuống, xuống nữa, như là một trong mấy chiếc lá mệt mỏi kia.
Johnsy nhắm mắt lại, mặt tái nhợt, năm yên như la một cái tượng bị sập đổ.
- Ráng ngủ đi. Mình muốn kêu ông Behrman lên để ngồi mẫu cho mình vẽ một ông thợ mỏ già cô độc. Mình chỉ đi một phút. Đừng cựa quậy cho đến khi mình trở lại.
Ông già Behrman là một hoạ sĩ sống ở tầng trệt bên dưới phòng của họ. Ông đã quá sáu mươi, và có một chòm râu rậm như ông Moses hiện thân trên bức điêu khắc của Michael Angelo. Behrman là cả một sự thất bại trong nghệ thuật. Trong bốn mươi năm ông vung vẩy chiếc cọ mà không hề chạm gần đến vạt áo của Người Tình. Ông luôn luôn muốn vẽ nên một kiệt tác, nhưng chưa bao giờ bắt đầu. Trong vài năm nay ông không vẽ được gì ngoại trừ thỉnh thoảng ít nét quấy quá cho giới thương mại và quảng cáo. Ông kiếm tiền chút đỉnh bằng việc ngồi làm mẫu cho các hoạ sĩ trẻ trong quần cư khi họ không muốn trả theo giá của người mẫu chuyên nghiệp. Ông uống rượu gin lu bù, và vẫn nói đến kiệt tác sắp đến của ông. Còn lại thì Behrnam là một ông già nhỏ thó nhưng dữ tợn, hay chửi như té tát người nào tỏ ra yếu đuối, và xem mình như là con chó giữ nhà để bảo vệ cho hai hoạ sĩ trẻ sống ở tấng trên.
Sue tìm gặp Behrman khi ông nồng nặc mùi rượu dâu trong căn phòng nhỏ tối tù mù. Trong một góc là cái giá vẽ với khung vải trống trơn, suốt hai mươi lăm năm vẫn chờ đợi đường nét đầu tiên của một kiệt tác. Cô nói cho ông nghe về chuyện hão huyền của Johnsy, về việc cô nàng – quả thật nhẹ tênh và mỏng manh như một chiếc lá - sẽ trôi đi khi sự bám víu của cô vào trần thế vốn đã yếu sẽ yếu thêm.
Ông già Behrman, với cặp mắt đỏ sòng sọc, lớn tiếng kinh thường và chế diễu cho những điều tưởng tượng ngốc nghếch:
- Khốn khổ! ở đời sao lại có người ngu xuẩn muốn chết vì mấy cái lá rụng từ một dây leo vô duyên như vậy? Tao chưa bao giờ nghe có chuyện này. Không tao sẽ không ngồi làm mẫu cho một đứa ẩn cưa ngu ngốc như mày. Tại sao mày lại để ý tưởng khùng điên đấy đi vào đầu của nó? Ôi dào, cái con nhỏ Johnsy khốn khổ!
- Chị ấy đang yếu lắm, và cơn sốt làm cho đầu óc chị ấy trở nên bệnh hoạn đầy những mơ tưởng kỳ quái. Được rồi, nếu ông không muốn ngồi làm mẫu cho tôi cũng được. Nhưng tôi nghĩ ông là một ông già xấu tính – già vô tích sự.
Ông Behrman tru tréo lên:
- Mày đúng là đàn bà! Ai bảo tao không muốn ngồi làm mẫu? Đi lên đi. Tao sẽ đến. Cả nửa giờ đồng hồ rồi tao đã nói là tao sẵn sàng ngồi. Trời ơi! Đây không phải là chỗ cô Johnsy có thể năm bẹp dưỡng bệnh được. Một ngày nào đấy tao sẽ vẽ nên một kiệt tác, và bọn mình sẽ rời đi nơi khác. Trời ơi! Đúng là phải như thế.
Johnst đang ngủ khi họ lên. Sue buông cái rèm cửa xuống, ra dấu bảo Behrman đi vào phòng kia. Trong đấy, xuyên qua khung cửa sổ họ nhìn dây thường xuân với nỗi lo sợ. Rồi họ nhìn nhau một lúc, không nói lời nào. Một cơn mưa giá lạnh đang ập xuống dai dẳng, pha cùng với tuyết. Trong chiếc áo xanh cũ kỹ, Behrman ngồi làm mẫu, giả làm một thợ mỏ ẩn cư, ngồi trên một cái ấm lật ngược giả làm một tảng đá.
Khi Sue thức giấc vào buổi sáng sau giấc ngủ kéo dài một giờ, cô thấy Johnsy đang vô hồn nhìn cái rèm màu sậm đã buông xuống. Johnsy thì thào:
- Kéo rèm lên. Mình muốn nhìn.
Sue mệt mỏi làm theo bạn.
- Nhưng xem kìa! Sau trận mưa vùi dập và những cơn gió xoáy dữ tợn suốt một đêm dài, vẫn còn một chiếc lá thường Xuân dựa trên bức tường gạch. Đấy là chiếc lá cuối cùng. Vẫn còn có mầu xanh thẫm gần cuống, nhưng với phần rìa te tua pha mầu vàng của sự tàn tạ, chiếc lá vẫn dũng cảm bám vào cái cành cao dăm bảy mét cách mặt đất.
Johnsy nói:
- Đấy là chiếc lá cuối cùng. Mình nghĩ chắc chắn nó đã rụng đêm qua. Mình nghe tiếng gió. Nó sẽ rụng hôm nay, và mình sẽ chết cùng lúc với nó.
Sue nghiêng khuôn mặt tóp của cô kề cận cái gối:
- Cưng ơi là cưng! Nếu cưng không nghĩ đến chính bản thân cưng thì nên nghĩ đến mình đây. Mình sẽ làm được gì chứ?
Nhưng Johnsy không trả lời. Nỗi cô đơn cùng cực nhất trên thế gian là một linh hồn chuẩn bị tiếp tục cuộc hành trình bí ẩn, xa thẳm. Điều mộng tưởng dường như đã ảm ảnh cô mạnh mẽ hơn khi những dây nối buộc cô với tình bạn và với trần thế đã bị lơi lỏng.
Ngày dần trôi, và dù qua khoảng không xám xịt, họ vẫn thấy chiếc lá đơn độc bám vào cuống của nó, dựa vào bức tường. Và rồi, khi màn đêm buông xuống, gió bắc lại thổi, trong khi mưa vẫn đập vào các cửa sổ, chảy ồng ộc xuống theo rìa mái nhà kiểu Hà Lan.
Khi đã có đủ ánh sáng buổi tinh sương, Johnsy, con người vô cảm, lại ra lệnh kéo cái rèm xuống.
Chiếc lá thường xuân vẫn còn đấy.
Johnsy nằm một hồi lâu nhìn nó. Và rồi cô gọi Sue, đang quậy nồi cháo ga trên cái bếp ga. Cô nói:
- Mình là đứa hư, Sue à. Có cái gì đó đã khiến chiếc lá vẫn ở đấy để cho thấy mình quả là độc ác. Muốn chết là một cái tội. Bây giờ bồ có thể mang cho mình chút cháo, và ít sữa pha chút rượu vang porto, và... không, mang trước cho mình cái gương soi cầm tay, rồi chèn ít cái gối quanh mình, rồi mình sẽ ngồi lên để xem bồ nấu nướng.
Một giờ sau, cô nói:
- Sue à, một ngày nào đấy mình sẽ vẽ cảnh vịnh Naples.
Ông bác sĩ đến vào buổi xế chiều, và khi ông trở ra Sue có cớ để đi ra ngoài hành lanh. Ông nắm lấy bàn tay gầy, run rẩy của Sue đặt trong tay ông.
- Cơ may ngang bằng. Với công chăm sóc tận tuỵ của cô, cô sẽ thắng. Và giờ tôi phải đến thăm một ca khác ở tầng dưới. Người bệnh là Behrman – tôi nghĩ chừng đâu là một hoạ sĩ. Cũng viêm phổi. Ông ta già cả, yếu đuối, cơn bệnh lại là cấp tính. Không có hi vọng gì, nhưng tôi sẽ đưa ông đến bệnh viện để được thoải mái hơn.
Ngày kế, ông bác sĩ bảo Sue:
- Cô ấy qua khỏi cơn nguy rồi. Cô đã thắng. Bây giờ chỉ cần dinh dưỡng và chăm sóc – chỉ có thế thôi.
Buổi chiều ấy, khi Johsy đang đan một cái khăn quàng len mầu lam thật đậm và xem vẻ rất vô dụng, Sue đến bên gi.ường cô, đặt cánh tay quanh cô và cũng quanh mấy cái gối.
- Mình có chuyện này nói cho bồ biết, cái con chuột trắng ơi. Ông Behrman qua đời hôm nay ở bệnh viện vì chứng viêm phổi. Ông ấy nhuốm bệnh chỉ trong có hai ngày. Người gác dan tìm thấy ông sáng ngày đầu tiên trong căn phòng tầng dưới, ngất xỉu với cái chân đau đớn. Đôi giầy và quần áo ông ấy bị ướt cả, lạnh như nước đá. Họ không thể hiểu nổi ông đã đi đâu trong một đêm kinh hoàng như thế. Và rồi họ tìm thấy cái đèn bão, vẫn cháy, và một cái thang đã bị rời khỏi nơi cất giữ, vài cây cọ tơi tả, và nghiên mầu mới ít mầu xanh và vàng, bồ nhìn ra ngoài cửa sổ xem, nhìn chiếc lá thường xuân cuối cùng trên bức tường đấy. Bồ có đặt nghi vấn tại sao nó không bao giờ bay lất phất khi có gió thổi không? Cưng ơi, đó là kiệt tác của ông Behrman đấy - ông đã vẽ nó đúng vào đêm chiếc lá cuối cùng rơi rụng.
 
Bạn hữu ở San Rosario


Chiếc tàu xuôi miền Tây đến San Rosario về đúng giờ, lúc 8 giờ 20 sáng. Một người đàn ông mang một túi da dầy bước xuống tàu và đi nhanh về khu phố chính của thị trấn. Có vài hành khách cũng xuống tàu ở San Rosario, nhưng họ lừ đừ đi đến nhà ăn của công ty hỏa xa hoặc quán San Rosario, hoặc nhập bọn với những người nhà rỗi đứng quanh sân ga.
Người đàn ông với chiếc túi da bước đi với điệu bộ cả quyết. Ông có dáng người thấp nhưng mạnh mẽ, với mái tóc nhẹ và cắt gọn, gương mặt cương nghị và nhẵn nhụi, và đôi kính gọng vàng trông xông xáo. Ông ăn mặc lịch sự theo thời trang miền Đông lúc bấy giờ. Tư thái của ông lộ một sức mạnh điềm đạm nhưng có ý thức dè dặt, nếu không nói là tư cách của một người có thẩm quyền thật sự.

Sau khi đã đi qua ba dãy phố, ông đến giữa khu thương mại của thị trấn. Nơi đây, một con đường quan trọng cắt ngang con đường chính, tạo nên khu trung tâm sinh hoạt và thương mại của San Rosario. Nhà bưu điện nằm ở một góc phố. Hiệu thời trang Rubensky’s nằm ở một góc kia. Người khách lạ bước vào tòa nhà ngân hàng mang tên First National Bank of San Rosario, vẫn không chậm bước cho đến khi ông đứng đằng trước quầy thủ quỹ. Ngân hàng mở cửa lúc chín giờ, và nhân viên đã đến, mỗi người đang chuẩn bị cho công việc của mình.Người thủ quỹ đang xem qua thư tín khi nhận thấy người khách lạ đứng trước quầy.

Anh nói gọn:
-Ngân hàng mở cửa lúc chín giờ.
Anh không tỏ ý gì trong giọng nói, vì anh đã thường phải nói như thế với những người đến sớm kể từ khi San Rosario quy định giờ làm việc của ngân hàng trong thị trấn.
Người kia nói trong giọng lạnh lùng, nghiêm nghị:
-Tôi biết rõ việc ấy. Anh có thể vui lòng nhận danh thiếp của tôi không?
Người thủ quỹ kéo khung cửa sạch bong phía trong cánh song qua một bên, và đọc:

J.F.C Nettlewick
Thanh tra Ngân hàng Nhà nước

-Ồ…à…xin mời ông vào trong, ông…à…Nettlewick. Ông đến lần đầu…không biết mục đích của ông, dĩ nhiên. Xin ông đi vòng qua đây.
Nhà thanh tra nhanh nhẹn bước vào khu thánh địa của ngân hàng, và ông Edlinger, thủ quỹ - một người trung niên cương nghị, kín đáo và có kỷ cương, tuần tự giới thiệu ông với các nhân viên.
Ông Edlinger nói:
-Tôi đang chuẩn bị tiếp Sam Turner sắp trở lại. Sam là người thanh tra chúng tôi trong bốn năm qua. Tuy vậy, tôi nghĩ ông sẽ thấy chúng tôi làm ăn đàng hoàng, xét theo quy định chặt chẽ của ngành ngân hàng. Không có trong tay nhiều tiền mặt, nhưng có thể vượt qua cơn sóng gió, thưa ông, qua cơn sóng gió.
Với giọng cả quyết, trang trọng, nhà thanh tra nói:
-Ông Turner và tôi được ông Chánh thanh tra chỉ thị thay đổi nhiệm vụ cho nhau. Ông ấy đang thanh tra khu vực cũ của tôi ở Illinois và Indiana. Xin vui lòng cho tôi xem qua tiền mặt trước.
Perry Dorsey, nhân viên giao dịch, đã xếp tiền mặt trên mặt quầy cho nhà thanh tra xem xét.
Anh biết số tiền chính xác theo từng cent, và anh không có gì phải sợ hãi, nhưng vẫn hồi hộp và bối rối. Mọi nhân viên của nhà băng cũng thế. Tư thái của nhà thanh tra có vẻ gì đấy lạnh lùng và nhanh nhẹn, kém thân thiện và cả quyết, đến nỗi sự hiện diện của ông dường như là một lời kết án. Ông có vẻ là người không bao giờ nhầm lẫn hoặc bỏ qua sai phạm.

Ông Nettlewick cầm lấy những xấp tiền và đếm với cử động thoăn thoắt, gần như là tung hứng. Rồi ông xoay tròn cốc đựng bọt nước về phía mình và đếm từng tờ giấy bạc. Những ngón tay trắng, thon của ông múa lượn như nhà nhạc sĩ tài ba trên những phím đàn dương cầm. Từ những đầu ngón tay nhanh nhẹn, ông đổ những đồng tiền vàng trên cái quầy với một tiếng choang, và kêu lanh canh khi lướt trên mặt đá hoa cương. Không khí tràn đầy những số lẻ của tiền tệ khi ông làm việc với những đồng năm mươi và hai mươi cent. Ông cho người mang đến cái cân, và ông cân từng bao đựng bạc từ cái tủ sắt. Ông tra hỏi Dorsey về các mẫu chứng từ - vài ngân phiếu, phiếu thu, từ này giao dịch trước – với sự lễ độ không thể trách cứ đước, nhưng với vẻ gì đấy trọng yếu một cách kỳ bí trong tư thái cứng nhắc của ông, đến nỗi mặt người thủ quỹ đỏ bừng và giọng nói trở nên lắp bắp.

Nhà thanh tra mới nhập cư khác hẳn Sam Turner. Sam luôn đi vào ngân hàng với tiếng thét, phân phối những điếu xì gà, và kể cho mọi người nghe những mẩu chuyện ông vừa mới biết được khi đi công tác. Cách ông chào hỏi Dorsey luôn luôn là “Này Perry! Vẫn chưa từ bỏ quỹ đen, tôi thấy mà!”. Cách Turner đếm tiền mặt cũng khác. Ông mân mê các gói tiền với vẻ mệt mỏi, rồi đi vào tủ sắt và đá qua các túi đựng bạc. Thế là xong. Còn mấy đồng 50, 25 và 10 cent? Ông không để ý đến. Khi người ta mang đến cho ông những đồng tiền này, ông bảo: “Chuyện nhỏ không phải dành cho tôi”. Nhưng đấy chỉ vì Turner là dân Texas, là bạn chí thân của ông chủ tịch ngân hàng, và quen biết Dorsey từ thuở anh này còn là em bé.

Khi nhà thanh tra đang đếm tiền mặt, Thiếu rá Thomas D. Kingman – mà mọi người gọi là “Thiếu tá Tom”, đánh chiếc xe của ông do một con ngựa nâu xám già kéo đến cửa hông, và đi vào bên trong. Ông thấy nhà thanh tra đang bận rộn với tiền bạc và, đi vào “chuồng ngựa nhỏ”, theo cách ông gọi, nơi bàn làm việc của ông được rào chung quanh, ông bắt đầu xem qua thư từ gửi tới cho ông.

Trước đấy, một tình tiết nhỏ đã xảy ra khiến ngay cả đôi mắt sắc bén của nhà thanh tra cũng không nhận ra. Khi bắt đầu công việc ở quầy tiền mặt, ông Edlinger đã nháy mắt đầy ngụ ý với Roy Wilson, anh tống thư văn trẻ, và khẽ gật đầu về hướng cửa chính. Roy hiểu, nhấc lấy chiếc mũ và nhàn nhã bước ra, với quyển sổ thu tiền kẹp trong cánh tay. Khi đã ra đến bên ngoài, anh đi thẳng đến ngân hàng Stockmen’s National. Ngân hàng này đang chuẩn bị mở cửa. Chưa có thân chủ nào xuất hiện.

Nhà thanh tra sẵng giọng:
-Mọi tiền mặt đều đúng.
Ông vọt đến người kế toán trương mục cá nhân và, sau vài phút lật qua những trang sổ cái và những bảng cân đối tài chính, thình lình ông nói:
-Anh cân đối sổ sách của anh bao lâu một lần?
Người kế toán trương mục cá nhân lập cập, tự hỏi mình sẽ đi tù mấy năm:
-À…mỗi tháng một lần.
-Được.

Nhà thanh tra quay sang anh kế toán trương mục cơ quan, đã chuẩn bị mọi bảng kê khai của các ngân hàng nước ngoài và bảng điều chỉnh. Mọi thứ đều đúng cách. Rồi đến phần cuống của các chứng chỉ ký gửi. Soạt – soạt – tốt! Được rồi. Xin cho xem chứng từ chi vượt trội. Cảm ơn. Những hối phiếu ngân hàng không ký tên, cho xem kế tiếp. Được rồi.

Rồi đến phiên người thu ngân, và ông Edlinger, bình thường thong dong, giờ xoa cánh mũi và lau đôi tròng kính đầy lo lắng trước hàng loạt câu hỏi tới tấp về việc lưu hành, lợi nhuận trước khi chia, bất động sản của ngân hàng, và thành phần chủ nhân các cổ phiếu.
Bây giờ Nettlewick cảm thấy có một người cao lớn đứng nghễu nghệ trên anh – một người đàn ông sáu mươi tuổi, thô kệch và còn tráng kiện, với bộ râu xù xì hoa râm, một mảng tóc xám, và một đôi mắt xanh chăm chăm trực diện với đôi tròng kính khủng khiếp của nhà thanh tra.

Anh thủ quỹ giới thiệu:
-À…đây là thiếu tá Kingman, chủ tịch của chúng tôi…, đây là…à…ông Nettlewick.

Hai người đàn ông của hai tư cách hoàn toàn khác hẳn bắt tay nhau. Một người là sản phẩm của cung cách thẳng thắn, phương pháp chuẩn mực và công việc nghiêm túc. Người kia là một phong thái gì đấy phóng khoáng hơn, cao rộng hơn, và gần với thiên nhiên hơn. Tom Kingman không bao giờ rập theo khuôn mẫu nào. Ông đã từng kinh qua các nghề đánh lừa, chăn bò, kiểm lâm, vào quân ngũ, làm cảnh sát, đãi vàng, và làm chủ trại bò. Bây giờ, khi ông là chủ tịch ngân hàng, các bạn hữu của ông từ các đồng cỏ, trên các yên ngựa, trong lều và dọc đường mòn thấy ông vẫn không có gì thay đổi. Ông đã tạo dựng sản nghiệp khi bò Texas có giá cao, và thành lập nên First National Bank of San Rosario. Dù với con tim phóng khoáng và tính rộng lượng thiếu cẩn trọng đối với bạn hữu cũ, ngân hàng của ông vẫn phát triển, vì thiếu tá Tom hiểu nhân viên của ông cũng rõ như ông hiểu biết về bò. Trong những năm gần đây, nghề nuôi bò bị suy thoái, nhưng ngân hàng của ông thiếu tá là một trong số ít cơ sở không bị lỗ lã nhiều.
Nhà thanh tra rút ra chiếc đông hồ, nói nhanh:
-Và bây giờ, phần cuối cùng là những khoản cho vay. Xinh vui lòng cho xem.
Ông đã xem xét qua First National với tốc độ gần như là kỷ lục – nhưng vẫn theo cách chu đáo, như trong mọi việc ông làm. Ngân hàng có hệ thống điều hành thông suốt và trong sạch, nên đã giúp nhiều cho công việc của ông. Chỉ có một ngân hàng khác trong thị trấn. Chính phủ trả ông 25 đô la cho mỗi ngân hàng ông kiểm tra. Ông có thể xem xong các khoản cho vay và thanh toán trước thời hạn trong vòng nửa giờ đồng hồ. Nếu thế, sau đấy ông có thể thanh tra ngay ngân hàng kia, rồi bắt kịp chuyến tàu lúc 11 giờ 45, chuyến duy nhất trong ngày cho chặng đường về. Nếu không, ông phải qua đêm và ngày Chủ nhật trong cái thị trấn miền Tây không có gì là vui thú này. Vì thế mà ông Nettlewick đang vội vã.

Trong âm giọng trầm, kết hợp tiếng lè nhè của miền Nam với giọng mũi đầy âm điệu miền Tây, Thiếu tá Kingman nói:
-Xin mời ông theo tôi. Chúng ta cùng xem qua các sổ sách đó. Không ai trong ngân hàng này rành về mấy giấy tờ này như tôi. Một vài tài khoản có phần chập choạng, một vài thứ thiếu tổ chức mà không có chứng từ, nhưng họ đều thanh toán đủ khi tới hạn.
Hai người ngồi xuống bên bàn làm việc của chủ tịch. Trước nhất, nhà thanh tra xem qua như chớp các chứng từ, cộng các con số, thấy ăn khớp với các khoản vay ghi trong sổ cân đối hàng ngày. Nhà thanh tra có vẻ như lùng sục đây đó giống một con chó săn đang chạy tìm lối mòn. Cuối cùng, ông gạt qua một bên đống tài liệu trừ một ít giấy tờ mà ông xếp thành một chồng thẳng thớm trước mặt, và bắt đầu bài diễn từ khô khan, trịnh trọng:
-Thưa ông, tôi thấy rằng tình trạng tài chính của ngân hàng ông là rất tốt, xét qua vụ mùa thất bát và cơn suy thoái của ngành nuôi bò trong bang ông. Việc ghi chép sổ sách dường như được thực hiện một cách chính xác và đúng thời biểu. Khoản nợ của ông chỉ ở mức khiêm tốn, và có khả năng chỉ tạo một mức thâm hụt nhỏ. Tôi muốn đề xuất ông thu về những khoản cho vay lớn, và chỉ cho vay với hạn kỳ sáu mươi hoặc chín mươi ngày cho đến khi tình hình được hồi phục. Và bây giờ, có một việc nữa, rồi tôi sẽ chấm dứt việc thanh tra ngân hàng ông. Đây là 6 hồ sơ cho vay gộp lại lên đến khoảng 40.000 đô la. Các khoản vay này được thế chấp, theo mệnh giá, bởi một số công trái, phiếu nợ, cổ phiếu, vân vân, với trị giá 70.000 đô la. Những hồ sơ này không có chứng từ thế chấp đi kèm. Tôi đoán ông lưu những chứng từ ấy trong két sắt hoặc hầm lưu trữ. Xin ông cho phép tôi được xem qua.

Đôi mắt xanh nhạt của Thiếu tá Tom quay nhìn viên thanh tra không chớp. Ông trả lời với giọng nhỏ nhẹ nhưng rõ rang:
-Thưa ông, trong két sắt hoặc hầm lưu trữ không có các chứng từ này. Tôi đã lấy đi tất cả. Ông có thể quy trách nhiệm cho chính cá nhân tôi về việc này.
Nettlewick cảm thấy kích động một chút. Ông đã không nghĩ sẽ có việc này. Ông đã tìm ra một lối về thênh thang khi chuyến đi săn đang gần hồi kết thúc. Ông thốt lên: “À!”, ngưng một chút, rồi tiếp tục:
-Xin ông giải thích tường tận hơn được không?
Ông thiếu tá lặp lại:
-Tôi đã lấy đi tất cả chứng từ thế chấp. Không phải cho tôi sử dụng riêng, nhưng để giúp một người bạn cũ trong cơn nguy hiểm. Xin ông hãy đến đây, rồi chúng ta sẽ trao đổi thêm.
Ông dẫn nhà thanh tra đi vào căn phòng riêng ở phía sau, và đóng cánh cửa lại. Có một bàn làm việc, một bàn nhỏ, và nửa tá ghế bọc da. Trên tường là đầu một con bò đực với cắp sừng dài. Bên đối diện treo thanh gươm kỵ binh cũ mà ông mang ở Shiloh và đồn Pillow.
Kéo một chiếc ghế cho Nettlewick, thiếu tá ngồi bên cánh cửa sổ, nơi ông có thể thấy nhà bưu điện của ngân hàng Stockmen’ s National. Ông không nói ngay, và Nettlewick cảm thấy cần có lời cảnh báo chính thức để phá tan bầy im lặng.
Nettlewick bắt đầu:
-Ông nên biết rằng, lời tuyên bố của ông, vì ông đã không cải chính gì, biểu hiện một vấn đề hệ trọng. Và ông hẳn cũng hiểu rằng nhiệm vụ của tôi bắt buộc tôi phải làm gì. Tôi sẽ trình diện Cao ủy Hợp Chủng Quốc và…
Thiếu tá Tom khoát tay:
-Tôi biết, tôi biết. Ông không nên nghĩ tôi làm chủ một ngân hàng mà lại không biết gì về những bộ luật và tu chính án của Nhà nước về nghiệp vụ ngân hàng! Ông cứ làm nhiệm vụ của ông. Tôi không xin ân huệ gì cả. Nhưng, tôi đã nhắc đến một người bạn của tôi. Tôi rất muốn ông nghe tôi kể về Bob.

Nettlewick ngồi thoải mái trong chiếc ghế của ông. Sẽ không có chuyện ông rời San Rosario ngày hôm nay. Ông sẽ đánh điện cho Chánh Thanh tra Tiền tệ, ông sẽ tuyên thệ trên tờ trát do Cao ủy Hợp Chủng Quốc ký để bắt giữ Tom Kingman, có lẽ ông sẽ được lệnh đóng cửa ngân hàng vì lý do làm thất lạc thế chấp. Đây không phải là cái tội đầu tiên nhà thanh tra tìm ra. Một đôi lần việc thanh tra của ông đã gây ra những cảm xúc khuấy động kinh khủng khiến bầu không khí yên tĩnh của văn phòng ông bị nổi sóng. Ông đã từng nhìn những chủ ngân hàng quỳ xuống mà van xin như phụ nữ để có một cơ hội – khoảng thời gian một giờ đồng hồ - để bỏ qua một lỗi lầm duy nhất. Ông đã mục kích một người thủ quỹ tự bắn vào mình ở bàn làm việc ngay trước mặt ông. Không ai trong bọn họ có thái độ điềm tĩnh và tự trọng như ông già miền Tây cứng cỏi này. Nettlewick nghĩ ít nhất nên lắng nghe nếu ông ta muốn nói. Với khuỷu tay chống lên thành ghế, nhà thanh tra ngân hàng chờ đợi nghe lời tự thú của ông chủ tịch First National Bank of San Rosario.

