*Sống - chết*

mai_lady

past - present - future
Thành viên thân thiết
Tham gia
2/3/2012
Bài viết
4.914
SỐNG​

Sống không giận không hờn không oán trách
Sống mỉm cười với thử thách chông gai
Sống vươn lên theo kịp ánh ban mai
Sống chan hoà với những người chung sống
Sống là động nhưng lòng luôn bất động
Sống là thương nhưng lòng chẳng vấn vương
Sống yên vui danh lợi mãi coi thường
Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến.​

THÀNH NGỮ THỜI MỞ CỬA

1, Dạy con trẻ vạn lời hay, không bằng nửa ngày làm gương, làm mẫu.
2, Cha mẹ biết cho, chẳng biết đòi, con cái thích vòi mà không biết trả.
3, Cha mẹ dạy điều hay, con lại kêu lắm lời, con bước chân vào đời ngớ nga ngớ ngẩn.
4, Cha mẹ ngồi đấy không hỏi, không han, bước vào cơ quan: Cúi chào thủ tướng.
5, Khôn thì đừng cãi người già, chớ có dại mà chửi nhau với người trẻ.

6, Mỗi cây mỗi hoa, đừng trách cha mẹ nghèo tiền, nghèo của.
7, Cái gì cũng cho con tất cả, coi chừng ra mả mà ... cười.
8, Ngồi bia bọt hàng giờ, dễ hơn đợi chờ nửa giây đèn đỏ.
9, Củi mục khó đun, chồng cùn sống bậy, con cái mất dạy ... phí cả một đời.
10, "Vĩnh biệt" nhau, nửa giờ sau thoải mái, nhưng còn con cái biết quẳng vào đâu?

11, Hay thì ở, dở ra tòa, chia cửa, chia nhà ... con vào ... xóm bụi.
12, Đi có bạn đường, chân không biết mỏi, con có mẹ cha sao không hỏi khi cần?
13, Giỗ cha coi nhẹ, nuôi mẹ thì không, cả vợ lẫn chồng đi làm từ thiện ?!
14, Cha mẹ còn thơm thảo bát canh rau, đừng để mai sau, khoe mồ kheo mả.
15, Ở đời bất thiện là tại nhàn cư, con cháu mới hư, đừng cho là ... hỏng.
 
TỐT ĐỜI ĐẸP ĐẠO

* Không có một đấng sáng tạo, hay vị thần linh nào có quyền năng ban phúc hay giáng họa lên cuộc sống con người tất cả do chính con người làm chủ.

* Đức Phật nói: "Tin ta mà không hiểu ta, là phỉ báng ta." Xưa cũng như nay, ta chỉ noi rõ sự khổ và cách diệt khổ.

* Chúng ta chỉ nên tin theo một khi sự thực tập phương pháp ấy mang lại hiệu quả thiết thực trong đời sống của ta, cho ta nhiều an lạc và hạnh phúc.

* Nguồn gốc đưa chúng sinh đọa vào các cõi thấp chính là tâm sân hận và tâm oán ghét, tuyệt đối không được xoay lưng lại với tình yêu thương.

* Tại sao có sự sai khác chẳng đồng? Vì chúng sinh tạo nghiệp không đống nên cảm quả khác biệt. Ví như chết cũng là trả nghiệp mà có 4 kiểu:
- Chết do thiên tai vô tình hay bệnh già chết: lũ lụt, sét đánh, tai nạn, ...
- Chết do oan gia trái chủ: kiếp trước giết nó giờ nó tới đòi mạng, thời phải trả.
- Chết do đến lúc phải trả mạng gặp phải kẻ tạo nghiệp: Ví dụ, kẻ bắn chết hàng loạt, trong đó có những người không có oán thù gì với kẻ sát nhân, nhưng đến lúc mạng tận, thời phải chết chung.
- Chết do oan gia nhưng người đòi mạng không cố ý: Chính là trường hợp ngộ sát (vô tình gây chết người).

* Cầu nguyện có được giải thoát không?
- Không có năng lực nào vượt qua nghiệp lực. Ví như tảng đá ngàn cẳo dưới vực, tất cả dân làng xúm lại cầu cho tảng đá nổi lên, ông nghĩ độ bao lâu thì có kết quả?

- Thưa không thể được

- Cũng vậy, sát đạo dâm vọng là những nghiệp nặng chỉ có "sám hối" mới giải thoát, không thể nhờ cầu nguyện mà lên.

- Lại có người đổ một thùng dầu lênh láng trên mặt sông. Cả làng tới cầu nguyện, độ bao năm tháng thì dầu chìm?

- Thưa không thể được.

Cũng vậy, người tu thập thiện tái sanh lên trời. Không thể dùng cầu nguyện để kéo họ tuột xuống ác đạo. Này Tu Đạt, nhẹ bay lên, nặng rớt xuống là định luật

* Sám hối là gì? Có 2 nghĩa:
1, Xin lỗi
2, Sau không phạm lỗi đó nữa.
Thường những nghiệp liên quan tới vật chất rất khó sám hối mà hết tội, trừ phi trả hết. Ví dụ, một kẻ cắp mà mang trả lại đủ tài vật thời xin lỗi sẽ được tha, nhưng nếu chỉ xin lỗi suông thì ...

