Tại Sao Người Do Thái Để Tóc Ngộ Thế ?

emhocngu0k

Thành viên thân thiết
Thành viên thân thiết
Tham gia
6/9/2011
Bài viết
118
Tham khảo "What's With The Sidelocks?" - Hairdos & Tzedakah

Tại Sao Người Do Thái Để Tóc Ngộ Thế ?
PicsArt_1439744192343.jpg


Lý do người Do Thái để tóc kiểu này vì họ thực hành lời dạy của Chúa được ghi chép trong Kinh Thánh đoạn Leviticus 19:27

Lê-vi 19:27 Bản Dịch 2011 (BD2011)
27 Các ngươi chớ cắt mái tóc xung quanh thái dương mình hoặc xén bộ râu mình,


Nếu bạn nào muốn để kiểu tóc thì nên giải thích với ba mẹ là trong kinh thánh về đoạn sách Lê vi 19:27 và cho ba má coi hình ảnh người Do Thái để kiểu tóc này.

Tiếng anh gọi là Payos, bạn có thể gọi là Tóc Kinh Thánh, Tóc Cựu Ước, hay Tóc Do Thái cũng được.

Kiểu tóc Do Thái truyền thống này ( Tóc Kinh Thánh ) là một sở thích lựa chọn tự do của cá nhân, không ép buột.
CRNxq2IUwAAlaJ_.png

CQUalCrVAAA9FFQ.jpg

CQKJ1m4UAAAJ9CM.jpg

CL1G1L3UEAEsnZM.jpg

CHtCLpTVEAAVnbL.jpg





Tư tưởng Râu Quai Nón Thần Bí của người Do Thái
cool%2Bman.jpg

Theo tư tưởng thần bí Kabblah, con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là tất cả các bộ phận của cơ thể đại diện cho một sức mạnh khác nhau của Thiên Chúa. Chủ nghĩa thần bí Kabbalah cho chúng ta biết rằng bộ râu đại diện cho sức mạnh lòng thương xót của Thiên Chúa.
beard.jpg

Genesis 1:26 Đức Chúa Trời phán: “Chúng ta hãy tạo nên loài người như hình Ta và giống như Ta, để quản trị các loài cá biển, chim trời, súc vật trên cả trái đất và các loài vật bò trên đất.”

Psalm 133 Thật tốt đẹp thay và phước hạnh biết bao khi anh em sống hòa thuận với nhau ! Ðiều ấy chẳng khác gì dầu quý giá trên đầu chảy xuống, Chảy xuống râu, Chảy xuống râu của Aaron, Rồi tiếp tục chảy xuống trên vạt áo của ông ta. Ðiều ấy giống như sương móc từ Núi Hermon sa xuống các rặng núi Zion, Vì tại đó CHÚA đã ban phước, Phước hạnh của sự sống đời đời.

Leviticus 19:27 Các ngươi chớ cắt mái tóc xung quanh thái dương mình hoặc xén bộ râu mình,
nguoi%2Bdo%2Bthai%2Bdavang%2Badong.JPG

Râu quai nón là những sợi tóc mọc xuống từ đầu cho đến phần còn lại của cơ thể. Râu quai nón là chiếc cầu bắt nhịp kết nối giữa lý trí và trái tim, giữa tư tưởng và hành động, giữa lý thuyết và thực hành, giữa ý định tốt và việc làm tốt. Đó là lý do chúng ta (người Do Thái) không cắt râu quai nón, nhưng để Râu quai nón phát triển sinh sôi nảy nở, để mở một dòng chảy của lý tưởng và triết lý của tâm trí vào lối sống hằng ngày của chúng ta. Thầy Aron Moss
true%2Bman.jpg

Vinh quang của khuôn mặt là một bộ râu; niềm hân hoan của trái tim là một người vợ; di sản của Thiên Chúa là trẻ em (Shabbos 152a) the glory of a face is its beard; the rejoicing of one's heart is a wife; the heritage of the Lord is children (Shabbos 152a)

Đàn ông người Do Thái thường để râu quai nón, nam giới người Do Thái xem râu quai nón là một biểu tượng của vẻ đẹp nam tính.
true%2Bdude.jpg

Một nhà văn thời trung cổ ghi nhận, “để trang điểm khuôn mặt của một người đàn ông là râu của ông ta” (Cyrus Adler, W. Max Muller, và Louis Ginzberg 2004).

