Truyện thành ngữ, tục ngữ

linhhang89

Thành Viên Tiêu Cực
Thành viên thân thiết
Tham gia
23/6/2010
Bài viết
303
Chuyện ếch ngồi đáy giếng​
c.gif


Có một con ếch sống trong một chiếc giếng nông, ngày nào cũng rất vui vẻ. Một hôm, nó nói với một con ba ba từ biển Đông Hải đến rằng: “Tôi sung sướng biết bao, đi ra ngoài chơi, chỉ nhảy nhót trên lan can thành giếng, về nghỉ thì nằm trong vách giếng đã cũ nát; khi giẫm xuống bùn, bùn chỉ ngập đến đôi chân của tôi, nhìn những chú sâu, con cua và nòng nọc, chúng làm sao bì được với tôi, hơn nữa tôi một mình chiếm một vũng nước, muốn nhảy thì nhảy, muốn nghỉ thì nghỉ, quả là rất sướng. Anh cớ sao không xuống đây tham quan xem sao ?”
Con ba ba biển chân trái còn chưa bước vào giếng, chân phải đã bị mắc vào vách giếng. Do đó nó lui trở ra, kể chuyện biển cả với ếch. Ba ba biển nói: “Đường xa nghìn dặm anh thấy có xa không, nhưng nó không thể hình dung được sự rộng lớn của biển; thiên nhẫn quả thực rất cao, thế nhưng nó không thể hình dung nổi độ sâu của biển. Thời Hạ Vũ, mười năm có chín năm xảy ra nạn lũ lụt, thế nhưng nước biển cũng không tăng nhiều lên; Thời Thương Thang, tám năm thì có bảy năm hạn hán, thế nhưng nước biển cũng không giảm xuống. Ôi biển cả vĩnh hằng, nó không thay đổi bởi thời gian dài hay ngắn, cũng không lên xuống vì lượng mưa nhiều hay ít. Đây mới là sự sung sướng lớn nhất của việc ở trong biển Đông Hải.”
Ếch trong giếng nông nghe lời nói của ba ba biển, hốt hoảng lo sợ, hai mắt trố to như mất thần, cảm thấy mình quá ư nhỏ bé.
Chuyện ngụ ngôn này khuyên bảo mọi người, chớ nên vì hiểu biết nông cạn mà dương dương tự đắc, chớ nên vì công lao cỏn con mà đắc chí.


Trong "Truyện ngụ ngôn Việt Nam" có câu chuyện kể về một chú ếch hợm hĩnh, nông nổi, đáng thương.
Số là, có một con ếch, do sự ngẫu nhiên nào đó, ngay từ khi sinh ra đã ở trong một cái giếng nọ. (Cũng có thể không phải do ngẫu nhiên mà còn là do sở thích của họ hàng nhà ếch nữa. Chả thế trong kho tàng thành ngữ, tục ngữ Việt Nam có câu: Giếng đâu thì ếch đó). Sống cùng với ếch ở trong giếng chỉ có vài con nhái, cua, ốc nhỏ. Từ dưới đáy giếng nhìn lên ếch ta chỉ nhìn thấy khoảng trời bé bằng cái vung. Nó nghĩ: Tất cả vũ trụ chỉ có vậy, vì thế ếch tự coi mình là chúa tể. Hàng ngày, nó cất tiếng kêu ồm ộp làm vang động cả giếng khiến các con vật bé nhỏ kia hoảng sợ. Nó càng lấy làm oai.
Nhưng có một năm, có thể do thái độ xấc xược "coi trời bằng vung" của ếch thấu đến tai Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng nổi giận đùng đùng và quyết định phế truất "ngai vàng" nơi đáy giếng của ếch nên đã làm một trận mưa thật to. Nước trong giếng dềnh lên, tràn vào bờ, đưa ếch ta ra ngoài.
Quen thói cũ, ếch nhâng nháo nhìn lên trời, nó bỗng thấy cả một bầu trời rộng lớn hơn nhiều cái khoảng trời nó vẫn thấy. Ếch ta không tin và thấy bực bội vì điều đó. Để ra oai, nó cất tiếng kêu ồm ộp. Vị chúa tể hy vọng là sau tiếng kêu của mình mọi thứ đều phải trở lại như cũ. Nhưng bầu trời vẫn là bầu trời. Còn nó vì mãi nhìn lên trời chả thèm để ý đến xung quanh, nên đã bị một con trâu đi qua dẫm bẹp.
Từ cách nhìn thế giới bên ngoài chỉ thông qua miệng giếng của chú ếch nọ mà thành ngữ "Ếch ngồi đáy giếng" trước hết để chỉ "những người hiểu biết ít do điều kiện tiếp xúc hẹp". Sau nữa, lại từ thái độ nhâng nháo "coi trời bằng vung" của ếch mà thành ngữ này còn hàm ý nói về sự chủ quan, coi thường thực tế. Số phận của những người đó, nếu không giống như con ếch huênh hoang, hợm hĩnh nọ, thì chí ít, họ cũng phải trả bằng những thất bại chua xót khi tiếp xúc với thực tiễn phong phú và sinh động, mà khi hiểu ra thì sự đã rồi.
 
Nam Viên Bắc Triệt

Từ thế kỷ thứ 5 trước công nguyên đến thế kỷ thứ 3 là thời đại chiến quốc của TQ. Lúc đó TQ có nhiều nước chư hầu không ngừng xảy ra chiến tranh, cho nên các nước xuất hiện hàng loạt mưu sĩ bày mưu đặt kế. Những mưu sĩ này thích sử dụng ví dụ có ý nghĩa sâu sắc để nhà vua chấp nhận chủ trương của mình khi khuyên nhà vua. Chuyện “Nam Viên Bắc Triệt” là chuyện đại thần nước Ngụy Quý Lương khuyên vua.
Thời đại chiến quốc, những nước chư hầu hùng mạnh đều muốn làm bá chủ thiên hạ. Vua Ngụy cũng muốn làm bá chủ, ông chuẩn bị̣ đánh Hàn Đan thủ đô nước Triệu trước, buộc nước Triệu khuất phục mình. Đại thần nước Ngụy Quý Lương đang làm việc ở nước khác, nghe thấy tin này, rất sốt ruột. Quý Lương vội vàng về nước Ngụy, chưa kịp rửa mặt thay quần áo đã vào hoàng cung gặp nhà vua.
Vua Ngụy đang bố trí kế hoạch đánh nước Ngụy. Vua nhìn thấy Quý Lương rất vội vàng, cảm thấy lạ quá, hỏi Quý Lương: “Quý Lương có việc gì gấp cần gặp trẫm mà không kịp sửa áo mũ?” Quý Lương nói: “Thần vừa nghe một việc lạ trên đường. Lập tức vào bẩm bệ hạ.” Vua Ngụy tò mò hỏi việc gì. Quý Lương nói: “Tôi vừa nhìn thấy một chiếc xe ngựa đi về phía bắc. Tôi hỏi người ngồi trong xe: ‘anh đi đâu đấy?’ Người ấy nói: ‘đi nước Sở Quốc.’ Tôi rất kinh ngạc, hỏi anh ta: ‘nước Sở ở phía nam, sao anh đi về phía bắc?’ Anh ta nói; ‘con ngựa của tôi rất tốt, bất cứ chạy hướng nào cũng có thể chạy đến nước Sở.’ Thần càng thấy lạ, hỏi anh ta: ‘dù ngựa của anh rất tốt, đường này không đi về hướng nước Sở.’ Anh ta nói ‘đừng lo, tôi mang nhiều tiền lắm.’ Thần vẫn không rõ, bảo anh ta: ‘dù anh mang nhiều tiền, nhưng anh không đi theo con đường về nước Sở.’ Anh ta cười nói: ‘Không sao, kỹ thuật đi xe ngựa của tôi rất tốt.’ Tãu bệ hạ, anh ta không nghe lời khuyên của tôi, tiếp tục đánh xe đi về hướng bắc.” Vua Ngụy nghe rồi cũng cười nói: “Thiên hạ sao mà có người ngu xuẩn thế vậy.” Quý Lương tiếp tục nói: “Bệ hạ có muốn làm thủ lĩnh của các nước không? Thế thì trước hết phải dành được sự tin cậy của mọi người. Nhưng bệ hạ bây giờ cậy nước ta lớn hơn nước Triệu một chút, quân đội mạnh hơn một chút, muốn chinh phục người ta để nâng cao uy tín của mình, làm như vậy chỉ càng xa rời mục tiêu của bệ hạ, chả khác gì người đánh xe, muốn đi nước Sở ở phía nam, lại đi về phía bắc, càng đi càng xa nước Sở.”
Vua Ngụy ngột nhiên hiểu rằng Quý Lương đang gián tiếp khuyên mình. Vua cúi đầu nghĩ một lát, cảm thấy Quý Lương nói rất đúng, cho nên từ bỏ kế hoạch tấn công nước Triệu.
Thành ngữ “Nam Viên Bắc Triệt” chỉ xe vốn đi về phía nam song lại đi về phía bắc. Ở TQ, người ta dùng thành ngữ này ví hành động thực tế trái ngược với mục tiêu dự định.
 