* Đỉnh cao của sự sám hối là khi ta gặp bất kì nạn gì như câm, ngọng, bất hạnh, đó, ... thời đều nguyện tất cả chúng sinh không bị gặp phải nạn giống ta.
 
* Hạnh phúc là gì?
Sống ít muốn biết đủ, thân tâm bình an, không lo toan muộn phiền, ăn ngon ngủ yên. Loại bỏ hết khổ đau, tu tập các pháp lành.

* Thế nào là người có phước đức?
Người đủ ăn đủ mặc
Là người có phước đức
Hằng ngày ít bực bội
Nhờ vậy mà dễ tu.

* Gieo bòn phước đức?
Hãy xa dời nghiệp ác
Hãy phát triển hạnh lành
Trở thành con người tốt
Trí tuệ đức đều vẹn toàn.

* Tu là gì?
Tu là sửa đổi thân - miệng -ý trở lên thuần thiện. Thời muốn tu được đạo hiếu phải cho lên hàng đầu. Là con thì phải chăm sóc bố mẹ lúc ốm đau, về già. Đó là nghĩa, nghĩa thì phải nên làm.

* Ma chướng là gì?
Tất cả nhưng điều gì gây cho thân tâm ta phiền não, không vui đều là ma.

* Ở đâu có chánh pháp? Đức Phật không nói đạo của ta là chánh, mà ngài nói: Ở đâu dạy mọi người tránh tất cả ác, làm tất cả thiện là đường chánh.

ÁP DỤNG VÀO CUỘC SỐNG

10 nghiệp thiện

1, Không sát sanh: Từ bi, không sát hại, sẽ được khỏe mạnh, trường thọ.
2, Không trộm cắp: Ngay thẳng không lấy của người sẽ được giàu sang, an ổn.
3, Không tà dâm: Không quan hệ bất chính, sẽ được xinh đẹp, hạnh phúc.

4, Không nói dối: Chân thật, không dối gạt, sẽ được uy thế tiếng tăm.
5, Không thêu dệt: Trung thực, không xảo ngôn, sẽ được mọi người kính mến.
6, Không đâm thọc: Hòa hợp, không nói lời ly gián, sẽ được nhiều người ủng hộ.
7, Không nói thô ác: Hòa nhã, không cay nghiệt, không thô tục, sẽ được cao sang.

8, Không xan tham: Rộng rãi thí xả, sẽ được vô lượng phước báo.
9, Không sân hận: Từ hòa nhẫn nại, sẽ được vô lượng duyên lành.
10, Không si mê: Sáng suốt, tỉnh giác sẽ được vô lượng trí tuệ.
 
10 điều tâm niệm

1, Nghĩ đến thân thì đừng cầu không bệnh khổ, vì không bệnh khổ thì dục vọng dễ sinh.
2, Ở đời đừng cầu không hoạn nạn vì không hoạn nạn thì kiêu ngạo nổi dậy.
3, Cứu xét tâm linh thì đừng cầu không khúc mắc vì không khúc mắc thì sở học không thấu đáo.

4, Xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không ma chướng thì trí nguyện không kiên cường.
5, Việc làm đừng mong dễ thành vì việc dễ thành lòng khinh thường kiêu mạn.
6, Giao thiệp đừng cầu lợi vì cầu lợi mình thì mất đạo nghĩa.
7, Vời người thì đừng cầu tất cả thuận theo ý mình, vì nếu vậy sẽ sinh lòng kiêu căng

8, Thí ân đừng cầu đền đáp vì cầu đền đáp là thí ân có mưu dò.
9, Thấy lợi thì đừng nhúng vào vì nhúng vào thì si mê phải độc (bị lừa).
10, Oan ức không cần biện bạch vì biện bạch là nhân ngã chưa xả.

12 giáo pháp

1, Cung kính đồng phạm hạnh, biết tuổi hạ cao thấp để đối xử cho phải lẽ. Biết vị này là trưởng lão để tôn trọng và đảnh lễ.
2, Đừng chiếm chỗ ngồi của các vị lớn. Đừng đuổi người nhỏ để đòi chỗ ngồi.
3, Khất thực đừng đi quá sớm về quá trưa. Đừng la cà ghé các nhà thiện tín, đừng qua lại nhiều với giới tại gia.
4, Đừng đến nhà thiện tín trước và sau bữa ăn. Trước bữa ăn là đến chầu chực. Sau bữa ăn khiến người mất giấc ngủ trưa.

5, Nói năng điềm đạm, đừng phù phiếm tạp nhạp, oai nghi tề chỉnh, tự chế chân tay.
6, Mềm mỏng dịu dàng, đừng cứng đầu, không bao giờ biểu hiện một ác nhỏ. Làm sao chứng tỏ mình là một bạn lành.
7, Phòng hộ sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), tiết độ ăn uống ngủ nghỉ, thiểu dục tri túc (ít muốn thì thường lạc)
8, Không dễ duôi buông xuôi biếng nhác.