Râu được cho rằng đó là do Thiên Chúa ban tặng cho đàn ông để phân biệt đàn ông với phụ nữ. Do đó, việc cạo râu, hay nhổ râu, hoặc làm hư hỏng bộ râu là một sự sỉ nhục. Bị người khác cắt râu hay bị người khác cạo râu là một sự nhục nhã đối với người Do Thái.
cool%2Bdude.jpg

II Samuel 10:1-5 Sứ Giả Của Vua Đa-vít Bị Người Am-môn Làm Nhục

1 Chẳng bao lâu sau đó, vua dân Am-môn qua đời. Con vua là thái tử Ha-nun lên ngôi kế vị.

2 Vua Đa-vít tự nhủ: “Ta muốn đối xử trung hậu với vua Ha-nun, con vua Na-hát, y như vua Na-hát đã đối xử trung hậu với ta.” Vua Đa-vít liền sai một số triều thần đi sứ đến chia buồn với vua Ha-nun về sự qua đời của vua cha là Na-hát. Vậy triều thần vua Đa-vít đi sứ đến nước dân Am-môn.

3 Nhưng các tướng lãnh dân Am-môn tâu với chúa mình là vua Ha-nun: “Bệ hạ tưởng Đa-vít thật sự kính trọng vua cha khi sai sứ đến chia buồn với bệ hạ sao? Không đâu! Đa-vít sai sứ thần đến với bệ hạ chỉ để dò xét và do thám thành đô với mục đích đánh chiếm thành sau này!”

4 Vua Ha-nun truyền lệnh bắt các sứ thần của vua Đa-vít, đem cạo sạch râu một bên mặt, cắt bỏ một bên nửa áo quần của họ ngay phía mông, rồi thả họ về.

5 Vua Đa-vít nghe tin, sai người đi đón các sứ thần vì họ cảm thấy nhục nhã lắm. Vua bảo họ: “Các ngươi cứ ở lại thành Giê-ri-cô, chờ cho râu mọc lại, rồi hãy về

Kinh thánh nói rõ trong Sách Lêvi 19:2 “You shall not round off the corners of your heads nor mar the corners of your beard.”

Truyền thống Kinh Talmud giải thích rằng điều đó có nghĩa là một người đàn ông có thể không cạo râu của mình bằng dao cạo với một lưỡi đơn kể từ khi hành động cắt của lưỡi dao chống lại da “mars” bộ râu. Bởi vì kéo có hai lưỡi một số ý kiến trong halakha (luật Do Thái) cho phép người Do Thái tỉa râu, như là hành động cắt ra do tiếp xúc của hai lưỡi dao chứ không phải là lưỡi dao trên da.
true%2Bmen.jpg

Vì lý do này, một số poskim ra quyết định theo luật Do thái quy định người Do Thái Chính Thống có thể sử dụng dao cạo điện để giữ vệ sinh sạch sẽ, vì những máy cạo râu này cắt bằng cách bẫy tóc giữa các lưỡi dao và tấm lưới bằng kim loại, một hành động giống như kéo. Các poskim khác như Zokon Yisrael Kihilchso giữ quan điểm rằng máy cạo râu điện tạo thành một hành động hoạt động như dao cạo và do đó ngăn cấm việc sử dụng chúng.
thin%2Bbe.JPG

Zohar, một trong những nguồn chủ yếu của Kabbalah (chủ nghĩa thần bí người Do thái), cho thấy sự rạng rỡ của bộ râu, chỉ ra rằng tóc của bộ râu là biểu tượng cho các kênh năng lượng tinh thần dưới tiềm thức chảy xuống từ trên lên linh hồn của con người. Vì thế thì, hầu hết người Do Thái Hasidic, đối với họ thì Kabbalah đóng một vai trò quan trọng trong việc thực hành tôn giáo hay việc thực hành đạo của họ, theo truyền thống thì họ không cạo râu hoặc thậm chí có người không thèm cắt tỉa râu của chính bản thân họ.
long%2Bbeard.jpeg

Người Do Thái theo truyền thống thì không được cạo râu, không được cắt tỉa râu và không được cắt tóc trong những khoảng thời gian nhất định trong năm như Lễ Vượt Qua, Sukkot, Đếm Omer và Ba Tuần. Cắt tóc cũng bị hạn chế trong thời gian tang lễ 30 ngày sau cái chết của một người họ hàng gần gũi, được biết bằng tiếng Hebrew là Shloshim (ba mươi).