Bỗng chốc nổi tiếng

Từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 5 trước công nguyên, Trung Quốc ở vào thời đại chiến quốc. Trong thời gian này có mấy chục nước chư hầu, muốn tồn tại, thì việc các nước chư hầu thi hành chính sách đối nội và đối ngoại đúng đắn hữu hiệu là một việc hết sức quan trọng, bởi vậy đã hình thành một tầng lớp mưu sĩ chuyên bày mưu đặt kế cho chư hầu. Các mưu sĩ này có tư tưởng triết học và biện pháp quản lý đất nước của riêng mình, nhất là giỏi về lấy ví dụ sâu sắc sinh động để can gián người cầm quyền, khiến người cầm quyền không những không tức giận, mà còn vui lòng chấp nhận. Câu chuyện “Bỗng chốc nổi tiếng” là nói về mưu sĩ Thuần Vu Côn can gián nhà vua.
Tề Uy Vương là nhà vua kế vị không lâu của nước Tề. Khi là thái tử, Tề Uy Vương là một thanh niên rất có tài năng, không những chăm chỉ học tập kiến thức văn võ, mà dốc nhiều sức lực học tập mưu lược quản lý quốc gia, mong mình có thể xây dựng quốc gia thành một nước lớn sau khi kế vị. Nhưng sau khi kế vị, Tề Uy Vương phát hiện nhà vua có quyền uy và các thứ hưởng lạc lớn hơn nhiều so với thái tử. Buổi chầu hàng ngày, đại thần ủng hộ, sau khi về tới nhà còn có thức ăn, rượu ngon và mỹ nữ, dần dần, chí lớn được lập lúc làm thái tử giảm thiểu.
Hai năm trôi qua, Tề Uy Vương ngày càng say đắm trong rượu ngon và sắc đẹp, hàng ngày chỉ uống rượu và đi săn bắn, giao mọi việc đứng đắn cho đại thần đi làm. Cho nên, chính trị không đi vào nền nếp, quan lại bắt đầu tham nhũng, xao lãng bổn phận, quốc lực ngày càng yếu đuối, các nước xung quanh đều hòng nhân dịp này xâm phạm nước Tề, quan lại ngay thẳng và nhân dân hết sức lo lắng, nhưng lại không dám can gián Tề Uy Vương, sợ bị quở mắng và phạt tội.
Có một mưu sĩ tên là Thuần Vu Côn, khẩu tài rất tốt, nói năng khéo léo, thường dùng một số ẩn ngữ thú vị để biện luận với người khác. Thuần Vu Côn biết Tề Uy Vương cũng rất thích nói ẩn ngữ để thể hiện trí tuệ của mình, nên Thuần Vu Côn quyết định tìm một cơ hội để can gián Tề Uy Vương.
Một hôm, khi gặp Tề Uy Vương, Thuần Vu Côn nói rằng: “Thưa bệ hạ, thần có một câu đố, xin bệ hạ đoán thử.” Tề Uy Vương bèn hỏi: “Câu đố gì?”
Thuần Vu Côn nói: “Ở một nước có một loại chim lớn, sống ở cung đình ròng rã ba năm, nhưng nó vừa không tung cánh bay lượn, vừa không ra tiếng kêu, chỉ co quắp không có mục đích nào, thần xin bệ hạ đoán chim này là chim gì?”
Tề Uy Vương biết Thuần Vu Côn châm biếm mình là nhà vua một nước, lại không làm nên gì. Nhưng nên trả lời cái gọi là câu đố của Thuần Vu Côn như thế nào nhỉ?
Nghĩ khá lâu, Tề Uy Vương trả lời Thuần Vu Côn rằng: “Nhà ngươi không biết gì cả, chim lớn này không bay thì thôi, nếu bay thì sẽ lên tới trời cao, nó không kêu thì thôi, nếu kêu thì chắc sẽ chấn động mọi người. Nhà ngươi cứ chờ đợi mà xem.”
Từ đó về sau, Tề Uy Vương đóng cửa suy nghĩ những điều sai lầm của mình, quyết định ăn năn hối lỗi, phấn chấn tinh thần, làm nên những việc lớn. Tề Uy Vương trước tiên chỉnh đốn chính trị nhà nước, triệu gặp quan lại toàn quốc, khen thưởng những quan lại tận tụy với công tác, trừng phạt nghiêm ngặt những quan lại tham nhũng và không có tài năng, rồi chỉnh đốn quân sự, tăng cường lực lượng quân đội. Nước Tề thay đổi bộ mặt hoàn toàn một cách nhanh chóng, và tràn đầy sức sống bừng bừng. Được biết tin này, những nước hòng xâm lược nước Tề đều lấy làm ngạc nhiên, nói Tề Uy Vương thật giống một chim lớn, “Không kêu thì thôi, kêu thì chấn động mọi người.”
Sau đó, “Bỗng chốc nổi tiếng” trở thành một câu thành ngữ, ví một người có tài năng khác thường, miễn là vận dụng tốt, một khi phát huy, thì sẽ làm nên những việc chấn động mọi người.
 
"Cáo mượn oai hùm" (狐假虎譽)

Thành ngữ “cáo mượn oai hùm” có xuất xứ từ tiếng Hán, nhằm ví kẻ ranh ma dựa vào thế lực người khác để uy hiếp mọi người. Nguyên văn câu thành ngữ này trong tiếng Hán là “hồ giả hổ uy”. Hồ ở đây là hồ ly (cáo).