Thiếu tá Tom bắt đầu, với giọng có phần kể cả:
-Khi một người là bạn hữu của ông trong bốn mươi năm, và đã kinh qua đất, lửa, nước và bão tố, khi ông có thể cho anh ấy một ít ân huệ, ông sẽ muốn cho.
(Nhà thanh tra thầm nghĩ: “Biển thủ cho hắn 70.000 đô trị giá thế chấp”)
Ông thiếu tá tiếp tục, nói chậm rãi và rõ ràng, và cũng trầm ngâm, như thể mọi ý nghĩ của ông là về quá khứ thay vì hiện tại khẩn trương.

***
Chúng tôi là dân chăn bò với nhau, Bob và tôi, và chúng tôi cùng di khai thác vàng và bạc ở Arizona, New Mexico và phần lớn California. Cả hai chúng tôi đều trải qua cuộc chiến năm 611, nhưng dưới quyền chỉ huy khác nhau. Chúng tôi cùng chiến đấu bên nhau chống lại bọn da đỏ và bọn ăn trộm ngựa, chúng tôi cùng chịu đói khát trong nhiều tuần ở một căn chòi trên vùng núi Arizona lúc ấy ngập dưới lớp tuyết dày nhiều thước, chúng tôi cùng chăn dắt gia súc với nhau khi gió thổi mạnh đến nỗi sét không đánh xuống được. Thế đấy, Bob và tôi đã cùng trải qua thời kỳ gian khổ kể từ khi chúng tôi gặp nhau lần đầu tại lán trại của ông già Anchor-Bar. Và trong thời gian này, chúng tôi thấy hơn cả cần thiết nên giúp đỡ nhau thoát ra khỏi cảnh khốn khó. Trong thời kỳ đó, người ta cần gắn bó với bạn hữu của mình mà không đòi hỏi đáp trả gì cả. Có lẽ ngày kế đến, ông sẽ cần hắn để tự vực mình lên và giúp chống chọi một đám da đỏ Apaches, hoặc buộc ga-rô phía trên vết cắn của một con rắn chuông và phi ngựa đi mua whisky. Vì thế, nghĩ cho cùng, đó là có qua có lại, và nếu ông không hết lòng với bạn hữu của mình, ông sẽ cảm thấy xấu hổ khi cần đến anh ấy. Nhưng Bob là một người sẵn lòng làm quá sức minh. Anh không bao giờ dừng ở giới hạn.

Hai mươi năm trước, tôi là cảnh sát trưởng vùng này, và tôi cử Bob làm phụ tá cho tôi. Đó là trước khi phong trào chăn nuôi bò rộ lên mà chúng tôi tham gia vào. Tôi là cảnh sát trưởng và nhân viên thu thuế. Tôi đã kết hôn, vợ chồng tôi có một trai một gái – lên bốn và sáu tuổi. Chúng tôi có một ngôi nhà tiện nghi gần tòa án, nội thất do chính quyền hạt trang bị, không phải trả tiền thuê, và tôi đang tiết kiệm được tiền. Bob làm hầu hết công việc hành chính. Cả hai chúng tôi đã qua những lúc gay cấn, đầy những chuyên án trộm đạo và nguy hiểm, và kể cho ông biết, kể cũng tuyệt vời trong những đêm được nghe mưa gió đập vào cửa kính, cảm thấy ấm cúng, an toàn và tiện nghi, và biết rằng mình có thể thức dậy buổi sáng, được cạo râu, có người gọi mình bằng “ông”. Thế là, tôi có người vợ và những đứa con tuyệt vời, và anh bạn thâm giao của tôi cùng tôi vui hưởng những thành quả đầu đời và áo sơ mi trắng, và tôi nghĩ tôi đang có hạnh phúc. Đúng vậy, trong thời gian này tôi được hạnh phúc.
***
Ông thiếu tá thở dài, bất chợt nhìn ra cửa sổ. Nhà thanh tra ngân hàng thay đổi thế ngồi, và kê cằm của ông ta lên bàn tay kia. Ông thiếu tá tiếp tục.
***
Một mùa đông, tiền thu thuế của hạt chuyển về quá nhanh đến nỗi trong cả tuần tôi không có thời gian để mang tiền thuế nộp cho ngân hàng. Tôi chỉ dồn các ngân phiếu vào một cái hộp xì-gà và tiền mặt vào một cái bao, rồi cho vào một két sắt của văn phòng cảnh sát trưởng.
Tôi làm việc quá sức trong tuần lễ đó, và gần như bị ngã bệnh. Thần kinh tôi bị căng thẳng, và giấc ngủ của tôi thường không giúp cho tôi khỏe hơn. Ông bác sĩ định bệnh theo một tên khoa học nào đó, và tôi phải dùng thuốc. Và vì thế, thêm vào những việc khác, tôi đi ngủ mà đầu óc còn nghĩ đến số tiền đó. Không phải có lý do để lo lắng, vì cái két sắt thuộc loại tốt, và chỉ có tôi và Bob biết con số kết hợp của ổ khóa. Vào buổi sáng thứ Bảy, tôi đến cơ quan như thường lệ. Cái két sắt còn được khóa, và số tiền đã biến mất. Tôi gọi Bob, và kêu mọi người đến tòa án để thông báo việc mất trộm. Tôi chợt nhận thấy Bob có vẻ khá điềm tĩnh, dù việc này liên quan đến cả hắn và tôi.

Hai ngày trôi qua mà chúng tôi không có manh mối gì. Đây không thể là vụ trộm, vì cái két sắt đã được mở theo đúng con số kết hợp. Thiên hạ hẳn đã bắt đầu bàn tansm vì có một buổi tối, Alice – vợ tôi – chạy vào cùng đứa con trai và con gái, dậm chân, quắc mắt lên và kêu gào “Mấy đứa độc ác vu cáo, Tom…Tom” rồi ngất xỉu, tôi lay tỉnh cô, dần dà cô hồi tỉnh, và cô gục đầu xuống, khóc và khóc lần đầu tiên kể từ khi cô tiếp nhận cái tên và vật chất Tom Kingman. Rồi Jack và Zilla – hai đứa nhỏ - tụi nó luôn luôn như là hai con cọp con chạy đến Bob và leo trèo lên cả người anh ta mỗi khi được phép đi đến tòa án. Tụi nó đứng lấy chân đá giày của tụi nó, và rúc lại với nhau như gà gô bị khiếp đảm. Lần đầu tiên tụi nó bị xô xuống bóng tối của cuộc đời. Bob đang ngồi làm việc ở bàn giấy, rồi anh đứng dậy và đi ra ngoài mà không nói một lời. Lúc ấy bồi thẩm đoàn đang trong thời gian hội họp, và sáng hôm sau Bob đến trình diện họ, tự thú là anh đã trộm số tiền. Anh bảo là anh đã nướng nó ở sòng bài phé. Trong vòng 15 phút, họ đã ký trát và phái tôi đi bắt người mà tôi đã thân thiết hơn là ngàn anh em ruột thịt trong cả ngàn năm.
Tôi thi hành trát bắt, rồi tôi nói với Bob, chỉ trỏ:
-Đây là nhà tôi, đây là văn phòng tôi, trên kia là Maine, xa nữa là California, và phía kia là Florida – và đó là tầm di chuyển của anh cho đến khi toàn án họp xét xử. Anh ở dưới quyền tôi tạm giữ, và tôi nhận trách nhiệm. Anh cứ ở đây khi anh muốn.
Anh có vẻ lơ đãng:
-Cảm ơn Tom. Tôi đã có ý nghĩ hy vọng anh sẽ không giam tôi lại. Tòa án sẽ họp ngày thứ Hai, nên nếu anh không nề hà, tôi sẽ thơ thẩn quanh văn phòng cho đến ngày đó. Tôi muốn xin anh một ân huệ, nếu không phải là quá đáng. Nếu thỉnh thoảng anh cho hai đứa nhỏ ra sân vườn chơi đùa thì tôi sẽ rất vui.
Tôi trả lời:
-Sao lại không được? Tôi sẵn lòng cho phép tụi nó, kể cả anh nữa. Và cứ đến nhà tôi, như từ bấy lâu nay.
Ông Nettlewick, ông thấy đó, ông không thể có bạn hữu là kẻ trộm đạo, nhưng ông cũng không thể biến một người bạn thân thành một tội nhân, cả hai việc trong một lúc.
***
Nhà thanh tra không trả lời. Lúc ấy, tiếng còi tàu rú lên khi đầu máy chạy vào ga. Đấy là con tàu chạy trên khổ đường hẹp dẫn vào San Rosario từ hướng Nam. Ông thiếu tá dỏng tai lắng nghe một khoản khắc, và nhìn vào mặt đồng hồ của ông. Con tàu trên khổ đường hẹp đã đến đúng giờ - 10 giờ 35. Ông thiếu tá tiếp tục.
***
Thế là Bob nương náu trong văn phòng, đọc báo và hụt thuốc. Tôi cử một anh phụ tá khác thế chỗ anh, và sau một thời gian, sự kích động ban đầu của vụ việc đã dần hạ xuống.
Một ngày, khi chỉ có hai chúng tôi trong văn phòng, Bob tiến đến chỗ tôi đang ngồi. Anh có vẻ nghiêm nghị và buồn buồn – cùng một vẻ khi anh thức cả đêm trông chừng bọn da đỏ hoặc lùa gia súc.
Anh nói:
-Tom, còn khó hơn cả việc xua đuổi dân da đỏ, khó hơn cả việc nằm trên sa mạc đá núi lửa cách nguồn nước bốn mươi dặm, nhưng tôi sẽ cố trụ đến cùng. Anh đã biết đó là cung cách của tôi. Nhưng nếu anh chỉ cần ra hiệu cho tôi một cái: “bob, tôi hiểu”, thì tôi sẽ cảm thấy dễ chịu nhiều.
Tôi lấy làm ngạc nhiên:
-Bob à, tôi không hiểu anh muốn nói gì. Dĩ nhiên, anh biết là tôi sẽ làm bất cứ việc gì có thể làm được dưới ánh mặt trời này để giúp anh. Nhưng anh khiến tôi phải thắc mắc.
Bob chỉ trả lời:
-Được rồi, Tom.
Và anh trở lại với tờ báo anh đang đọc và hút một điếu xì-gà khác.

Vào cái đêm trước ngày tòa án nghị sự, tôi hiểu ra anh muốn nói gì. Tôi đi ngủ với cùng cảm giác đó trở lại, đầu nhẹ tênh, bồn chồn. Tôi thiếp đi vào khoảng nửa đêm, Khi tôi bừng tỉnh, quần áo xốc xếch, trong một hành lang của tòa án. Bob đang nắm lấy một cánh tay tôi, bác sĩ gia đình của tôi nắm lấy tay bên kia, và Alice đang lay người tôi, khóc rấm rứt. Cô đã đi gọi bác sĩ nhà tôi tới mà tôi không biết, và khi ông tới họ thấy chiếc gi.ường trống không và tôi đã đi đâu mất, nên bắt đầu đi tìm.
Ông bác sĩ nói:
-Mộng du.
Tất cả chúng tôi quay trở về căn nhà, và ông bác sĩ kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện ly kỳ về những việc lạ lùng người bệnh đã làm trong tình trạng như thế. Tôi cảm thấy lạnh sau chuyến đi ra ngoài, nên khi vợ tôi đi ra khỏi phòng được một lúc, tôi mở cánh cửa tủ quần áo trong phòng và lôi ra một tấm dạ. Theo sau là cái túi tiền, tang vật của vụ trộm mà theo đó Bob sẽ bị xét xử và kết án vào buổi sáng hôm sau.
Tôi thét lên và mọi người hiện diện đều thấy tôi ngạc nhiên quá đỗi:
-Làm thế nào mà mấy con rắn chuông mang được nó vào đấy?
Bob biết ngay. Anh nói, với vẻ mặt cố hữu:
-Tôi thấy anh mang nó vào đây. Tôi đã nhìn anh mở cái két sắt và lấy nó ra, rồi tôi lén theo dõi anh. Tôi nhìn qua cửa sổ và thấy anh giấu nó trong cái tủ quần áo.
-Vậy thì, cái thằng chó sói bị trùm mền, cắt tai, đầu ngu như cừu, tại sao anh lại nhận tội?
Bob trả lời đơn giản:
-Bởi vì tôi không biết lúc ấy anh đang mê ngủ.
Tôi thấy anh liếc nhìn qua cửa phòng của Jack và Zilla, và lúc đó tôi hiểu ra giá trị của bạn hữu theo cách nhìn của Bob.
***
Thiếu tá Tom ngừng nói, và lại ngoài nhìn qua cửa sổ. Ông trông thấy một nhân viên nào đấy của Ngân hàng Stockmen’s National tiến đến và kéo tấm màn màu vàng xuống cả chiều dài khung cửa sổ lớn, mặc dù với vị trí của mặt trời việc này không cần thiết.
Nettlewick ngồi thẳng dậy. Ông đã lắng nghe một cách kiên nhẫn câu chuyện của ông thiếu tá, nhưng không chú ý lắm. Ông nghĩ dân miền Tây này có tình cảm quá cường điệu. Họ không có vẻ gì là dân làm ăn chính hiệu. Họ cần được bảo vệ chống lại ảnh hưởng xấu của bạn hữu. Hiển nhiên là ông thiếu tá đã đi đến kết cục của câu chuyện. Và những điều ông kể chẳng đi đến đâu cả.
Nhà thanh tra nói:
-Tôi xin hỏi, ông có gì thêm để đề cập trực tiếp đến vấn đề những thế chấp trừu tượng ấy không?
Thiếu tá Tom thình lình quay lại, đôi mắt xanh của ông lóe sáng đến nhà thanh tra:
-Những thế chấp trừu tượng hở ông? Thưa ông, ông có ý gì?
Ông móc từ trong túi áo choàng một xấp giấy gấp lại, được cột bằng một sợi dây cao su, ném vào tay của Nettlewick, và đứng dậy:
-Ông sẽ thấy đây là những thế chấp, thưa ông, mọi công trái, phiếu nợ, cổ phiếu. Tôi đã lục ra từ những hồ sơ trong khi ông đang đếm tiền mặt. Ông hãy tự mình xem xét và so sánh.

Ông thiếu tá dẫn đường trở lại vào phòng ngân hàng. Nhà thanh tra đi theo sau, kinh ngạc và hoang mang, tức tối. Ông cảm thấy ông đã bị biến thành nạn nhân của cái trò gì đấy không hẳn là chơi khăm, nhưng đã đặt ông vào hoàn cảnh của người bị đùa cợt, bị khai thác, rồi bị vứt bỏ, mà ông không hề biết cái trò này là như thế nào. Cũng có lẽ vị thế quan cách của ông đã bị tung hứng một cách bất kính. Nhưng ông không có gì làm bằng chứng. Viết một báo cáo chính thức về vụ việc sẽ là chuyện lố bịch. Và, qua cách nào đấy, ông có cảm tưởng ông sẽ không bao giờ được biết thêm về vụ việc hơn là những gì ông được biết bây giờ.
Lạnh lùng và máy móc, Nettlewick kiểm tra các văn tự thế chấp, thấy phù hợp với giấy tờ, cấm lấy chiếc túi đen, và đứng lên để từ giã.

Ông hướng tia nhìn khinh khỉnh qua đôi tròng kính đến thiếu tá Kingman:
-Tôi có thể nói rằng những lời tuyên bố của ông – những lời tuyên bố sai lạc của ông mà ông đã không hạ mình giải thích – xem ra không đi vào vấn đề, dù là việc làm ăn hoặc là chuyện đùa cợt. Tôi không hiểu nổi những động lực hoặc hành động như thế.
Thiếu tá Tom nhìn qua ông nghiêm trọng và không phải là thiếu thiện cảm.
-Anh con trai à, có rất nhiều chuyện trong vùng đồng nội, trên đồng cỏ, trên những vực núi, mà anh không thể hiểu được. Nhưng tôi muốn cám ơn anh đã lắng nghe câu chuyện chán ngắt của một ông già lắm lời. Dân già Texas tụi tôi khoái kể lể mấy cuộc phiêu lưu và các bạn hữu, và người nhà của tụi tôi đã từ lâu biết cách bỏ chạy khi tụi tôi bắt đầu với câu “Ngày xửa ngày xưa”, nên tụi tôi đành phải tóm lấy người lạ đi đến gần cổng nhà mình.

Ông thiếu tá mỉm cười, nhưng nhà thanh tra chỉ lạnh nhạt cúi đầu, và nhanh chóng đi ra khỏi tòa nhà ngân hàng. Họ nhìn thấy ông đi chéo qua phố theo một đường thẳng và bước vào ngân hàng Stockmen’s National.
Thiếu tá Tom ngồi xuống bàn làm việc của ông, và từ trong túi áo vét rút ra lá thư Roy đã trao cho ông. Ông đã đọc qua một lần, nhưng trong hấp tấp, và bây giờ, với vẻ gì đấy như lấp lánh trong đôi mắt, ông đọc lại lần nữa:
Tom thân mến,
Tôi nghe có một con chó săn của chú Sam tìm đến bạn, như vậy có nghĩa là ta sẽ bắt giữ hắn trong ít giờ, có thể vậy. Bây giờ, tôi muốn nhờ bạn giúp vài việc cho tôi. Bọn này chỉ có 2.200 đô trong nhà băng, và luật quy định phải có 20.000. Chiều hôm qua tôi đưa Ross và Fisher 18.000 để mua đám bò Gibson đó. Không đầy 30 ngày, họ sẽ thu được 40.000, nhưng như vậy sẽ không làm số tiền mặt đẹp hơn dưới mắt tên thanh tra. Bây giờ, tôi không thể trình cho hắn mấy tờ giấy cầm cố đó, vì chỉ toàn là giấy lộn mà không có bất cứ bóng dáng cầm cố nào, nhưng bạn biết rõ là Pink Ross và Jim Fisher là hai đứa da trắng ngon lành nhứt mà Thượng đế đã tạo ra, và tụi nó sẽ chơi đàng hoàng. Bạn còn nhớ Jim Fisher – hắn là người đã bắn tên chia bài ở El Paso đó. Tôi đã điện cho ngân hàng của Sam Bradshaw xin gửi cho tôi 20.000, và số tiền sẽ đến trên chuyến tàu lúc 10:35. Bạn không thể để tên thanh tra đến được 2.200 và đóng cửa bạn. Tom, bạn phải giữ hắn lại. Giữ hắn. Giữ hắn nếu cần phải trói hắn lại và ngồi trên đầu hắn. Trông chừng cái cửa sổ sau khi tàu đã đến, và khi bọn tôi nhận được tiền, bọn tôi sẽ kéo tấm màn cửa xuống để báo hiệu. Đừng cho hắn thoát trước. Tôi tin cậy nơi bạn, Tom ạ.

Bạn già – Bob Buckly. Chủ tịch Stockmen’s National.
Ông thiếu tá bắt đầu xé bức thư làm nhiều mảnh vụn và ném vào cái sọt rác. Ông cười khúc khích một cách hài lòng.
Ông lẩm bẩm, mãn nguyện:
-Cái thằng già chăn bò lộn xộn liều lĩnh! Vậy là đã trả ơn cho bạn phần nào đối với cái việc bạn đã làm cho mình trong văn phòng cảnh sát trưởng hai mươi năm trước.

Chú thích
1. Cuộc nội chiến Nam-Bắc của Mỹ, bắt đầu năm 1861.
 
Căn phòng đủ tiện nghi


Một số người sống trong một quận gạch đỏ dưới phía đông của thành phố luôn luôn thiếu ổn định, mãi trôi giạt, lang thang. Tuy vô gia cư, họ vẫn có hàng trăm chỗ ở. Họ nhảy từ phòng cho thuê này qua phòng khác (phòng nào cũng đủ tiện nghi nội thất), luôn trong cảnh lông bông, lông bông về chỗ trú ngụ, lông bông về tâm hồn và tư tưởng. Họ ca hát “Tổ ấm gia đình” trong điệu dân ca Mỹ rộn ràng, họ mang đồ tế nhuyễn trong một cái thùng đáng lẽ chỉ để đựng đồ linh tinh, dây leo làm cảnh quấn quanh cái mũ rộng vành ta thường thấy trong các bức họa, một cái cây nhỏ là cây bóng mát.
Vì thế, những ngôi nhà của quận này, với hàng nghìn nhân khẩu, có hàng nghìn câu chuyện để kể, đương nhiên, phần lớn đều vô vị, nhưng sẽ là điều lạ lùng nếu ta không thể tìm ra một vài bóng ma trong đám dân cư lông bông này.
Một buổi tối, một thanh niên lượn vòng, bấm chuông những toà nhà màu đỏ đổ nát này. Đến toà nhà thứ mười hai, anh đặt túi hành lý lép kẹp trên bậc thềm, lau cái trán đã lấm đầy bụi. Cái chuông phát ra âm thanh khe khẽ và xa xôi trong những chiều sâu nào đấy hun hút, trống rỗng.
Một người đàn bà đi ra cửa. Bà làm anh liên tưởng đến một con sâu bệnh hoạn, háo ăn háo uống đã đục khoét cả một cái quả chỉ chừa lại vỏ cứng và bây giờ đang lo kiếm khách trọ nào đấy có thể xơi được, để lấp đầy chỗ hổng. Anh hỏi bà có phòng trống cho thuê hay không.
Bà trả lời, tiếng phát ra từ cổ họng, cổ họng dường như được lót lông thú:
- Mời vào. Tôi có tầng ba, phía sau, đã trống một tuần nay. Anh muốn xem không?
Người thanh niên theo bà đi lên cầu thang. Một luồng ánh sáng nhợt nhạt không rõ phát ra từ đâu lắp bớt những khoảng tối trong các hành lang. Họ bước không một tiếng động nào trên một tấm thảm mà cái khung cửi dệt của nó hẳn phải không dám nhìn nhận nó nữa. Dường như tấm thảm đã trở nên một loài thực vật, trong bầu không khí nặng không hề có ánh mặt trời, nó đã bị thoái hoá thành một lớp địa y lùm xùm hay rêu lan tràn mọc từng mảng đến tận cầu thang, nó trơn nhớt dưới chân như là một chất hữu cơ. Ở mỗi chỗ ngoặt của cầu thang là những hốc lõm trên tường. Có lẽ một loại cây cỏ nào đó đã từng mọc trong đấy. Nếu đúng thế, hẳn mấy cây cỏ đó đã tàn lụi trong bầu không khí hôi hám. Có thể có những bức tượng của các vị thánh đã được đặt ở đấy, nhưng ta có thể suy luận dễ dàng là ma quỷ đã lôi họ qua bóng tối xuống những vực sâu có trang bị đồ đạc trần tục ở phía dưới.
Bà chủ nói qua cổ họng được lót lông thú:
- Phòng này đây. Phòng này tốt lắm. Ít khi trống. Mùa hè vừa rồi có người đứng đắn thuê - không gây rắc rối gì cả, lại còn trả tiền trước. Nước ở cuối hành lang. Sprowls và Mooney đã thuê ở đây ba tháng. Họ diễn trên sân khấu văn nghệ tạp kỹ. Cô B’retta Sprowls - chắc ông có nghe nói đến cô ấy - À, mà đấy chỉ là tên sân khấu - trên tủ quần áo ngay đây là nơi họ treo giấy hôn thú, có đóng khung đàng hoàng. Vòi ga ở đây, có nhiều tủ quần áo, ông thấy đấy. Ai cũng thích phòng này. Không mấy khi trống.
- Bà có nhiều nghệ sĩ sân khấu thuê phòng ở đây không?
- Họ đến rồi đi. Giới sân khấu có thuê một số phòng ở đây. Đúng thế, ông ạ, nơi đây là quận sân khấu. Mấy diễn viên không bao giờ ở lâu một chỗ nào cả. Một số có thuê ở đây. Vâng, họ đến rồi đi.
Anh thanh niên nhận thuê phòng, trả trước một tuần. Anh bảo anh cảm thấy mệt và muốn nhận phòng ngay. Anh đếm tiền. Bà chủ bảo phòng đã sẵn sàng, ngay cả khăn lau và nước đều sẵn sàng. Khi bà chuẩn bị ra ngoài, anh thanh niên hỏi câu hỏi anh đã có trên đầu môi cả nghìn lần:
- Có một cô gái trẻ - Cô Vashner, cô Eloise Vashner - bà có nhớ cô đã đến thuê ở đây không? Rất có thể cô hát trên sân khấu. Da trắng, tầm vóc trung bình, với tóc vàng kim đo đỏ và một bớt sẫm gần lông mày bên trái.
- Không, tôi không nhớ tên. Giới sân khấu thay đổi tên liên tục cũng như họ thay đổi phòng. Họ đến rồi đi. Không, tôi không nhớ tên này.
Không. Luôn luôn là không. 5 tháng điều tra liên tục rồi không tránh khỏi vô vọng. Bỏ rất nhiều thì giờ ban ngày để hỏi han mấy ông bầu, nhân viên đại diện, trường kịch nghệ, ban hợp xướng. Ban đêm trà trộn trong số khán giả của các sân khấu từ những nhà hát đầy ngôi sao đến các phòng ca nhạc hạ cấp. Anh, người yêu cô nhất trần đời, đã cố công tìm kiếm cô. Anh chắc chắn là từ khi cô biến khỏi nhà, thành phố thênh thang bao quanh toàn là nước này chứa chấp cô ở đâu đấy, nhưng nó như là một vũng lầy khủng khiếp, luôn luôn xoáy động, không có nền chắc chắn, các vật thể nổi hôm nay bị chìm lấp ngày mai trong bùn nhớt.