Người cùi được cạo râu để phân biệt họ với những người khác vì căn bệnh đáng sợ của họ. Những người để tang cắt hoặc nhổ râu của họ như là một dấu hiệu của sự đau buồn, một thực tế bị các thầy tư tế chỉ trích. Nhưng đối với phần lớn, người Do Thái luôn xuất hiện với một bộ râu rậm, đầy đủ, bao gồm cả một bộ ria mép được cắt tỉa. Người thợ hớt tóc đã được sử dụng cho nghi thức cạo râu và thỉnh thoảng cắt tỉa. Các thầy tư tế bị cấm cắt tỉa các góc cạnh bộ râu của họ. Một trong những phương cách các chiến binh có thể hạ nhục kẻ thù hoặc làm cho gã trở nên suy nhược là cắt râu của gã.
eye.jpg

Chúng ta có thể thu thập từ các bức phù điêu và các di tích khác của thế giới cổ đại rằng các quốc gia khác mà người Do Thái có mối quan hệ thường xuyên có những phong cách râu khác nhau. Khi Giuse ở Ai Cập, ông đã cạo râu (St 41,14), phù hợp với tục lệ người Ai Cập. Thật là lạ lẫm, phụ nữ Ai Cập đeo râu nhân tạo gắn vào cằm của họ vào những dịp lễ nhà nước, còn đàn ông thắt hàm râu thành những búi tóc nhỏ. Dân du mục cắt bớt hai bên bộ râu của họ, tạo ra một bộ râu nhọn. Người Babylon và Assyria có bộ râu quăn công phu và người Hy Lạp cạo râu. Trong suốt thời kỳ người Hy Lạp cai trị Palestine, phong tục này khiến nhiều người Do Thái từ bỏ bộ râu của mình, một dấu hiệu từ bỏ Do Thái giáo. Trong thời hiện đại, bộ râu đầy đủ đã trở thành dấu hiệu của người Do Thái Hasidic. Râu cũng là dấu chỉ của người đàn ông trưởng thành, có gia đình của một số giáo phái Kitô giáo.

Theo Wikipedia Việt Nam và Maria Ngô Liên chuyển ngữ (Lv 21, 5; 2 Sm 10, 4; Is15, 2; Gr 9, 26) Trích dịch tác phẩm “All Things in the Bible” của tác giả Nancy Tischler Đọc thêm: Adler, Cyrus, W. Max Muller, and Louis Ginzberg, “Beard”, jewishencyclopedia.com (accessed December 30, 2004)
Ngó Mỹ, dòm Nhật, hóng Do Thái: sự lựa chọn nào cho ta?

Sự trì trệ kinh tế trong năm năm qua đã làm tổn hại nặng nề tới lòng tự tin của người Việt. Cái hào hứng, hồ hởi, phấn khởi, thậm chí đắc thắng của thời kỳ 2007-08 đã nhường chỗ cho trạng thái u ám, bi quan, bực bội và cáu bẳn, dai dẳng từ 2010 và ngày càng loang rộng. Một mặt, người ta đổ lỗi cho cái thể chế nói riêng và “cái nước mình” nói chung, như trong câu “Cái nước mình nó thế!”, bảo bối được nhà văn hóa Hoàng Ngọc Hiến trao tặng giới trí thức để họ cùng với ông thể hiện một cách tài tình thái độ buông xuôi của mình mà không ai có thể trách cứ được. Mặt khác, người ta đổ lỗi cho những người xung quanh. Cộng đồng người Việt hiện ra trên báo chí và mạng xã hội như một tập thể lười biếng, ngày ngày chỉ lượn từ quán trà chanh sang hàng bia hơi, sau đó thì hoặc là đi bắt trộm chó, hoặc là gia nhập đám đông đánh trộm chó một cách phấn khích man rợ, và chỉ dừng lại khi thấy một xe tải chở bia bị đổ ra đường. Văn hóa thì “xuống cấp”, và đạo đức đã hoàn toàn “băng hoại”. Với não trạng này, khá dễ hiểu khi thấy người Việt hướng tới một số dân tộc khác như những ngọn hải đăng trên biển cả mịt mù, mong tìm ra được một cuốn cẩm nang hướng dẫn tỉ mỉ phải sống như thế nào.