Chuyện xưa kể rằng có một con hổ đói đang đi kiếm mồi thì gặp một con cáo. Hổ định ăn thịt cáo, còn cáo biết mình khó mà thoát khỏi móng vuốt hổ bèn bình tĩnh nói với hổ rằng: “Ngươi to gan thật đấy. Ta được thần linh trên trời cử xuống đây làm vua bách thú. Ngươi mà ăn thịt ta thì không thoát khỏi sự trừng phạt của thần linh đâu.” Hổ không tin, cáo bèn bảo: “Nếu ngươi không tin thì đi đằng sau làm hộ vệ cho ta, ngươi sẽ thấy muôn loài trong khu rừng khi gặp ta đều tỏ vẻ khiếp sợ cho xem.” Hổ nghe cáo nói thì bán tín bán nghi, liền đồng ý đi sau lưng cáo. Cáo biết hổ đã mắc mưu, liền ưỡn ngực đi một cách oai vệ. Quả nhiên, mọi con vật khi thấy cáo và hổ đều sợ hãi chạy trốn cả. Hổ tin là thực nên tha cho cáo, có biết đâu rằng muôn loài hoảng sợ vì thấy hổ đi đằng sau chứ cáo thì chúng chả coi ra gì.

Vào thời Chiến Quốc, thượng tướng quân nước Sở là Chiêu Hề Tuất thống soái quân đội, uy danh lừng lẫy bốn phương khiến các nước láng giềng đều nể sợ. Có kẻ đố kỵ, nói xấu với Sở Vương rằng tiếng tăm của Chiêu Hề Tuất đã vượt cả nhà vua. Sở Vương xưa nay vốn trọng dụng Chiêu Hề Tuất nhưng vẫn bán tín bán nghi, bèn cho gọi mấy vị cận thần đến hỏi han. Một người tâu rằng: “Quân thần bách tính láng giềng đúng là rất sợ Chiêu Hề Tuất, nhưng theo hạ thần, người mà họ sợ thực sự chính là ngài.” Nói rồi ông ta kể câu chuyện “cáo mượn oai hùm” trên đây và kết luận: “Chiêu Hề Tuất cũng giống con cáo kia vậy, còn ngài mới đích thực là con hổ”. Sở Vương nghe xong câu chuyện mới hiểu ra sự việc.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
“Trước thì hùng hổ, sau thì khúm núm” (前拒後恭)

Khi giao tiếp với một người nào đó, trước tiên bằng thái độ hết sức nghạo nghễ, sau đó lại đổi thành thái độ hết sức cung kính. Trong tiếng Hán có một câu thành ngữ “Tiền cự hậu cung” hoặc “Tiền cự hậu ty” để hình dung tình huống này. Sau đây là nguồn gốc câu chuyện thành ngữ này.

Thời Chiến Quốc Trung Quốc thế kỷ 5 trước công nguyên, cùng lúc tồn tại nhiều quốc gia, trong đó có 7 nước chủ yếu là Tần, Yến, Triệu, Tề, Sở, Hàn, Ngụy, gọi là “Chiến quốc thất hùng”. Vì thực hiện hàng loạt cải cách chính trị và kinh tế, nên nước Tần nằm ở khu vực tỉnh Thiểm Tây miền tây bắc Trung Quốc hôm nay, có sức mạnh hùng hậu nhất, đôi khi xâm lược 6 nước khác. Trong tập đoàn thống trị của 6 nước có hai phe là phe thân cận nước Tần và phe chống nước Tần; phe thân cận nước Tần chủ trương 6 nước tồn tại hòa bình với nước Tần, cố không trêu tức nước Tần, không để nước Tần có cớ mở cuộc chiến tranh, chủ tương này gọi là “Liên Hoành”; phe chống nước Tần thì chủ trương 6 nước liên hợp với nhau, chống đối nước Tần, chủ trương này gọi là “Hợp Tung”.

Lúc đó, nhiều mưu sĩ tuyên truyền chủ tương của mình ở các nước, một khi chủ trương được tiếp nhận, mưu sĩ sẽ nổi tiếng ngay, giá trị tự thân mưu sĩ cũng được tăng lên nhiều so với ngày trước. Tô Tần chính là một mưu sĩ như vậy.

Tô Tần trước tiên đến nước Tần, du thuyết nhà vua nước Tần, ông ra sức tuyên truyền chủ trương “Liên Hoành”, chủ trương nước Tần trước tiên xoa dịu 6 nước khác, rồi từng bước thôn tính từng nước một. Nhà vua nước Tần từ chối chủ trương của Tô Tần, lý do bề ngoài là nước Tần không có dã tâm xâm lược 6 nước khác, cho nên không có hứng thú đối với chủ trương “Liên Hoành”. Thực ra là nước Tần chưa chuẩn bị đầy đủ để thống nhất Trung Quốc. Tô Tần không có cách khác, do lâm vào cảnh túng bấn, quần áo rách nát, đành phải thui thủi trở về quê Lạc Dương.
Thấy Tô Tần thất thểu trở về, bố mẹ không thèm nói chuyện với ông, vợ ông chỉ lo dệt vải, mặc kệ ông, ông xin chị dâu nấu cơm ăn, chị dâu không những không nấu mà còn quở trách ông một trận. Tô Tần rất buồn, bèn lập chí chăm chỉ học tập, quyết định nhất thiết phải giành vẻ vang cho mình. Tô Tần suốt ngày đêm chăm chỉ học tập, nghiên cứu phép dùng binh. Có khi đến đêm khuya, ông cũng không chịu đi ngủ. Tô Tần chuẩn bị một cái dùi, khi buồn ngủ, thì dùng dùi đâm mạnh vào đùi, sau khi tỉnh dậy, tiếp tục học tập. Do vậy đã có câu thành ngữ “Lấy dùi đâm đùi”.

Tô Tần nghiên cứu rất kỹ tình hình các nước, cho rằng thuyết phục 6 nước tiếp nhận sách lược “Hợp Tung” để đối phó nước Tần là việc có thể thực hiện. Ông trước tiên thuyết phục nước Yến, nước Triệu, rồi từng bước khiến 6 nước Yến, Triệu, Tề, Sở, Hàn, Ngụy liên kết thành đồng minh do nước Sở dẫn đầu, để cùng đối phó nước Tần. Tô Tần kiêm Tổng Tham mưu quân đội 6 nước. Sau khi được biết tình hình này, nước Tần không dám tùy tiện xâm lược bất cứ nước nào trong 6 nước. Tình trạng này kéo dài khoảng 15 năm, cho đến khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc.

Tô Tần là Tổng Tham mưu quân đội 6 nước, cho nên có địa vị rất cao trong 6 nước. Một lần, ông đi công tác, ghé qua quê Lạc Dương, quan chức địa phương cử người quét sạch đường phố, xếp hàng hoan nghênh. Bố mẹ Tô Tần chống gậy chờ đợi ở chỗ tiếp giáp giữa các nẻo đường từ lâu. Sau khi về tới nhà, vợ lánh mặt ở bên cạnh, không dám nhìn thẳng vào ông. Chị dâu Tô Tần kính cẩn lễ phép, chào liên tiếp. Tô Tần cười mà nói: “Chị ơi, sao thái độ của chị thay đổi lớn như vậy? Trước kia, chị coi khinh em, hiện nay lại khiêm tốn như vậy.” Chị dâu Tô Tần vừa run lẩy bẩy, vừa trả lời: “Hiện nay em đã làm quan lớn, phát tài, chị làm sao dám đối xử em như trước kia.” Tô Tần thở dài và nói rằng: “Người bần cùng đến bố mẹ cũng coi nhẹ, sau khi làm giàu thì người thận lại sợ, thảo nào mọi người đều coi trọng quyền thế và lợi ích!”
Hiện này câu thành ngữ này được dùng để chỉ những người chỉ nhìn hình thức hoặc xu nịnh quyền quý, có thái độ trước sau bất nhất trong xử thế.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Thanh Đông Kích Tây

Tức gây thanh thế ở phía đông, nhưng lại tiến đánh từ phía tây, cũng có thể dùng để ví về sự biến đổi khôn lường giữa lời nói và việc làm.

Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Thông điển-Binh điển lục".
Sau khi triều nhà Tần bị diệt vong, giữa Lưu Bang và Hạng Vũ tiến hành bốn năm cuộc tranh hùng Sở Hán. Năm đó, Lưu Bang phong Hàn Tín làm Tả Thừa Tướng dẫn quân tiến đánh đại tướng Ngụy Vương Báo thủ hạ của Hạng Vũ.

Ngụy Vương Báo sau khi được tin quân Hán tiến đến, liền phong Bách Trực làm đại tướng, thống lĩnh quân mã đến trấn giữ ở Bạc Bản bờ phía đông sông Hoàng Hà, ngăn chặn quân Hán vượt qua sông. Bách Trực bèn ra lệnh cho truyền dân rời khỏi cửa sông, không cho phép qua lại trên mặt sông.
Khi Hàn Tín dẫn quân Hán tới bờ bên, nhìn sang thấy Bạc Bản địa hình hiểm trở, quân của Bách Trực lại canh phòng rất nghiêm ngặt, muốn đổ bộ qua sông là điều không dễ dàng. Qua suy nghĩ kỹ, Hàn Tín bèn quyết địch dùng chiến thuật "Thanh đông kích tây". Ông cho quân đóng trại đối diện với Bạc Bản, xung quanh doanh trại cắm đầy cờ xí, ban ngày thì cho quân lính thao luyện, ban đêm thì điều binh khiển tướng, hò reo ầm ĩ làm ra vẻ sắp vượt sông. Nhưng thực ra đã ngấm ngầm điều chủ lực của quân Hán đến Hạ Dương ở hướng bắc. Ngụy Vương Báo thấy quân Hán ở bờ bên làm dữ như vậy, cho là Hàn Tín sẽ cho quân vượt sông tại Bạc Bản, nên tỏ ra rất yên tâm.

Sau khi chủ lực của quân Hán tới Hạ Dương, liền nhanh chóng làm bè vượt qua sông, ở đây không hề có quân của Ngụy Vương Báo canh giữ, nên quân Hán vượt qua sông Hoàng Hà đánh cho quân của Ngụy Vương Báo một trận tơi bời, chiếm cứ được An Ấp nơi hậu phương quan trọng của Hạng Vũ.
Thành ngữ này tương đương với thành ngữ : "Dương Đông Kích Tây" trong tiếng Việt!
 
Thỉnh Quân Nhập Ung

Nguyên ý của Thỉnh quân nhập ung là mời chàng vào trong chum. Còn ý chính của câu thành ngữ này là chỉ: Dùng biện pháp trị người của anh ta để trị lại anh ta. Nó tương tự như: "Gậy ông lại đập lưng ông".
Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Tư trị thông giám – Đường Kỷ".
Võ Tắc Thiên thời nhà Đường là một vị nữ hoàng duy nhất trong lịch sử TQ. Nhằm giữ gìn ách thống trị của mình, bà đã dở thủ đoạn khủng bố mạnh mẽ và hậu thưởng cho người tố giác. Do đó, một số quan viên hà khắc của bà đã tìm đủ mọi cách để vu cáo cho người bất đồng chính kiến với mình, và không ngừng cải tiến dụng cụ tra tấn để tiến hành bức cung đối với phạm nhân. Trong đó, đại thần Chu Hưng và Lai Tuấn Thần là thối tha nhất.
Một hôm, có người mật báo với Võ Tắc Thiên là Chu Hưng mưu làm phản, Võ Tắc Thiên bèn cử Lai Tuấn Thần đi xử lý vụ án này và ra hạn phải giải quyết xong. Lai Tuấn Thần và Chu Hưng vốn quan hệ mật thiết với nhau, nên cảm thấy rất khó xử. Ông suy đi tính lại mãi, cuối cùng đã nghĩ ra một kế. Ông mời Chu Hưng đến phủ mình chơi, rồi hỏi Chu Hưng có cách nào hay nhất để bức cung phạm nhân.

Chu Hưng không hề hay biết ý đồ của Lai Tuấn Thần là nhằm vào mình, bèn đắc ý nói rằng, có thể đặt sẵn một cái chum, đốt lửa ở xung quanh rồi bỏ phạm nhân vào trong chum, như vậy phạm nhân không chịu được đành phải khai ra hết. Lai Tuấn Thần bèn sai người chuẩn bị mọi thứ như Chu Hưng đã nói, sau đó trở mặt nói với Chu Hưng rằng: "Nay có người cáo ông mưu làm phản, nhà vua cử tôi xét hỏi ông, bây giờ xin mời ông vào ngồi trong chum". Chu Hưng sợ mất hồn vía, không biết nói thế nào cho phải, đành ngoan ngoãn nhận tội.
Hiện nay, người ta vẫn hay dùng câu thành ngữ này để chỉ hiện tượng dùng cách trị người của anh ta để trị lại anh ta.
 
Tung Hổ Quy Sơn

Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Tam Quốc Diễn Nghĩa", hồi thứ 21.
Sau khi Tào Tháo dẫn quân đánh thắng Lã Bố, Lưu Bị theo Tào Tháo đến đô thành Hứa Xương. Tào Tháo sai người bí mật theo dõi Lưu Bị. Bấy giờ, Hán Hiến Đế đang ở Hứa Xương chuẩn bị mưu sát Tào Tháo. Lưu Bị cũng tham gia vào việc này. Nhằm bưng bít tai mắt của Tào Tháo, Lưu Bị hàng ngày vẫn mở cổng lớn, rồi cuốc đất trồng rau ở trong vườn.
Mưu sĩ Trình Dục thấy vậy mới khuyên Tào Tháo rằng: "Tôi xem Lưu Bị là một người anh hùng khí khái, nếu không giết hắn đi thì tất sinh hậu hoạn ". Nhưng mưu sĩ Quách Gia thì lại cho rằng, hiện nay đang là lúc thiếu nhân tài, nếu giết Lưu Bị thì sẽ tổn hại đến danh tiếng của Tào Tháo, chẳng có ích lợi gì. Tào Tháo cũng phải thừa nhận như vậy.
Ít lâu sau, Viên Thuật bị Tào Tháo đánh bại, muốn chạy sang ở nhờ Viên Thiệu. Tào Tháo liền cử quân ngăn chặn Viên Thuật. Lưu Bị bèn nhân cơ hội đó xin với Tào Tháo cho mình đi đuổi bắt Viên Thuật. Tào Tháo liền cấp cho Lưu Bị 50 nghìn quân kéo sang Từ Châu. Lưu Bị vội vàng dẫn quân đi ngay. Quan Vũ và Trương Phi không hiểu ra sao mới hỏi Lưu Bị tại sao lại ra đi hấp tấp như vậy. Lưu Bị nói: "Ta ở với Tào Thào có khác nào chim trong lồng, cá trong lưới, rất không an toàn, cơ bản không thể làm nên trò trống gì. Bây giờ thì khác rồi, nay chim đã bay lên trời xanh, cá về biển, ta không còn bị ràng buộc gì nữa".
Khi mưu sĩ Quách Gia và Trình Dục đi xa về nghe nói Tào Tháo đã cử Lưu Bị đem quân đi mới than rằng: "Đây có khác nào thả hổ về rừng, thả rồng về biển".
Thành ngữ này tương đương với thành ngữ "Thả hổ về rừng" trong tiếng việt!
 