Căn phòng đủ tiện nghi nội thất đón người khách mới nhất với tia sáng đầu tiên của lòng hiếu khách giả tạo, một thái độ chào đón tất bật, hốc hác, máy móc như là nụ cười đặc biệt của một ả giang hồ. Sự thoải mái hiện đại đến từ ánh sáng phản chiếu từ đồ nội thất rã mục, tấm nệm thêu xơ xác của cái phô-tơi và hai chiếc ghế, tấm gương soi toàn thân rẻ tiền đặt giữa hai cửa sổ, từ một hai khung ảnh sỗ sàng và khung gi.ường bằng đồng đặt ở góc phòng.
Người khách trọ ngồi ngả người trên ghế, bất động, trong khi căn phòng, hoang mang trong ngôn từ như thể là một phòng trọ trong Tháp Babel, cố gắng thuyết minh về chức năng cho thuê đa dạng của nó.
Cái tấm thảm với lắm mùi khác nhau, hình chữ nhật thêu hoa, giống như hòn đảo vùng nhiệt đới bao quanh bởi một vùng biển là tấm lót sàn vấy bẩn, phồng lên chỗ này, tọp xuống chỗ nọ. Trên bức tường dán giấy màu tươi sáng là những tấm hình đi theo những người vô gia cư từ nhà này đến nhà nọ. Những góc cạnh đạo mạo một cách khắc khổ của cái bệ lò sưởi bị che phủ một cách tồi tệ trong cái màn cửa theo mốt thời trang, bị kéo xệch dúm dó về một bên cứ như là tấm vải choàng của vũ nữ ba lê vùng rừng già Amazon ở Nam Mỹ. Trên cái bệ là xác một con tầu chỏng chơ được mang vào bờ khi một cánh buồm may mắn mang chúng đến bến cảng tươi mát - một hai bình hoa vô duyên, ảnh của mấy diễn viên, một lọ thuốc, vài lá bài tây lạc lõng khỏi cỗ bài.
Khi bản mật mã trở nên rõ ràng từ chữ này qua chữ khác, những dấu hiệu nhỏ nhoi còn sót lại sau cuộc diễu hành của những người khách trọ trong căn phòng đủ tiện nghi nội thất trở nên có ý nghĩa. Cái khoảnh tấm thảm xơ xác trước cái bàn phấn bảo rằng những người phụ nữ dễ thương đã đến hàng đoàn. Những dấu tay bé tí trên bức tường nói đến những tù nhân nhỏ tuổi cố lần mò tìm đường ra ánh nắng và không khí. Một vết bẩn vương vãi, toả ra như cái bóng của một bom bùng nổ, là chứng tích của một cái cốc hay chai va vào, tung toé ra lên tường chất đựng bên trong. Trên mặt gương soi toàn thân là tên người “Marie” viết nghệch ngoạc bằng kim cương. Dường như lần lượt những khách trọ trong căn phòng đủ tiện nghi đã trút ra cơn giận dữ - có lẽ không thể chịu nổi vẻ lạnh lùng hào nhoáng rẻ tiền của nó - và đem tất cả cuồng nhiệt ra phá phách. Bàn ghế tủ gi.ường bị đẽo gọt và trầy trụa, cái ghế bành bị móp méo vì mấy lò xo bung ra, trông như là con quái vật khủng khiếp đã bị sát tử trong cơn quằn quại loạn cuồng. Một cơn quấy động nào đấy lộ liễu hơn đã sớt cái bệ lò sưởi đi một lát lớn. Mỗi thanh gỗ sàn tạo một mảng riêng rẽ và kêu thét như là trong cơn đau đớn riêng biệt của từng cá thể. Có vẻ khó tin là những người có thời từng gọi căn phòng này là “nhà” lại có ác ý gây ra bao đau thương như thế cho căn phòng. Và tuy nhiên, có thể là bản năng do ý niệm về “nhà” bị lừa gạt - vốn đã tồn tại một cách đui mù sau cơn giận dữ đầy bất bình đối với cơn phẫn nộ của những người ở trọ. Nếu ta là chủ một túp lều, ta vẫn quét dọn, trang hoàng và giữ gìn nó.
Anh khách trẻ ở trọ, gọn người trong ghế, để những ý tưởng như thế lướt qua êm ái trong đầu anh, trong khi những âm thanh và những mùi hương - đều có đủ tiện nghi nội thất - lan toả vào căn phòng. Anh nghe trong một căn phòng tiếng khúc khích và chuỗi cười vang buông thả không kiềm chế, trong những phòng khác một giọng độc thoại trách mắng, tiếng xúc xắc lanh canh, tiếng ru con và một tiếng khóc sụt sùi, tầng trên là tiếng đàn banjo gầy đầy nhiệt tình. Ở đâu đấy có những cánh cửa đóng sầm; cái thang máy kêu thét không ngừng, một con mèo rên rỉ thảm hại trên hàng rào sân sau. Và anh thở hơi thở của toà nhà - hương vị ẩm lạnh hơn là một mùi - vị nồng nồng lạnh lẽo, mốc meo như thể từ những hố ngầm dưới đất pha trộn với hương sực nức của véc-ni và đồ gỗ mục nát đã lên nấm mốc.
Và thình lình, khi anh ngả người như thế, mùi hoa mignonette ngọt dịu tràn ngập căn phòng. Mùi hương dường như đến theo một cơn gió thoảng, với sự chắc chắn, thơm tho và khẳng định thành một hương vị khác có sự sống. Và người con trai thốt lên: “Gì thế, hở em yêu?” như thể là có tiếng gọi anh, rồi anh đứng bật dậy, nhìn chung quanh. Mùi hương nồng nàn bám lấy anh và bao quanh lấy anh. Anh dang cả hai tay ra đón nó, mọi tri giác của anh trong nhất thời đều bị hoang mang, trộn lẫn. Làm thế nào một mùi hương có thể gọi được anh? Chắc chắn, đấy phải là một linh hồn. Nhưng mà, có phải đấy là một âm thanh đã chạm đến anh, đã ve vuốt anh?
“Nàng đã ngụ ở phòng này”, anh thốt lên và bật người ra để níu lấy một ít, vì anh biết anh có thể nhận ra cái gì đấy dù nhỏ nhặt nhất thuộc về nàng hay cái gì đấy nàng đã chạm tay đến. Mùi hương mignonette này, mùi hương nàng vẫn yêu thích và biến thành mùi của riêng nàng, đã từ đâu đến?
Căn phòng đã được dọn dẹp một cách cẩu thả. Vương vãi trên chiếc khăn mỏng dính đậy cái bàn phấn là khoảng nửa tá kim cài tóc - những người bạn thầm kín, khó phân biệt nhau của giới phụ nữ, thuộc phái yếu, với cảm hứng vô hạn và một thể ngôn ngữ không thể truyền thông được. Anh bỏ qua những món này, hiểu rõ chúng hoàn toàn thiếu khả năng chứng minh ai là ai. Khi lục lọi trong mấy ngăn kéo của cái bàn phấn, anh tìm thấy một khăn tay nhỏ bị vứt bỏ, nhàu nát. Anh áp nó vào mặt mình. Nó có mùi cây vòi voi nồng nặc xấc xược, anh ném nó xuống sàn nhà. Trong một ngăn kéo khác anh tìm ra vài cúc áo, một tờ chương trình nhà hát, một thẻ cầm đồ, hai mẩu kẹo đường, một lô cuốn sách nói về cách đoán mộng. Trong ngăn kéo cuối cùng là một kẹp tóc bằng vải sa-tanh đen, khiến anh dừng tay, vội bốc lấy nó, giữa băng giá lạnh và lửa nóng cháy. Nhưng cái kẹp tóc cũng chỉ là loại trang sức của nữ giới, khiêm tốn, thông thường và vô nhân cách, không nói lên được điều gì.
Và rồi anh lùng sục khắp phòng như con chó săn đánh hơi con mồi, lướt qua bức tường, bò trên hai chân và hai tay để xem xét từng góc kẹt của tâm trải sàn phập phồng sục sạo cái bệ lò sưởi và mấy cái bàn, màn cửa, màn treo, cái tủ nhỏ ở góc phòng, để tìm kiếm một dấu vết sinh động, dù anh không thể nhận ra là nàng đã ở bên anh, xung quanh anh, tựa vào anh, ở trong anh, bên trên anh, bám lấy anh, âu yếm với anh, gọi anh qua mọi cảm nhận tính tế hơn, đến nỗi ngay những giác quan đơn sơ nhất của anh cũng nhận được tiếng gọi. Một lần nữa, anh trả lời: “Vâng, em yêu!”, và quay người, đôi mắt rừng rực, để nhìn vào khoảng không, vì lẽ anh không thể nhận ra bóng hình, màu sắc tình yêu và đôi vòng tay mở rộng trong mùi hương của hoa mignonette. Ôi, Chúa ơi! mùi hương ấy đến từ đâu và từ bao giờ mùi hương có tiếng nói để kêu gọi? Thế là anh lần mò xung quanh.
Anh vùi mình trong các kẽ ngách và góc kẹt và tìm thấy nút chai và những điếu thuốc lá. Anh bóp chúng bẹp gí trong khinh rẻ. Nhưng có lúc anh tìm thấy trong một nếp gấp của tấm trải sàn nhà một điếu xì-gà đã hút dở và anh lấy chân chà nó với tiếng càu nhàu sắc lạnh. Anh sàng lọc cả căn phòng từ đầu này sang đầu kia. Anh tìm thấy những chứng tích lặt vặt đáng chán và hạ cấp của nhiều khách trọ lãng tử, trong khi không thấy dấu vết nào của một người có thể đã thuê phòng ở đây, người mà linh hồn dường như lảng vảng quanh đây.
Và rồi anh nghĩ đến bà chủ nhà. Anh chạy từ căn phòng bị ma ám xuống mấy bậc thang, đến một cánh cửa có khe nứt toả sáng ra ngoài. Bà chủ nhà ra mở cửa. Anh cố gắng trấn áp nỗi xúc động. Anh van nài:
- Bà có thể cho tôi biết, ai đã thuê căn phòng đó trước khi tôi đến?
- Vâng, thưa ông. Tôi có thể cho ông biết lần nữa. Đấy là Sprowls và Mooney, như tôi đã nói. Tôi nói cô B’retta Sprowls trình diễn ở các nhà hát, nhưng thực ra là bà Mooney. Nhà của tôi nổi tiếng là đứng đắn. Giấy hôn thú, có đóng khung, treo vào cái đinh bên trên.
- Cô Sprowls là người như thế nào - ý tôi muốn nói về ngoại hình?
- Sao cơ? Tóc đen, thưa ông, thấp người, tròn trĩnh, với khuôn mặt trông khôi hài. Họ đã đi ngày thứ ba tuần rồi.
- Và trước họ, ai đã ở đấy?
- Sao cơ? Đấy là một ông làm nghề khuân vác. Ông ta đi mà còn thiếu tiền thuê phòng một tuần. Trước ông là cô Crowder và đứa con của cô ấy, họ ở bốn tháng. Trước nữa là ông Doyle, tiền phòng do các đứa con trả. Ông thuê trong sáu tháng. Đấy là một năm nay, trước nữa thì tôi không nhớ.
Anh cảm ơn bà và lủi thủi trở về phòng. Căn phòng đã chết. Hương thơm cho nó sự sống đã không còn nữa. Mùi hương hoa mignonette đã ra đi. Thay vào đấy là mùi cũ kỹ, nặng nề của đồ đạc lên mốc meo, của bầu không khí ngột ngạt như là trong kho hàng.
Hy vọng tàn rụi đã làm cạn kiệt mọi niềm tin của anh. Anh ngồi nhìn chăm chăm ngọn đèn ga vàng vọt. Rồi anh đi đến cái gi.ường và xé tấm vải gi.ường ra thành từng dải nhỏ. Dùng cái sống của một con dao, anh nhét từng dải vào từng khe hở của các cửa sổ và cánh cửa chính. Khi mọi chỗ đã được lèn chặt, anh tắt ngọn lửa, mở vòi ga hết mức, rồi lên nằm một cách thoải mái trên gi.ường.
*
Đấy là đêm bà McCool cảm thấy thèm bia. Thế là bà đi lấy một lon đến ngồi bên bà Purdy, tại một góc cô tịch dưới tầng hầm nơi các bà chủ nhà tụ họp và nơi con sâu tham lam ít khi chết đói. Bà Purdy nói, qua một vòng tròn bọt bia li ti:
- Tối nay tôi đã cho thuê được căn phòng trên tầng ba. Một anh thanh niên đến thuê. Anh ta đi ngủ cách đây hai giờ rồi.
Bà McCool nói với lòng thán phục:
- Thật à, bà Purdy? Bà tài lắm mới có thể cho thuê loại phòng như thế.
Và McCool thì thầm, đầy vẻ bí ẩn, thêm câu hỏi:
- Thế thì bà có nói cho anh ta biết không?
Bà Purdy nói, cổ họng càng như được lót thêm lông thú dày nhất:
- Có phòng là phải trang bị để cho thuê. Tôi không nói cho anh ấy biết bà McCool ạ.
- Bà nói đúng lắm, có cho thuê phòng thì những người như chúng ta mới sống được. Bà có đầu óc kinh doanh độc đáo lắm. Nhiều người có thể từ chối căn phòng đó nếu họ biết là đã có khách tự tử và nằm chết trên cái gi.ường trong đấy.
- Như bà nói, chúng ta phải lo kiếm sống.
- Thật vậy bà ạ. Đúng một tuần trước tôi đã giúp bà trải lại tấm lót sàn. Một cô gái xinh xắn mảnh dẻ tự tử bằng ga thắp đèn - cái cô có khuôn mặt nhỏ nhắn đấy, bà Purdy.
Bà Purdy đồng tình nói nhưng pha chê bai:
- Cô ấy có thể được xem là đẹp, như bà nói, nếu không có cái bớt trên lông mày bên trái. Dùng thêm bia đi, bà McCool.
 
Cánh cửa màu lục


Giả sử bạn đang đi dọc theo Phố Broadway sau bữa ăn tối, với mười phút để thưởng thức điếu xì-gà trong khi bạn đang phân vân giữa việc cứu nguy một thảm trạng và làm một việc gì đấy nghiêm túc theo cách trong các vở hài kịch nhố nhăng. Thình lình có một bàn tay đặt lên vai bạn. Bạn quay lại để nhìn vào đôi mắt mê hồn của một phụ nữ xinh đẹp tuyệt trần với những kim cương và lông chồn Nga. Người phụ nữ vội dúi vào tay bạn một cái bánh bơ thật nóng, rút ra một cái kéo nhỏ xíu, cắt đi cái nút thứ hai trên áo choàng của bạn, thốt lên “Hình bình hành!”, rồi chạy băng qua đường, ngoái đầu lại một cách kinh hãi.
Đấy là cả một sự phiêu lưu. Liệu bạn có chấp nhận không? Chắc là không. Bạn hẳn sẽ ngượng chín cả người, ném ngay mẩu bánh xuống và tiếp tục đi trên Phố Broadway, lần dò tìm cái nút áo bị mất. Bạn sẽ phản ứng như thế, trừ phi bạn thuộc số ít người không hề thấy mệt mỏi trong việc theo đuổi tinh thần phiêu lưu.
Con người phiêu lưu đích thực không bao giờ có nhiều. Mấy người phiêu lưu được kể trong sách truyện phần lớn là dân thương mại với những phương pháp mới được khám phá. Họ theo đuổi những gì họ thèm muốn - những bộ lông thú bằng vàng, những cốc chén linh thiêng, những người yêu quý phái, kho báu, vương miện và tiếng tăm. Con người phiêu lưu đích thực đi không có mục đích, không tính toán, để sẵn sàng gặp gỡ và chào đón một định mệnh vô hình nào đấy.
Con người phiêu lưu nửa vời – can đảm và hào nhoáng – thì có nhiều. Từ những cuộc Viễn chinh Thập tự (1) đến Palisades (2), họ đều làm giàu nghệ thuật về lịch sử và tiểu thuyết cũng như làm giàu cho việc buôn bán tiểu thuyết lịch sử. Nhưng mỗI người trong bọn họ điều theo đuổi một giải thưởng, nhắm vào một cái đích, vung một cái rìu, chạy một cuộc đua, khắc một cái tên – vì thế mà họ không phải là những người đích thực theo đuổi phiêu lưu.
Rudolf Steiner là một người phiêu lưu đích thực. Có rất nhiều buổi tối anh đi ra ngoài để kiếm tìm những gì bất ngờ và thần kì. Đối với anh, điều lí thú nhất trong cuộc sống là cái gì đấy đang chờ đợi anh ở ngã rẽ trước mặt. Đôi lúc cái tật sẵn sàng thách thức định mệnh đã lôi anh vào những tình huống quái dị. Hai lần anh đã phải ngủ đêm tại bót cảnh sát; hết lần này đến lần khác anh là nạn nhân của bọn lừa đảo thần tình và đâm thuê chém mướn; có lúc anh bị mất đồng hồ và tiền bạc chỉ vì một vụ phỉnh phờ. Nhưng với tính hăng say không hề suy giảm, anh vẫn chấp nhận kéo dài thêm bảng thành tích phiêu lưu rôm rả của mình.
Một buổi tối, Rudolf tản bộ dọc theo hè đường trong một khu phố cổ của thành phố. Hai dòng người chật ních hai bên hè phố, một dòng hối hả trở về nhà sau công việc, dòng kia ra khỏi nhà để đi ăn uống trong những nhà hàng sáng trưng như thể được thắp bằng cả nghìn ngọn nến. Anh thanh niên thích phiêu lưu trẻ trung đang ngập tràn vui thú, bước đi với dáng vẻ thâm trầm, ngắm nhìn cùng khắp. Ban ngày, anh là nhân viên tiếp thị cho một cửa hiệu bán đàn dương cầm. Khi anh đang đi, những âm thanh giống như là do hai hàm răng đánh lập cập phát ra từ một khung kính khiến anh chú ý (với một ngần ngại) quan sát một nhà hàng phía trước mặt, nhưng rồi khi nhìn kĩ lại anh thấy bảng hiệu đèn điện của một phòng nha khoa đặt ở trên cao kế đấy. Một anh chàng da đen khổng lồ, ăn mặc kì quái với một áo choàng vải móc màu đỏ, cái quần màu vàng và một cái mũ cát két kiểu quân đội, đang kín đáo phân phối những tấm thiệp cho người đi đường nào muốn nhận lấy.
Rudolf đã quá quen với cánh tiếp thị nha khoa kiểu này. Bình thường anh không muốn nhận một tấm thiệp tiếp thị nào cả. Nhưng lần này anh chàng da đen gốc Phi Châu dúi tấm thiệp vào tay anh một cách khéo léo đến nỗi Rudolf phải nhận mà mỉm cười khen cho cái tay kĩ xảo.
Khi Rudolf đi được vài bước, anh lơ đãng liếc nhìn tấm thiệp. Anh ngạc nhiên, lật tấm thiệp qua lại, rồi nhìn lần nữa với cả sự chú tâm. Một mặt của tấm thiệp hoàn toàn trống, mặt kia chỉ vỏn vẹn các chữ viết tay bằng bút mực: “Cánh Cửa Màu Lục”. Và rồi Rudolf trông thấy, chỉ cách anh vài bước phía trước, một người đàn ông ném một tấm thiệp xuống đất. Rudolf nhặt lên. Đấy là một tấm thiệp in tên và địa chỉ một nha sĩ, liệt kê mọi dịch vụ trám răng, bịt răng, chỉnh răng vẩu, vân vân, và những hứa hẹn đặc biệt về kĩ thuật “không đau”.
Anh nhân viên tiếp thị với tính thích phiêu lưu dừng bước tại một góc phố và suy ngẫm. Rồi anh băng qua bên kia đường, đi ngược trở lại một dãy phố, băng trở lại bên này đường, và nhập vào dòng người lũ lượt. Giả vờ không hề để ý đến anh chàng da đen, anh ra vẻ lơ đãng nhận tấm thiệp trao cho mình. Cách mười bước, anh kiểm tra tấm thiệp. Vẫn cũng là những chữ viết tay bằng bút mực y như tấm thiệp đầu tiên: “Cánh Cửa Màu Lục”. Có ba, bốn tấm thiệp được vứt trên đường từ từ những người đi trước và sau anh. Mấy tấm thiệp này đều đưa mặt trống lên trên. Anh nhặt hết lên, lật qua để xem. Tất cả đều mang dòng chữ in quảng cáo cho ông nha sĩ. Ít khi nào thần Phiêu Lưu phải kêu gọi Rudolf Steiner - một tín đồ trung thành - đến hai lần.. Nhưng hôm nay thì đúng là hai lần. Thế là cuộc phiêu lưu bắt đầu.
Rudolf bước chầm chậm trở lại chỗ anh chàng da đen đang đứng gần, hai hàm răng đánh lập cập. Lần này, khi anh đi qua, anh không nhận được một tấm thiệp nào nữa. Dù với bộ trang phục quái đản, anh da đen vẫn ra dáng vẻ tôn quý man rợ theo thiên nhiên, chìa tấm thiệp cho vài người, cho phép vài người khác đi qua mà không hề phiền nhiễu đến. Cứ mỗi nửa phút, anh lại cất tiếng khàn khàn hát những câu không ai hiểu nổi ý nghĩa theo cách ồm ộp của mấy lơ xe và giàn đồng ca hợp xướng. Không những anh ta không muốn trao tấm thiệp nào, nhưng đối với Rudolf cả tấm thân hộ pháp đen lù lù hình như lộ vẻ lạnh lùng, gần như đến mức khinh thường miệt thị. Cái nhìn làm nhà phiêu lưu đau nhói như là bị ong đốt. Anh nhận ra trong sự cáo buộc im lặng có lời kêu gọi đến anh. Dù gì những chữ viết tay bí ẩn kia có ý nghĩa gì chăng nữa, người da đen đã hai lần chọn anh trong dòng người bát nháo để trao cho tấm thiệp ấy. Và bây giờ người da đen có vẻ như lên án anh thiếu tinh thần và chí khí để lao vào cuộc đánh đố.
Đứng ra ngoài dòng người bát nháo, anh trai trẻ dò xét một cách nhanh chóng tòa nhà mà anh cho là cuộc phiêu lưu của anh sẽ xảy ra trong đấy. Toà nhà cao năm tầng. Một nhà hàng chiếm lấy tầng hầm. Tầng trệt, giờ đã đóng cửa, xem chừng là hiệu bán mũ mãng hay hàng lông thú. Tầng thứ hai theo tấm biển chữ đèn điện cho biết, là phòng nha sĩ. Trên nữa là một dãy phố lố nhố những bảng hiệu viết bằng vài ngôn ngữ khác nhau – nơi cư ngụ của mấy thầy bói xem chỉ tay, thợ cắt may, nhạc sĩ, và bác sĩ. Cao thêm nữa, những vải màn cửa và mấy chai sữa tươi đặt trên bệ cửa sổ chỉ định khu vực gia cư.
Sau khi đã có kết luận cho cuộc điều tra của mình, Rudolf nhanh nhẹn bước lên các nấc thang xây bằng đá dẫn vào toà nhà. Anh tiếp tục bước lên một cầu thang trải thảm, và dừng lại khi đã lên đến trên cùng. Hai dòng khí đốt cháy leo lét soi đường hành lang dài, một ở xa bên phải, một gần hơn bên trái. Anh nhìn về phía ánh sáng gần hơn và thấy, trong vùng lập loè, một cánh cửa mầu lục. Anh ngần ngừ một lúc, và rồi anh dường như trông thấy cái nhếch môi cười khinh miệt của anh chàng Châu Phi với trò tung hứng mấy tấm thiệp. Thế là anh bước thẳng đến cánh cửa màu lục và đưa tay lên gõ.
Trong khi chờ đợi là khoảng thời gian đo lường nhịp thở hào hển của cuộc phiêu lưu đích thực. Có thể không có phiêu lưu gì cả sau cánh cửa màu lục này! Có thể là dân cờ bạc đang sát phạt nhau; mấy tay anh chị đang giăng bẫy với bao trò ma mãnh; giai nhân đang độ yêu đương bất cần đời và thế là muốn tìm của lạ; mối hiểm nguy, cái chết, tình yêu, nổi thất vọng, trò cợt nhả - bất kì việc gì cũng có thể đáp lại tiếng gõ táo bạo.
Có tiếng sột soạt bên trong, rồi cánh cửa từ từ mở ra. Một người con gái tuổI chưa đến hai mươi đứng đấy, mặt xanh xao, chân run lẩy bẩy. Cô buông tay khỏi nắm cửa, người đong đưa một cách yếu ớt, đưa một tay lần mò. Rudolf đỡ lấy cô gái, đặt cô lên một cái ghế bành đã nhạt màu đặt dọc theo chân tường. Anh đóng cánh cửa lại và liếc nhìn một vòng quanh căn phòng mù mờ do một ngọn đèn khí đốt. Anh nhận thấy phòng có vẻ gọn ghẽ, nhưng trông rất nghèo nàn.
Cô gái nằm thiêm thiếp, như là bất tỉnh. Rudolf nhìn quanh phòng, hồi hộp đợi chờ một nòng súng chĩa vào mình. Phải lăn nạn nhân trên một cái thùng phuy – không, không, đấy là để cứu nạn nhan khỏi bị chết đuối. Anh lấy cái mũ của mình quạt cho cô gái. Anh thành công, vì anh lỡ đập vành mũ vào sống mũi của cô, và cô mở mắt ra. Và rồi người trai trẻ nhận thấy khuôn mặt cô chính là phần còn thiếu sót trong số các chân dung thân cận trong trái tim anh. Đôi mắt xám, chân chất, sống mũi nho nhỏ, cong ra ngoài một cách hồn nhiên; mái tóc nâu, những sợi cong xoắn như các râu ria của một dây đậu - tất cả dường như là sự kết thúc đúng cách và là phần thưởng cho mọi chuyến phiêu lưu tuyệt vời của anh. Nhưng khuôn mặt thì gầy gò và xanh xao.
Cô gái nhìn anh một cách từ tốn, rồi mỉm cười. Cô hỏi yếu ớt:
- Tôi đã ngất đi phải không? Ai lại không như thế? Ông thử nhịn đói trong ba ngày xem sao!
Rudolf thốt lên, đứng phắt dậy:
- Trời ơi! Cô chờ tôi trở lại.
Anh chạy vụt ra khỏi cánh cửa màu lục, lao xuống mấy bậc cầu thang. Trong vòng hai mươi phút anh trở lại, dùng chân đá vào cánh cửa để cô gái ra mở. Cả hai tay anh ôm đầy mọi thứ mua từ cửa hiệu thực phẩm và nhà hàng. Anh đặt hết lên bàn – bánh mì và bơ, thịt nguội, bánh ngọt, bánh trái cây, đồ chua, sò biển, một con gà nướng, một chai sữa tươi, có cả trà.
Anh hào hển:
- Thật là điên rồ mà không ăn uống gì cả. Cô phải chấm dứt cái trò đánh cuộc về kết quả bầu cử ăn thua theo lối tuyệt thực như thế này. Giờ thì bữa ăn tối đã sẵn sàng.
Anh dìu cô gái xuống chiếc ghế gần cái bàn và hỏi:
- Có cốc uống trà không?
- Trên cái kệ gần cửa sổ.
Khi anh quay lại với cái cốc, anh thấy cô đang bắt đầu nhai một quả dưa chuột muối khổng lồ mà cô rút ra từ mấy cái túi giấy với trực giác không nhầm lẫn của phụ nữ. Mắt cô rạng sáng. Anh dành lấy quả dưa chuột từ tay cô, cười lớn, và rót sữa vào đầy cốc. Anh ra lệnh:
- Cô uống thứ này trước, rồi cô có thể uống ít trà, rồi có thể ăn một cánh gà. Cô có thể ăn đồ chua ngày mai nếu cô thật khoẻ. Và bây giờ, nếu cô cho phép tôi là khách của cô, chúng ta sẽ cùng nhau ăn bữa tối.
Anh kéo một chiếc ghế khác. Cốc trà làm đôi mắt cô rạng rỡ hơn và mang lại ít hồng hào cho cô. Cô bắt đầu ăn ngấu nghiến như là một con thú rừng đã nhịn đói lâu ngày. Dường như cô xem sự hiện diện của người trai trẻ và việc anh giúp đỡ là điều tự nhiên. Không phải là cô xem nhẹ những quy ước; chỉ có điều là cơn ngặt nghèo đã cho phép cô bỏ qua mọi điều giả tạo cho con người. Nhưng dần dần, với sức lực được phục hồi, một ít quy ước cũng đến, và cô kể cho anh nghe hoàn cảnh của mình. Đấy là hoàn cảnh thường gặp như hàng nghìn trường hợp khác, thông thường đến nỗi thành phố phải ngáp dài khi chứng kiến – hoàn cảnh của một cô gái làm chân bán hàng nhận đồng lương tồi tệ, đồng lương càng bị hụt đi do những món tiền “phạt” để cửa hiệu có thêm lợi nhuận; hoàn cảnh của đau yếu khiến ngày công bị cắt; và hoàn cảnh của việc mất chỗ làm, mất đi niềm hy vọng, và rồi - tiếng gõ của nhà phiêu lưu trên cánh cửa màu lục.
Nhưng đối với Rudolf, câu chuyện nghe như là thiên anh hùng ca thần thoại Hy Lạp, hay như những nỗi đoạn trường. Anh than cho cô:
- Cứ nghĩ đến việc cô phải trải qua nhưng cảnh như vậy…
Cô đáp một cách nghiêm trọng:
- Có những việc khác còn dữ tợn hơn nữa.
- Và cô không có thân nhân hay bạn bè trong thành phố này sao?
- Không có ai cả.
Sau một chút ngập ngừng, Rudolf nói:
- Tôi cũng cô đơn trên thế gian này.
- Tôi lấy làm vui được nghe như vậy.
Cô nói tiếp ngay sau lời anh, và vô hình dung cô làm anh vui khi nghĩ rằng cô đã chấp nhận hoàn cảnh thương đau của anh.
Thình lình hai mí mắt cô sụp xuống và cô thở dài nặng nề:
- Tôi thấy buồn ngủ quá, mà lại cảm thấy dễ chịu lắm.
Rudolf đứng dậy, với lấy cái mũ.
- Thế thì tôi phải từ giã cô. Sau một giấc ngủ dài cô sẽ khoẻ ra.
Anh đưa tay ra, cô bắt tay anh và nói “xin chào anh”. Nhưng đôi mắt cô ánh một câu hỏi thật hùng hồn, thật thẳng thắn và thống thiết khiến anh phải đáp lại bằng lời nói.
- À, tôi sẽ trở lại ngày mai để xem tình trạng của cô ra sao. Cô không thể tống khứ tôi dễ dàng được đâu!
Và rồi, tại cánh cửa, như thể là cách anh đến với cô kém quan trọng hơn việc anh đã đến, cô hỏi:
- Tại sao anh gõ cửa phòng tôi?
Anh nhìn cô, nhớ đến mấy tấm thiệp, và bất chợt cảm thấy đau nhói vì ghen tức. Ngộ nhỡ các tấm thiệp ấy rơi vào tay những kẻ cũng có óc phiêu lưu như anh? Anh quyết định thật nhanh là không cho cô biết sự thật. Anh sẽ chẳng bao giờ cho cô biết là anh đã chủ động kiếm tìm do cơn hoạn nạn đã thúc đẩy cô. Anh nói:
- Một nhân viên điều chỉnh đàn dương cầm của công ty tôi ngụ trong toà nhà này. Tôi nhầm lẫn gõ cửa phòng cô.
Cái anh ta nhìn thấy cuối cùng sau cánh cửa màu xanh là đôi mắt của cô.
Đến đầu cầu thang anh dừng lại, đưa mắt tò mò nhìn quanh. Rồi anh đi dọc hành lang đến tận cùng, rồi anh đi trở lại, lên tầng lầu trên và tiếp tục xem xét trong nỗi hoang mang. Mọi cánh cửa anh thấy trong toà nhà đều sơn màu lục.
Anh vừa đi xuống cầu thang vừa phân vân. Anh chàng Châu Phi tuyệt diệu vẫn còn đứng đấy. Rudolf đối diện anh với tấm thiệp trên tay.
- Anh có thể cho tôi biết tại sao anh trao cho tôi hai tấm thiệp này và ý nghĩa là như thế nào?
Anh chàng da đen cười toe toét dễ dãi và tỏ lộ tài quảng cáo cho nghề nghiệp bậc thầy của anh ta. Anh chỉ tay về phía xa:
- Đằng kia kìa, sếp. Nhưng em e sếp đến quá muộn rồi.
Nhìn theo tay anh chỉ, Rudolf thấy trên cánh cửa vào một nhà hát cái biển đèn điện sáng choang cho một vở kịch mới, “Cánh Cửa Màu Lục”. Anh chàng da đen nói:
- Em nghe nói vở kịch này hay độc đáo. Nhân viên đoàn kịch thuê em một đô la để phân phát mấy tấm thiệp của họ cùng với thiệp của ông nha sĩ. Em có thể đưa cho sếp tấm thiệp nha sĩ được không?
Tại góc phố nơi Rudolf đang cư ngụ, anh dừng lại để uống một cốc bia và hút một điếu xì-gà. Khi anh bước ra với điếu xì-gà cháy trên môi, anh cài nút áo choàng lại, kéo cái mũ ngược về sau và nói một cách mạnh dạn vớI cột đèn ở góc phố:
- Bạn ạ, tôi tin rằng bàn tay của Định Mệnh đã chìa ra để dẫn tôi đến tìm nàng.
Trong những tình huống như thế này, đấy cũng là kết luận vững chắc chấp nhận Rudolf Steiner vào hàng ngũ những môn đồ đích thực của Lãng Mạn và Phiêu Lưu.
Chú thích:
(1): Tiếng Anh: “crusades”, những cuộc viễn chinh trong các thế kỷ 11-13 của các nước Ky Tô giáo Châu Âu để giành quyền kiểm soát thánh địa Jerusalem khỏi tay người Thổ Nhĩ Kỳ đạo Hồi.
(2): Thắng cảnh hùng vĩ, gồm những vách và cột đá dựng đứng xen kẽ những vực sâu dọc bờ sông Hudson, đông nam thành phố New York, được xếp hạng là Công viên Quốc gia.
 