Ba dân tộc được nhắc tới nhiều nhất, với lòng thành kính, ngưỡng mộ và khâm phục, là Mỹ, Nhật và Do Thái.
nhat%2Bban.jpg

Từ trái sang phải là người Mỹ người Nhật Bản và người Do Thái

Không ngày nào trôi qua mà không gặp một bài báo, một trạng thái trên Facebook ca ngợi sự ưu việt của những nền văn hóa kia, và những căn dặn tỉ mỉ để noi theo chúng. Người ta chuyền tay nhau các bài viết chê cười tủ rượu của người Việt, và ngợi khen tủ sách của người Do Thái,
ruou.jpg

Gia đình người Do Thái uống rượu

và còn cho biết thêm phụ huynh Do Thái “xây dựng thói quen đọc sách cho trẻ nhỏ từ khi còn trong nôi”, và “để sách hấp dẫn trẻ, họ thường nhỏ nước hoa lên sách để tạo mùi hương cho các em chú ý” (tôi tự hỏi bước tiếp theo sẽ là rắc nước hoa vào bát bột để trẻ hết biếng ăn?)
honey.JPG

Người Do Thái chét mật ong chứ không nhỏ nước hoa
mat.jpg

Người Do Thái nhỏ mật ong chứ không phải nhỏ nước hoa
mat%2Bong.jpg

Người Do Thái cho trẻ liếm sự ngọt ngào của ong mật

Một loạt các bài báo khác cũng khá được ưa thích chỉ ra sự khác nhau trong hành xử ở phòng chờ sân bay giữa người phương Tây ưu tú và người Việt ít học. Chúng khiển trách người Việt không thể rời mắt khỏi màn hình điện thoại, trong khi đó, “người phương Tây dành thời gian để trò chuyện, ăn nhẹ và quan sát xung quanh”. Thật tao nhã, chỉ “ăn nhẹ” thôi nhé, để không bị phân tâm khi quan sát vũ trụ kỳ diệu đang hiện hữu ngay ở sảnh B. Tiếp theo, một bức ảnh chụp một phụ nữ phương Tây đứng tuổi đang ngồi xổm có dòng chú thích “Một phụ nữ tóc vàng đọc sách dù đang phải ngồi chờ trong tình trạng bất tiện.”

Ngoài chuyện đọc sách, giáo dục trẻ con là cái mà người Việt luôn tầm sư học đạo. Tình hình rối như canh hẹ. Lúc thì người ta khuyên nhau nên nuôi con thành nhẫn nại, khiêm nhường “như người Nhật”. Lúc khác thì lại phải biến chúng thành quyết đoán, phá cách “như người Mỹ”. Buổi sáng thì tới khóa học “Bí quyết nuôi con thông minh của người Do Thái
truong.jpg