Thiên Biến Vạn Hoá

Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Liệt Tử-Thang Vấn".
Khi Chu Mục Vương đi thị sát ở miền tây gặp một người thợ rất tài ba tên là Yển Sư. Nhà vua hỏi ông ta rằng: "Ta nghe nói ông rất khéo tay, vậy ông biết làm những gì?" Yển Sư đáp: "Bệ hạ muốn tôi làm gì thì tôi làm việc ấy. Nay tôi đã làm được một vật, ngày mai xin đưa đến cho bệ hạ xem".
Ngày hôm sau, Yển Sư dẫn một người đến ra mắt nhà vua, nhà vua hỏi người đó là ai? Yển Sư đáp rằng: "Đây là người có tài ca múa do tôi chế tạo ra". Nhà vua nghe vậy vô cùng kinh ngạc, vì nhìn mãi mà cũng chẳng nhận ra đó là người giả, bèn lệnh cho Yển Sư diễn giải xem sao. Yển Sư liền đến gần ấn vào cằm người nộm một cái, tức thì nó hát lên lời ca nghe thật du dương trầm bổng, Yển Sư lại ấn vào cánh tay nó một cái, thì nó liền nhảy múa nhịp nhàng theo lời hát, trông thật đẹp mắt. Sau khi biểu diễn kết thúc, Chu Mục Vương liền bảo Yển Sư tháo người nộm ra xem. Khi tháo ra thì thấy bên trong có bì, nhựa cây, sơn , và các cơ quan nội tạng được làm bằng nguyên liệu màu như: gan, mật, tim, phổi, thận, vị, ruột v v. Có đầy đủ gân mạch, xương, tóc, da, răng. Sau đó, Yển Sư lại lắp ghép lại, nó lại trở thành " người" có thể cử động được theo ý muốn.
Chu Mục Công lệnh cho Yển Sư tháo bỏ tim, thì nó không nói năng được. Tháo bỏ gan thì nó không còn nhìn thất gì nữa. Tháo bỏ thận thì nó không đi lại được. Chu Mục Vương thấy vậy sửng sốt thốt lên rằng: "Ôi, con người quả thật là khéo léo, hầu như có thể sánh với thiên đế đã sáng tạo ra muôn vật, thực là thiên biến vạn hóa". Câu nói "Thiên biến vạn hóa" từ đó được lưu chuyền lại, dùng để ví về sự vật biến hóa khôn lường
 
Tái ông thất mã, an tri họa phúc

Một ông lão ở gần biên giới giáp với nước Hồ phía Bắc nước Tàu, gần Trường thành, có nuôi một con ngựa. Một hôm con của ông lão dẫn ngựa ra gần biên giới cho ăn cỏ, vì lơ đễnh nên con ngựa vọt chạy qua nước Hồ mất dạng. Những người trong xóm nghe tin đến chia buồn với ông lão.

Ông lão là người thông hiểu việc đời nên rất bình tỉnh nói: - Biết đâu con ngựa chạy mất ấy đem lại điều tốt cho tôi.

Vài tháng sau, con ngựa chạy mất ấy quay trở về, dẫn theo một con ngựa của nước Hồ, cao lớn và mạnh mẽ.

Người trong xóm hay tin liền đến chúc mừng ông lão, và nhắc lại lời ông lão đã nói trước đây.

Ông lão không có vẻ gì vui mừng, nói: - Biết đâu việc được ngựa Hồ nầy sẽ dẫn đến tai họa cho tôi.

Con trai của ông lão rất thích cỡi ngựa, thấy con ngựa Hồ cao lớn mạnh mẽ thì thích lắm, liền nhảy lên lưng cỡi nó chạy đi. Con ngựa Hồ chưa thuần nết nên nhảy loạn lên. Có lần con ông lão không cẩn thận để ngựa Hồ hất xuống, té gãy xương đùi, khiến con ông lão bị què chân, tật nguyền.

Người trong xóm vội đến chia buồn với ông lão, thật không ngờ con ngựa không tốn tiền mua nầy lại gây ra tai họa cho con trai của ông lão như thế.

Ông lão thản nhiên nói: - Xin các vị chớ lo lắng cho tôi, con tôi bị ngã gãy chân, tuy bất hạnh đó, nhưng biết đâu nhờ họa nầy mà được phúc.

Một năm sau, nước Hồ kéo quân sang xâm lấn Trung nguyên. Các trai tráng trong vùng biên giới đều phải sung vào quân ngũ chống ngăn giặc Hồ. Quân Hồ thiện chiến, đánh tan đạo quân mới gọi nhập ngũ, các trai tráng đều tử trận, riêng con trai ông lão vì bị què chân nên miễn đi lính, được sống sót ở gia đình."

Sau khi kể câu chuyện trên, sách Hoài Nam Tử đưa ra luận điểm: Họa là gốc của Phúc, Phúc là gốc của Họa. Họa Phúc luân chuyển và tương sinh. Sự biến đổi ấy không thể nhìn thấy được, chỉ thấy cái hậu quả của nó.

Do đó, người đời sau lập ra thành ngữ: Tái ông thất mã, an tri họa phúc. Nghĩa là: ông lão ở biên giới mất ngựa, biết đâu là họa hay là phúc.

Hai điều họa phúc cứ xoay vần với nhau, khó biết được, nên khi được phước thì không nên quá vui mừng mà quên đề phòng cái họa sẽ đến; khi gặp điều họa thì cũng không nên quá buồn rầu đau khổ mà tổn hại tinh thần. Việc đời, hết may tới rủi, hết rủi tới may, nên bắt chước tái ông mà giữ sự thản nhiên trước những biến đổi thăng trầm trong cuộc sống.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Lực bất tòng tâm

Ý của câu thành ngữ này là chỉ người sức lực yếu kém, không thể làm công việc mà mình mong muốn.

Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Hậu Hán thư – Truyện Ban Siêu".

Thời Đông Hán, Ban Siêu theo lệnh Minh Đế dẫn theo mấy chục người đi xứ sang Tây vực, đã lập nên nhiều công trạng to lớn. Năm tháng trôi qua, bất giác Ban Siêu ở lại Tây vực đã được 27 năm trời. Khi ông mới đến Tây vực còn là tuổi tráng niên, còn bây giờ thì tuổi đã cao, sức khỏe ngày một suy yếu. Người đã già rồi rất mong muốn lá rụng về gốc, ông đã viết một bức thư bày tỏ lòng nhớ quê da diết của mình, rồi sai con trai đem về nhà Hán, dâng lên Hòa đế Lưu Triệu xin điều ông về kinh thành. Nhưng bức thư trình lên đã lâu mà nhà vua cũng chẳng để ý tới. Sau đó, em gái của Ban Siêu là Ban Chiêu lại viết một lá thư dâng lên nhà vua, nhấn mạnh niềm mong muốn của anh mình. Trong thư có mấy câu như sau: "Ban Siêu là người cao tuổi nhất trong số những người cùng đi Tây vực, nay tuổi đã ngoài 60, sức yếu lắm bệnh, mái tóc bạc phơ, mắt mờ tai kém, chân tay bủn rủn, đi đâu cũng phải chống gậy, nếu chẳng may xảy ra bạo loạn, thì sức lực của Ban Siêu không thể nào chiều theo ý muốn của mình nữa. Như vậy, trên thì phương hại đến công trị vì lâu dài của nhà nước, dưới thì hủy hoại đến thành quả do các bậc trung thần không dễ mà giành được, thực là đau lòng lắm thay ".