9, Chú tâm cảnh giác, không thất niệm, có thiền định.
10, Luôn luôn chánh niệm, tỉnh giác quán chiếu năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức)
11, Pháp và Luật phải học cho thông thuộc.
12, Thành tựu thắng tri. Pháp tịch tịnh, giải thoát vượt khỏi sắc và vô sắc pháp.

Đủ 12 pháp này, chư Hiền đi đến đâu cũng là bóng mát cho chư thiên và loài người nương tựa.

Nguyện ngày an lành, đêm an lành
Đêm ngày sáu thời thường an lành
Tất cả các thời đều an lành.​
 
Phát triển tứ vô lượng tâm: Từ - Bi - Hỷ - Xả.
Tam học: Giới - Định - Tuệ.
Lục độ: Bố thí - Trì giới - Nhẫn nhục - Tinh tấn - Thiền Định - Trí tuệ.

1, Niềm tin

Một lần đang đi khất thực ngang qua cánh đồng ở làng Ekanala, Phật và các vị khất sĩ bị một nông dân chặn đường. Nông dân này tên là Bharadvaja. Ông là một nhà triệu phú. Ông có hàng ngàn mẫu ruộng. Đây là mùa cày ruộng, ông đang đốc thúc dân cày đi cày. Có hàng trăm người đang cày ruộng cho ông trong ngày hôm đó. Chận đường Phật và các vị khất sĩ, ông nói:

- Chúng tôi là nông dân, chúng tôi phải cày sâu cuốc bẫm, gieo trồng, bỏ phân, chăm bón và gặt hái mới có được gạo ăn. Còn các vị không làm gì cả, không sản xuất gì hết mà các vị cũng ăn. Các vị không có lợi ích gì cho đời cả. Các vị không cày, không cuốc, không gieo trồng, không bỏ phân, không chăm bón, không gặt hái…

Phật bảo Bharadvaja:
- Có chứ, chúng tôi cũng có cày, cuốc, gieo trồng, bỏ phân, chăm bón và gặt hái.
- Cày của quý vị đâu, cuốc của quý vị đâu, bò của các vị đâu, hạt giống của các vị đâu? Các vị chăm bón cái gì, săn sóc cái gì, gặt hái cái gì?

Phật nói:
- Hạt giống chúng tôi là niềm tin. Đất của chúng tôi là chân tâm. Cày của chúng tôi là chánh niệm. Bò của chúng tôi là sự tinh tiến. Mùa màng của chúng tôi là sự hiểu biết và thương yêu. Điền chủ! Nếu không có niềm tin, sự hiểu biết và lòng thương yêu thì cuộc đời sẽ khô cằn và đau khổ lắm. Chúng tôi cũng gieo trồng và cũng gặt hái như điền chủ.

Vị chủ ruộng rất thích thú được nghe lời Phật nói. Ông truyền gia nhân đem thức ăn trưa dành cho ông ta tới để cúng dường Phật. Thức ăn là cơm gạo thơm nấu với sữa. Phật từ chối.

Người nói:
- Tôi thuyết pháp không phải với mục đích là được cúng dường. Các vị khất sĩ không đánh đổi giáo pháp với phẩm vật cúng dường. Nếu điền chủ muốn cúng dường, xin để đến hôm khác.

2, Chửi mắng và lời dạy của đức Phật

Một lần, Phật đi giáo hóa vùng Bà La Môn, Các tu sĩ Bà La Môn thấy đệ tử của mình đi theo Phật nhiều quá, nên ra đón đường Phật chửi. Phật vẫn đi thong thả, họ đi theo… sau chửi. Thấy Phật thản nhiên làm thinh , họ tức giận, chặn Phật lại hỏi:

- Cù-đàm có điếc không?

- Ta không điếc.

- Ngài không điếc sao không nghe tôi chửi?

- Này Bà La Môn, nếu nhà ông có đám tiệc, thân nhân tới dự, mãn tiệc họ ra về, ông lấy quà tặng họ không nhận thì quà đấy về tay ai?

- Quà ấy về tôi chứ ai.

- Cũng vậy, ông chửi ta, ta không nhận thì thôi.

=> Đọc xong truyện 2 chúng ta rút ra được những gì???

* Người kêu tên Phật chửi mà Ngài không nhận. Còn chúng ta , những lời nói bóng, nói gió ở đâu đâu cũng lắng tai nghe, để buồn để giận. Chúng ta tu là tập theo gương Phật, mọi tật xấu của mình phải bỏ, những hành động lời nói không tốt của người, đừng quan tâm. như thế mới được an vui.

Trong kinh, Phật ví dụ người ác mắng chửi người thiện, người thiện không nhận lời mắng chửi đó thì người ác giống như người ngửa mặt lên trời phun nước bọt, nước bọt không tới trời mà rơi xuống ngay mặt người phun.