”, buổi tối lại nghiền ngẫm triết lý được cho là của Nhật rằng “trẻ em không cần phải quá thông minh; thông minh, học giỏi không hẳn là một điều tốt.” Những nỗ lực này làm ta liên tưởng tới một đại gia đình thường xuyên ca cẩm về sự suy tàn của dòng họ mình, và cử những đứa con ra ngoài thám thính các gia đình thành công trong phố. “Họ dậy rất sớm để tập thể dục, sau đó ăn nhẹ và quan sát xung quanh,” một đứa trở về và tuyên bố. Đứa khác lại cho biết: “Họ làm việc thâu đêm bên máy tính, đó là bí quyết thành công của họ.” Điều mà đại gia đình này thiếu là niềm tin vào các giá trị của bản thân, và khả năng phân tích, đánh giá và phán xét thế giới xung quanh để không mù quáng chạy theo người khác. Việc chạy theo các công thức kiểu “nhỏ nước hoa vào sách để dụ trẻ con đọc”, về bản chất cũng giống phong trào uống nước tiểu của bản thân để chữa bách bệnh, vốn cực kỳ thịnh hành ở Việt Nam vào các thập kỷ trước. Bút ký Niệu liệu pháp của nhà văn Nguyễn Quang Lập đã tái hiện lại phong trào này một cách rất hóm hỉnh và bắt đầu như sau: “Sáng đó không biết có việc gì mình sang Hội (Văn nghệ) sớm, thấy chú Khuyến phó chủ tịch hội, đứng đái ở hàng rào. Ông cầm cái ca, đái vào đấy, đầy ca thì bưng vào, trông điệu bộ kính cẩn ca nước đái lắm.” Sự khâm phục và ngưỡng mộ phương Tây và Nhật Bản gần như vô điều kiện này đạt tới đỉnh điểm qua phát ngôn của nhà văn Nguyễn Quang Thiều trong một bài báo ngày 1/1/2015 nhan đề Điều gì cần cho Việt Nam lúc này? trên Vietnamnet: “Ở nước ngoài, họ có thể chăm chút cả đám mây bay trên bầu trời.” Không cần biết “nước ngoài” cụ thể là ở đâu, không, ta không có nhu cầu biết, “nước ngoài” lấp lánh và mê hoặc. Nó là tất cả những gì không phải là chúng ta. “Nước ngoài” có tất cả những cái chúng ta không có nhưng khao khát, một cuộc sống cực lạc, viên mãn, những triền cỏ non và cây cối ra hoa kết trái, trẻ em ngoan ngoãn và thông minh, thanh niên nở nang và thân thiện, người già nhân hậu và độ lượng, và những đám mây, đặc biệt là những đám mây, chúng được chăm chút tỉ mỉ hằng sáng trước khi được thả ra bầu trời để đón bình minh. Nhưng, có lẽ “nước ngoài” cũng không phải là một miền đất hứa êm đềm, đầy mật ngọt trên mặt đất và tiếng chuông lục lạc vang trong không trung, như người ta vẫn hình dung? Và cư dân của nó cũng là những người trần mắt thịt, cũng luẩn quẩn trong tham, sân, si, cũng vô minh và bối rối trong cuộc sống? Ví dụ ư? Có ai biết là theo điều tra của Quỹ Khoa học Quốc gia Mỹ năm qua thì một phần tư dân số Mỹ cho rằng mặt trời quay xung quanh trái đất. Có ai biết là trong năm 2013, 28% người Mỹ không đọc bất cứ một cuốn sách nào, và số lượng người Mỹ không đọc sách, theo The Atlantic, đã tăng gấp 3 kể từ 1978. Tôi đồ rằng nhóm người này không quá cảnh ở Nội Bài để được chụp ảnh trong phòng chờ. Vẫn nói chuyện về sách, có ai biết là 1/3 doanh thu của thị trường sách cho người lớn ở Nhật tới từ truyện tranh. Trong hình dung lãng mạn của người Việt, người Nhật ngồi ở tàu điện ngầm chăm chú đọc Khởi nghiệp của Fukuzawa. Thực tế trần trụi là họ nghiền ngẫm manga, chỉ cần nhìn khách Nhật trong các quán sushi ở Hà Nội thì biết. Nhà văn Murakami tin rằng chỉ 5% dân số Nhật thực sự yêu quý sách.
quan%2Bdoi%2Bisrael.jpg

Còn về người Do Thái, thật đáng tiếc là phải làm sứt mẻ huyền thoại “quốc gia khởi nghiệp”, nhưng Israel đang có vấn đề lớn với cộng đồng quốc tế bởi những gì họ làm với người Palestine. Một cuộc điều tra của BBC vào tháng Năm 2014 cho thấy Israel, Bắc Triều Tiên, Pakistan và Iran là bốn nước có hình ảnh tệ nhất trong con mắt thế giới. Sự ác cảm tới từ cả hai phía. Năm 2010, 77% người Israel cho rằng bất kể họ làm gì thế giới cũng sẽ phê phán họ. Nêu ra những chuyện bên trên không phải để chúng ta trở nên kiêu ngạo, cho rằng “họ cũng không hơn gì ta”, hay “người Việt được thế là tốt lắm rồi”, hay “dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”, thậm chí miệt thị “Tây ngố”, như các du học sinh Đông Âu thập kỷ 70-80 của thế kỷ trước vẫn làm trong khi ăn học ở nước họ. Khao khát học hỏi từ những văn hóa khác là một việc tốt và cần thiết. Nhưng thái độ tôn sùng nước ngoài của chúng ta hiện nay đang ẩn chứa nhiều vấn đề. Nó thực ra đang cản trở việc học hành của chúng ta, đóng mắt chúng ta lại, thay vì mở ra.