Bức thư của Ban Chiếu đã có hiệu quả, Hòa Đế hết sức xúc động trước lời lẽ trong thư, bèn lập tức truyền chỉ điều Ban Siêu về nhà Hán. Ban Siêu về tới Lạc Dương chưa đầy một tháng thì bệnh tình nặng thêm rồi qua đời, hưởng thọ 71 tuổi.

Hiện nay, người ta vẫn thường dùng câu thành ngữ "Lực bất tòng tâm" để ví về hiện tượng sức yếu, không thể làm được những công việc mà mình mong muốn.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Lưu ngôn phi ngư

Ý của câu thành này là chỉ những lời nói vô căn cứ được lưu truyền trong xã hội, mà phần lớn là những lời gièm pha vu vạ, gây xích mích đối với người khác.

Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Sử ký -Liệt truyện Ngụy Kỳ Võ An Hầu".

Năm 154 trước công nguyên, người cháu của Đậu thái hậu triều nhà Hán là Đậu Anh, do có công nên được Hán Cảnh Đế phong làm Ngụy Kỳ Hầu. Còn người em cùng mẹ với hoàng hậu Vương Thị là Điền Phân lúc này chỉ là chức Lang Quan. Về sau do Vương hoàng hậu thường xuyên khen ngợi Điền Phân trước mặt Hán Cảnh Đế, mới được nhà vua phong làm Võ An Hầu. Mấy năm sau Đậu thái hậu qua đời, Đậu Anh trở nên thất thế, còn Điền Phân thì được phong làm thừa tướng. Bấy giờ các quý tộc trong triều đều quay sang nịnh hót Điền Phân, duy chỉ có tướng quân Quán Phu là vẫn giữ quan hệ mật thiết với Đậu Anh.

Năm 131 trước công nguyên, Điền Phân tổ chức lễ thành hôn với con gái của Yến Vương, các đại thần trong triều đều đến chúc mừng. Khi Điền Phân chúc rượu trong buổi tiệc, đám khách khứa đều tới tấp rời chỗ quỳ lạy dưới đất. Nhưng đến khi Đậu Anh đứng lên chúc rượu thì chỉ có mấy người rời chỗ, còn phần lớn tỉnh bơ như không. Tướng quân Quán Phu thấy vậy vô cùng tức giận, bèn chê trách hành vi này của các đại thần. Điền Phân thấy Quán Phu lăng nhục các vị khách của mình thì vô cùng giận dữ, liền bắt giam Quán Phu cùng gia tộc của ông.

Đậu Anh xin với Hán Cảnh Đế tha tội cho Quán Phu, nhưng Vương thái hậu biết được liền bức ép vua bênh vực Điền Phân, nhà vua đành phải bắt Đậu Anh giam vào ngục.

Sau đó, Quán Phu bị xử tội chém cả họ. Đậu Anh biết được tin này muốn tuyệt thực tự sát. Nhưng sau đó có tin đồn rằng vua không muốn giết ông, nên lại ăn uống trở lại. Nhưng lúc này có khá nhiều tin đồn nhảm vu khống Đậu Anh truyền vào trong cung. Hán Cảnh Đế nổi giận tin là thực liền chém chết Đậu Anh.

Hiện nay, người ta vẫn thường dùng câu thành ngữ "Lưu ngôn phi ngữ" để chỉ lời gièm pha sau lưng người.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Danh lạc Tôn Sơn

Tôn Sơn là tên người. Ý của câu thành ngữ là chỉ tên xếp hạng trên bảng thi còn đứng sau Tôn Sơn.

Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Quá đình lục" của Phạm Công Xưng triều nhà Tống.

Thời nhà Tống, các văn nhân muốn ra làm quan thì trước tiên phải tham gia cuộc thi khoa cử. Sau khi đỗ thi hương mới có thể tham gia thi hội. Mùa thu năm đó, chàng thư sinh Tôn Sơn được người ta gọi là " Tài tử hề " cùng đứa con trai của một ông lão trong làng lên tỉnh lỵ thi hội.

Sau khi vào thành, hai người dư thi chót lọt và đang đợi ngày phát bảng. Mấy ngày sau, bảng văn được công bố. Tôn Sơn rất sốt ruột chen đến gần bảng xem đi xem lại mấy lượt, trong khi chán nản thất vọng, thì chàng đột nhiên thấy tên mình đứng ở hàng cuối cùng, như vậy là chàng đã thi đỗ cử nhân. Còn người con trai của ông lão trong làng cùng đến thì không có tên trên bảng. Khi Tôn Sơn về nói lại tin này thì anh ta tỏ ra vô cùng chán nản và nói sẽ nán lại trong thành chơi mấy ngày.

Còn Tôn Sơn thì rất sốt ruột, bèn thu xếp lên đường về nhà. Bấy giờ cả làng đều đến chúc mừng anh, ông lão trong làng thấy con trai không cùng về mới hỏi Tôn Sơn con mình có trúng cử hay không? Tôn Sơn buột miệng đọc luôn hai câu thơ: "Giải danh tận xử thị Tôn Sơn, hiền lang canh tại Tôn Sơn ngoại". Hai chữ " Giải danh" ở đây là chỉ tên cử nhân trên bảng.

Ý của hai câu thơ này là nói: Tên cuối cùng trên bảng cử nhân là Tôn Sơn tôi, đại danh của cậu ấm nhà ông vẫn còn xếp sau tôi thì đương nhiên là trượi rồi. Ông lão nghe xong bụng nghĩ: " Ngay đến Tôn Sơn mà cũng rơi vào hàng cuối, con trai mình không thể bì với Tôn Sơn nên không có trên bảng là lẽ dĩ nhiên rồi". Sau đó, ông bình tĩnh lặng lẽ ra về.

Hiện nay, người ta vẫn thường dùng câu thành ngữ "Danh lạc Tôn Sơn" để ví về việc thi trượt.

 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Mục bất thức đinh

Chữ "Đinh" là chữ có ít nét nhất và đơn giản nhất. Đây có nghĩa chỉ người một chữ cũng không biết.

Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Tân Đường Thư – Truyện Trương Hoằng Tĩnh".

Thời Đường Mục Tông , Trương Hoằng Tĩnh giữ chức Tiết độ sử tại U Châu (Tức vùng Phàn Dương và Trị Sở ở phía tây nam Bắc Kinh ngày nay), là cấp bậc cao nhất tại khu vực thuộc triều nhà Đường lúc bấy giờ. Sau khi đến U Châu, ông sống hết sa đọa, nên dân địa phương ai cũng căm ghét.

Trương Hoằng Tĩnh không những là người ngồi mát ăn bát vàng, mà cũng hết sức ngang ngược, ông thường vỗ ngực ta đây, động một tý là mắng chửi người khác, khinh miệt kẻ bình dân và quan lính cấp dưới.

Một hôm, ông nhạo báng đám quân sĩ rằng: "Hiện nay thiên hạ thái bình, loại lính tráng các anh thì còn được cái tích sự gì, dù các anh có kéo được cây cung nặng hai thạch, thì cũng không bằng người nhận biết một chữ Đinh". Đám quân sĩ biết ông cố ý châm biếm họ không có văn hóa, đều tức đến méo mặt, nhưng chẳng ai dám nói gì cả.