Câu chuyện tỉnh lẻ


Lúc tôi xuống tàu ở thị trấn Nashville thuộc bang Tennessee thì trời đang mưa , một màn mưa màu xám kéo dài lê thê . Vì mệt nên tôi đi thẳng về khach sạn . Trong hành lang khách sạn , một người đàn ông to lớn nặng nề cứ đi đi lại lại . Có một cái gì đó trong cách đi của con người này làm tôi nghĩ đến con chó đói đang đánh hơi tìm khúc xương . Hắn có bộ mặt phì nộn , đỏ gay với cặp mắt thiếu ngủ . Hắn tự giới thiệu là Wendwood Caswell , thiếu tá Wendwood Caswell , xuất thân từ một gia đình danh giá ở miền Nam . Caswell kéo tôi vào phòng khách lớn của khách sạn , la lối gọi người bồi bàn . Hắn gọi rượu cho cả hắn và tôi . Vừa uống hắn vừa không ngớt lời giới thiệu về hắn , về gia đình hắn và về gia đình vợ . Hắn nói vợ hắn giàu lắm . Hắn thọc tay vào túi áo khoác lấy một nắm những đồng tiền ra khoe với tôi . Đến lúc ấy thì tôi đã chán hắn đến tận cổ . Tôi chào hắn rồi về phòng .
Từ cửa sổ khách sạn nhìn ra ngoài tôi thấy đường phố chìm trong im lặng , mặc dù lúc ấy mới là 10 giờ . " Thật là một nơi yên tĩnh " . Tôi tự nói với mình khi đã chuẩn bị lên gi.ường nằm . " Đúng là một thị trấn buồn tẻ tầm thường của miền Nam " .
Tôi cũng là người miền Nam nhưng bây giờ tôi ở miền Bắc , làm phóng viên cho một tạp chí lớn . Ông chủ bút phái tôi đi Nashiville vì tạp chí có nhận được mấy tập truyện và thơ của một tác giả ở Nashiville tên là Asilea Adea . Người biên tập rất thích những tác phẩm của bà nên người ta yêu cầu tôi ký với bà một hợp đồng , theo đó bà sẽ chỉ viết riêng cho tạp chí của chúng tôi thôi .
Sáng hôm sau đúng 9 giờ sáng , tôi ra khỏi khách sạn để đi tìm bà Adea . Lúc đó trời vẫn còn mưa . Tôi vừa bước chân ra ngoài thì đã gặp ngay bác đánh xe Seezer . Bác là một người đàn ông da đen dã có tuổi , thân hình to lớn , mái tóc màu xám kiểu cách . Bác Seezer khoác một chiếc áo kỳ quái , tôi chưa từng thấy bao giờ . Chiếc áo này rất dài , lúc còn mới hẳn phải là màu xám và trước đây chắc phải là áo của một viên sĩ quan . Bây giờ thì mưa , nắng và thời gian đã làm cho nó mang đủ các thứ màu vẫn thấy trên cầu vồng . Chiếc áo chỉ còn có mỗi một khuy . Cái khuy màu vàng và to vừa bằng đồng 50 xu . Bác Seezer đứng cạnh cỗ xe ngựa , bác mở cửa xe và nói rất nhã nhặn :
- Mời Ngài lên xe , tôi sẽ đưa Ngài đến bất cứ đâu trong thị trấn này .
- Tôi muốn đến nhà số 8 - 61 phố Hoa Nhài .
Tôi nói và định bước lên xe .
Người đánh xe giữ tôi lại :
- Sao Ngài lại đến chỗ ấy ?
- Đến chỗ ấy thì việc gì tới anh ?
Tôi bực mình nói .
Bác Seezer đấu dịu , mỉm cười :
- Thưa không . Nhưng chỗ ấy là một nơi hẻo lánh của thị trấn này . Tôi chỉ đưa Ngài đến đó rồi xin đi ngay thôi .
Số 8 - 61 phố Hoa Nhài đã từng là một ngôi nhà đẹp . Còn bây giờ thì nó trở thành cổ lỗ và đang chết dần chết mòn . Tôi xuống xe .
- Xin Ngài cho 2 đô la .
Bác Seezer nói .
Tôi trả bác hai tờ giấy bạc 1 đô la . Lúc đưa tiền cho bác , tôi để ý thấy một tờ bị rách ở giữa và được dán lại bằng miếng giấy màu xanh . Tờ bạc còn bị mất một góc ở phía trên , bên phải .
Asilea tự mở cửa cho tôi . Bà trạc 50 tuổi . Mái tóc trắng chải ngược ra phía sau làm nổi rõ khuôn mặt nhẹ nhàng nhưng mệt mỏi . Bà mặc một bộ đồ màu vàng nhạt . Bộ đồ đã cú nhưng rất sạch . Asilea dẫn tôi vào phòng khách . ở giữa phòng kê một chiếc bàn đã mọt , ba cái ghế tựa và một chiếc tủ sôpha cũ màu đỏ . Bà mời tôi ngồi vào bàn và chúng tôi bắt đầu câu chuyện . Tôi nói với bà về đề nghị của tạp chí , còn bà tự giới thiệu mình . Bà xuất thân từ một gia đình danh giá ở miền Nam , cha bà làm nghề hội thẩm . Asilea Adea kể với tôi rằng bà chưa bao giờ cắp sách đến trường . Các cụ thân sinh đã thuê thầy tư về dạy cho bà học tại nhà .
Kết thúc câu chuyện , tôi hẹn hôm sau sẽ mang hợp đồng đến ký rồi đứng dậy cáo từ . Đúng lúc ấy có tiéng gõ nhẹ vào cánh cửa phía sau . A silea Adea khẽ xin lỗi rồi đi vào mở cửa . Chỉ một lát sau bà đã quay ra . Trông bà trẻ lại tới 10 tuổi , đôi mắt long lanh , hai gò má ửng hồng .
- Anh phải uống với tôi một chén trà rồi hãy đi .
Bà nói rồi cầm chiếc chuông nhỏ để trên bàn khẽ lắc . Một bé gái da đen chừng 12 tuổi chạy ra . Asilea Adea mở chiếc vĩ nhỏ và cũ lấy ra một tờ giấy bạc 1 đô la . Tờ giấy bạc được dán lại bằng một miếng giấy xanh và bị mất góc trên bên phải . Đó chính là tờ giấy bạc tôi đã trả cho bác Seezer .
- Intes , sang cửa hàng ông Baker mua cho bác 25 xu chè và 10 xu đường , nhanh lên nhé .
Đứa bé gái chạy ra khỏi phòng theo lối cửa sau . Chúng tôi nghe thấy tiếng cánh cửa khép lại . Tiếp theo đó là tiếng kêu của đứa bé . Tiếng nói của nó chìm trong sự giận dữ của một người đàn ông . Asilea đứng dậy . Bà đi ra ngoài , mặt không hề đổi sắc . Tôi nghe thấy tiếng đàn ông cục cằn lẫn với tiếng nói nhỏ nhẹ của bà . Rồi tiếng cánh cửa đạp mạnh và bà quay trở lại :
- Xin anh thứ lỗi , cuối cùng thì ngay cả đến chén trà tôi cũng không mời anh được . Bà nói . Hình như ông Baker cũng hết chè bán rồi . Chắc nó sẽ mua được chè cho cuộc gặp ngày mai .
Chúng tôi chào nhau rồi tôi quay vê khách sạn .
Trước bữa ăn cơm chiều , thiếu tá Wendwood Caswell tìm tôi . Tôi không làm sao tránh được hắn . Hắn cứ nài tôi uống rượu bằng được . Hắn móc ở trong túi ra hai tờ giấy bạc 1 đô la . Lại một lần nữa tôi nhìn thấy tờ giấy bạc 1 đô la rách được dán một miếng giấy màu xanh và bị mất một góc . Đó cũng chính là tờ giấy bạc tôi đã trả cho bác Seezer . Thằng cha này lạ thật ! Tôi cứ phân vân mãi không hiểu bằng cách nào mà Caswell lại có được tờ giấy bạc này .
Sáng hôm sau , bác Seezer đợi sẵn tôi ở bên ngoài khách sạn . Bác đưa tôi đến nhà bà Adea và đống ý chờ cho đến khi chúng tôi làm việc xong . Bà Adea trông không được khỏe . Tôi giải thích cho bà nghe về bản hợp đồng rồi bà ký ngay . Lúc định đứng dậy , nét mặt bà bỗng biến sắc , bả xỉu đi rồi ngã vật xuống sàn nhà . Tôi vội đỡ bà dậy rồi dìu bà lên nằm trên chiếc ghế sôpha cũ màu đỏ . Tôi chạy ra cổng gọi bác Seezer vào giúp . Bác chạy vội xuống phố và 5 phút sau quay lại cùng với bác sỹ . Ông bác sỹ khám cho bà Adea rồi quay sang nói với bác đánh xe người da đen .
- Bác Seezer , ông nói , bác chạy sang bảo nhà tôi đưa cho một ít sữa và mấy quả trứng nhanh lên .
Rồi ông quay sang tôi :
- Bà ấy thiếu ăn , ông nói , bà ấy còn nhiều bạn bè và họ đều muốn giúp đỡ bà ấy . Nhưng bà Caswell rất giữ ý và chỉ chịu nhờ vả có mỗi mình ông già da đen đó thôi . Ông ấy từng là nô lệ của gia đình bà .
- Bà Caswell ? Tôi nói giọng đầy ngạc nhiên . Tôi tưởng bà ấy là Asilea Adea chứ ?
- Trước khi lấy Wendwood Caswell , ông bác sỹ nói . Cách đây 20 năm bà ấy đã từng là Asilea Adea . Chồng bà ây là một con sâu rượu hoàn toàn vô dụng . Lão ta cướp của vợ đến đồng xu mà bác Seezer san sẻ cho bà .
Lúc ông bác sỹ đi rồi , tôi lại nghe thấy tiếng của bác Seezer ở phòng bên cạnh :
- Hắn lại cướp tất cả số tiền hôm qua con đưa cho bà rồi à ?
- ừ , tôi nghe thấy tiếng của A silea trả lời rất khẽ , lão lấy cả hai tờ .
Tôi liền đi vào đưa cho Asilea Adea 50 đô la . Tôi nói đó là tiền của tạp chí gửi . Rồi bác Seezer đưa tôi trở lại khách sạn .
Khoảng vài giờ đồng hồ sau , trước bữa cơm chiều , tôi ra ngoài đi tản bộ một lúc . Đến trước một cửa hàng , tôi thấy có đám đông đang bàn tán chuyện gì đó rất ồn ào . Tôi bèn rẽ vào cửa hàng . Thiếu tá Caswell đang nằm sóng sượt trên sàn . Hắn đã chết . Người ta tìm thấy hắn nằm bất tỉnh ở ngoài phố . Hắn bị giết trong một cuộc ẩu đả . Đúng là tay hắn vẫn còn nắm rất chặt . Khi tôi bước lại gần cái xác thì bàn tay phải của Caswell bỗng duỗi ra . Có cái gì đó rơi xuống và lăn đến cạnh chân tôi. Tôi giẫm một bàn chân lên. Sau đó , tôi cúi xuống nhặt cái vật ấy bỏ vào túi áo.
Người ta nói một tên ăn cắp đã giết Caswell. Họ bảo Caswell khoe với mọi người là hắn có 50 đô la. Nhưng khi tìm thấy cái xác thì trên người hắn chẳng còn xu nào.
Sáng hôm sau, tôi rời Nashville. Lúc tàu chạy ngang qua sông , tôi lấy trong túi áo ra cái vật hôm qua rơi khỏi bàn tay đã chết của Caswell. Tôi ném nó xuống dòng sông đang chảy lững lờ phía dưới . Đó là một chiếc khuy áo. Chiếc khuy màu vàng. Chiếc khuy cuối cùng trên áo khoác của bác Seezer.
 
Cây xương rồng


Điều quý nhất của thời gian là nó chỉ thuần tương đối. Theo sự nhất trí chung, phần lớn những hồi tưởng được dành cho người đang bị thì thụp rơi xuống nước và ta không nói quá là con người có thể duyệt lại toàn bộ cuộc tình chỉ trong thời gian ngắn ngủi khi họ cởi đôi găng tay.
Đấy là việc Trysdale đang làm, khi anh đứng bên chiếc bàn trong căn phòng độc thân anh thuê. Trên mặt bàn là một cây xanh trồng trong một cái lọ bằng đất nung đỏ. Cây này là một loài xương rồng, với những chiếc lá dài thõng, liên tục đong đưa theo ngọn gió nhẹ nhất trong cử chỉ lạ lùng dường như ra dấu hiệu gì đấy.
Anh bạn của Trysdale, anh trai của cô dâu, đứng kế bên cái tủ bát đĩa, đang phàn nàn vì phải uống rượu một mình. Cả hai đang mặc bộ quần áo dự lễ.
Trong khi Trysdale đang chậm rãi cởi những cúc găng tay, đầu óc anh nhanh chóng và đau xót hồi tưởng lại những giờ vừa trôi qua. Dường như khứu giác của anh vẫn còn đượm mùi hương từ những lẵng hoa xếp dầy đặc trong nhà thờ và trong tai anh vẫn còn vang tiếng rầm rì của hàng nghìn giọng hát, tiếng xào xạc của trang phục giòn cứng và dai dẳng một cách cố chấp nhất, những lời ê a của vị mục sư đang buộc đời cô vào người khác mà không ai gỡ ra được.
Như thể do thói quen của đầu óc anh ta, từ khía nhìn chung cục vô vọng này, anh vẫn cố gắng hết mức để đi đến lời lý giải tại sao và làm thế nào anh đã mất cô. Bị một thực tế không thể dung hoà giáng cho anh một cú thô bạo, anh bất ngờ thấy mình đối diện với cái mà từ xưa đến giờ anh chưa bao giờ giáp mặt - cái bản ngã sâu thẳm, nguyên sơ và giản đơn của anh. Anh đã thấy mọi lớp nhung y của trò giả vờ và kiêu kỳ mà anh đã mặc giờ biến thành giẻ rách của tính ngông cuồng. Anh rùng mình với ý nghĩ rằng, từ trước đến giờ, trong con mắt của thiên hạ, trang phục của anh hẳn có vẻ nghèo nàn và tả tơi. Tính phù phiếm và tật hay dối gạt! Đây là những điểm yếu của anh. Và riêng cô thì không bao giờ như thế! Nhưng tại sao…
Khi cô đi chậm rãi giữa hai hàng ghế dẫn đến bục làm lễ, anh cảm thấy một nỗi đắc thắng thấp hèn, chán ngán vốn vẫn thường nâng đỡ anh. Anh đã tự nhủ là vẻ nhợt nhạt của cô là do ý nghĩ cô dành cho một người nào khác chứ không phải cho người cô sẽ trao cuộc đời. Nhưng ngay điều an ủi tệ hại này cũng không giữ được lâu. Vì lẽ, khi anh thấy cô thoáng ngước lên nhìn, một tia nhìn trong sáng cô dành cho người đoạt được cô, tự anh biết rằng anh đã bị quên lãng. Có một lần, cô đã gửi lên anh cùng tia nhìn này. Thực ra, sự lừa dối của anh đã vỡ vụn, mọi chống đỡ đều không còn. Thế thì tại sao cuộc tình lại chấm dứt? Không có bất hoà giữa hai người, không có gì cả.
Cả nghìn lần anh đã duyệt lại trong tâm trí anh sự việc xảy ra trong những ngày cuối cùng trước khi mọi chuyện đều bị đảo lộn.
Cô luôn khăng khăng muốn tung anh lên mây xanh và anh đã chấp nhận việc này với vẻ huy hoàng. Hương hoa cô dâng lên thật ngọt ngào, thật khiêm tốn (anh tự nhủ như thế), đầy tính trẻ con và đầy vẻ tôn thờ và (có lần anh đoán chắc như thế) thật thành khẩn. Cô đã gán ghép cho anh, đến mức gần như siêu nhiên, mọi đức tính và mọi xuất chúng và mọi tài năng, rồi anh đã hấp thụ việc hiến dâng như thể cây cối sa mạc thu lấy những giọt mưa mà không chắc sẽ nở hoa hay kết trái.
Trysdale hồi tưởng lại rõ ràng một kỷ niệm đỉnh cao về tính tự kiêu của anh - đầy ngu xuẩn nhưng hối tiếc thì đã muộn.
Đấy là vào một buổi tối khi anh mời cô lên mây xanh và chia sẻ sự vĩ đại của mình. Giờ thì anh quá đau đớn nên không muốn nhớ lại nhiều về vẻ đẹp đầy thuyết phục của cô tối hôm ấy - mái tóc lượn sóng buông thả, mãnh lực lôi cuốn dịu dàng và trinh nguyên của những tia nhìn và lời nói của cô. Trong khi chuyện trò với nhau, cô nói:
- Và Thuyền trưởng Carruthers đã cho em biết là anh nói tiếng Tây Ban Nha như người bản xứ. Tại sao anh giấu em một tài năng như thế? Có việc gì mà anh không biết không?
- Thực ra, Carruthers là một anh dốt. Chắc chắn là anh (Trysdale) đã mang tội (đôi lúc anh như thế) thốt lên trong câu lạc bộ của anh một câu châm ngôn nào đấy bằng tiếng Tây Ban Nha mà anh đã moi ra từ mấy thứ hổ lốn trên bìa sau các quyển từ điển. Carruthers, vốn là một trong những người ngưỡng mộ anh hết mình, chính là người đã phóng đại việc phô trương cho một óc thông thái đáng nghi ngờ.
Nhưng hỡi ôi! Hương hoa từ lòng ngưỡng mộ của cô đã trở nên quá ngọt và quá bốc! Anh để cho lời gán ghép lan truyền ra mà không đính chính. Không phản đối gì cả, anh đã cho phép cô choàng quanh vầng trán anh cái vòng miện giả hiệu về nền uyên bác Tây Ban Nha. Anh đã để cái vòng miện xoắn xít mềm dịu tô điểm cho cái đầu thích chinh phục của anh, mà không cảm thấy có những gai nhọn đang châm chích và sau này sẽ xuyên thủng cả anh.
Cô thật là vui tươi, thẹn thùng và dè dặt làm sao ấy! Cô đã vùng vẫy như con chim bị đánh bẫy khi anh đã đem mọi thứ trọng đại của anh ra đặt dưới chân cô! Anh đã có thể đoán chắc, và giờ anh vẫn đoán chắc mà không nhầm lẫn, là cô đã chấp nhận anh. Chỉ có điều cô không thể trả lời trực tiếp cho anh, vì cô còn e thẹn. Cô bảo: “Ngày mai em sẽ gửi anh câu trả lời” và anh, kẻ chiến thắng buông thả tự tin, đã mỉm cười ban cho cô quyền được trễ hạn.
Ngày kế, anh nóng nảy trông chờ câu trả lời của cô. Đến trưa, anh nài ngựa của cô đến gõ cửa phòng anh, rồi để lại cây xương rồng lạ lùng trong cái bình đất nung đỏ. Không hề có tờ thư hay lời hay lời nhắn, chỉ có chiếc thẻ cột vào cây xương rồng mang một danh từ ngoại ngữ man di hoặc là một tên thực vật. Anh đã chờ cho đến tối, nhưng vẫn không nhận được câu trả lời của cô. Tự ái to phồng và tính phù phiếm bị thương tổn khiến anh không muốn đến tìm cô. Hai ngày sau, họ gặp lại nhau trong một bữa ăn tối. Họ chào hỏi nhau theo cách bình thường, nhưng cô nhìn anh, ngừng thở, băn khoăn, giận dữ. Anh lịch sự khăng khăng chờ nghe cô giải thích. Với tính nhạy cảm của phụ nữ, cô đoán ra ý anh, rồi trở nên lạnh lùng như băng tuyết. Từ ngày ấy, họ rời xa nhau dần. Anh đã có lỗi chỗ nào? Lỗi thuộc về ai? Giờ trở nên khiêm tốn, anh tìm kiếm câu trả lời giữa những hoang tàn của việc tự thổi phồng.
Tiếng nói của người thanh niên kia tọc mạch chen vào luồng hồi tưởng:
- Này, Trysdale, có chuyện gì vậy? Cậu có vẻ đau khổ cứ như chính cậu là chú rể thay vì chỉ đóng vai phù rể! Nhìn tớ đây này, một món phụ tùng khác, đã đi hai nghìn dặm suốt từ Nam Mỹ trên một chiếc tàu đầy tỏi và gián để nhắm mắt làm ngơ sự hy sinh - hãy nhìn xem tội lỗi tớ chất nhẹ như thế nào trên hai vai! Tớ chỉ có một đứa em gái và giờ nó đã đi. Này, uống tí gì đi để xoa dịu lương tâm của cậu.
- Tớ không muốn uống gì trong lúc này, cảm ơn.
Anh bạn đi đến gần anh, tiếp tục:
- Rượu cô-nhắc của cậu tồi quá. Ngày nào đấy chạy xuống Punta Redonda để gặp tớ và thử mấy thứ ông già Garcia mang lậu vào. Chuyến đi đáng công lắm. A này! Gặp lại cố nhân ở đây! Cậu đào đâu ra cây xương rồng này thế, Trysdale?
- Món quà từ một người bạn. Có biết loài cây này không?
- Biết rõ lắm chứ! Nó thuộc miền nhiệt đới. Có hàng trăm cây mọc quanh Punta. Tên nó ghi trên cái thẻ đây này. Có biết một chữ Tây Ban Nha nào không, Trysdale?
Trysdale đáp, với bóng ma cay đắng của một nụ cười:
- Không. Đấy là tên Tây Ban Nha à?
- Đúng thế. Dân bản xứ mường tưởng là những chiếc lá của nó vươn dài để ra hiệu cho ta. Họ gọi nó bởi tên này - Ventomarme. Tên có nghĩa là "Hãy đến mang tôi đi".
 