Sùng bái Mỹ, Nhật và Do Thái trước hết hàm ý ngầm một thái độ phân biệt chủng tộc và kỳ thị. “Anh từ châu Phi tới ư,” chúng ta thầm nói với bản thân khi đứng trước một người da màu, “nước các anh cũng nghèo, các anh cũng vứt rác ra đường và bấm còi inh ỏi? Vậy các anh không có gì để chúng tôi học cả.” Thái độ này khiến chúng ta bỏ qua những kho báu của nhân loại. Thật đáng tiếc cho những ai vì nhìn thấy 500 triệu người Ấn Độ hiện vẫn thích ra ngoài đồng hơn là ngồi trong toa lét, mà cho rằng nền văn hóa Ấn Độ không có gì để dạy họ. Bao nhiêu người trong chúng ta biết rằng Lebanon, một đất nước mà ta không biết gì về nó, đã đóng góp cho thế giới nhà thơ thiên tài Khalil Gibran, tác giả được đọc nhiều nhất trên thế giới chỉ sau Shakespeare, và tác phẩm Nhà tiên tri của ông cho chúng ta những suy ngẫm tuyệt vời về tình yêu, hôn nhân, niềm vui và nỗi buồn, học và dạy học, tình bạn, khoái cảm, đau đớn, cái đẹp, tôn giáo và cái chết? Tôi cho rằng chúng ta bị hút hồn bởi Mỹ, Nhật và Do Thái vì thực chất chúng ta chỉ quan tâm làm thế nào để trở nên giàu có, mặc dù chúng ta tự nhủ là muốn học để trở thành văn minh. Bởi nếu muốn học để biết phải sống như thế nào, chúng ta có thể học được nhiều lắm, từ bất cứ quốc gia hay dân tộc nào. Chúng ta có thể học từ lòng dũng cảm của những người Mẹ trên quảng trường de Mayo, Argentina, những người trong thập kỷ 70 đã thách thức chính quyền quân đội độc tài phải giải thích về sự biến mất của hàng ngàn con trai họ. Chúng ta có thể học từ những sinh viên Myanmar năm 1988, khi họ đứng lên phản đối chế độ quân chủ. Chỉ cần giảm một nửa số lượng bài báo ca ngợi cái sạch sẽ của người Nhật, cái lịch sự của người Mỹ, thay vào đó là những ví dụ trên, thì thế giới của chúng ta đã phong phú và giàu có lên biết bao nhiêu.
nguoi%2Bisrael.jpg

Ngay cả từ phương Tây, Nhật và Do Thái, chúng ta cũng tiếp tục phải học, nhưng không chỉ từ chuyện không vượt đèn đỏ hay không vứt rác ra đường vẫn hay được thường xuyên nhắc tới. Chúng ta có thể rút ra bài học vì sao hàng chục triệu người Đức, chỉ cách đây có 60 năm thôi, lại có thể mê muội đi theo một học thuyết diệt chủng và tuân thủ người cầm đầu của họ như chưa bao giờ một dân tộc tuân thủ lãnh tụ của mình như vậy. Và chúng ta có thể học từ những vất vả và đau đớn mà người Đức đã trải qua trong sáu thập kỷ qua để xây dựng nền dân chủ của mình. Khi xây dựng lại nhà Quốc hội ở Berlin bị tàn phá trong chiến tranh, sau khi thống nhất Đông và Tây Đức, người ta tìm thấy, và quyết định bảo quản các grafitti tiếng Nga của những người lính Hồng quân Liên xô trên tường. Nhà báo George Packer của The New Yorker chỉ ra rằng không một quốc gia nào khác trên thế giới trưng bày bút tích của kẻ chinh phục mình trong tòa nhà quan trọng nhất đất nước. Không học từ đấy thì học từ đâu? Trong các buổi tối của mùa hè 2014, người dân tỉnh lỵ Sderot, Israel, đem ghế nhựa và sofa lên một ngọn đồi. Họ uống soda, ăn bỏng ngô, vừa chuyện trò vui vẻ vừa cùng nhìn về chân trời. Đều đặn, khi chân trời sáng rực lên, người ta reo mừng và vỗ tay. Đó là những lúc bom và tên lửa của Israel đáp xuống dải Gaza của người Palestine. Chỉ trong vài tuần, các đợt oanh tạc này đã giết chết gần 1800 người Palestine, trong đó có hàng trăm trẻ em. Tối tối, những người dân Sderot ngắm màn mưa tên lửa như đang xem một bộ phim. Tôi tự hỏi, sự căm thù phải lớn tới mức nào để có thể làm chai sạn trái tim của những người đàn ông, đàn bà, người già Do Thái này
quan%2Blinh%2Bisrael.jpeg