Bấy giờ triều đình điều một khoàn tiền xuống U Châu để phát cho các tướng sĩ, nhưng Trương Hoằng Tĩnh đã nhót mất một nửa. Các tướng sĩ biết được lại càng điên tiết và tỏ ra vô cùng bất mãn. Giữa lúc này, một người họ hàng của Trương Hoằng Tĩnh vì một việc rất nhỏ nhặt đã đánh một sĩ quan ở đây, vụ việc này đã gây nên một cơn nhiễu loạn, nhưng Trương Hoằng Tĩnh chỉ làm ngơ, rồi bắt tất cả những người gây rối lại để xử tội. Những binh sĩ này không thể nào nhịn được nữa, họ phát động cuộc binh biến, giết chết người thân thích của Trương Hoằng Tĩnh và bắt giam ông.

Về sau, cuộc binh biến cũng lắng xuống, Trương Hoằng Tĩnh bị giáng chức xuống làm thứ sử và rời khỏi U Châu,

Hiện nay, người ta cũng có khi dùng câu thành ngữ này để chỉ người mù chữ.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Có công mài sắt có ngày nên kim

Lý Bạch là nhà thơ nổi tiếng vào thời nhà Đường. Chuyện kể rằng lúc nhỏ ông không thích đi học, suốt ngày mê chơi. Một hôm, ông trốn học ra bờ suối chơi, nhìn thấy một bà lão tay cầm thanh sắt và mài trên một tảng đá.
Lý Bạch hỏi: “Bà mài sắt để làm gì vậy?”
Bà lão trả lời: “Bà mài cho con gái bà cây kim thêu hoa.”
Lý Bạch lại hỏi: “Cây sắt thô như thế này mài đến bao giờ mới thành được cây kim thêu hoa?”
Bà lão nói: “Chỉ cần thật sự muốn làm, thì sắt cũng mài được thành kim.”
Lý Bạch nghe xong chợt nghĩ: “Đúng rồi, khi làm việc gì chỉ cần kiên trì nhất định sẽ làm được thôi.” Từ đó về sau ông cố gắng học tập và đã trở thành một nhà thơ nổi tiếng.
“Mài sắt thành kim” ý nói chỉ cần dụng tâm làm một việc gì đó thì dù khó khăn đến mấy cũng sẽ thành công.
 
Bách bộ xuyên dương
Dưỡng Do Cơ, còn có tên là Dưỡng Thúc, người nước Sở thời Xuân Thu. Thuở trẻ, ông đã có dũng lực hơn người, rất giỏi bắn cung tên.

Một hôm, các thanh niên trong làng tụ tập tại một bãi đất trống luyện tập bắn cung, chung quanh đám đông vây kín để xem. Mục tiêu được đặt xa hơn 50 bước chân, một xạ thủ dương cung bắn liền 3 mũi, mũi tên nào cũng trúng giữa hồng tâm, xạ thủ được mọi người hoan hô vang dậy. Dưỡng Do Cơ bước ra nói lớn: “Bắn trúng mục tiêu xa 50 bước chẳng có gì là lạ. Chúng ta hãy thử tài “bách bộ xuyên dương” xem sao!”. Dưỡng Do Cơ bảo mọi người chọn một lá liễu cách xa 100 bước rồi tô màu đỏ lên cái lá ấy làm dấu, sau cùng ông nói với các xạ thủ: “Ai bắn xuyên qua được lá dương kia mới đúng là hảo hán chân chính!”.

Vị xạ thủ vừa rồi bước tới, đưa cung lên nhắm lá dương bắn một mũi tên. Mũi tên bay lên không trung, không chạm được tới lá dương. Mọi người thất vọng “ồ!” lên một tiếng. Vị xạ thủ kia bắn thêm hai mũi tên nữa vẫn không trúng, y đỏ mặt lui về một góc. Những thanh niên khác không ai dám ra bắn thử nữa.

Dưỡng Do Cơ nhìn một vòng đám đông rồi ung dung bước lên một bước, rút mũi tên ra đặt lên dây cung. Chỉ nghe bật một tiếng, mũi tên buông ra mau như ánh chớp xuyên suốt qua lá dương. Mọi người chung quanh hò lên hoan hô. Vị xạ thủ lúc nãy có vẻ chưa chịu phục buông câu châm chọc: “Mũi tên ấy biết đâu chỉ là may mắn bắn trúng!”. Dưỡng Do Cơ không hề động sắc, ông gọi người chọn sẵn 10 lá dương. Rồi chỉ thấy ông liên tục giương cung lên bắn luôn một loạt, mũi tên nào cũng đều trúng mục tiêu. Dưỡng Do Cơ nổi tính háo thắng, ông gọi các xã thủ tập trung hết tên đến, ông bắn từng mũi từng mũi xuyên qua từng lá dương. Bắn một lúc đúng 100 mũi tên, bách phát bách trúng, không hề sai lạc một mũi tên nào, khiến mọi người chung quanh kinh ngạc đến ngẩn người. Dưỡng Do Cơ đeo cung lên vai, cáo biệt với các xạ thủ.

Từ đó, uy danh “bách bộ xuyên dương" của Dưỡng Do Cơ mau chóng lưu truyền khắp nước Sở.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Phá kính trùng viên

Ý của câu thành ngữ này là chỉ “Gương vỡ lại lành”.

Câu thành ngữ này có xuất xứ từ “Bản sự thi – Tình cảm” của Mạnh Khởi triều nhà Đường.

Từ Đức Ngôn-môn khách của Thái tử nước Trần thời Nam Triều và Công chúa Lạc Xương là vợ chồng rất mực thương yêu nhau. Triều chính nước Trần lúc bấy giờ rất hủ bại, Từ Đức Ngôn đã đoán biết nước Trần đang ̣đứng trước thảm họa bị diệt vong, vợ chồng mình sẽ buộc phải chia lìa, nên ông mới dặn vợ rồi bẻ chiếc gương gẫy làm đôi, mỗi người giữa một nửa làm tin để sau này lại đoàn tụ với nhau.
Ít lâu sau, vua nước Tùy Dương Kiên diệt được nước Trần thống nhất miền Bắc. Dương Tố là người có công trong việc tiêu diệt nước Trần không những được phong làm Việt Quốc Công, mà còn được nhiều phong thưởng, trong đó có Công chúa Lạc Xương. Còn Từ Đức Ngôn thì đành phải chạy trốn. Tuy tình cảnh vợ chồng bị chia lìa, nhưng họ vẫn nhớ thương nhau da diết.
Ngày 15 tháng giêng năm đó, Từ Đức Ngôn đến một phiên chợ rất nhộn nhịp, thì thấy một cụ già đang ngồi bán một nửa mảnh gương đồng với giá rất đắt. Ông chăm chú nhìn kỹ thì nhân ra ngay đó là nửa mảnh gương của vợ mình. Thì ra bà già này là người đầy tớ trong Dương phủ được Công chúa Lạc Xương sai đem gương ra bán để tìm chồng mình. Từ Đức Ngôn liền viết một bài thơ nhờ bà cụ chuyển cho Công chúa. Trong thơ đại ý viết: Gương và người đều rời tôi mà đi, nhưng nay thấy gương mà chẳng thấy người. Công chúa Lạc Xương sau khi đọc thơ và thấy mảnh gương kia của chồng, ngày nào nàng cũng đầm đìa nước mắt. Dương Tố biết được việc này thì vô cùng cảm động, bèn cho phép hai vợ chồng họ đoàn tụ và còn biếu tặng nhiều của cải.