* Có một chi tiết mà có lẽ ít người để ý, đó là “Ta không điếc!“. Không điếc, tức là vẫn nghe được, nhưng Ngài không thọ nhận. Phải có trí tuệ và lòng từ bi, hãy biết trả lời đúng lúc đúng chỗ, trả lời khi cần thiết giúp cho người khác có thể nhận ra được đúng sai. Giúp họ sống tốt hơn, đó là cách trọn vẹ "tu". Và chắc chắn một điều răng, nếu bạn làm điều đó. Bạn sẽ cảm thấy thanh thản thật sự, vì bạn không chỉ tạo được sự an vui cho chính mình mà còn tạo được sự an vui cho người khác.

3, Nhẫn trong dòng đời





4, Bình đẳng

Ca Chiên Diên theo đức Phật, (ngài là 1 trong 10 vị đại dệ tử của Phật) tuyên bố chủ trương “Bình đẳng giữa 4 chủng tộc”. Điều ấy khiến những người thuộc dòng dõi Bà la môn vốn tự coi mình là cao quý nhất không chịu được.

Vì vậy, hễ gặp cơ hội họ liền tìm Ca Chiên Diên chất vấn, họ nghĩ rằng, không triệt hạ Ca Chiên Diên thì các Bà la môn từ nay không cất đầu lên nổi.

Tuy nhiên, nổi tiếng là người thông minh, tài trí và giỏi biện luận, Ca Chiên Diên khiến những người tìm tới chất vấn mình nhanh chóng phải khâm phục dù đó có là người quyền uy thế nào trong giới Bà la môn.

Chuyện kể rằng, 1 hôm, khi Ca Chiên Diên đang ở nước Ba la nại cùng với các tỳ kheo học thọ thực trong trai đường thì có 1 Bà la môn, thuộc hàng trưởng thượng tìm tới khiêu chiến.

Lão Bà la môn chống gậy bước vào, không nói không rằng đứng bên cạnh chỗ Ca Chiên Diên ngồi, ý ông ta tưởng rằng: Ông ta là bậc trưởng thượng, Ca Chiên Diên thấy ông ta đến thì phải sẽ đứng dậy nhường chỗ ngồi.

Tuy nhiên, ngoài ý dự đoán của lão, Ca Chiên Diên chẳng thèm nhìn đến ông, lão Bà la môn đợi hồi lâu bèn nổi giận, lớn tiếng trách: “Các ngươi là giống gì?

Đối với người già cả như ta tại sao không đứng dậy nhường ghế ngồi?” Các tỳ kheo có mặt tại trai đường sợ quá, nhiều người còn định đứng lên nhường chỗ cho lão Bà la môn ngồi.

Tuy nhiên, Ca Chiên Diên thì vẫn không nao núng chút nào. Ông quay mặt nói với lão Bà la môn nọ: “Ông là người nào mà đến đây lớn tiếng ầm ĩ? Chúng tô có phép cung kính của chúng tô, nhưng mà ở đây không có ai là trưởng thượng và tiền bối”.

Lão đạo sĩ Bà la môn nổi giận, quơ gậy chỉ vào cái đầu bạc của mình, nộ khí xung thiên la lên: “Già cả như lão đây không phải là trưởng thượng hả? Không đáng cho người cung kính hả?”

“Ông ấy à? Ông không đáng gọi là già lão, cũng không đáng nhận sự cung kính của chúng tôi!”, Ca Chiên Diên nói một cách mỉa mai.

“Tại sao ngươi khinh thường người khác quá vậy?”, lão Bà la môn nổi giận lôi đình, lấy gậy chỉ trỏ Ca Chiên Diên. Đối lại, Ca Chiên Diên rất điềm tĩnh, từ tốn nói:

“Tôi thấy cử chỉ và lời nói của ông thô lỗ như thế, tôi mới nói ông không đáng gọi là người lớn, không đáng cho người ta kính trọng.

Đừng kể là Bà la môn, dẫu cho 80, 90 tuổi, tóc bạc răng rụng mà không chân chính tu đạo, đắm chìm trong trần sắc, không bỏ được phiền não, tham sân tật đố, người đó chỉ đáng gọi là thiếu niên.

Như các người tuổi trẻ 20 quanh đây, da dẻ còn tươi nhuận, đầu tóc đen nhánh, nhưng họ đã thoát khỏi sự trói buộc của ái dục, không còn tham cầu nơi thế gian, không có chút xíu ý niệm bất bình sân hận.

Được như vậy, chúng ta mới gọi người đó là bậc trưởng thượng, là bậc lão túc, đáng được tất cả chúng ta cung kính”. Lão Bà la môn nghe nói xong, chẳng biết trả lời lại thế nào, làm thinh đi ra.

Khuất phục 1 Bà la môn râu bạc, danh tiếng Ca Chiên Diên càng lớn, nhưng cũng từ đó, Ca Chiên Diên càng không có ngày nào được yên, bởi các giáo đồ Bà la môn càng không thể tha thứ cho ông.

1 hôm, lại có 1 Bà la môn khác, rất giỏi biện luận, nghe nói Ca Chiên Diên đối với Bà la môn lão niên của họ chẳng những không cung kính mà còn bắt bẻ lại, ông Bà la môn này rất tức giận, từ xứ Câu thi ni la ở phía Bắc xa xôi hỏi thăm tìm đến chỗ của Ca Chiên Diên tại thành Ba la nại để khiêu chiến.