, và họ sống ra sao khi bên trong họ có nhiều sự thù hận tới mức họ bị mất tính người như vậy. Vì sao những con người có bề dày văn hóa đến như thế lại trở nên cơ sự này, và liệu có cơ may nào chuyển hóa được lòng hận thù độc địa ấy.
quan%2Bsu%2Bisrael.jpg

Người Do Thái có quá nhiều bài học cho chúng ta về bản chất con người, nếu như chúng ta chịu khó nhìn rộng ra ngoài “cái tủ sách rắc nước hoa” của họ. Mỗi đất nước, dân tộc, văn hóa, thậm chí mỗi cá nhân là một vũ trụ phức tạp, chứ không phải những nhân vật của một vở kịch tuyên truyền thô thiển: người này giỏi, người kia kém, trắng đen rõ ràng và bất biến. Thách thức trong quá trình học hỏi là nhận biết được sự phức tạp, những xung đột, những chấn thương, những năng lượng, những bế tắc của một quốc gia, của một nền văn hóa, dù nó là Pháp hay Campuchia. Ngược lại, càng mù quáng, tôn sùng vô điều kiện một ai đó, một cái gì đó, thì lại càng dễ thất bại. Và khi vỡ mộng, người ta lại càng vội vã tuyên bố phải “thoát” nó ngay lập tức, để chạy tới tôn thờ một cái mới. Tâm thế đó là tâm thế của những kẻ mất tự do.

Nguồn: Sách 'Bức xúc không làm ta vô can', tác giả Đặng Hoàng Giang
Người Do Thái có nguồn gốc từ Thổ Nhĩ Kỳ Cổ Đại
cop.jpg

Người Do Thái Ashkenazi có nguồn gốc từ người Thổ Nhĩ Kỳ Cổ Đại: Nghiên cứu mới
Nghiên cứu mới cho thấy ngôn ngữ Yiddish của người Do Thái có nguồn gốc ở đông bắc Thổ Nhĩ Kỳ

Theo một nghiên cứu mới, đa số người Do Thái hiện đại trên thế giới, cũng như ngôn ngữ Yiddish, đến từ Thổ Nhĩ Kỳ, chứ không phải là các khu vực khác ở vùng Trung Đông.
a%2Bdong.jpg

Tiến sĩ Eran Elhaik của Đại học Sheffield đã sử dụng một hệ thống máy tính mô hình hoá để chuyển đổi DNA Người Do Thái Ashkenazi - các cộng đồng Do Thái theo lịch sử nằm ở Châu Âu - số liệu của họ vào thông tin địa lý, máy tính cho thấy 90 phần trăm người Do Thái Ashkenazi có nguồn gốc từ người Hy Lạp, người Ba Tư Iran và những người khác đã thuộc địa phía bắc Anatolia (ngày nay là miền bắc Thổ Nhĩ Kỳ) cách đây hơn 2.000 năm trước khi chuyển sang đạo Do thái giáo.