Hiện nay, người ta vẫn thường dùng câu thành ngữ này để ví về việc sau khi vợ chồng lìa xa nhau hoặc tình cảm vợ chồng bị rạn nứt lại được đoàn tụ hòa hảo với nhau.
 
Không vào hang cọp sao bắt được cọp con

[FONT=宋体]Vào thời Đông Hán Ban Triệu cùng Phụng Xa Đô Vệ (một chức danh quan ngày xưa) tham gia trong trận chiến giữa bên quân Hung Nô và quân Đậu Cố lập nên công lớn. Sau được phái đi sứ sang Tây Vực (chính là một phần đất của khu vực Tây Trung Á bao gồm toàn bộ Tỉnh Tân Cương, biên giới tỉnh Cam Túc và Thông Lĩnh Trung Quốc ngày nay). Trong chuyến đi sứ Tây Vực ông đến nước Trịnh Thiện đầu tiên. Quốc vương nước Trịnh Thiện đã sớm biết đến tên tuổi của Triệu Ban, nên đối đãi với ông vô cùng kính cẩn, nhưng bẵng đi một quãng thời gian, đột nhiên thái độ của vị vua này đột nhiên thay đổi trở nên rất lạnh nhạt. Triệu Ban triệu tập khoảng tầm ba mươi sáu người đi cùng đoàn với mình lại và nói: “Vua nước Trịnh Thiện dạo này đối xử với ta rất lãnh đạm, nhất định là bọn Hung Nô ở phương Bắc đã phái người đến nhằm lung lạc ông ta rồi, khiến cho ông ta chần chừ không biết nên đi theo bên nào. ”
Một người thông minh là người phải phát hiện ra mọi chuyện khi nó còn chưa nảy sinh, huống hồ hiện tại mọi chuyện đã rất rõ ràng rồi.” Sau khi cho người đi thăm dò xong mọi việc, quả nhiên mọi việc đúng như dự đoán của ông. Chính vì vậy Triệu Ban lại hẹn tất cả mọi người lại: “Hiện tại chúng ta đang lâm vào tình cảnh rất nguy hiểm, sứ thần bên quân Hung Nô chỉ mới đến đây có mấy hôm, vua nước Trịnh Thiện đã đối xử với chngs ta lãnh đạm như thế, nếu như để thêm một thời gian nữa, khéo vua nước Trịnh Thiện sẽ đem trói chúng ta lại rồi dâng lên cho quân Hung Nô mất. Nên các ngươi thử nói xem, chúng ta nên làm thế nào?” Khi đó mọi người đều kiên quyết thể hiện rõ thái độ sẽ nghe theo chủ trương của ông. Lúc đó ông mới nói tiếp: “Không vào hang cọp làm sao bắt được cọp con, hiện tại chỉ có một cách duy nhất, đó chính là ngay trong đêm nay chúng ta sẽ dùng hoả kích đánh vào chỗ nghỉ của sứ thần Hung Nô, nhanh chóng tiêu diệt gọn bọn chúng. Chỉ có như thế thì vua nước Trịnh Thiện mới thành tâm thành ý quy thuận triều Hán.”
[/FONT]
 
TAM SINH HỮU HẠNH

Thời Đường có một vị hoà thượng, hiệu Quốc Trạch, phật pháp tinh thông, kết thân với người bạn tên Lý Nguyên Thiện [FONT=宋体][/FONT]
Một hôm, hai người cùng nhau du ngoạn, đi qua một con sông, chợt họ nhìn thấy một phụ nữ đang ngồi bên bờ múc nước, bụng bà ta khá to, thì ra là bụng bầu.
Quốc Trạch trỏ nguời phụ nữ mà nói với Lý Nguyên Thiện
- Bà này mang thai 3 năm rồi đấy, đang đợi tôi đi đầu thai làm con bà ấy, nhưng tôi một mực tránh, đến bây giờ đối mặt bà ta, e rằng chẳng còn cách nào tránh nữa rồi. Ba ngày sau, bà ta sẽ trở dạ, Tới lúc đó phiền anh đến nhà bà xem xem, nếu đứa bé mỉm cười với anh, ấy chính là tôi đó. Lại đợi đến năm thứ 30, đêm trăng tiết Trung thu, tôi đợi anh ở chùa Thiên Trúc Hàng Châu nhé, lúc đó ta lại gặp nhau.

Sau hôm hai nguời bạn chia tay nhau, Quốc Trạch vô bệnh tật mà chết, cùng lúc người phụ nữ sinh hạ một đứa con trai. Lý NGuyên Thiện nghe tin, vội vàng y lời Quốc Trạch mà tìm đến gia đình bà ta thăm hỏi, đứa bé sơ sinh quả tình nhìn ông ta mà cười...
Năm thứ 30 kể từ hôm đó, nhằm đêm Trung thu, Lý Nguyên Thiện lần đến chùa Thiên Trúc Hàng Châu tìm đợi bạn hiền.
Vừa bước vào cổng, liền nhìn thấy một chú mục đồng đang cưỡi trâu, miệng hát
Tam sinh thạch thượng cựu tình hồn [FONT=宋体][/FONT]
Thưởng nguyệt ngâm phong bất yếu luận
[FONT=宋体][/FONT][FONT=宋体][/FONT]
Tàm quý tình nhân viễn tương phỏng
[FONT=宋体][/FONT]
Thử thân tuy dị tính trường tồn

Thành ngữ TAM SINH HỮU HẠNH nay được dùng để xưng tán những duyên phận đặc biệt, như gặp nhau ngẫu nhiên hoặc trong hoàn cảnh bất ngờ mà trở nên tri kỷ.
 
Thay đổi cách nhìn

Vào thời Tam Quốc , nước ngô có một vị đai tướng quân giỏi có tiếng đó là Lữ Mông. Do hoàn cảnh gia đình nghèo khó , không có tiền cho ông ăn học nên thường bị người đời cười chê.Họ nói ông chẳng qua cũng chỉ biết cầm quân đánh giặc thôi kì thực chẳng có tài cán gì .Vì những câu nói đó Lữ Mông vô cùng tức giận
Một ngày, vua nước Ngô là Tôn Quyền nghiêm túc nói với Lữ Mông: “Nhà ngươi bây giờ đã là đại tướng quân của nước Ngô rồi, nắm quyền lực rất lớn trong tay, nếu chỉ giỏi võ thôi chưa đủ, ta hi vọng nhà ngươi có thể bỏ thời gian đọc thêm sách vở.”
Lúc đầu Lữ Mông cò lấy cớ mình quá bận, để từ chối yêu cầu của Tôn Quyền. Nhưng cuối cùng nhờ lời động viên khích lệ của Tôn Quyền, ông đã phấn đấu vươn lên. Về sau, khi Lữ Mông và Lỗ Túc cùng nhau luận đàm việc quân, Lỗ Túc cảm thấy rõ ràng Lữ Mông thay đổi rất nhiều, khác hẳn so với trước đây. Lữ Mông nghe những câu đó của Lỗ Túc thì rất phấn khởi nói rằng: “Chỉ cần ba ngày không gặp, con người cũng đã khác rồi, nên phải có cách nhìn nhận đánh giá khác về họ chứ!”
Chính từ câu chuyện này đã dần dần hình thành nên câu thành ngữ quen thuộc:thay đổi cách nhìn mà chúng ta hay đề cập đến
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
×
Quay lại
Top