Chuyện một tờ báo


8 giờ sáng, nó còn chưa ráo mực in đã nằm trên quầy bán báo của Giuxeppi. Với tính ranh ma của hạng người như hắn, Giuxeppi đi tán gái ở góc phố đối diện để mặc khách tự lấy báo, chắc hẳn là hắn dựa vào cái thuyết có liên quan tới giả định về cái nồi được chú ý quá nhiều.(1)
Theo tục lệ và ý đồ của nó, tờ báo đặc biệt này vừa là một nhà giáo dục, một người hướng dẫn, một người khuyên răn, lại là một chiến sĩ, một cố vấn đại gia và một vade mecum(2).
Trong nhiều cái đặc sắc của nó có thể chọn ra ba vài xã thuyết. Một bài, lời lẽ giản dị mộc mạc nhưng ngời sáng, nhằm vào các bậc cha mẹ và những nhà giáo, chê trách việc đánh đập để trừng phạt trẻ con.
Bài thứ hai là một bài cảnh cáo có tính chất lên án, nhiều ý nghĩa gửi cho một tay thủ lĩnh nghiệp đoàn nổi tiếng đang sắp sửa xúi giục những người theo mình gây ra một cuộc bãi công rắc rối.
Bài thứ ba là một lời kêu gọi hùng hồn đòi phải ủng hộ và giúp đỡ lực lượng cảnh sát về mọi mặt ngõ hầu tăng cường lực lượng của nó với tính cách là những người bảo vệ và phục vụ công chúng.
Ngoài những bài trách cứ và yêu sách quan trọng này đối với cái kho tinh thần công dân tốt, còn có một phương thuốc nhiệm màu hoặc một thứ biện pháp khôn ngoan của biên tập viên phụ trách mục “tâm tình” trình bày về một trường hợp đặc biệt về một thanh niên phàn nàn về lòng sắt đá không chuyên của một cô gái mà anh ta yêu, dạy anh ta làm cách nào để chinh phục được cô gái.
Trên trang sắc đẹp, lại có lời giải đáp đầy đủ cho một thiếu nữ muốn được khuyên nhủ để có được mắt sáng, má hồng và vẻ mặt xinh đẹp.
Một tin khác đòi hỏi phải có một sự hiểu biết đặc biệt, là một “việc riêng” vắn tắt, được viết như sau:
“Giắc thân yêu, tha lỗi cho em. Hẹn anh đúng 8h 30 sáng nay gặp em ở góc phố Mêđixơn và phố thứ…Ta ra đi vào đúng ngọ.
Người hối lỗi”
Lúc 8h, một thanh niên nét mặt phờ phạc, mắt hừng hực như sốt vì lo lắng, đi ngang qua quầy bán báo của Giuxeppi quẳng 1 xu nhặt lấy tờ báo trên cùng. Một đêm không ngủ đã khiến anh trở thành kẻ dậy muộn. 9h đã phải đến sở làm việc mà trong khoảng thời gian từ giờ đến đó còn phải cạo râu, còn phải uống chớp nhoáng một tách cà phê nữa.
Anh ghé vào hiệu cắt tóc rồi lại hấp tấp ra đi. Anh đút tờ báo vào túi, thầm nghĩ đến giờ ăn trưa sẽ đọc. Tới góc phố gần đó, tờ báo rơi khỏi túi anh, lôi theo cả đống găng tay mới. Đi được ba dãy nhà, không thấy đôi găng đâu anh bực tức lộn trở lại.
Đúng tám rưỡi, anh tới góc phố chỗ đôi găng và tờ báo nằm lăn lóc trên mặt đất. Nhưng thật lạ lùng, anh bỗng quên phắt đi cái mà anh trở lại tìm kiếm. Anh đang nắm lấy hai bàn tay nhỏ nhắn, chưa bao giờ anh nắm chặt đến thế và nhìn vào đôi mắt hối hận màu nâu, niềm vui sướng rộn lên trong lòng anh.
-Giắc thân yêu – cô gái nói – em biết là anh sẽ đến đây đúng giờ mà.
“Chẳng hiểu cô ấy định nói gì – anh thầm nghĩ – nhưng không sao, không sao hết”
Một cơn gió mạnh từ phía tây xô tới, hất tờ báo khỏi vỉa hè, mở tung nó ra và bốc nó lên bay lộn trên không sang phố bên. Ngược đường phố ấy, anh thanh niên đã viết thư cho biên tập viên của mục “tâm tình” hỏi xin một công thức để chinh phục cô gái mà anh mê say đang dong cương một con ngựa hồng bất kham, kéo một chiếc xe độc mã hai bánh.
Cơn gió đùa nhả bùng lên ập tờ báo đang bay vào mặt chú ngựa hồng bất kham. Con ngựa lồng lên biến thành một vệt màu hồng pha lẫn màu đỏ của bánh xe đang quay tít, kéo dài qua bốn dãy nhà. Rồi cái vòi nước máy đóng vai trò của nó trong công cuộc sáng thê và chiếc xe độc mã biến thành dóm diêm như thể đã được an bài từ trước, còn anh chàng xà ích thì nằm chết lặng trên đường nhựa trước một toà nhà giàu có nào đó
Người ta vội chạy ra khiêng anh ta ngày lập tức vào trong nhà. Một người phụ nữ tự làm gối cho anh ta kê đầu và bất chấp những ánh mắt tò mò, cô ta cúi xuống nói: “Ôi, đúng là anh rồi Bôby; bao giờ cũng chỉ có anh thôi. Anh không thấy thế sao? Nếu em có mệnh hệ nào thì em không sống được và…”
Nhưng đang cơn gió to thế này, chúng ta phải mau mau theo sát tờ báo của chúng ta.
Viên cảnh sát Ô Brai bắt lấy tờ báo như là một nhân vật nguy hiểm cho giao thông. Những ngón tay chuối mắn của hắn chậm chạp vuốt thẳng lại những tờ báo tơi tả. Hắn đang đứng cách cổng sau của quán ăn Xenđơn Ben vài bước. Hắn khó nhọc đánh vần đề bài báo “Báo chí đứng hàng đầu trong cuộc vận động ủng hộ cảnh sát”.
Nhưng, suỵt! Tiếng tên phụ trách quầy rượi Đany lọt qua khe cửa: “Này Maikơ, một cốc nhỏ phần ông bạn già đây.”
Sau những cột báo thân tình mở rộng, viên cảnh sát Ô Brai nhanh nhẹn nhận lấy cốc rượi “thứ thiệt”. Rồi hắn hùng dũng, tỉnh táo và khoẻ khoắn bước đi làm nhiệm vụ. Ước gì ông chủ bút có thể tự hào nhìn thấy cái kết quả tinh thần, cái kết quả theo đúng nghĩa của chữ đã ban phước cho công sức của ông ta.
Viên cảnh sát Ô Brai gấp tờ báo lại, vui vẻ giúi nó vào nách một chú bé đi ngang qua. Chú bé tên là Giôny và chú mang tờ báo về nhà. Chị chú bé là Glađi, chính cô ta viết thư cho biên tập viên trang “sắc đẹp” để hỏi về phương thuốc nhiệm màu để có thể thực hiện được về sắc đẹp. ch.uyện ấy đã từ mấy tuần trước rồi và cô đã thôi không tìm câu trả lời nữa. Cô đang mặc áo để đi lên phố để mua ít dải viền. Bên trong váy cô đính hai mảnh giấy báo của Giôny mang về. Khi cô đi tiếng sột soạt nghe y như tiếng sột soạt của đồ thật.
Ra đến ngoài phố cô gặp nhà Brao ở tầng dưới và dừng lại nói chuyện. Cô gái nhà Brao tái mặt. Chỉ có thứ lụa năm đô một thước mới tạo được thứ âm thanh cô ta nghe thấy khi Glađi cất bước. Cô gái nhà Brao héo hon cả người vì ghen tị, nói vài tiếng hằn học rồi bỏ đi, môi mím chặt.
Glađi tiếp tục đi về phía đại lộ. Giờ đây, mắt cô ta sáng long lanh như nước nguồn. Sắc hồng tươi phớt trên đôi má cô, một nụ cười thoả mãn, tế nhị và đầy sinh khí biến đổi bộ mặt của cô. Cô đẹp hẳn lên. Giá mà khi ấy bà biên tập viên trang sắc đẹp nhìn thấy cô lúc ấy. Hình như lời giải đáp của bà ta trên báo có nói đến việc trau dồi tình cảm đối với mọi người để làm cho nét mặt thô xấu trở thành hấp dẫn.
Tay cầm đầu nghiệp đoàn – mà lời huấn thị trịnh trọng và đanh thép của bài xã thuyết trên báo nhằm vào là bố của Glađi và Giôny. Ông ta nhặt những mảnh báo còn lại của tờ báo mà Glađi đã tước mất để làm ra cái thứ thuốc để làm ra tiếng sột soạt của lụa. Mắt ông ta không trông thấy bài xã thuyết mà lại bắt gặp một trò đố khéo léo, có bề ngoài lừa dối vẫn thường làm say mê cả kẻ ngây ngô lẫn người khôn ngoan.
Ông vội xé lấy nửa trang báo, chiếm lấy cái bàn, cây bút chì và tờ giấy rồi miệt mài với trò chơi ấy.
Ba giờ sau, sau khi đợi ông ta uổng công tại một điểm đã định, các thủ lĩnh khác, bảo thủ hơn tuyên bố và quyết định tán thành hoà giải, như thế là tránh được cuộc đình công với những hậu quả nguy hiểm của nó. Những số báo sau đó, với giọng của kèn đồng đã nhắc đến bằng chữ in màu, tố cáo thắng lợi của tờ báo đối với những mưu đồ đã dự tính của tay cầm đầu nghiệp đoàn.
Những mảnh còn lại của tờ báo thiết thực cũng kiên trì chứng tỏ hiệu lực của nó.
Khi Giôny đi học về, chú đã tìm một chỗ khuất để bỏ những cột báo đã xé rời ra khỏi bên trong quần áo, nơi chúng được phân bố khéo léo để bảo vệ một cách có kết quả những khu vực thường bị trừng phạt ở nhà trường tiến công vào. Giôny học ở trường tư và đã có chuyện lôi thôi với thầy giáo, như đã nói, trong số báo sáng hôm đó, có một bài xã thuyết xuất sắc chống lại việc đánh đập để trừng phạt và không còn nghi ngờ gì nữa, nó đã phát huy tác dụng.
Sau chuyện này, còn ai dám hoài nghi sức mạnh của báo chí?
Chú thích:
(1) Theo ngạn ngữ,” watched pot never boils” (theo nghĩa đen: để ý đến nồi thì nồi không sôi) có nghĩa là càng mong thì càng lâu đến.
(2) Sổ tay, sách tóm tắt vật luôn mang theo mình (tiếng latinh)
 
Con người hai mặt


Anh cảnh sát đang đứng tại ngã tư giữa Đường Số 24 và một con hẻm tối tăm,nơi tầu điện vượt trên đường ô tô.Đã là hai giờ sáng,thời khoảng của màn đen lạnh lẽo,lâm râm,không ai giao du với ai,kéo dài cho đến sáng.


Một người đàn ông,trong áo choàng dài,với chiếc mũ kéo sụp về đằng trước,mang vật gì đấy trong tay ,đi nhẹ nhàng nhưng nhanh nhẹn ra khỏi con hẻm.Anh cảnh sát bước đến ông với sự nghiêm túc,cùng vẻ tự tin của một quyền hạn có ý thức. Với giờ giấc này,con hẻm nổi tiếng với những chuyện khả nghi,dáng điệu hấp tấp của người bộ hành,cái món gì đấy ông đang mang-tất cả dễ gộp thành “những tình huống khả nghi” cần được công quyền làm sáng tỏ.

“Nghi can” dừng lại,kéo chiếc mũ về phía sau,để lộ ra trong ánh đèn điện nhấp nháy một gương mặt không cảm giác,trơn tru với một sống mũi khá dài và đôi mắt đen,đăm đăm.Ông thọc một tay mang găng vào áo choàng,rút ra một tấm danh thiếp trao cho anh cảnh sát.Anh đưa lên ánh đèn,đọc cái tên “Charles Spencer James,Bác sĩ Y khoa”.Địa chỉ thuộc về một khu đáng kính như thế trấn áp ngay cả tính tò mò. Anh cảnh sát liếc xuống vật người đàn ông mang trên tay – một chiếc hộp y khoa sang trọng bằng da,mầu đen,với đường viền bạc – và thấy nó phù hợp với nghề nghiệp ghi trên tấm thiệp. Anh cảnh sát bước qua một bên, với giọng thân mật bệ vệ:
-Được rồi, bác sỹ ạ. Tôi được lệnh phải cẩn thận hơn. Gần đầy có nhiều vụ trộm cướp. Khổ với đêm thế này khi ra đường. Không lạnh lắm, nhưng…ẩm ướt.
Khẽ gật đầu trang trọng và sau vài lời đồng ý với anh cảnh sát về thời tiết, bác sỹ James tiếp tục bước đi. Ba lần trong đêm ấy, cảnh sát tuần tra đã chấp nhận tấm danh thiếp và chiếc hộp y khoa như là bằng chứng cho con người và mục đích lương thiện. Nếu ngày hôm sau có anh cảnh sát nào muốn kiểm tra thêm – miễn là anh đừng đến sớm quá, vì bác sỹ James dậy muốn – anh sẽ thấy cũng tấm danh thiếp ấy được gắn trên một khung cửa sang trọng; cũng vị bác sỹ này, điềm đạm, ăn mặc chỉnh tề, trong phòng mạch trang bị đầy đủ; và sẽ nghe lời xác minh của những người xung quanh về một công dân lương thiện, một người gắn bó với gia đình, một sự thành công trong nghề nghiệp trong hai năm ông sống ở đấy.

Vì thế, nếu có một nhà bảo vệ sự an bình vì quá năng nổ muốn xem xét bên trong chiếc hộp y khoa này, anh sẽ vô cùng ngạc nhiên. Vì món đầu tiên mà anh thấy là một bộ đồ lề tinh xảo của một “anh chích”. Thêm những món này nọ được thiết kế và chế tạo đặc biệt – các chìa khóa, mũi khoan và dùi đục bằng thép tôi cứng nhất – đủ sức ăn sâu vào thép như con chuột gặm mẩu pho mát, và mấy cái kẹp có thể kéo cánh cửa một két sắt ra nhẹ nhàng như nha sỹ nhổ một cái răng. Trong một cái túi ở mặt trong chiếc hộp là một ống hóa chất nitroglycerine, chỉ còn phân nửa. Dưới bộ đồ lề là dăm tờ giấy bạc nhàu nát và vài đồng tiền vàng, tất cả gồm tám trăm ba mươi đô la.

Trong nhóm rất nhỏ bạn bè, bác sỹ James còn được biết đến với danh hiệu “The Swell Greek” – Người Hy Lạp xuất sắc. Phân nửa cái tên kỳ bí này là do phong thái trầm tĩnh và thượng lưu của ông, phân nửa kia chỉ một nhà lãnh đạo, nhà quy hoạch,người mà nhờ vào vị thế và địa chỉ uy tín, nắm đầy đủ thông tin theo đấy có thể định những kế hoạch và chuyến làm ăn táo bạo. Trong băng đảng nhỏ này, có hai thành viên khác là Skitsie Morgan và Gum Decker, đều là hai “anh chích” lành nghề, có thêm Leopold Pretzfelder, buôn bán nữ trang ở trung tâm thành phố, người giúp tiêu thụ “hang” do bộ ba thu được. Tất cả đều là bạn tốt và trung tín với nhau, không hề ba hoa, luôn luôn kiên định.

Chuyến làm ăn đêm ấy xem như không đáng công khó nhọc của băng đảng. Một cái két sắt kiểu cũ hai ngăn với khóa bên hông, ,trong một văn phòng tồi tàn của một công ty buôn bán quần áo rất giàu,đáng lẽ phải cung ứng nhiều hơn hai gnhien năm trăm đô la trong đêm thứ bảy này.Nhưng bọn ba người chỉ được có thế,và theo thói quen,họ chia đồng đều tại chỗ.Họ hi vọng có có được mười đến mười hai nghìn đô.Nhưng một trong những người chủ dã quá cổ hủ:ngay khi chiều xuống ông dã mang về nhà phần lớn số tiền trong hộp đựng áo sơ mi.
Bác sĩ James đi ngược lên Đường Số 24 lúc ấy đang vắng người. Ngay cả dân đi xem hát,vốn thường xem quân này như nơi trú ngụ, đã đi ngủ thừ lâu. Cơn mưa phùn đã tích tụ tên mặt đường; từng vũng nước đọng giữa các hòn đá nhận ánh đèn và phản chiếu lại,vỡ vụn thành hang trăm nghìn mảnh lỏng bỏng. Một ngọn gió ẩm ướt và giá lạnh hắt ra từ giữa các ngôi nhà.
Khi vị bác sĩ đều nhịp bước quanh góc một ngôi nhà gạch cao,cánh cửa trước mở toang,và một bà người da đen chạy rầm rập theo những bậc thang xuống đường.Bà lẩm bẩm những tiêng rối rít như không tự nói với mịnh,thói quen của dân da đen khi có một mình và đối đầu với quỷ dữ.Bà trông giống như lớp gia nhân người miền Nam – lắm lời, quen thuộc,trung thành cứng cỏi;vóc dáng bà biểu hiện điều đấy – to béo, tề chỉnh, mang tạp dề, mang khăn tay. Chạy nhanh ra khỏi ngôi nhà im lìm, bà xuống đến bậc thang cuối cùng vừa lúc bác sĩ James đi đến.Đầu óc của bà chuyển mọi năng lượng từ âm thanh qua hình ảnh, bà im bặt, dán tay lên chiếc hộp của ông bác sĩ:
-May phước quá! Ông có phải là bác sĩ không ạ?
Bác sĩ James dừng chân:
-Vâng, tôi là bác sĩ y khoa.
-Vậy mời ông bác sĩ làm ơn vô thăm bệnh cho ông Chandler. Ổng bị lên cơn đau tim hay là cái gì đó. Ổng nằm như chết. Cô Amy biểu tui đi tìm bác sĩ. Có Trời biết già Cindy này tìm ở đâu, nếu không có ông bác sĩ đi qua đây. Cô Amy, thiệt là tội nghiệp…
Bác sĩ James đặt chân lên bậc thềm:
-Dẫn đường cho tôi nếu muốn tôi làm nhiệm vụ bác sĩ.
Bà da đen dẫn ông vào ngôi nhà, lên một tầng cầu thang lầu trải thảm dầy. Lên hết tầng thứ hai, người dẫn đường hào hển đi đến một cánh cửa và mở ra.
-Cô Amy, tôi mời bác sĩ tới nè.
Bác sĩ James đi vào phòng, khẽ cúi chào người phụ nữ đứng bên cạnh gi.ường. Ông đặt chiếc hộp y khoa trên một chiếc ghế, cởi áo choàng ra, ,ném nó phủ lên chiếc hộp và thành ghế, rồi tiến đến thành gi.ường với vẻ tự tin trầm tĩnh. Một người đàn ông đang nằm gần đấy, song soài sau khi ngã xuống – một người đàn ông mặc bộ quần áo giàu có theo thời trang bấy giờ, chỉ có đôi giày là được cởi ra, nằm im lìm như chết. Bác sĩ James toát ra một sức mạnh trầm lặng.Nhất là phụ nữ, luôn bị phong thái trong phòng mạch của ông hấp dẫn. Đấy không phải la thái độ mềm mỏng cua một pháp sư thời thượng,nhưng là phong thái từ tốn, chắc nịch, cung cách của năng lực đối đầu với số phận.Trong đội mắt nâu,đăm đăm và long lanh của ông có mãnh lực thu hút; dánh vẻ thảm quyền chuyên môn trong trầm tĩnh của khuôn mặt cạo chỉnh tề, hợp với vai trò của một người mà con bệnh có thể thổ lộ bí mật và nhận sự an ủi. Đôi lúc, khi đến thăm với tư cách nghề nghiệp thứ nhất của ông, phụ nữ có thể cho ông biết họ đã dấu kim cương ở đâu để phòng trộm đạo.
Với con mắt lành nghề, đôi mắt của bác si James không cần đảo qua lại nhưng cũng nhận ra vẻ lịch sự và chất lượng đồ đạc trong căn phòng. Các món đều đắt giá. Cùng với cái nhìn thoáng qua, ông cũng nhận ra ngoại hình của người phụ nữ. Cô nhỏ nhắn, không đến hai mươi. Gương mặt cô xinh xắn, tuy bị che phủ (bạn có thể nói như thế) bởi vẻ u uất lâu ngày hơn là chuyện buồn lo bất ngờ.Trên trán cô là một vết bầm mà mắt chuyên môn của ông bác si nhận ra là chi mới xảy ra trong vòng sáu giờ đồng hồ. Các ngón tay của Bác sĩ James sờ lên cổ tay người đàn ông. Đôi mắt ông có ý dò hỏi người phụ nữ. Cô trả lời, với âm giọng miền Nam:
-Tôi là bà Chandler. Chồng tôi thình lình bị bịnh chừng mười phút trước khi ông tới. Anh ấy bị mấy cơn đau tim lúc trước – có khi bị năng lắm.
Dường như bộ quần áo khuya sang trọng của người đàn ông và giờ giấc khuya khoắt khiến cô giải thích tiếp:
-Anh ấy đi…ăn tối về,tôi nghĩ vậy.

Bác sĩ James bây giờ hướng sự chú ý về người bệnh. Trong bất cứ nghề nào của ông, ông đều chú tâm hết mực vào cái “ca” hoặc “phi vụ” của ông.
Người bệnh tuổi khoảng ba mươi. Gương mặt anh mang vẻ táo bạo và phóng đãng, nhưng không thiếu nét cân đối cùng những dáng vẻ sành điệu và đam mê. Thoang thoảng mùi rượu vang đổ trên quần áo.

Vị bác sĩ mở áo vẹt tong ông ra, rồi với một con dao nhỏ rạch chiếc áo sơ mi một đường từ cổ áo xuống đến thắt lưng.Ông đặt tai lên vị trí quả tim, chăm chú lắng nghe. Khi ông đứng dậy, ông nói:
-Nhồi van tâm thất trái.
Câu nói chấm dứt với vẻ không chắc chắn.Ông lại cúi xuống nghe một hồi lâu, và lần này ông kết luận:
-Suy tâm thất trái.
Ông nói, với giọng trầm tĩnh vốn thường xoa dịu nỗi âu lo:
-Thưa chị, có khả năng là…
Khi ông từ từ quay lại nhìn người phụ nữ ông thấy cô ngã xuống, tái nhợt, bất tỉnh, trong vòng tay của bà quản gia người da đen.
-Khổ quá! Khổ quá! Bộ ông trời muốn hại cháu gái của Dì Cindy hay sao? Cầu trời tru đất diệt cái đứa nào muốn hại cổ, cái đứa làm cho cổ khổ, cái đứa –
Bác sĩ James ngắt ngang, đưa tay giúp đỡ hộ tấm thân đã mềm nhũn:
-Nâng hai chân cô lên.Phòng cô ở đâu? Cần đặt cô nghỉ trên gi.ường.
Người đàn bà hất mặt về phía một cánh cửa:
-Đằng kia kìa, thưa ông bác sĩ. Đó là phòng cô Amy.
Họ mang cô đến đấy, đặt cô nằm trên gi.ường.Mạch của cô yếu, nhưng đều đặn. Từ cơn bất tỉnh cô không tỉnh lại, mà chìm luôn vào giấc ngủ mê mệt.
Ông bác sĩ nói:
-Cô ấy chỉ mệt thôi. Ngủ là liều thuốc tốt. Khi cô tỉnh dậy, cho cô uống tí rượu ấm, thêm một quả trứng nếu cô dùng được. Làm thế nào mà cô ấy bị vết thương trên trán như thế?
-Cổ sơ ý,ông bác sĩ. Thiệt tội nghiệp, cổ té – mà không phải, ông bác sĩ.
Giọng điệu của bà thình lình trở nên khinh bỉ:
-Già Cindy này không muốn nói láo cái chuyện lôi thôi.Ảnh gây ra đó, ông à. Cầu Trời ra tay - nhưng mà không, Cindy hứa với cổ không nói. Cô Amy bị thương trên đầu đó, thưa bác sĩ.
Bác sĩ James bước đến cây trụ đèn với cái bong đang cháy sáng, vặn nhỏ xuống. Ông ra lệnh:
-Bà ở đây với cô ấy, giữ yên tĩnh cho cô ấy ngủ. Nếu cô ấy thức dậy, cho uống tí rượu. Nếu thấy cô yếu thêm thì cho tôi hay. Có điều gì đấy lạ lùng trong việc này.
-Còn có chuyện quái chiêu hơn trong nhà này.
Nhưng ông bác sĩ đã nhắc bà giữ yên tĩnh, với tính cương quyết ít thấy, với giọng tập trung mà ông vẫn thường xua đuổi cơn sợ hãi. Ông đi ra, nhẹ nhàng đóng cánh cửa lại rồi đi trở vào phòng kia.Người đàn ông trên gi.ường vẫn chưa cử động nhưng hai mắt đã mở.Môi anh mấp máy như muốn nói gì đấy. Bác sĩ James cúi xuống để lắng nghe. Người bệnh chỉ có thể thì thầm: “Số tiền! Số tiền!”
Ông bác sĩ hỏi nhỏ,nhưng rành rọt:
-Anh có nghe tôi nói không?
Cái gật đầu yếu ớt.
-Tôi là bác sĩ, chị gọi tôi đến. Tôi được nghe giới thiệu anh la Chandler. Người anh khá yếu. Anh không nên để bị phấn khích hoặc buồn khổ gì cả.
Đôi mắt người bệnh dường như muốn ra hiệu.Ông bác sĩ cúi xuống để cố bắt những tiếng rất nhỏ:
-Số tiền…Số tiền hai mươi ngàn đô…tiền của cô ấy…
-Số tiền ở đâu? Trong ngân hang phải không?
Đôi mắt tỏ dấu hiệu là không phải.Giọng nói càng trở nên yếu ớt thêm:
-Bảo cô ấy… hai mươi ngàn đô… của cô ấy…
Đôi mắt người bệnh đảo quanh căn phòng.
Giọng Bác sĩ James nghiêm nghị như thể muốn khai thác bí mật từ người đàn ông với trí óc đang suy sụp:
-Anh đã để tiền ở đâu đấy phải không? Trong phòng này phải không?
Ông bác sĩ nghĩ ông đã thấy ý công nhận trong đôi mắt đờ đẫn. Mạch của người bệnh dưới các ngón tay ông mỏng manh như sợi tơ. Đến đây, bản năng của ngón nghề kia trỗi dậy trong đầu óc và long dạ của ông. Ông quyết định nhanh chóng – trong cái nghè nào ông cũng nhanh chóng như thế - là phải tim ra nơi cất giữ món tiền, với giá một mạng người có tính toán.
Ông rút ra một tập giấy nhỏ, nguệch ngoạc ít chữ một công thức pha chế món thuốc nào đấy thích hợp nhất đối với người bệnh, theo khả năng nghề nghiệp cho phép. Ông đi đến cửa phòng kia, khe khẽ gọi bà quản gia, đưa toa thuốc cho bà, bảo bà đi đến một hiệu y dược để mua loại thuốc ghi trên toa. Khi bà đã đi, càu nhàu một mình, ông bác sĩ bước đến bên gi.ường cô gái. Cô vẫn ngủ say, mạch có phần rõ hơn, vầng trán mát ngoại trừ nơi có vết bầm, có chút ẩm ướt. Nếu không bị quấy rầy, cô có thể ngủ hàng mấy giờ. Ông tìm thấy chiếc chìa khóa, ông dùng nó khóa cánh cửa lại sau khi ông bước ra.
Bác sĩ James nhìn đồng hồ của ông. Ông có thể có nửa giờ cho riêng mình, vì bà quản gia khó lòng về kịp trong thời gian ấy. Rồi ông đi lấy một cái vò, cho một ít nước vào đấy, và một chiếc cốc vại thủy tinh rỗng. Ông mở chiếc hộp y khoa, lấy ra cái ống nhỏ chứa nitroglycerine – chất “dầu” theo như mấy bạn giang hồ của ông gọi. Ông nhỏ chất lỏng hơi sánh, vàng nhạt vào cái lọ. Ông lấy ra một ống tiêm, gắn một kim tiêm vào đấy. Cẩn thận đo dung lượng từng ống theo những vạch đo bên ngoài, ông đang pha giọt kia với gần nửa cốc vại nước.

Hai giờ đồng hồ trước, bác sĩ James đã dùng cùng cái ống tiêm để bơm cùng loại hóa chất, nhưng không pha loãng, qua một lỗ khoan vào ổ khóa của cái két sắt. Với một tiếng nổ nhỏ, ông đã phá hủy cơ chế kiểm soát sự vận hành của cái ổ khóa. Bây giờ ông dùng cùng cách thức ấy với ý đồ phá tung bộ máy một cơ thể - để tiêu hủy con tim của nó, và mỗi cơn sốc là để đoạt được món tiền hiện ra tiếp theo sau đấy.Cùng một cách thức, nhưng với mục đích khác nhau. Trong khi cách kia là sức mạnh dữ dội, cách này êm thấm hơn, bằng bàn tay không kém chết chóc nhưng được nhung gấm che đậy. Vì giọt hóa chất trogn chiếc cốc vại và trong cái ống tiêm ông đã cẩn thận rút lên bây giờ trở thành dung dịch glonoine, một chất kích thích tim rất mạnh. Vài chục phân khối có thể mở toang một cánh cửa két sắt, chỉ bằng một lượng ít hơn năm mươi lần ông có thể làm ngưng hẳn cơ chế tinh vi vủa một mạng sống con người. Nhưng không phải làm ngưng lập tức. Ý đồ không phải là như thế. Trước hết là phải vực sự sống lên, gây hưng phấn mạnh mẽ cho mọi cơ quan và chức năng. Quả tim sẽ đáp ứng một cách dũng cảm theo cơn kích thích chết người; máu trong các tĩnh mạch sẽ nhanh chóng trở về cái nguồn của nó. Nhưng, bác sĩ James đã biết rõ, sự kích thích tột độ trong cơn bệnh tim như thế này chắc chắn đem lại một cái chết, cũng chắc chắn như cái chết do một phát súng trường. Khi các động mạch đã bị nghẽn, lại bị quả tim bơm mạnh thêm máu vào do ảnh hưởng từ thứ “dầu” của giới đạo chích, chúng sẽ trở thành “đường cấm”, và suối nguồn của sự sống sẽ ngừng chảy.