Tiến sĩ Elhaik nói là ông tin rằng Ba ngôi làng Thổ Nhĩ Kỳ còn sót lại - Iskenaz, Eskenaz và Ashanaz - nằm ở phía đông bắc Thổ Nhĩ Kỳ đã tạo thành một phần của quê hương của dân tộc Ashkenazi nguyên thủy và thành lập một sự phát triển bùng nổ của ngôn ngữ Do Thái hiện đại là tiếng Yiddish.
smile.jpg

Chúng tôi xác định được 367 người khẳng định họ có hai cha mẹ là người Do Thái Ashkenazi và chúng tôi chia nhóm ra thành những người mà cha mẹ họ chỉ nói tiếng Yiddish và những nhóm người khác ", Eran Elhaik, trưởng nhóm nghiên cứu, nói với Wired.

Ba ngôi làng này đều bắt nguồn từ danh từ "Ashkenaz", là gốc rễ của danh từ "Ashkenazi". Elhaik nói với Wired rằng phía đông bắc Thổ Nhĩ Kỳ là nơi duy nhất có bốn tên địa danh này tồn tại

Các học giả trước đây đã xác định được tiếng Yiddish theo nguyên bản ngôn ngữ Đức hoặc Slavic, nhưng Elhaik và những người khác tin rằng tiếng Yiddish đã được phát triển trong thế kỷ 8 và thế kỷ 9 công nguyên, bởi các thương gia Do Thái kinh doanh dọc theo con đường tơ lụa nổi tiếng nối liền giữa Trung Quốc và châu Âu.

Elhaik lưu ý rằng kết quả này thiệt là "đáng ngạc nhiên" vì khu vực này không có một "lịch sử phong phú của người Do Thái".
curly.jpg

Chúng tôi kết luận rằng AJs [ người Do Thái Ashkenazic ] có thể bắt nguồn từ thiên niên kỷ đầu tiên khi người Do Thái Ba Tư Iran đã Do Thái Hóa người Hy Lạp-Romanian, người Thổ, người Ba Tư Iran, người miền Nam Caucasus và người Slavic cư ngụ ở vùng đất Ashkenaz ở Thổ Nhĩ Kỳ ", nghiên cứu mới nhất vừa được công bố trong tạp chí Genome Biology.

Những phát hiện của chúng tôi cho thấy rằng tiếng Yiddish được tạo ra bởi các thương gia người Do Thái Slav-Ba Tư Iran đang chạy theo con đường tơ lụa nằm giữa nước Đức, Bắc Phi và Trung Hoa.
sleep.jpg

Cuộc tranh cãi về nguồn gốc sắc tộc của người Do Thái Ashkenazi đã bị các nhà chủ nghĩa dân tộc Do Thái, Palestine và những người bài Do Thái tất cả họ phản kháng dữ dội, tất cả đều cho rằng việc giải quyết vấn đề này sẽ ảnh hưởng đến tuyên bố của người Do Thái đối với mảnh đất Israel hiện đại.
nice.jpg

Lý thuyết cho thấy những người Do Thái Ashkenazi hiện đại là những người đã cải đạo đến từ vương quốc Khazaria cổ đại ở Trung Á và do đó người Do Thái hiện đại không có liên kết gì về mặt gen di truyền tổ tiên với vương quốc Judea trong Kinh Thánh và mười hai chi tộc Israel - đã được một số người theo chủ nghĩa chống Zionist làm công cụ và cái cớ và lý do để phủ nhận những tuyên bố của người Do thái đối với lịch sử vùng đất Palestine.

Tuy nhiên, các nghiên cứu khác đã cho thấy mối liên hệ gene di truyền chia sẻ chung tổ tiên giữa người Do Thái Ashkenazi và các dân tộc Trung Đông khác, bao gồm cả người Palestine.
blue%2Beye.jpg

Những người hàng xóm gần gũi nhất về mặt gien di truyền đối với các nhóm người Do Thái là người Palestine, người Bedouins ở Israel, và người Druze ngoài ra còn có những người Nam Âu, bao gồm cả người Cypriots

Theo Harry Ostrer, giáo sư về khoa nhi và khoa bệnh lý học tại Đại học Y khoa Albert Einstein ở Bronx, New York và Karl Skorecki, giám đốc phát triển y khoa và nghiên cứu tại Rambam Health Care Campus ở Haifa trong tạp chí Human Genetics vào tháng 10 năm 2012.

Nguồn middleeasteye.net/news/most-jews-descended-ancient-turkey-new-study-2107639949
 
Hiệu chỉnh:
×
Quay lại
Top