Vừa tới nơi ông ta đã kêu đích danh Ca Chiên Diên mà hỏi: “Ca Chiên Diên! Tôi nghe người ta nói, Ca Chiên Diên là gốc Bà la môn, nay cải giáo làm sa môn (hòa thượng), có phải vậy chăng?”

“Đúng vậy, ông xem tôi đang đắp ca sa đây”, Ca Chiên Diên bình tĩnh đáp lời.

“Người phản bội tín ngưỡng của mình, lỗi nhiều ít?”, ông lão Bà la môn nọ chất vấn.

“Từ bỏ tín ngưỡng tà chấp kia đi theo đạo lý quang minh chính tín này, không có lỗi gì cả!”, Ca Chiên Diên trả lời rất đanh thép.

“Trong giới Bà la môn ông chẳng phải là hạng người vô danh tiểu tốt, ông đã từng nghiên cứu tinh thâm pháp điển của Bà la môn chúng ta, nay ông cải giáo theo Phật, chuyện đó chưa thể bỏ qua, mà ta còn nghe đồn ông hay giảng thuyết Phật pháp cho các Bà la môn để rủ rê họ theo mình, hành động ấy thật là vô lễ”, ông lão Bà la môn vẫn không thôi cật vấn.

“Người đã đi qua, chỉ lại cho bạn đồng hành những chỗ lầm lạc của đoạn đường cũ, đó là lời dạy từ bi của đức Phật”, Ca Chiên Diên điềm tĩnh đáp.

Được coi là 1 người giỏi ăn nói, thế nhưng gặp phải Ca Chiên Diên, ông Bà la môn này cũng chẳng làm gì được. Tuy nhiên, ông ta chưa chịu thua, nhớ đến mục đích của mình đến đây, bèn hỏi lại: “Ca Chiên Diên! Tôi lại hỏi ông điều này.

Nghe nói Ca Chiên Diên làm tỳ kheo đã không cung kính bậc trưởng thượng của Bà la môn, không đứng dậy tiếp đón cũng không mời ngồi. Nếu quả như vậy, nếu ông tự cho là các tỳ kheo, không phải người theo Bà la môn cũng không được vô lễ như vậy”.

Ca Chiên Diên thẳng thắn, chậm rãi đáp: “Ca Chiên Diên tôi từ khi quy y với Đức Phật, quả thật không cung kính phụng sự các lão túc Bà la môn, điều đó cũng hợp lý thôi, vì tôi đã chứng thánh quả. Ông đừng đem tuổi tác già trẻ mà đến đây chất vấn, lễ và pháp không thể lộn xộn được”.

Lão Bà la môn nọ nghe lời biện luận khéo léo của Ca Chiên Diên, rốt cuộc thấy đuối lý không nói thêm được lời nào nữa.

5, Lời nói hợp thời hợp pháp

Đức Thế Tôn ngự tại thành Vương Xá. Ngoại đạo Ni-kiền-tử sai vương tử Vô Úy đến luận chiến với đức Phật, trao sẵn cho câu hỏi và câu trả lời cho vô úy nghe

"Đức Thế Tôn có bao giờ nói lời khiến người nghe không ưa thích chăng ?"

- Nếu Như Lai trả lời "có" thì ngài đâu có khác gì phàm phu. Nếu đáp "không" thì vì sao Đề Bà Đạt Đa phẫn nộ phiền trách ngài? Như vậy sẽ làm sa-môn Cù - Đàm ( ngoại đạo gọi theo họ của thế tôn ) không trả lời được và vương tử sẽ được danh tiếng lớn.

Thế rồi vương tử thỉnh Thế Tôn ngày mai thọ trai. Sau khi dùng cơm xong, vô úy đặt câu hỏi. Đức phật hỏi lại:

- Này vương tử, phải chăng ở đây, câu hỏi có dụng ý một chiều?

Vương tử đành nói thật dụng ý của câu hỏi có dụng ý 2 móc và nhấn mạnh vào việc đức Phật đã làm mất lòng Đề Bà Đạt Đa. Đức phật chỉ vào đứa bé đang ngồi trên dầu gối vương tử (con vô-úy):

- Nếu đứa bé nhỏ này lỡ bị hóc xương cá thì vương tử phải làm gì?

- Thì tôi phải móc chiếc xương ra cho bằng được. Nếu khó khăn thì tay trái tôi nắm đầu nó bắt ngửa mặt, tay phải lấy ngón tay móc xương ra, chảy máu bao nhiêu cũng chịu.

- Vương tử biết rằng như thế nó đau lắm. Vương tử không thương nó sao?

- Nó là cục ruột của tôi, sao lại không thương? Chính vì thương nó mới phải cứu sống nó bằng bất cứ giá nào.