Ông bác sĩ vạch trần ngực bệnh nhân đã mê man. Với thao tác dễ dàng và khéo léo, ông tiêm dung dịch hóa chất vào những bắp cơ xung quanh vùng tim. Đúng theo thói quen của cả hai cái nghề, ông cẩn thận lau khô mũi kim, luồn vào đấy sợi dây kim loại mỏng để kim không bị nghẽn khi không dùng đến. Trong vòng ba phút, Chandler mở mắt ra và, với giọng yếu ớt nhưng rõ ràng, hỏi ai đã chăm sóc anh. Một lần nữa, bác sĩ James giải thích về sự hiện diện của ông. Người bệnh hỏi:
-Vợ tôi đâu?
-Chị ấy đang ngủ, vì mệt và lo âu. Anh muốn đánh thức chị không, ngoại trừ…
-Không…cần. Cô ấy sẽ không…, cảm ơn, đừng làm phiền cô ấy…vì tôi…
Tiếng nói của Chandler bị ngắt quãng bởi hơi thở quá gấp gáp, gấp gáp do bị một con quái vật nào đó thúc đẩy. Bác sĩ James kéo một chiếc ghế đến bên gi.ường. Không nên để ai quấy rầy. Ông nói với giọng trầm trầm, chân thật của cái nghề kia:
-Ít phút trước, anh có đề cập đến món tiền gì đấy. Tôi không muốn chen vào chuyện riêng của anh, nhưng tôi có bổn phận khuyên anh là lo lắng khiến anh khó khỏi bệnh. Nếu anh có thể thổ lộ chuyện…để giúp tâm tư anh được thanh thản về chuyện…hai mươi nghìn đô la – tôi nghĩ đấy là con số anh nói – thì anh nên nói cho tôi nghe.
Chandler không thể lắc đầu được, nhưng có thể hướng đôi mắt về người nói:
-Tôi có nói…món tiền…ở đâu không?
-Không, anh nói tôi không nghe rõ, tôi chỉ đoán là anh lo lắng về món tiền. Nếu nó ở trong căn phòng này…
Bác sĩ James ngừng lại. Có phải ông đã thấy người bệnh chớp mắt rồi thoáng hiện ánh nghi ngờ trên nét mặt vì đã hiểu ra ý đồ của ông? Liệu ông có tỏ ra quá sốt sắng không? Liệu ông có nói quá nhiều không? Nhưng câu kế tiếp của Chandler đã vãn hồi sự tự tin của ông:
-Nó phải ở đàng kia…nhưng có phải ở trong…cái két…kia?

Với đôi mắt, anh chỉ đến một góc phòng. Bây giờ ông bác sĩ mới nhìn thấy một cái két sắt nhỏ ở đấy, bị tấm màn cửa sổ che đi một nửa. Ông đứng dậy, nắm lấy cổ tay người bệnh. Mạch nhảy dồn dập, nhưng với chút ít ngắt quãng ngắn – triệu chứng đe dọa. Ông bác sĩ nói:
-Giơ tay lên.
-Bác sĩ biết…tôi không cử động được.
Ông bác sĩ bước nhanh về cánh cửa hành lang, mở ra, nghe ngóng. Tất cả đều im lìm. Không chần chừ gì nữa, ông đi đến cái két sắt, xem xét. Kiểu cổ lỗ và đơn giản, chỉ tạo thêm chút ít an toàn đối với gia nhân ngứa tay. Với tài khéo léo của ông, đây chỉ là món đồ chơi. Xem như món tiền đã nằm sẵn trong tay ông. Với các món đồ lề, ông có thể mở cái két trong hai phút. Với cách khác, có lẽ chỉ một phút. Ông quỳ xuống sàn, ép tai vào cái ổ khóa kết hợp, xoay từ từ cái chốt. Đúng như ông đã đoán, chỉ có một số khóa. Cái tai thính của ông bắt được một tiếng “cách” nhỏ, rồi ông theo đấy mà xoay cái chốt lại. Ông mở toan cánh cửa.

Phía trong cái két trống rỗng, ngay cả một mẩu giấy cũng không có. Bác sĩ James đứng dậy, bước trở lại cái gi.ường. Một màn sương mù dày đã bao phủ lông mi của người bệnh, nwhng có một nụ cười giễu cợt trên đôi môi và đôi mắt. Anh nói một cách mệt nhọc:
-Tôi chưa từng thấy…con người hai mặt…trộm đạo và y khoa. Cái kết hợp1 có đáng tiền không, hở bác sĩ thân yêu?
Tài năng của bác sĩ James chưa bao giờ bị thử thách đến thế. Tràn ngập trong hoàn cảnh khôi hài quỷ quái, nạn nhân rơi vào tình trạng cảm thấy vừa buồn cười lẫn mệt nhọc, mà vẫn cố duy trì tính tự tôn và đầu óc sáng suốt.
-Ông tỏ ra quá…lo lắng…đến tiền. Nhưng nó không bao giờ…bị ông đe dọa…bác sĩ thân yêu à…Nó được an toàn…tuyệt đối an toàn. Nó đều ở…trong tay…bọn tổ thức cá cược. Hai chục nghìn…tiền của Amy. Tôi nướng ở trường đua…thua tất. Tôi tệ hại, ông ăn trộm, xin lỗi, bác sĩ à, nhưng tôi chơi đàng hoàng. Tôi không ngờ…lại có ngày gặp…một tên đốn mạt mạ vàng như bác sĩ, xin lỗi, tên trộm này…Nếu ông cho nạn nhân, xin lỗi, bệnh nhân này một hớp nước, thì có vi phạm…đạo đức nghề nghiệp…của băng đảng ông không?

Bác sĩ James mang đến cho anh cốc nước. Anh uống không được bao nhiêu. Phản ứng của chất thuốc mạnh mẽ đã xảy đến từng đợt như sóng vỡ. Nhưng trí óc đang hấp hối của anh đang cố sức lần nữa:
-Cờ bạc…bét nhè…bủn xỉn…tôi làm hết, nhưng chưa bao giờ làm…bác sĩ kiêm trộm cắp!
Ông bác sĩ không muốn buông thả mình theo câu trả lời nào cho những châm chọc nhức nhối. Ông cúi xuống thấp để bắt lấy tia mắt của Chandler đang nhanh chóng sánh đặc, ông chỉ vào căn phòng của cô gái đang ngủ với cử chỉ nghiêm khắc khiến người bệnh phải cố gượng hết sức tàn nghiêng đầu nhìn. Anh không thấy gì, nhưng anh bắt được những tiếng sắc lạnh của ông bác sĩ, những âm thanh cuối cùng anh nghe trong đời:
-Tôi chưa bao giờ…đánh đập phụ nữ.

Hai người đối mặt nhau như thế - một kẻ sát nhân kiêm trộm đạo, đứng bên nạn nhân của hắn; kẻ kia còn hạ cấp hơn tuy phạm luật nhẹ hơn, nằm đấy, bị phỉ nhổ, trong căn nhà của cô vợ đã bị hắn hành hạ, bị tan nát cuộc đời, bị ruồng bỏ - một tên là con hổ, tên kia là chó sói; mỗi tên đều miệt thị sự độc ác của tên kia, và từ cặn bã bùn lầy mỗi tên đều cố tỏ ra mình đạt tiêu chuẩn cao quý – tiêu chuẩn theo cung cách hành động nếu không phải theo danh dự con người.

Câu trả đũa của bác sĩ James hẳn đã đánh trúng vào những gì còn sót lại của hối hận và nam tính; đấy là phát súng ân huệ. Một màu đỏ vì xấu hổ lan cả khuôn mặt, hơi thở nhẹ dần và, chỉ với chút xíu cử động, Chandler thoát trần. Theo sát sau hơi thở cuối cùng là bà quản gia người da đen, mang thuốc trở về. Với bàn tay nhẹ nhàng vuốt trên mi mắt đã khép kín, bác sĩ James báo cho bà tin buồn. Không phải với nỗi khổ đau mà chỉ do thói quen di truyền cận kề với cái chết khiến bà sụt sịt, rồi vẫn với giọng cố hữu:
-Vậy là bây giờ có bàn tay ông Trời sắp đặt. Ông Trời xét xử người có tội, phù hộ độ trì người khổ đau. Giờ ông Trời đã phù hộ ta. Cindy này đã tận tụy hết mức mà không có lợi lộc gì.
-Theo tôi hiểu, bà Chandler không có tiền phải không?
-Tiền hả, ông bác sĩ? Ông có biết tại sao cô Amy bị té và yếu ớt như vậy không? Bị bỏ đói đó, bác sĩ à. Trong nhà này hổm rày không có thứ gì ăn ngoại trừ ít miếng bánh vụn. Mấy tháng trước cổ đem nhẫn với đồng hồ của cổ đi bán. Căn nhà này, với thảm đỏ và bàn viết bóng láng, đều là đi thuê, mà cái tên đó cứ cằn nhằn hoài về tiền thuê. Quỷ thần, xin lỗi, ông Trời thật là có mắt.

Sự im lặng của ông bác sĩ khuyến khích người đàn bà tiếp tục. Qua những lời lẽ lộn xộn, ông dần dà hiểu ra. Câu chuyện xưa như trái đất, câu chuyện về ảo ảnh, ngang tang, đại họa, tàn nhẫn và tự trọng. Dần dần ông nhìn ra các hình ảnh – quang cảnh một ngôi nhà lý tưởng tận miền Nam xa xôi, một cuộc hôn nhân với hối tiếc nhanh chóng, một mùa trong năm trôi qua không hề có hạnh phúc mà chỉ đầy những bê tha và hành hạ, và, cuối cùng, khoản tiền do di chúc để lại nhưng bị tên chồng lòng lang dạ sói thu giữ và tiêu phí trong hai tháng vắng mặt khỏi nhà, rồi đến một đêm khuya hắn lết về say khướt. Chen vào đấy là tình thương giản đơn, nhẫn nhục, thuần khiết của bà quản gia người da đen, luôn luôn theo chân cô chủ không sờn bước để cùng nhau chịu đựng mọi nỗi niềm cho đến lúc cuối.

Khi cuối cùng bà ngưng lại, ông bác sĩ hỏi bà trong nhà có whisky hoặc thứ rượu gì khác không. Bà cho biết còn nửa chai cô-nhắc của tên chó sói uống dở dang. Ông bảo bà:
-Pha ít rượu như tôi đã nói. Đánh thức cô chủ dậy, cho cô ấy uống, rồi bá otin cho cô ấy biết.
Khoảng mười phút sau, bà Chandler bước vào, được nâng đỡ trong vòng tay của Cindy, trông khá hơn sau giấc ngủ và chút rượu ấm. Bác sĩ James đã lấy một tấm vải đậy cái thân người trên gi.ường. Cô đảo đôi mắt tang tóc qua đấy một lần, tia nhìn nửa sợ hãi, nép mình thêm vào người che chở cho cô. Đôi mắt cô khô và sáng. Nỗi đau buồn dường như đã đến cùng cực. Không còn nước mắt, cảm giác tự nó đã tê liệt.

Bác sĩ James đứng gần cái bàn, ông đã mặc lại áo choàng, chiếc mũ và cái hộp y khoa trên tay. Gương mặt ông trầm lặng, không cảm giác – nghề nghiệp đã khiến ông không còn xúc cảm đối với đau khổ của con người. Chỉ có đôi mắt nâu của ông biểu lộ niềm thông cảm kín đáo theo nghề nghiệp. Ông nói từ tốn và ngắn gọn là, vì đã quá khuya và không còn có thể giúp gì được, ông sẽ gửi người đến lo những thủ tục cuối cùng. Ông chỉ vào cái két sắt với cánh cửa mở toang:
-Còn một việc để kết thúc, chị Chandler ạ. Chồng chị, trước khi qua đời đã biết mình không qua khỏi, nên cho tôi biết con số của khóa kết hợp, nhờ tôi mở cái két sắt này. Trong trường hợp chị cần dùng nó, chị nên nhớ con số bốn mươi mốt. Xoay ít vòng về phía tay phải, rồi xoay về tay trái một lần, dừng lại ở số bốn mươi mốt. Anh ấy không cho phép tôi đánh thức chị, dù phút cuối đã gần kề. Anh ấy bảo trong két sắt anh ấy có một món tiền, không lớn lắm, nhưng đủ để chị thực hiện lời yêu cầu cuối cùng của anh. Đấy là: chị nên trở về ngôi nhà cũ của chị, và sau đấy, khi thời gian đã giúp chị nguôi ngoai, chị hãy tha thứ cho những tội lỗi của anh ấy.

Ông chỉ về cái bàn, trên đấy là một xấp giấy bạc xếp thẳng thớm, với hai chồng đồng tiền vàng.
-Món tiền ở đây, tám trăm ba mươi đô. Tôi xin để lại danh thiếp, trong trường hợp chị cần tìm đến tôi sau này.

Thế là, cuối cùng anh đã nghĩ đến cô, một cách nhân hậu. Quá muộn! Tuy thế, lời nói dối đã nhóm lại trong cuộc đời cô một tia lửa dịu dàng cuối cùng khi cô nghĩ tất cả đã thành tro bụi. Cô khóc òa lên “Rob! Rob!”. Cô quay người, nép vào lòng bà quản gia trung hậu, với những dòng nước mắt pha loãng nỗi thảm sầu. Trong những năm về sau, lời dối trá của tên sát nhân tỏa sáng như một ngôi sao nhỏ trên nấm mồ của tình yêu, an ủi cô, nhận được sự tha thứ - như thế cũng tốt dù đã có xin tha thứ hay không.

Được an ủi vỗ về như một đứa trẻ, với niềm cảm thương lắp bắp từ bà quản gia, cuối cùng cô ngẩng đầu lên, nhưng ông bác sĩ đã ra đi.
 
Con người phóng đãng


Bạn sẽ không tìm thấy cái tên Thomas Keeling trong danh bạ thành phố Houston. Bây giờ có thể có, nếu ông Keeling đã không đóng cửa cơ sở làm ăn của ông khoảng một tháng trước và dời đi nơi khác. Ông Keeling dời đến Houston khoảng thời gian ấy và mở một văn phòng thám tử tư nhỏ. Ông cung ứng dịch vụ thám tử theo cung cách khiêm tốn. Ông không có tham vọng cạnh tranh với hang Pinkerton, nhưng thích làm việc trong những lĩnh vực ít rủi ro hơn.


Nếu một ông sếp muốn kiểm tra những thói quen của người thư ký, hoặc một bà vợ muốn nhòm ngó ông chồng quá trăng hoa, ông Keeling là người lĩnh nhiệm vụ. Ông là người trầm tĩnh, chăm chỉ với nhiều lý thuyết. Ông đọc các tác giả Gaboriau và Conan Doyle, và hy vọng một ngày ông sẽ có vị trí cao hơn trong nghề của mình. Ông giữ một chân thấp kém trong một văn phòng thám tử lớn ở miền Đông, nhưng vì chậm được đề bạt, ông quyết định dời đến miền Tây, nơi mà nghề nghiệp ông ít bị cạnh tranh hơn.

Trong vài năm ông đã dành dụm được 900 đô mà ông ký gửi trong két sắt của một thương gia do một người bạn ở Houston giới thiệu. Ông thuê một căn phòng nhỏ ở tầng lầu, trên một con đường hẻo lánh, treo một tấm biển cho biết loại dịch vụ, rồi vùi đầu vào trong mấy mẩu chuyện Sherlock Holmes của Doyle trong khi chờ thân chủ tìm đến.

Một thân chủ đến gặp ông sau ba ngày ông khai trương văn phòng vốn chỉ có một mình ông. Đấy là một phụ nữ trẻ, khoảng 26 tuổi. Cô người mảnh mai, khá cao, ăn mặc lịch sự. Cô mang một khăn che mặt mỏng, và vén lên trên chiếc mũ rơm sau khi đã ngồi xuống ghế. Cô có gương mặt thanh tú, tao nhã, với đôi mắt xám khá linh động, và cử chỉ có phần lo lắng.

Cô nói, với giọng ngọt ngào nhưng có phần buồn rầu:
-Thưa ông, tôi đến tìm ông vì ông là người tương đối xa lạ, và tôi không thể bàn chuyện riêng tư với những người bạn của tôi. Tôi muốn ông theo dõi những hành động của chồng tôi. Mặc dù nhục nhã phải khai sự thật, tôi e rằng anh ấy không còn yêu thương tôi nữa. Trước khi tôi kết hôn với anh ấy, anh say mê một cô gái trẻ có liên hệ với gia đình nơi anh ở trọ. Chúng tôi đã cưới nhau được năm năm và sống rất hạnh phúc, nhưng gần đây cô gái trẻ đã dời đến Houston, và tôi có lý do để tin rằng anh ấy đang chú ý đến cô. Tôi nhờ ông theo dõi sát sao theo cách có thể được những hành động của anh ấy và báo cáo với tôi. Tôi sẽ đến đây cách hai ngày một lần theo giờ định trước để biết những gì ông đã phát hiện ra. Tên tôi là bà R—, và chồng tôi là người có tiếng tăm. Ông ấy có một hiệu kim hoàn nhỏ ở đường – -- . Tôi sẽ chi trả xứng với dịch vụ của ông, và đây là 20 đô để bắt đầu.

Người phụ nữ trao cho ông tờ giấy bạc, và ông tiếp nhận một cách thờ ơ như thể những việc như thế này là chuyện bình thường, rất thường trong nghề nghiệp của ông. Ông cam đoan với bà rằng ông sẽ thực hiện ý muốn của bà một cách trung thành, và yêu cầu hai ngày sau bà trở lại lúc bốn giờ chiều để nghe báo cáo đầu tiên.

Ngày kế, ông Keeling dò hỏi về những điều liên quan đến công tác. Ông tìm ra hiệu kim hoàn, và đi vào giả vờ nhờ siết lại bộ phận thủy tinh trong chiếc đồng hồ đeo tay của ông. Chủ cửa hiệu, ông R—, khoảng 45 tuổi, có tư thái trầm tĩnh và cách thức làm việc rất chăm chỉ. Cửa hiệu nhỏ, nhưng bán hàng loại tốt và có nhiều chủng loại kim cương, nữ trang và đồng hồ. Hỏi han thêm thì được biết rằng ông R— là người có tư cách đứng đắn, không bao giờ uống rượu, và luôn luôn làm việc bên quầy nữ trang của ông.
Ngày hôm ấy, ông Keeling thơ thẩn trong vài giờ quanh cánh cửa của hiệu kim hoàn, và cuối cùng nỗ lực của ông được đền đáp khi ông thấy một phụ nữ trẻ, ăn mặc lòe loẹt với mái tóc đen, đôi mắt huyền, bước vào cửa hiệu. Ông Keeling nhàn nhã đi đến gần cánh cửa nơi ông có thể quan sát những gì xảy ra bên trong. Người phụ nữ bước một cách tự tin đến phía sau hiệu kim hoàn, dựa vào mặt quầy và trò chuyện thân mật với ông R—. Ông đứng dậy, và hai người trao đổi nho nhỏ với nhau trong vài phút. Cuối cùng, ông chủ kim hoàn trao cho cô ít tiền đồng, mà ông Keeling nghe tiếng leng keng khi cô đón nhận vào lòng bàn tay. Rồi người phụ nữ đi ra và bước nhanh về cuối phố
***
Thân chủ ông Keeling trở lại văn phòng ông theo đúng hẹn. Cô bồn chồn muốn biết liệu ông có thấy điều gì giúp minh chứng cho sự nghi ngờ của cô. Ông thám tử thuật cho cô nghe những gì ông đã thấy. Sauk hi nghe ông mô tả người phụ nữ trẻ đi vào hiệu kim hoàn, cô nói:
-Đúng là nó rồi. Cái đứa vô liêm sỉ, thật cả gan! Và như thế là Charles còn đưa tiền cho nó. Nghĩ mà xem, chuyện đã xảy ra đến thế này!
Người phụ nữ cầm chiếc khăn tay chấm đôi mắt theo cách bị xúc động.
Ông thám tử hỏi:
-Bà R—, bà muốn như thế nào trong việc này? Bà muốn tôi dò hỏi đến đâu?
-Tôi muốn tận mắt nhìn đủ bằng cớ để thuyết phục điều mà tôi nghi ngờ. Tôi cũng muốn có nhân chứng, để tôi có thể làm đơn xin ly dị. Tôi không muốn tiếp tục cuộc sống như thế này.
Rồi cô trao cho ông tờ giấy mười đô.

Hai ngày sau, khi cô trở lại văn phòng ông Keeling, ông báo cáo:
-Chiều nay tôi đến hiệu kim hoàn với lý do vụn vặt. Cô ấy đã đến đấy, nhưng không ở lại lâu. Trước khi đi, cô ấy nói: “Charles, chúng mình sẽ dùng bữa ăn nhẹ vui nhộn tối nay như anh đề nghị, rồi chúng mình sẽ trở về cửa hiệu mà trò chuyện trong khi anh làm xong cây kim gài đính kim cương mà không bị ai quấy rầy”. Bà R— ạ, tôi nghĩ tối nay sẽ là dịp tốt để bà chứng kiến cuộc gặp gỡ giữa chồng bà và đối tượng khiến chồng bà điên đảo, và tâm tư bà sẽ mãn nguyện được biết vụ việc ra thế nào.
Người phụ nữ kêu lên với đôi mắt lấp lánh:
-Khốn khiếp! Anh ấy bảo tôi rằng anh ấy sẽ có việc quan trọng phải làm cho xong tối nay. Và đây là cách anh ấy sử dụng thì giờ mà không có tôi!
Ông thám tử nói:
-Tôi đề nghị bà ẩn mình trong cửa hiệu để bà có thể nghe những gì họ nói, và khi bà đã rõ chuyện bà có thể gọi nhân chứng vào cho họ đối diện với ông ấy.
Cô đáp:
-Ý kiến hay. Tôi nghĩ có một ông cảnh sát, mà gia đình chúng tôi quen biết, có nhiệm vụ tuần tra khu vực xung quanh cửa hiệu. Do nhiệm vụ, ông ấy sẽ có mặt trong khu vực này vào buổi tối. Tại sao ông không đến gặp ông ấy, giải thích về vụ việc và khi tôi đã nghe đủ bằng chứng, ông dẫn ông ấy đến để cả hai ông làm nhân chứng?
Ông thám tử nói:
-Tôi sẽ trình bày với ông ấy, và thuyết phục ông ấy giúp chúng ta. Xin bà trở lại đây trước khi trời tối, để chúng ta có thể dàn xếp đặt bẫy họ.
***
Ông thám tử đi săn lùng người cảnh sát và giải thích cho ông biết tình hình. Nhà bảo vệ pháp luật nói:
-Buồn cười thật. Tôi không hề biết ông R— là con người phóng đãng. Nhưng rồi, ta không bao giờ hiểu rõ về ai được. Thế là bà vợ ông muốn bắt quả tang ông tối nay. Xem nào, bà muốn ẩn mình trong cửa hiệu và nghe họ nói gì. Có một căn phòng nhỏ phía sau cửa hiệu, nơi ông R— chất than và bao bì cũ. Dĩ nhiên là cánh cửa giữa bị khóa, nhưng nếu ông có cách đưa bà qua cánh cửa này, bà có thể ẩn mình đâu đấy. Tôi không muốn dính dáng đến những chuyện như thế này, nhưng tôi thông cảm với bà. Tôi và bà quen nhau từ thuở còn bé nên tôi không nề hà gì mà không giúp bà làm điều bà muốn.
Vào khoảng chạng vạng tối hôm ấy, thân chủ của nhà thám tử đi vội vã đến văn phòng của ông. Cô ăn mặc giản dị trong màu đen và đội một chiếc mũ tròn màu sẫm và khuôn mặt được bao phủ bởi một tấm mạng. Cô giải thích:
-Nếu Charlie có trông thấy tôi, anh ấy sẽ không nhận ra tôi.
Ông Keeling và người phụ nữ đi bộ dọc con đường đối diện hiệu kim hoàn, và khoảng tám giờ tối cô gái trẻ mà họ đang quan sát bước vào cửa hiệu. Ngay sau đấy, cô đi ra cùng ông R—, ôm lấy cánh tay ông, và họ bước đi vội vã, hẳn là về phía nhà hàng để ăn tối.
Nhà thám tử cảm thấy cánh tay người phụ nữ kế bên ông run rẩy. Cô nói:
-Khốn khiếp! Anh ta nghĩ tôi đang vô tư trông chờ anh ta ở nhà trong khi anh ta đang lả lướt với con ranh điệu nghệ đầy mưu đồ ấy. Ôi, hạng đàn ông phản bội!
Ông Keeling đưa người phụ nữ đi qua một hành lang mở dẫn đến sân sau của hiệu kim hoàn. Cánh cửa của căn phòng sau không được khóa, và họ cùng bước vào.
Bà R— nói:
-Trong nhà kho, gần cái quầy làm việc của chồng tôi là một cái bàn rộng, với khăn trải bàn phủ xuống đến sàn nhà. Nếu tôi có thể chui xuống dưới cái bàn này, tôi có thể nghe mọi điều họ nói với nhau.
Ông Keeling lấy ra một chum chìa khóa vạn năng và trong vài phút đã tìm ra một chìa có thể mở cánh cửa đi vào hiệu kim hoàn. Một ngọn đèn khí đốt được vặn thật thấp.
Người phụ nữ bước vào bên trong và dặn dò:
-Tôi sẽ gài chốt cửa bên trong, và tôi muốn ông đi theo dõi chồng tôi và cô ấy. Nhìn xem họ có ăn tối với nhau không, và nếu có, khi họ bắt đầu trở về, ông trở về đây báo tin cho tôi hay bằng cách gõ cánh cửa ba lần. Sauk hi tôi đã nghe đủ câu chuyện họ nói với nhau, tôi sẽ mở chốt cửa, và chúng ta sẽ đối diện với cặp tội phạm. Tôi có thể cần ông bảo vệ tôi, vì tôi không biết họ có thể làm gì tôi.
***
Nhà thám tử nhẹ nhàng bước ra ngoài và đi theo ông chủ kim hoàn cùng cô gái. Chẳng bao lâu sau ông thấy họ đã chọn một phòng ăn riêng trong một nhà hàng và gọi thức ăn tối. Ông nán lại ở đấy cho đến khi họ trở ra, rồi vội vã quay trở về hiệu kim hoàn, bước vào căn phòng phía sau, và gõ cánh cửa ba lần.
Vài phút sau, ông chủ kim hoàn cùng cô gái bước vào, và nhà thám tử trông thấy ánh sáng soi rõ hơn qua một kẽ nứt trên cánh cửa. Ông có thể nghe hai người chuyện trò với nhau một cách thân mật và không ngừng nghỉ, nhưng không thể nghe ra họ đang nói những gì. Ông rón rén vòng ra ngoài con đường, nhìn qua khung cửa sổ, và có thể thấy ông R— đang làm việc ở cái quầy của ông, trong khi cô gái tóc đen ngồi kế bên và trò chuyện với ông.