- Cũng vậy, này vương tử, những lời nói không chân thật - không hợp thời - không đúng với mục đích - khiến người nghe không được lợi ích, không vui mừng thì Như Lai không bao giờ nói. Cũng có khi lời nói chân thật - hợp thời - tương ưng với mục đích - nhưng người nghe không ưa thích, thì Như Lai nếu thấy cần thiết, vì lợi ích cho người ấy, vẫn phải nói. Bởi vì Như Lai thương yêu tất cả hữu tình.

- Bạch Thế Tôn, những câu trả lời này ngài đã suy nghĩ trước hay là ứng đáp tại chỗ?

- Nghe nói vương tử hằng để ý tới xe cộ và những xe của vương tử vẫn được vương tử chăm sóc từng bộ phận?

- Thưa vâng, con rất thạo trong nghề xe cộ vì đã rất quen.

- Vậy vương tử có phải xếp đặt sẵn câu trả lời để phòng lỡ có ai tới hỏi: "Bộ phận này của xe tên gì?"

- Bạch Thế Tôn, có gì mà phải sắp xếp đặt trước.

- Cũng vậy, này vương tử, bởi vì pháp giới ... Như Lai đã rõ biết nên mỗi khi có trí nhân tới hỏi, Như Lai cũng cứ chỗ đã biết mà trả lời.

- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn, thật vi diệu thay! Con xin trọn đời quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.

6, Ngũ tân thu hút ngạ quỷ

Trong kinh Lăng Nghiêm, đoạn đức Phật nói ba món tiệm thứ. Trước tiện, không ăn ngũ tân ( hành, hẹ, tỏi, nén, hung, cừ ). Vì tính chất chất của ngũ tân làm tăng tham dục và sân hận, ảnh hưởng của nó là quyến rũ ngạ quỷ, khiến chư thiên cùng thiện thần lánh xa. Nó hay làm cho mọi người phát sinh phiền não.

Cách đây ít hôm, có người đến chỗ tôi, xưng là quỷ vương nói với thấy khác: "Tôi lên đây để đấu với Hòa Thượng, nếu Hòa thượng thua thì tất cả binh tướng của tôi sẽ chiếm chỗ này."

Sáng hôm sau, tôi đang ngồi uống trà thuốc tam tài, thấy có một người đàn ông và một người đàn bà đến. Người đàn ông thì đứng chắp tay, còn người đàn bà thì uốn mình như rắn (có lẽ thuộc loài Ma-hầu-la-già tức rắn thần) rồi quỳ xuống lạy, lạy xong thì đi xuống. Tôi không để ý, sau thấy mấy thầy nói: họ đến chánh điện niệm Phật một ngày một đêm. Các thầy kể lại, đã hỏi họ: "Sao không thấy đấu với Hòa thượng mà quỳ lạy rồi đi xuống?"

Người kia nói: "Tôi nhìn thấy Hòa thượng thì sợ quá nên quỳ xuống lạy chứ không dám làm gì hết." Tôi nói lại việc này để các huyanh đệ biết, mình sống ở đây, các loài ngạ quỷ hạng cao đầy rẫy. Cho nên Phật nói, nếu ăn ngũ tân sẽ ảnh hưởng tới các loài đó.

7, Lâm chung

Thời sắp chết nên thuyết một bài pháp ngắn và khuyên người niệm phật cầu vãng sanh, thoát khỏi sanh tử luân hồi:
Ta không còn dính mắc với mắt, tai, mũi, lưỡi và làn da này. Cảm thọ trống rỗng vô chủ như bọt nước, hoa đốm, ảnh trong gương, trăng đáy nước. Cả đời ta đã ham cảm thọ như chó gặm xương khô. Nay ta không còn bị lừa bịp nữa. Ngươi không phải ta, không phải của ta.

Những cái gọi là vừa lòng, êm ái, kh.oái lạc, ngon ngọt, thỏa thích, khả ái mà ta đã mê dính như cá mắc câu, như chim sa lưới.
Nay đã biến thành đau nhức như kim châm, dao cứa, xương rụng, thịt tan. Ta biết rồi, tất cả chỉ là ảo ảnh, mê lầm thành đau khổ phiền não. Thân này hay thân khác đều chẳng phải ta. Thế giới này hay thế giới khác đều chẳng phải của ta. Ta quyết định chiến thắng, an định tinh thần, không sợ hãi, nhớ niệm đức A Di Đà Phật từ nay ta giải thoát.

Thử hỏi từ lúc sinh ra tới giờ ta được những gì? Quanh năm suốt tháng theo đuổi gì đây? Vốn chỉ có một việc đó là thọ khổ, ngoài việc này ra chả làm gì cả. Thật đáng thương thay!

Học Phật là sự hưởng thụ tối cao của đời người. Sống một kiếp người mà không biết tu thì xem như vứt đi, xem như vô dụng.

CHẾT​

Chết không sợ không buồn không luyến tiếc
Chết mỉm cười trước cảnh nghịch chông gai
Chết nhẹ nhàng như rụng cách hoa mai
Chết tự tại với người đang sắp chết
Chết là đi nhưng lại chẳng viễn ly
Bước chân đi về với cõi Phật Di Đà
Không sợ chết cũng không hề có chết.​
 
Có Phật không?

Đức vua hỏi:
- Đại đức đã thấy Phật chưa?
- Thưa chưa.
- Thầy hoà thượng, thầy tiếp dẫn của đại đức đã thấy chưa?
- Thưa, cũng chưa thấy.

- Nếu thế thì rõ ràng không có Phật trên đời này, vì chính mắt đại đức không thấy mà các bậc thầy của đại đức cũng chẳng thấy.
Ngài Na-tiên bèn hỏi:
- Trên núi Hy-mã có một con sông tên Dhanadi, đại vương đã thấy chưa?
- Thưa chưa.
- Thế thì thân phụ và các bậc tiền bối của đại vương có thấy không?
- Cũng chưa.

- Vậy thì rõ ràng con sông Dhanadi là không có, vì ...
- Thưa, quả là có con sông Dhanadi, vì mặc dù trẫm không thấy hay họ chưa thấy nhưng sách có ghi chép lại và những người đã thấy họ nói lại.
- Cũng vậy, tâu đại vương! Bần tăng dù chưa thấy hay thầy của bần tăng cũng chưa thấy nhưng Đức Phật vẫn có, vì kinh sách, bia ký còn ghi chép sử tích và giáo pháp của ngài, lại còn nhiều vị Thánh tăng A-la-hán kể lại nữa.
- Hay lắm.

Tái sanh và vô sanh

Đức vua hỏi:
- Có ai chết rồi mà không sanh trở lại chăng?
- Thưa, có kẻ sanh trở lại và có người không sanh trở lại.
- Điều kiện nào để một người bị tái sanh? Và điều kiện nào để một người được vô sanh?

- Tâu, người nào còn tham sân si, phiền não, người ấy còn tái sanh; người nào tiêu diệt được tham sân si, phiền não, người ấy sẽ vô sanh.
Nghe trả lời vậy, đức vua lại đâm ra tò mò:
- Vậy đại đức đã vô sanh chưa?
- Tâu, nếu bần tăng còn phiền não, còn h.am m.uốn sự sống thì bần tăng còn tái sanh; ngược lại, bần tăng sẽ vô sanh!
Đức vua lại tán thán:
- Tuyệt vời thay là cách trả lời của bậc trí tuệ!

Sống đời xuất gia có gì là lợi ích?

- Người xuất gia thường quán sanh, già, bệnh, chết nên sẽ thoát khỏi sầu, bi, khổ, ưu, não chi phối - là những lợi ích thù thắng đấy, tâu đại vương!
- Đúng thế! Quả thật là lợi ích to lớn giữa cõi nhân sinh này. Còn có cái gì là cao thượng, thật sự cao thượng của người xuất gia, thưa đại đức?

- Thưa, khi người xuất gia không còn bị sinh lão bệnh tử của ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) chi phối nữa, vị ấy thân chứng một trạng thái quân bình tuyệt hảo, hạnh phúc tuyệt hảo; vượt cao, vượt trên tất cả hạnh phúc của trần thế! Đấy là sự cao thượng trên tất cả mọi sự cao thượng, tâu đại vương!

Đức vua rất hoan hỷ hỏi tiếp:
- Tất cả sa môn (người xuất gia) đều có nguyện vọng như thế sao?
- Tâu đại vương! Cứu cánh sa môn hạnh thì như thế,nhưng trong hàng tăng lữ hiện có bảy hạng người xuất gia vì lý do khác nhau:

1, Có người xuất gia vì muốn trốn luật vua, phép nước.
2, Có người xuất gia là để được thân cận giới quyền quý cao sang.
3, Có người xuất gia là mong được quyền hành trong một ngôi chùa hay lãnh đạo Tăng lữ, đồ chúng.
4, Có người xuất gia vì thất nghiệp, muốn kiếm miếng cơm manh áo.

5, Có người xuất gia vì cô thế, cô thân, trốn kẻ thù nghịch.
6, Có người xuất gia vì mang công mắc nợ.
7, Có người xuất gia vì sợ sanh tử luân hồi, muốn chấm dứt khổ đau, phiền não.

Thấy đại đức Na-tiên trả lời đâu ra đó rất rõ ràng, minh bạch, lại tự nhiên như hít thở khí trời; ngài phục lắm, thử ướm hỏi:
- Vậy chắc chắn đại đức vì mục đích cao thượng của hạng người thứ bảy mà xuất gia làm sa môn?
Đại đức Na-tiên mỉm cười gật đầu:
- Thưa, không phải thế! Bần tăng rời khỏi gia đình lúc bảy tuổi, còn rất nhỏ thì nào biết gì! Sau dần lớn lên, nhờ Thầy tổ, nhờ các vị trưởng lão dày công giáo hoá, trí óc mới khơi mở được chút ít. Hiện gờ có thể nói rằng bần tăng tu là cốt ý để diệt khổ, đấy không còn là lời nói dối nữa!
- Ôi lành thay! Cao quý thay!
 
Tiêu tiền thế nào cho đúng?