Ông Keeling nghĩ ông sẽ cho họ thêm ít thời gian, rồi ông đi dọc theo con đường. Người cảnh sát đang đứng ở góc phố.
Nhà thám tử cho ông hay rằng bà R— đang ẩn mình trong hiệu kim hoàn, và mưu kế đang diễn tiến tốt đẹp. Ông nói:
-Bây giờ tôi lui về phía sau, để chuẩn bị sẵn sàng khi bà ấy cho họ sập bẫy.
Người cảnh sát bước trở lại cùng ông, và nhìn qua khung cửa sổ. Ông nói:
-Xem chừng họ đã dàn hòa với nhau tốt đẹp trở lại. Còn người phụ nữ kia đâu?
Nhà thám tử ngạc nhiên:
-Sao thế? Cô ta đang ngồi kế bên ông ấy.
Người cảnh sát thêm:
-Tôi đang nói đến cái cô mà ông R— dẫn đi ăn tối.
Nhà thám tử nói:
-Tôi cũng thế.
Người cảnh sát phân trần:
-Dường như anh đã nhầm lẫn. Anh có biết người ngồi cạnh ông R— là ai không?
-Đấy là người đi ăn tối với ông ấy.
-Đấy là bà vợ của ông R—. Tôi quen biết bà ấy đã mười lăm năm rồi.
Nhà thám tử há hốc:
-Thế thì, ai—? Chúa ơi, thế thì ai đang ẩn mình dưới cái bàn?
Ông Keeling bắt đầu đá cánh cửa của hiệu kim hoàn. Ông R— bước ra và mở cửa. Người cảnh sát và nhà thám tử bước vào.
Nhà thám tử hét lên:
-Khám xét dưới cái bàn, nhanh lên.
Người cảnh sát vén tấm khăn trải bàn lên và lôi ra một chiếc áo đen, một tấm mạng che mặt và một bộ tóc giả phụ nữ.
Ông Keeling chỉ đến người phụ nữ trẻ có đôi mắt đen đang nhìn họ với vẻ kinh ngạc tột độ, hỏi:
-Bà đây có phải là v-v-vợ của ông không?
Ông chủ kim hoàn đáp:
-Chắc chắn rồi. Bây giờ, làm ơn giải thích ông làm cái quái gì mà khám xét dưới mấy cái bàn của tôi và đá cánh cửa của tôi?
Người cảnh sát bắt đàu nhận định tình hình:
-Để xem xét giả chân
***
Các nhẫn kim cương và đồng hồ bị mất trị giá lên đến 800 đô, và ngày hôm sau ông Keeling thanh toán hóa đơn.
Tối hôm ấy, họ giải thích mọi việc cho ông chủ kim hoàn hiểu, và một giờ sau ông Keeling ngồi trong văn phòng của mình xem qua tập ảnh của những tên lừa đảo. Cuối cùng ông đã tìm ra một bức ảnh, ông dừng tay lật tìm mà vò đầu bứt tóc. Dưới tấm ảnh của một anh trai trẻ có gương mặt mịn màng với những đường nét thanh tú, là câu mô tả như sau:

“JAMES H. MIGGLES, bí danh Simon Lừa, bí danh Quả phụ khóc, bí danh Kate bịp, bí danh Jimmy Xoáy, kẻ lừa đảo và trộm cắp. Thường giả dạng phụ nữ. Ăn nói rất khéo và nguy hiểm. Bị truy nã ở Kansas City, Oshkosh, New Orleans và Milwaukee.”

Vì thế mà ông Thomas Keeling không tiếp tục dịch vụ thám tử tư ở Houston.
 
Cú sốc trưởng giả


Vẫn có tầng lớp quý tộc trong số các khu công viên và những người vô gia cư vô nghề nghiệp sử dụng các công viên này làm nơi ăn chốn ở riêng tư. Vallance chỉ cảm nhận như thế chứ không biết rõ, nhưng khi anh bước ra ngoài khỏi thế giới của anh đi xuống dòng đời bát nháo, hai chân anh đưa anh thẳng đến quảng trường Madison.

Non nớt và khắc khổ như con gái học trò – đấy là nói đến học trò lớp cao – ngọn gió đầu tháng Năm đang thổi một cách dè xẻn qua cây cối đang đâm chồi nảy lộc. Vallance cài lại cúc áo choàng, đốt điếu xì-gà cuối cùng của anh, ngồi xuống một băng ghế. Trong vòng ba phút, anh cảm thấy có phần tiếc rẻ. Rồi thì anh lần mò tất cả túi trong túi ngoài mà không tìm ra một xu teng nào cả. Anh đã trả lại căn phòng mà anh đang thuê. Các món nội thất bị dùng để xiết một vài món nợ nào đấy. Quần áo của anh, ngoại trừ bộ mà anh đang mặc, đã bị anh giúp việc tịch thu để trừ vào tiền lương chưa trả. Khi anh ngồi như thế, cả thành phố không hề có một chiếc gi.ường cho anh đặt mình xuống ngủ, hoặc một con tôm hùm luộc hoặc một khoản tiền taxi hoặc là một đóa hoa cẩm chướng để cài lên ve áo, trừ phi anh ăn chực bạn bè của anh hoặc là có trò giả vờ dối trá nào đấy. Thế là anh phải chọn giải pháp công viên.

Tất cả những việc này là do một ông chú đã từ chối quyền thừa kế của anh, giảm chu cấp tiền túi của anh từ mức độ rộng rãi xuống con số không. Và tất cả đấy là do dứa cháu trai của ông đã cãi lời ông về việc liên quan đến một cô gái. Cô này không đi vào câu chuyện kể ở đây – vì thế, vị độc giả nào đang hăm hở trông chờ thì được cảnh báo là không nên đọc tiếp. Có một người cháu khác, thuộc một nhánh khác trong gia tộc, người đã có thời được xem như có triển vọng kế thừa, được xem như là sáng giá và được sủng ái. Rồi thì, vì không thấy có hy vọng gì, anh ta đã biến mất từ lâu. Giờ người ta đang săn lùng anh ta, để phục hồi và đưa anh vào cương vị cũ. Thế là Vallance cảm thấy mình vĩ đại như ma vương ở vực thẳm sâu nhất, cuối cùng rồi gia nhập đám quỷ rách rưới tả tơi trong khu công viên nhỏ.

Ngồi ở đấy, anh dựa ngửa ra sau, cười ra một luồng khói thuốc bay lên những nhánh cây la đà. Việc anh bị thình lình cắt đứt mọi sợi dây của đời sống đã mang lại cho anh sự phấn chấn không tốn kém, hồi hộp, gần như sảng khoái. Anh thấy đúng như là cảm giác của người lái khinh khí cầu khi cắt rời cái dây và để cho quả cầu bay đi.

Đã gần đến mười giờ. Không còn mấy người nán lại ở các băng ghế. Những người ngụ cư ở công viên, dù đã chiến đấu can trường với khí trời se lạnh mùa thu, lại quá chậm chạp chống lại tiền đạo lạnh lẽo mùa đông.
Rồi có một người ngồi gần vòi phun nước đứng dậy, đi đến ngồi kế bên Vallance. Anh ta không trẻ và cũng không già, những phòng cho thuê đã ướp anh mùi ẩm mốc, dao cạo và lược đã bỏ rơi anh, trong anh rượu đã được vô chai và đóng nút. Anh xin một que diêm, đấy là nghi thức của những người ngồi trong công viên giới thiệu về mình, rồi anh bắt đầu chuyện trò.
Anh bảo Vallance:
-Anh không phải là người thường xuyên ở đây. Khi tôi nhìn quần áo đặt may là tôi biết ngay. Anh chỉ ghé qua đây trên đường đi qua công viên. Anh không phiền hà cho tôi trò chuyện với anh một chút chứ? Tôi cần có ai đấy. Tôi sợ, tôi sợ lắm. Tôi đã nói như thế với hai, ba kẻ vô công rồi nghề đằng kia. Họ bảo tôi điên. Này, để tôi nói anh nghe, cả ngày hôm nay tôi chỉ ăn có một ít mẩu bánh và một quả táo. Sáng ngày mai, tôi sẽ được kế thừa ba triệu, và cái nhà hàng anh nhìn thấy đàng kia sẽ trở nên quá nghèo hèn không đáng cho tôi bước vào. Có lẽ anh không tin tôi phải không?
Vallance cười:
-Không hề gì cả. Hôm qua tôi ăn trưa ở đấy. Tối nay tôi không thể mua nổi một cốc cà phê đáng giá 5 cent.
-Anh trông không giống bọn tôi ở công viên này. À, tôi đoán sự đời là như thế. Chính tôi đã từng có thời phong lưu – đấy là năm năm về trước. ĐIều gì đã khiến anh đến nông nỗi này?
-Tôi…à, tôi bị mất việc.
-Địa ngục trần gian, cái thành phố này! Một ngày anh ăn uống ở bên Tàu, ngày kế anh ăn uống với đồ sứ Tàu – mấy món đồ sứ nứt nẻ. Tôi đã qua mọi cảnh khốn cùng. Trong năm năm qua, tôi chỉ khá hơn bọn hành khất một chút. Tôi được nuôi lớn lên trong cảnh xa hoa, không cần làm gì cả. Này anh…tôi không nề hà gì mà không kể cho anh nghe…tôi cần thổ lộ cho ai đấy, anh thấy chứ, vì tôi, tôi sợ lắm. Tên tôi là Ide. Chắc anh không ngờ ông già Paulding, một trong mấy triệu phú ngụ tại Riverside Drive, là ông chú của tôi, phải không? Ông đúng là chú tôi đấy. Có thời gian tôi ở với ông ấy, lúc ấy tôi muốn có bao nhiêu tiền cũng được. À này, anh có đủ tiền trả ít rượu không anh…à, tên anh là gì?
-Dawson. Không, rất tiếc phải nói là tôi đã cạn túi.
-Cả tuần nay tôi sống trong một tầng hầm chứa than ở phố Divison, với một tên lừa đảo tên Morris, biệt danh “Blinky”. Tôi không biết đi đâu khác. Hôm nay khi tôi đi ra ngoài, một ông cầm mấy thứ giấy tờ gì đấy đến tìm tôi. Tôi cứ nghĩ đấy là cớm, nên đến tối tôi mới dám mò về. Ông ấy để lại một bức thư cho tôi. Đấy là từ một luật sư nổi tiếng ở trung tâm thành phố tên là Mead. Tôi đã thấy biển hiệu văn phòng ông ở phố Ann. Paulding muốn tôi lại là đứa cháu hoang tàn của ông – muốn tôi trở về để lại làm người thừa kế của ông và đốt tiền của ông. Tôi sẽ đến văn phòng luật sư lúc mười giờ sáng ngày mai để trở về với cương vị của tôi – người kế thừa ba triệu, anh Dawson ạ, với 10.000 tiền túi mỗi năm. Và…tôi sợ, tôi sợ lắm.
Anh vô gia cư nhảy đổng lên, đưa hai tay run rẩy ôm lấy đầu. Anh ôm lấy đầu và rên rỉ cuồng loạn.
Vallance nắm lấy cánh tay anh ta, kéo anh ngồi xuống băng ghế. Anh ra lệnh với vẻ gì đấy như là khinh miệt:
-Anh im đi. Người ta có thể ngỡ là anh đã đánh mất một gia tài, thay vì được thừa hưởng một gia tài. Anh sợ gì thế?
Ide co rúm lại và run lẩy bẩy trên băng ghế. Anh níu lấy tay áo Vallance, và ngay cả trong ánh sáng lờ mờ của Broadway, anh chàng bị truất quyền thừa kế vẫn thấy trên long mày của người kia những giọt mồ hôi lóng lánh do nỗi kinh hãi lạ lùng nào đấy đã chắt ra.
-Tại sao à? Tôi sợ sẽ có chuyện gì đấy xảy ra cho tôi trước giờ sáng mai. Tôi không rõ là chuyện gì đấy ngăn cản tôi nhận số tiền thừa kế. Tôi sợ một cây to sẽ đổ xuống người tôi…tôi sợ một chiếc ô tô sẽ cán lên người tôi, hoặc là một tảng đá từ trên một tòa nhà rơi xuống đầu tôi, hoặc là sự cố gì đấy. Trước đây tôi chưa từng sợ như thế này bao giờ. Cả trăm buổi tối tôi đã từng ngồi trong công viên vững như thạch bàn mà không rõ bữa điểm tâm kế tiếp sẽ từ đâu đến. Nhưng bây giờ lại khác hẳn. Tôi yêu tiền, anh Dawson ạ, tôi cảm thấy hạnh phúc tuyệt trần khi tiền chảy qua giữa mấy ngón tay tôi, thiên hạ đang cúi gập người trước mặt tôi, với âm nhạc và hoa và quần áo sang trọng đầy rẫy chung quanh. Nếu tôi biết tôi không có gì cả, tôi không màng. Tôi cảm thấy hạnh phúc ngay cả khi ngồi đây với áo quần rách rưới và dạ dày lép kẹp, nghe tiếng nước róc rách từ cái vòi phun nước và ngắm nhìn mấy chiếc xe ngựa sang trọng chạy trên đại lộ. Nhưng bây giờ tiền của lại ở trong tay tôi – gần như thế - và tôi không thể chịu được thời gian chờ đợi trong mười hai giờ đồng hồ, anh Dawson ạ, tôi không thể chịu được. Có cả năm mươi chuyện có thể xảy đến với tôi...tôi có thể trở thành đui mù…tôi có thể lên cơn đau tim…ngày tận thế xảy ra trước khi tôi có thể…
Ide đứng bật dậy, hét lên một tiếng inh ỏi. Thiên hạ ngồi quanh đấy xao động, bắt đầu nhìn anh. Vallance nắm lấy cánh tay anh, dỗ dành:
-Anh đi dạo một vòng, cố trấn tĩnh lại. Không có gì phải phấn khích hoặc sợ hãi. Sẽ không có gì xảy đến với anh cả. Đêm nay cũng giống như mọi đêm khác.
-Được rồi. Anh Dawson, anh ở đây với tôi – anh là người bạn tốt của tôi. Anh đi dạo với tôi một chút. Trước đây tôi chưa bao giờ hoảng loạn như thế này, mà đấy là tôi đã từng chịu nhiều cú kinh hoàng. Anh bạn già, anh có thể xoay sở được ít thứ gì để ăn không? Tôi nghĩ rằng thần kinh tôi quá yếu nên không thể làm hành khất được.
Vallance dẫn người đồng hành của anh lên gần đến Đại lộ Số Năm, rồi đi về hướng Tây dọc theo các đường Ba Mươi về phía Broadway. Anh bảo: “Chờ tôi ở đây trong vài phút”, rồi để Ide đứng chờ trong bóng tối ở một nơi yên tĩnh.
Anh bảo người đứng ở quầy:
-Jimmy, có một tên khốn khổ đang đứng bên ngoài, bảo là hắn đói, mà có vẻ đúng thế. Bạn biết họ sẽ làm gì nếu bạn cho tiền họ. Làm cho anh ta một ít bánh mì dồn thịt, rồi tôi đảm bảo hắn sẽ phải ăn.
-Được, ông Vallance. Chắc họ không giả vờ đâu. Không thích thấy ai bị đói kém.
Anh gói phần thức ăn hào phóng vào một tấm giấy lau miệng. Vallance mang ra cho người đồng hành của anh. Ide ăn ngấu nghiến. Anh ta nói:
-Cả năm nay tôi chưa có bữa ăn nào ngon đến thế này. Dawson, anh không ăn một tí à?
-Cảm ơn, tôi không đói.
-Chúng ta sẽ trở về công viên Square. Ở đấy mấy tên cớm sẽ không phiền nhiễu ta. Tôi sẽ để dành phần bánh và thịt nguội này cho bữa ăn sáng. Tôi không ăn nữa, tôi sợ tôi sẽ bị bệnh. Giả sử đếm nay tôi bị vọp bẻ hoặc chuyện gì đấy, rồi sẽ chẳng bao giờ được sờ đến món tiền ấy nữa. Còn đến mười một giờ đồng hồ mới đến lúc gặp ông luật sư ấy. Dawson, anh sẽ không bỏ tôi mà đi chứ? Tôi sợ có gì đấy xảy ra. Anh không phải đi đâu hết, phải không?
-Không, tôi không đi đâu cả đêm nay. Tôi sẽ bên anh ở băng ghế công viên.
-Anh có vẻ điềm tĩnh quá, nếu đúng như anh nói với tôi. Tôi nghĩ một người vừa bị mất một việc làm trả lương khá thì phải vò đầu bứt tóc.
Vallance cười:
-Tôi đã kể cho anh nghe rồi. Tôi vẫn nghĩ là một người đang chờ đón một gia tài ngày hôm sau đáng lẽ phải cảm thấy thoải mái và trầm lặng.
Ide triết lý:
-Dù sao cách con người đón nhận sự việc kể cũng kỳ khôi. Băng ghế của anh ở đây, Dawson, sát bên cái băng của tôi. Ở đây anh không bị ánh sáng chiếu vào mắt. Này, Dawson, khi tôi về nhà, tôi sẽ xin ông già viết thư giới thiệu anh với ai đấy để nhận anh vào làm. Tối nay anh đã giúp tôi rất nhiều. Tôi không nghĩ tôi sẽ qua khỏi đêm nay nếu không có anh.
-Cảm ơn. Ở đây anh ngủ ngồi hay là nằm?
Trong nhiều giờ, Vallance nhìn xuyên qua các cành lá, hầy như không nháy mắt, trông lên các vì sao, lắng nghe tiếng vó ngựa gõ sắc lẻm trên mặt biển tráng nhựa về phía nam. Đầu óc anh vẫn linh hoạt nhưng mọi cảm giác của anh đã im lìm. Mọi cảm xúc dường như đã bị xóa tan. Anh cảm thấy không hối tiếc, không sợ hãi, không đau đớn hoặc khó chịu. Ngay cả khi anh nghĩ về cô gái, đấy như thể là một cư dân ngụ trên một trong những vì sao xa tắp anh đang ngắm nhìn. Anh nhớ đến những trò hề phi lý của người bạn đồng hành và cười nhẹ, tuy thế vẫn có ý cợt đùa. Chẳng bao lâu sau, đội quân những xe goòng giao sữa hàng ngày đã biến cả thành phố thành một mặt trống mà theo đấy họ đều nhịp bước. Vallance thiếp ngủ trên băng ghế công viên không có chút tiện nghi nào.
Vào mười giờ sáng hôm sau, cả hai đứng trước cánh cửa văn phòng Luật sư Mead trên phố Ann.
Khi sắp đến giờ hẹn, thần kinh của Ide chưa bao giờ bị giao động đến thế, và Vallance không đành bỏ mặc anh ta làm mồi cho những mối nguy hiểm mà anh ta kinh sợ.
Khi cả hai bước vào văn phòng, Luật sư Mead ngỡ ngàng nhìn họ. Ông và Vallance là bạn cũ. Sau câu chào hỏi, ông quay sang Ide, lúc ấy mặt đang tái nhợt, chân run lẩy bẩy trước cơn khủng hoảng sắp xảy ra. Ông nói:
-Anh Ide, tôi qua tôi đã gửi lá thư đến địa chỉ của anh. Sáng nay tôi nghe nói là anh không có mặt ở đấy để tiếp nhận lá thư. Đấy là để báo tin cho anh rõ rằng ông Paulding đã xét lại ý định của ông về việc cho anh hưởng quyền thừa kế. Ông ấy đã quyết định không làm như thế, và muốn anh hiểu rằng sẽ không có sự thay đổi nào trong mối liên hệ giữa ông ấy và anh.
Ide thình lình không còn run rẩy nữa. Gương mặt anh trở lại hồng hào, anh đứng thẳng người lên. Cằm anh vươn ra phía trước một tí, mắt anh rạng sáng lên. Một tay anh chỉnh lại chiếc mũ đã nhầu nát, tay kia vươn ra về phía ông luật sư. Anh thở một hơi dài, rồi cười phá lên một cách nhạo bang. Anh nói lớn, rõ ràng:
-Bảo ông già Paulding là ông có thể chơi với quỷ sứ.
Rồi anh quay người đi ra khỏi văn phòng với bước chân vững chãi và nhanh nhẹn.
Luật sư Mead mỉm cười. Ông từ tốn:
-Tôi rất vui anh đã đến đây. Ông chú của anh muốn anh trở về nhà lập tức. Ông ấy nhìn nhận là ông đã có quyết định quá hấp tấp, và muốn nói là mọi việc sẽ như là…
Luật sư ngưng bặt, và lớn tiếng kêu người thư ký:
-Adams! Mang cho một cốc nước. Ông Vallance đã bất tỉnh.

Dấu vết của Bin Đen


Một người gầy lêu đêu, khoẻ mạnh, mặt đỏ rực, có cái mũi khoằm của tướng Oenlinhtơn, đôi mắt đã đỏ lại được đôi lông mi đỏ hoe tôn lên làm cho đỏ như cội, ngồi trên sân ga Lôt Pinôtx, hai chân đung đưa. Ngồi bên cạnh là một người to béo, trầm tư, dáng buồn, hình như họ là bạn thân của nhau. Họ mang dáng dấp của những người mà cuộc đời như một cái áo khoác mặc được cả hai mặt - mặt nào cũng là trái được.
- Không gặp cậu đến bốn năm nay rồi, Ham ạ, - người ủ rũ nói. - Cậu đi những đâu thế?
- Bang Têchdát, - người mặt đỏ nói. - Ở Alaxka lạnh lắm, còn ở Têchdát tôi thấy ấm áp. Tôi sẽ kể cậu nghe về một vụ nóng mà tôi đã trải qua ở đó.
*
* *
Vào một buổi sáng, tôi xuống xe tốc hành bên một hồ chứa nước và để mặc cho xe đi tiếp không cần có tôi. Chỗ đây là một trang trại nhà cửa nhiều hơn ở thành phố Niu-Yooc. Chỉ có điều người ta xây cách xa nhau khoảng hai chục dặm để có ngồi ăn thì nhà khác không ngửi thấy mùi, còn hơn là chỉ xây cách cửa nhà ông hàng xóm một tí.
Chẳng thấy đường sá gì cả, vì vậy tôi đành phải cuốc bộ qua đồng quê. Cỏ mọc lún mắt cá chân và cây mexkit mọc trồng như một vườn đào. Trông hệt như cơ ngơi của một nhà quý tộc, nên lúc nào ta cũng có cảm tưởng bị đàn chó xồ ra đớp. Phải đi mất đến hai mươi dặm tôi mới nhìn thấy một căn nhà nhỏ, to độ bằng một nhà ga nổi.
Dưới gốc cây trước cửa nhà có một người nhỏ bé mặc áo sơ mi trắng và bộ quần áo lao động màu nâu, cổ thắt một chiếc khăn tay màu hồng.
“Xin chào”, tôi nói. “Có gì cho uống, tiền thù lao hay một công việc cho một người khách tương đối lạ hay không?”
“Ồ, xin mời vào”, người đó nói, giọng nghe tao nhã. “Xin mời ngồi xuống cái ghế đẩukia. Tôi không nghe thấy có tiếng ngựa”.
“Còn xa”, tôi nói. “Tôi đi bộ đến đây. Tôi không muốn phiền ông, nhưng giá ông cho tôi xin xô nước thì tốt quá”
“Trông anh bẩn ghê”, ông ta nói, “mà việc thu xếp để tắm thì…”
“Tôi chỉ cần nước để uống thôi”, tôi nói. “Ồ, bụi bặm bên ngoài, ngại gì”.
Ông ta lấy cho tôi độ một môi nước ở trên cái bình đỏ treo lủng lẳng, rồi nói tiếp:
“Ông cần có việc làm à?”
“Tạm thời thôi”, tôi nói. “Nơi này kể cũng khá vắng vẻ đấy nhỉ?”
“Đúng vậy”, ông ta nói. “Đôi lúc, người ta nói, có đến hàng tuần cũn không có một mống nào qua lại. Tôi mới ở đây có một tháng nay. Tôi mua cái trang trại này của một người định cư cũ. Ông ta muốn chuyển xa hơn nữa về phía tây”.
“Rất hợp với tôi”, tôi nói. “Yên tĩnh và an trí đôi lúc cũng tốt cho con người ta đấy. Nhưng tôi cần một việc làm. Tôi biết phục vụ bar, các mỏ muối, giảng bài, phát hành cổ phiếu, đấm bốc ở hạng trung, và chơi đàn pianô”.
“Anh biết chăn cừu chứ?”, viên chủ trại nhỏ bé hỏi.
“Ý ông muốn hỏi tôi đã chăn cừu chưa chứ gì?”, tôi hỏi.
“Anh có biết chăn không? Nghĩa là quản lí đàn cừu ấy?”, ông ta nói.
“Ồ”, tôi nói, “tôi hiểu ra rồi. Ý ông muốn nói là xua chúng và sủa chúng như chó côli sủa chứ gì. Ồ, tôi làm được”, tôi nói. “Thực ra tôi chưa bao giờ đi chăn cừu cả, nhưng qua cửa ô tô cũng thường hay nhìn thấy chúng nhai hoa cúc, trông không có gì dữ tợn cả nhỉ!”.
“Tôi thiếu một người chăn cừu”, viên chủ trại nói. “Đừng có bao giờ trông cậy gì được người Mêhicô đâu. Tôi chỉ có hai đàn cừu thôi. Buổi sáng anh đưa khoảng tám trăm con đi chăn cho tôi, có đáng mấy. Tôi trả anh hai mươi đôla một tháng và bao thêm cả ăn uống. Anh ở trong trại lều trên đồng cỏ với đàn cừu. Anh thổi nấu lấy, nhưng tôi cho người mang củi và nước đến cho anh. Công việc cũng chả có gì là vất vả”.
“Tôi đồng ý”, tôi nói. “Tôi xin nhận việc đó, dù cho tôi có phải quàng quanh trán một vòng hoa, tay bám vào cái gậy, mặc quần áo thụng và chơi kèn ống như những người chăn cừu trong các bức ảnh”.
Vậy là đến sáng hôm sau, viên chủ trại nhỏ bé giúp tôi dẫn đàn cừu từ bãi quây đến gặm cỏ bên sườn đồi nhỏ trên đồng cỏ cách đấy độ hai dặm. Ông ta dạy tôi nhiều điều, nào là đừng có để từng đám cừu tách khỏi đàn, nào là đến trưa phải đưa chúng về máng nước để uống nước.
“Tôi sẽ cho xe chở lều bạt, các đồ để cắm trại và thức ăn đến cho anh vào trước lúc trời tối”, ông ta nói.
“Được”, tôi nói. “Mà đừng có quên thức ăn đấy, cả các đồ cắm trại nữa. Nhớ mang cả lều nhé. Tên ông là Zôlicophơ phải không?”.
“Tên tôi là”, ông ta nói, “là Henri Ogđen”.
“Ồ, vậy là ông Ogđen”, tôi nói. “Tên tôi là Pecxivan Xanh Cơle”.
Tôi chăn đàn cừu được năm ngày ở trang trại Chikitô, lông cừu thấm cả vào lòng tôi. Con người mình sống hầu như gần với thiên nhiên. Tôi trở nên cô đơn hơn cả con dê của Cruxô (1). Tôi đã từng gặp bao người bạn đường thú vị hơn những con cừu đó. Tối tối tôi lùa chúng về bãi quây và nhốt chúng ở đó, rồi nấu ăn, có bánh ngô, thịt cừu và cà phê, sau đó vào nằm ngủ trong một cái lều to bằng cái khăn trải bàn, nghe chó sói sủa và chim đớp muỗi hót quanh lều. Đến buổi tối của ngày thứ năm, sau khi tôi đưa lũ cừu đắt tiền mà tẻ nhạt đó vào bãi quây, tôi đi về khu nhà trại và bước vào cửa.
“Ông Ogđen”, tôi nói, “tôi và ông cần phải đánh bạn với nhau. Lũ cừu cũng làm đẹp cho phong cảnh và giúp làm nên những bộ quần áo lông trị giá tám đôla cho con người đấy, nhưng để chuyện trò tâm đầu ý hợp, thì chúng chỉ ngang hàng những vật vô tích sự. Nếu ông có bộ bài hay cờ, hay sách thì mang ra đây cho chúng ta hoạt động trí óc một tí. Tôi phải làm một việc gì đó về mặt trí tuệ, dù chỉ là đấu trí, với ai đó”.
Tay Henri Ogđen này là một chủ trại kì quái. Hắn ta đeo nhẫn và một cái đồng hồ vàng to bự, cổ đeo cà vạt cẩn thận. Bộ mặt hắn lúc nào cũng trầm tĩnh và cặp kính kẹp ở mũi lúc nào cũng bóng loáng. Có một lần ở Muxcôghi tôi đã nhìn thấy một kẻ ngoài vòng pháp luật bị treo cổ vì đã giết chết sáu người, tên này trông giống hệt hắn ta. Nhưng tôi lại còn biết một cha cố ở Ackandat, anh mà nhìn cứ tưởng đấy là ông anh hắn. Dù gì cũng mặc xác hắn; điều tôi cần là muốn có bạn cùng chung vui, dù là thánh thần hay là những kẻ tội lỗi không còn hi vọng hoán cải cũng mặc, không phải cừu là được.
“Ồ, ông Xanh Cơle”, hắn nói, đặt quyển sách đang đọc xuống. “Tôi nghĩ lúc đầu anh thấy hơi cô độc đấy. Mà tôi cũng không chối rằng tôi cũng thấy đơn điệu. Anh đã lùa cừu vào bãi quây cả rồi phải không? Không lạc mất con nào đấy chứ?”
“Chúng bị nhốt nghiêm ngặt như là một ban hội thẩm xử một tên giết nhà triệu phú”, tôi nói. “Và tôi sẽ quay lại ngay, trước khi cô y tá có qua lớp đào tạo đến”.
Vậy là Ogđen tráo bài và chúng tôi cùng chơi. Năm ngày năm đêm ở ngoài trại chăn cừu qua đi tựa như một tiếng còi ô tô trên đường Brôtuây. Lúc tôi thắng ván to, tôi cảm thấy hồi hộp như mình thắng đến hàng triệu đôla ở Tơriniti. Rồi hắn có vẻ hơi thoải mái nên ngồi kể chuyện về người đàn bà trên toa xe lửa làm tôi cười đến năm phút.
Điều đó chứng tỏ đời đâu có phải là cái gì tuyệt đối. Người ta mà nhìn đủ thứ chán mắt quá thì chẳng buồn quay đầu lại nhìn ngôi biệt thự bừng sáng ánh đèn trị giá đến ba triệu đôla hoặc ngắm biển Ađriatic. Nhưng cứ để hắn ta đi chăn cừu một vụ đi, và ta sẽ thấy hắn ta cười đến vỡ bụng trước bài ca “Tối nay lệnh giới nghiêm không ban hành”, hay thoả thích chơi bài với các bà các cô.
Dần dà Ogđen lôi ra một bình rượu buôcbông, và thế là đàn cừu bị lãng quên hẳn.
“Anh có nhớ đã đọc các báo cách đây một tháng”, hắn nói, “về một vụ tống tiền trên tàu thuộc Công ty Xe lửa K.T. không? Nhân viên an ninh của chuyến tàu bị bắn lủng cả vai và mất khoảng mười lăm nghìn đôla. Người ta đồn chỉ có một người hành động”.
“Hình như tôi có nhớ”, tôi nói, “nhưng những chuyện như thế xảy ra thường xuyên đến nỗi chẳng bao giờ ở lại lâu trong đầu người Têchdát. Thế họ có đuổi theo và tóm được tên ăn cướp không?”.
“Hắn chạy thoát”, Ogđen nói. “Và hôm nay tôi vừa đọc đến tin nói các viên cảnh sát đã truy lùng hắn ta đến tận nơi xó xỉnh này. Hình như tiền mà tên cướp cướp được đều là loại tiền phát hành lần đầu tiên của Nhà băng quốc gia Thứ hai của thành phố Expinôda. Người ta đã theo dõi dấu vết xem tiền đó được tiêu ở đâu, dấu vết ấy đưa họ theo lối này”.
Ogđen rót thêm rượu và đẩy cái chén đến chỗ tôi.
“Tôi thiết nghĩ”, tôi nói, sau khi uống một hơi cạn chút rượu ngon tuyệt vời, “tên cướp tàu hoả nào mà không chạy xuống ẩn náu ở đây một thời gian ngắn thì chẳng khôn ngoan chút nào. Một trang trại nuôi cừu bây giờ là nơi ẩn náu tuyệt nhất đấy. Ai ngờ được một kẻ đầu trâu mặt ngựa lại ở chỗ những con chim hót, đàn cừu và những đám hoa dại này cơ chứ? Nhân tiện đây”, tôi nói, nhìn khắp lượt H. Ogđen, “người ta có tả diện mạo tên khủng bố đơn thương độc mã đó không? Nét mặt hắn ra sao, cao hay thấp, béo hay gầy, răng như thế nào, quần áo kiểu gì, họ có in những cái đó trên báo không?”.
“Ồ, không”, Ogđen nói, “không ai nhận được mặt hắn ta vì hắn ta đeo mặt nạ. Nhưng họ biết tên cướp đó tên là Bin Đen, vì hắn luôn hành động một mình, và vì hắn đánh rơi chiếc khăn tay trên chuyến tàu tốc hành có ghi tên hắn trên đó”.
“Tôi cũng đồng ý với Bin Đen là nên chạy về các khu trại nuôi cừu. Đố ai tìm được hắn ta”.
“Người ta treo giải một nghìn đôla nếu ai bắt được hắn đấy”, Ogđen nói.
“Tôi không cần loại tiền ấy”, tôi nói, nhìn thẳng vào mặt người chủ cừu. “Một tháng ông trả cho tôi hai mươi đôla là đủ rồi. Tôi cần nghỉ ngơi, vả lại tôi có thể dành dụm đến khi đủ tiền để trả tiền tàu đi Techxakana, nơi bà mẹ goá bụa của tôi đang sống. Nếu Bin Đen”, tôi nói tiếp, nhìn Ogđen đầy ý nghĩa, “mà đi theo con đường này, giả dụ cách đây độ một tháng và mua một trang trại nuôi cừu và…”.
“Câm họng đi”, Ogđen nói, nhảy phắt khỏi ghế và nhìn dữ tợn. “Có phải anh định ám chỉ…”.
“Không”, tôi nói, “không ám chỉ gì hết. Cứ coi như một liều tiêm dưới da thôi. Tôi nói giả dụ Bin Đen mà đến đây và mua một trại nuôi cừu, đối xử với tôi thẳng thắn và tử tế như ông đây, thì ông ta chẳng có gì phải sợ tôi. Người vẫn là người, dù cho anh ta có mắc mứu gì với cừu hay với tàu hoả cũng không sao. Bây giờ ông biết lập trường của tôi rồi”.
Ogđen nhìn, mặt xám ngoét như món cà phê phải uống cho nhanh ở ngoài lều trại, rồi cười vui vẻ.
“Đúng, anh sẽ làm như vậy, Xanh Cơle ạ”, hắn nói. “Nếu tôi có là Bin Đen, tôi hoàn toàn tin ở anh, không có gì phải lo cả. Tối nay chúng ta chơi độ một, hai ván thôi. Ồ mà nếu anh thấy không có gì đáng ngại phải chơi với một tên cướp”.
“Tôi đã nói với ông tình cảm của tôi, không có gì mờ ám trong tình cảm đó cả”, tôi nói.
Trong lúc tôi còn đang chia bài sau ván thứ nhất, tôi hỏi Ogđen, làm như vô tình là hắn ta từ đâu tới.
“À”, hắn ta nói, “từ thung lũng sông Mitxixipi”.
“Chốn ấy cũng đẹp đấy chứ”, tôi nói. “Tôi cũng thường hay dừng chân ở đấy. Nhưng ông có thấy là ở đấy khá ẩm ướt, thức ăn thức uống nghèo nàn không? Tôi từ bờ Thái Bình Dương đến đây. Ông đã ở đấy bao giờ chưa?”.
“Chỉ rặt gió là gió”, Ogđen nói. “Nhưng nếu anh có đến miền Trung Tây, chỉ cần nhắc đến tôi là có chỗ sưởi chân và được uống cà phê phin ngay”.
“Ồ được”, tôi nói, “tôi không đi tìm số điện thoại riêng của ông và cái tên đệm giữa của bà cô đã quyến rũ viên mục sư giáo hội Trưởng lão Kămbơlen đâu. Không sao. Tôi chỉ muốn ông biết là ông được an toàn trong bàn tay của người chăn cừu của ông. Này, đừng có lấy quân cơ đánh quân bích, mà đừng có lo lắng thế”.
“Cứ lải nhải mãi”, Ogđen nói, lại cười. “Thế anh không cho rằng nếu tôi là Bin Đen và nghĩ rằng anh nghi ngờ tôi, mà trong tay tôi lại có viên đạn súng Uynchextơ thì tôi kết liễu đời anh và chấm dứt sự lo lắng của tôi sao?”.
“Không”, tôi nói. “Một người mà đã có gan cướp đoàn tàu một cách đơn độc không bao giờ lại chơi xỏ nhau thế cả. Tôi đã từng sống lang thang đây đó nên biết họ là loại người biết đánh giá bạn bè. Hơn nữa, tôi đâu dám coi mình là bạn của ông, ông Ogđen ạ. Tôi chỉ dám coi mình là người chăn cừu của ông thôi; nhưng trong những hoàn cảnh thuận lợi hơn, biết đâu chúng ta có thể là bạn của nhau rồi”.
“Tôi yêu cầu tạm thời hãy quên đàn cừu đi”, Ogđen nói. “Thôi chia bài đi”.
*
* *
Khoảng bốn ngày sau, trong lúc đàn cừu của tôi đang nghỉ trưa trên vũng nước, còn tôi đang lúi húi tranh thủ pha ấm cà phê, bỗng có một người bí mật đi nhẹ nhàng trên cỏ, mặc bộ quần áo mà người đó muốn tỏ ra mình là ai. Quần áo anh ta ở điểm trung gian giữa một thám tử thành phố Kandát, một ông bầu gánh xiếc, và một người được cửa ra nhốt chó cho thành phố Batôn Rugiơ. Cằm và mắt anh ta biểu hiện tư thế chiến đấu, do đó tôi biết người đó chỉ là một gã mật vụ.
“Chăn cừu hả?”, người đó hỏi tôi.
“Vâng”, tôi nói, “trước một con người tinh đời như ông, tôi không dám nói mình làm việc đánh bóng đồng thau hay tra dầu mỡ cho xe đạp”.
“Trông cách ăn nói và dáng dấp của anh không có vẻ gì là người chăn cừu cả”, người đó nói.
“Nhưng ông nói thì tôi đoán ngay ra ông là ai”, tôi nói.
Rồi người đó hỏi tôi đang làm việc cho ai, tôi liền chỉ tay về phía trang trại Chikitô cách đấy độ hai dặm núp dưới bóng một ngọn đồi thấp, sau đó người đó bảo với tôi rằng ông ta là phó cảnh sát quận.
“Có một tên cướp tàu tên là Bin Đen hiện nay đang ẩn nấp đâu đây”, gã cảnh sát nói. “Hắn bị truy lùng đến tận Xan Antôniô và có thể còn xa hơn nữa. Thế anh có nhìn hay nghe thấy kẻ lạ mặt nào quanh đây vào tháng trước không?”
“Không”, tôi nói, “trừ có một thông báo về một người ở khu Mêhicô của trại Lumitx trên sông Phơriô”.
“Anh biết gì về người đó?”, viên cảnh sát lại hỏi.
“Chẳng hay biết tí gì”, tôi nói.
“Người mà anh đang làm thuê trông ra sao? Ông già Gioocgiơ Rami còn sở hữu cái khu này không? Ông ta nuôi cừu ở đây đã mười năm rồi, nhưng chưa bao giờ làm ăn phát đạt cả”.
“Ông già đã bán khu này và đi về Miền Tây rồi”, tôi nói. “Một người ưa chuộng chuyện nuôi cừu khác đã đến mua khu này cách đây một tháng”.
“Trông ông ta thế nào?”, viên cảnh sát phó gặng hỏi.
“Ồ”, tôi nói, “đó là một người gốc Hà Lan to béo, ria để dài và đeo kính râm. Theo tôi ông ta chẳng biết gì về cừu đâu. Tôi nghĩ ông già Gioocgiơ cũng bán cho ông ta với cái giá cắt cổ đấy”, tôi nói.
Sau khi tôi cung cấp cho ông ta những tin chẳng ra đâu vào đâu và ăn gần hết bữa cơm thì ông ta cưỡi ngựa đi.
Tối hôm đó, tôi nói lại chuyện đó cho Ogđen nghe.
“Họ đang lần dấu vết của Bin Đen”, tôi nói. Sau đó tôi kể cho ông ta nghe về viên phó cảnh sát, cách tôi tả hình dáng của ông ta cho viên cảnh sát nghe và viên cảnh sát phó đã có ý kiến gì về vấn đề này.
“Ồ, hay lắm”, Ogđen nói, “thôi chúng ta đừng có chuốc lấy rắc rối của Bin Đen làm gì. Chúng mình có mấy người với nhau thôi mà. Anh vào lấy trong tủ bupphê ra đây chai buôcbông và ta hay uống chúc sức khoẻ cho ông ta - trừ phi”, ông ta nói, cười khúc khích, “anh thành kiến với những người ăn cướp trên tàu”.
“Tôi sẽ uống chúc ai có lòng mong muốn người với người là bạn”, tôi nói. “Và tôi tin rằng Bin Đen sẽ là người như vậy. Bây giờ tôi xin nâng cốc chúc Bin Đen, chúc anh ta gặp may mắn”.
Cả hai chúng tôi nâng cốc uống.
*
* *
Hai tuần sau đến thời kì xén lông cừu. Cừu được đưa đến trại và nhiều người Mêhicô đầu tóc bù xù đến, dùng kéo cắt ngược lông. Vì vậy, vào chiều hôm trước khi những người thợ đó đến, tôi lùa vội những con cừu chưa xén lông qua đồi, rồi qua thung lũng nhỏ, xuống con suối ngoằn ngoèo rồi lại leo ngược lên khu trại, sau đó nhốt chúng vào bãi quây và chào tạm biệt chúng. Lúc đó trời đã tối.
Tôi về khu trại, thấy H. Ogđen đang nằm ngủ trên một chiếc gi.ường nhỏ. Tôi nghĩ có lẽ hắn ta bị cơn bệnh ngủ nhiều, còn gọi là phản mất ngủ, hay một số bệnh chỉ có làm nghề nuôi cừu mới có. Mồm và áo vét của hắn đều mờ và hắn thở như cái bơm xe đạp cũ. Tôi nhìn vào hắn ta và thả cho những ý nghĩ ngộ nghĩnh có dịp bộc lộ. “Hoàng đế Xêda cũng ngủ như thế thôi, chỉ có điều phải ngậm mồm, cho gió khỏi lọt vào mà thôi”.
Người đàn ông nằm ngủ rõ ràng là cảnh khiến cho các thiên thần phải khóc. Không hiểu tất cả những thứ như trí óc, cơ bắp, sống lưng, thần kinh, sự ảnh hưởng và những mối quan hệ gia đình còn ý nghĩa gì không? Anh ta nằm phó mặc vận mệnh cho kẻ thù, còn hơn thế, cho bạn bè định đoạt. Và anh ta đẹp gần như là con ngựa kéo xe đứng gần rạp hát thành phố vào lúc mười hai giờ rưỡi sáng, mơ về những cánh đồng Ả Rập. Còn người đàn bà nằm ngủ ta thấy khác hẳn. Dù cho mặt mũi cô nàng có trông như thế nào, ta vẫn cứ muốn nhìn cô ta nằm nguyên như thế càng lâu càng tốt.
Sau đó tôi cạn một chén rượu buôcbông và một chén khác vì Ogđen, rồi rúc vào nhà nghỉ, kệ cho hắn đánh một giấc trưa. Trên bàn hắn để vài cuốn sách về những chủ đề xa lạ như Nhật Bản, cống rãnh, thể dục - và một ít thuốc lá sợi, mà có lẽ cái sau cùng mới là cái chính.
Ngồi hít mấy hơi thuốc và nghe H. Ogđen thở phì phò, tôi vô tình nhìn ra ngoài cửa sổ về phía bãi quây cừu, nơi có một con đường mòn tiếp con đường chạy qua một thung lũng con ở phía xa.
Tôi thấy có năm người đang cưỡi ngựa về phía căn nhà. Tất cả đều quàng súng qua yên ngựa, trong đó có cả viên cảnh sát phó mà tôi đã nói chuyện ngoài trại.
Họ tiến cẩn thận, theo đội hình tấn công, súng lăm lăm. Đặc biệt tôi nhìn chăm chú vào một người tôi tin chắc đấy là ông trùm của đội kị binh giữ gìn an ninh trật tự này.
“Xin chào các ngài”, tôi nói. “Xin mời các ngài xuống ngựa”.
Ông trùm cưỡi ngựa tiến sát đến chĩa họng súng vào mũi tôi.
“Không được động đậy, sau khi ngươi và ta đã có một cuộc trao đổi cần thiết”.
“Tôi sẽ không động đậy”, tôi nói. “Tôi không câm điếc, vì vậy không việc gì phải cưỡng lại lệnh của ngài”.
“Chúng tôi đang truy lùng Bin Đen, kẻ đã cướp mười lăm nghìn đôla trên tàu của Công ty K.T. vào tháng năm. Chúng tôi đang đi lục soát các trang trại và mọi người ở đây. Tên anh là gì và anh làm gì trên cái trại này?”.
“Thưa đại uý”, tôi nói, “Pecxivan Xanh Cơle là nghề của tôi và tên tôi là chăn cừu. Tôi chăm đàn bê, à không đàn cừu, tôi nay được mang nhốt ở đây. Những người kiểm soát ngày mai sẽ đến để xén lông, bằng rư… ợu thì phải”.
“Ông chủ trại này đâu?”, viên đại uý hỏi.
“Xin ngài chờ một tí, ngài đại uý”, tôi nói. “Thế không có giải thưởng cho ai bắt được kẻ liều lĩnh mà ngài có nói trong lời nói đầu của ngài à?”.
“Có treo giải một nghìn đôla”, viên đại uý nói, “nhưng đấy là thưởng cho ai bắt và đem hắn ra nộp. Chứ không có điều khoản nào nói về việc thưởng cho ai chỉ điểm cả”.
“Trời trông như ngày một ngày hai nữa thì mưa ấy”, tôi nói, mệt mỏi nhìn lên bầu trời xanh.
“Nếu anh biết địa điểm, tính tình hay cái mật danh của tên Bin Đen này”, ông ta nói nghiêm nghe đặc giọng địa phương, “mà không bẩm báo thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”.
“Tôi có nghe thấy một người chăn ngựa”, tôi nói, giọng không được mạch lạc, “kể là có một người Mêhicô bảo với cậu bé chăn bò tên là Giêch bên cửa hàng ở phố Nuetx rằng ông ta có nghe thấy người anh họ của một người chăn cừu nói đã nhìn thấy Bin Đen ở Matômorat cách đây hai tuần”.
“Nghe tôi nói đây, anh chàng Miệng Ngậm Tăm ạ”, viên đại uý nói, nhìn tôi một lượt rồi mặc cả, “nếu anh chỉ cho chúng ta tóm được Bin Đen, ta sẽ lấy tiền túi của ta, à của bọn ta thưởng anh một trăm đôla. Thế là hào phóng rồi đấy. Anh chẳng mất cái gì cả. Nào, nói đi”.
“Đặt tiền ra chứ”, tôi hỏi.
Viên đại uý bàn bạc gì đó với những người cùng đi, rồi sau đó tôi thấy họ dốc túi ra. Kết quả họ có tất cả một trăm linh hai đồng ba hào tiền mặt và thuốc lá bánh trị giá ba mươi mốt đôla.
“Lại gần đây, đại uý”, tôi nói, “và nghe đây”. Viên đại uý tiến lại gần.
“Tôi nghèo rớt và là kẻ hèn hạ ở trên đời này”, tôi nói. “Tôi làm việc để mong kiếm mỗi tháng mười hai đôla, chăn đàn súc vật, mà bọn cừu này lúc nào cũng chỉ nghĩ làm sao tách nhau ra thôi, dù cho tôi có tự cho mình có gì khấm khá hơn cái bang Nam Đacôta thì cũng thấy vận mình sa sút, từ xưa đến nay chỉ tiếp xúc với cừu dưới dạng những miếng thịt sườn. Sở dĩ có cái cảnh bĩ cực ấy cũng là do những tham vọng của mình bị tan thành mây khói, tại đủ các loại rượu người ta bày suốt dọc đường trên tàu của Công ty Đường sắt PRR từ Xkrantơn đến Xinxinati, nào rượu rum, nào rượu gin, nào vécmút Pháp, ông ạ. Nếu ông có đi theo con đường ấy, đừng quên thử xem sao. Vả lại tôi không bao giờ phản thùng bạn bè cả. Tôi ở bên họ khi họ dư dật, và khi vận nghịch đến với tôi, tôi cũng không bao giờ bỏ rơi họ”.
“Nhưng”, tôi nói tiếp, “đây hoàn toàn không phải trường hợp một người bạn. Mười hai đôla một tháng chỉ là món tiền gọi là quen thuộc sơ sơ thôi. Tôi cũng không coi những hạt đậu nâu và bánh ngô là thức ăn của tình bạn. Tôi là kẻ nghèo”, tôi nói, “và tôi có một mẹ già goá bụa ở Techxacana. Ngài sẽ tìm thấy Bin Đen đang nằm ngủ trong căn nhà này, trên một cái gi.ường con trong buồng về phía bên phải ngài. Đó chính là người ngài cần, vì qua lời nói và những buổi nói chuyện tôi biết đúng hắn ta rồi. Hắn ta cũng phần nào đó gọi là bạn được”, tôi giải thích, “và nếu tôi là con người trước kia thì toàn bộ sản phẩm của các khu mỏ vàng Gônđôla cũng chẳng quyến rũ nổi tôi phản bội hắn ta. Nhưng hàng tuần có đên một nửa số đậu tôi ăn có sâu và đêm không có đủ củi sưởi ngoài lều trại”.
“Nên đi vào cẩn thận, các ngài ạ”, tôi nói, “có những lúc hắn ta có vẻ rất sốt ruột và khi ta mà nghĩ đến hành động ăn cướp chuyên nghiệp vừa qua của hắn, chắc ta sẽ có những hành động kịp thời nếu đột nhiên bắt gặp hắn”.
Toàn đội cảnh sát xuống ngựa và buộc ngựa lại, sau đó tháo vũ khí đạn dược ra, rón rén đi vào nhà. Còn tôi thì đi theo, cứ như nàng Đalila phản bội, nộp Xamxơn cho những tên Philixtanh.
Viên đội trưởng lay lay đánh thức Ogđen dậy. Và khi hắn chồm dậy, thêm hai người đi săn giải thưởng nữa tiến đến tóm hắn. Mảnh khảnh vậy mà hắn rất khoẻ và hắn dùng chân đánh bạt cả viên cảnh sát đi, trông ngon lành chưa từng thấy.
“Thế này là thế nào?”, hắn nói, sau khi họ lôi hắn xuống.
“Ông đã bị bắt, ông Bin Đen ạ”, viên đại uý nói. “Chỉ có thế thôi”.
“Đây là một sự xúc phạm trắng trợn”, H. Ogđen nói, càng vùng vẫy điên cuồng hơn.
“Đúng vậy”, con người ưa chuộng hoà bình và có thiện chí nói. “Đoàn tàu của Công ty K.T. không làm phiền ông, nhưng còn có luật để chống lại việc táy máy những cái gói tiền trên chuyến tàu tốc hành chứ?”
Sau đó ông ta ngồi lên bụng Ogđen và lần lượt sờ khắp các túi của hắn một cách cẩn thận.
“Tôi sẽ làm cho các ông phải toát mồ hôi ra vì chuyện này”, Ogđen nói, người hắn cũng thấy toát mồ hôi. “Tôi sẽ chứng minh tôi là ai”.
“Ta cũng có thể làm được”, viên đại uý nói, khi ông ta rút từ trong túi áo khoác của H. Ogđen một nắm đầy những tiền mới toanh của Nhà băng Quốc gia Thứ hai của thành phố Expinôda. “Những thiếp mời in nổi vào ngày thứ ba và thứ sáu của nhà ngươi cũng không thể chứng minh hùng hôn bằng những đồng tiền này. Bây giờ ngươi có thể ngồi dậy và chuẩn bị đi theo chúng tao đến nơi thanh toán tội ác của ngươi”.
Ogđen đứng dậy, nắn lại khăn quàng cổ. Sau đó hắn không nói gì nữa khi họ đã lấy hết tiền khỏi người hắn.
“Một ý đồ vô cùng trơn tru”, viên đại uý nói, tỏ vẻ tán thưởng. “Xuống ẩn náu tại nơi này và mua một trại cừu nhỏ để không ai có thể tìm ra tung tích. Thật là một nơi ẩn náu khôn ngoan nhất đấy”.
Rôi một viên cảnh sát đến chuồng xén lông, lùng được một người chăn cừu khác, một người Mêhicô tên gọi là Giôn Xali, bảo anh ta đóng yên ngựa của Ogđen, sau đó tất cả cảnh sát cưỡi ngựa sát quanh hắn, súng lăm lắm trong tay, chuẩn bị đưa tù nhân về thành phố.
Trước khi lên đường, Ogđen trao cái trại cho Giôn Xali cai quản và bảo anh ta xén lông cừu, dẫn đàn cừu đi gặm cỏ ở đâu, cứ như hắn ta có ý định đôi ba ngày nữa sẽ quay lại. Và một hai giờ sau người ta có thể thấy một Pecxivan Xanh Cơle, một người chăn cừu cũ của trang trại Chikitô, có một trăm đôla tiền lường và tiền thưởng ở trong túi, cưỡi trên con ngựa khác của trại đó về phía nam.
*
* *
Người mặt đỏ dừng lại và lắng nghe. Tiếng còi của chuyến tàu hàng vang lên xa xa giữa những khu đồi thấp.
Người béo tốt, buồn bã ngồi bên cạnh khịt khịt mũi, rồi từ từ lắc cái đầu bẩn một cách khinh miệt.
“Gì thế, Xnipi?”, người kia hỏi. “Lại buồn chán gì rồi?”.
“Không phải”, người buồn trả lời, lại khịt khịt mũi. “Nhưng tôi không thích câu chuyện của cậu. Tôi và cậu là bạn của nhau, tuy rằng có những lúc xa nhau, trong mười lăm năm trời; và tôi chưa bao giờ nghe chuyện cậu đi khai báo người khác cho pháp luật cả - một người cũng chưa. Vậy mà đây lại là một người đã cho cậu ăn và đã ngồi bên chiếu bạc, cứ cho là thế đi, đánh bạc với cậu. Thế mà cậu lại đi bẩm báo người đó để được tiền thưởng. Tôi nghĩ, cậu chẳng bao giờ lại như thế cả”.
“Sau này tôi có nghe nói rằng anh chàng H. Ogđen”, người mặt đỏ kể tiếp, “nhờ có một luật sư và nhờ vào những điều luật khác, đã chối phăng lúc đó mình không có mặt ở đấy và anh ta đã vô tội. Anh ta đã giúp tôi, vậy mà tôi lại ghét anh ta và khai báo anh ta”.
“Thế còn những đồng tiền họ tìm thấy ở trong túi anh ta thì sao?”, người buồn hỏi.
“Tôi để vào đấy”, người mặt đỏ trả lời, “trong lúc anh ta đang ngủ, vì tôi thấy có cảnh sát đang đi ngựa lại. Tôi mới là Bin Đen, Xnipi, tàu đến kia rồi! Chúng ta lên ngồi ở chỗ h.ãm xung trong lúc tàu còn lấy nước đi!”

Chú thích:
(1) Nhân vật trong tiểu thuyết Robinson Crusoe của Daniel Defoe, bị lạc trên hoang đảo
 
×
Quay lại
Top