Nếu tiêu không đúng khi hết phước, chẳng còn tiền mà tiêu. Điện nước cũng vậy. Đặc biệt bây giờ mọi người dùng nước rất thoải mái, nước mà sài vượt sự cần-đủ thời sau không có nước mà dùng.

1, Trả tiền cho sinh hoạt: ăn uống, điện, nước, tiền học ...
2, Mua những vật dụng thật sự cần thiết, đồ gì còn dùng được thì không nên mua mới.
3, Tích trữ một phần phòng ốm đau, việc gấp.
4, Giúp những người thật sự cần giúp: trẻ mồ côi, bệnh tật, các hoàn cảnh khó khăn, ...
5, Đầu tư tiếp vào làm ăn, công việc.

Trí tuệ?

- Trí và tuệ khác nhau như thế nào, thưa đại đức?

- Trí thuộc về nhận thức, kiến thức, hiểu biết; còn Tuệ là thấy rõ vô thường, khổ não, vô ngã. Trí là thông minh mà tuệ là sáng suốt, vậy nó khác nhau, tâu đại vương!

- Thông minh và sáng suốt khác nhau sao?

- Thông minh là học nhanh, hiểu nhanh, học một biết hai, có thể có kiến thức sâu rộng, nhưng nếu không biết tu tập có thể đi đến tà trí. Còn người sáng suốt thì tự biết tâm mình, có tu tập thấy rõ pháp; nó cũng được gọi là chánh trí hay chánh tuệ, tâu đại vương!

- Người có được Tuẹ có thể biết mọi sự, mọi vật không, thưa đại đức?
- Có điều biết, có điều không biết.
- Tại sao?
- Những gì có học thì biết, những gì không học thì không biết. Đơn giản có vậy. Trí thuộc phạm trù hiểu và biết, Tuệ thuộc về cái thấy không còn lầm lẫn như: vô thường cho là thường, vô ngã cho là ngã, khổ cho là lạc!

- Vậy người có Trí còn si mê, lầm lẫn; người có Tuệ thì hết si mê, lầm lẫn?
- Đúng vậy!

Nỗi khổ của đời?

Phật dạy: " oán ghét hội khổ, ái biệt li khổ "? Thời không chỉ nói con người với con người.
* oán ghét hội khổ: phải ở với người mình ghét là khổ, ghét điều gì mà phải sống chung thời khổ. Ví dụ, ta mặt xấu đi, muốn đẹp nhưng lại không được đều khổ, ...
* Ái biết li khổ: không chỉ yêu thương ko được đáp lại, như ta yêu thích điều gì không được đều khổ, ...
Do vậy mà cần xả yêu thích, ít muốn biết đủ, tự nhiên an lạc.
 
Tại sao có chiêm bao?

1, do chất gió (phong đại)
2, do mật tác động
3, do đàm tác động
4, do bệnh, nóng (sốt) hay lạnh (hàn) tác động
5, do chư thiên, quỷ hay ma tác động
6, những chủng tử có sẵn trong tâm do mình đã tạo từ quá khứ.

Trong sáu nguyên nhân kể trên, chỉ có nguyên nhân thứ 6 là thật. Chiêm bao do nhân thứ sáu này tác động là chiêm bao có thật. Còn ngoài ra, các giấc chiêm bao khác do những nguyên nhân khác đều không thật.

- Ý đại đức muốn nói, chiêm bao có thật này do cảnh, vật, người hay vụ việc mình đã tạo trữ từ trước hiện tồn trong dòng tâm hữu phần hay sao?
- Tâu, đúng thế! Đúng là nó được tàng trữ trong hữu phần tâm. Tuy nhiên, nói tâm tạo ra nó thì không đúng, mà nói nó tự hiện ra cũng không phải.
- Thưa đại đức! Đã bắt đầu khó hiểu rồi đây!

- Không khó đâu, ví dụ là đại vương hiểu ngay. Ví như cái hình và bóng ở trong gương, nói cái gương tạo ra bóng là không được mà nói cái bóng tự nhiên hiện ra cũng không được. Tuy nhiên, muốn có bóng thì phải có hình, hình soi vào gương mới có bóng. Trước đây, chúng ta làm một việc gì đó (hình), việc đó lưu bóng ở trong tâm (gương). Chiêm bao chính là thấy lại cái bóng ấy ở trong gương. Đơn giản chỉ có vậy.

- Thế thì lúc chiêm bao, người ấy ngủ hay thức?
- Ngủ hay thức đều không chiêm bao. Nói rõ hơn, ngủ say quá hoặc tỉnh táo quá đều không thể chiêm bao được; chỉ khi nào nửa tỉnh, nửa mê, nghĩa là ngủ mà không say đắm, tỉnh nhưng mà mơ màng; chính là giữa trạng thái ấy, chiêm bao mới xuất hiện.
- Vâng!

Tương quan giữa phước và tội?

Đức vua hỏi:
- Trong hàng ngũ sa môn của Đại đức, có người thuyết rằng, có kẻ trọn đời làm ác nhưng đến khi lâm tử, họ tưởng nghĩ đến Phật, ân đức hoặc tướng hảo quang minh sáng chói của ngài thì có thể sanh lên cõi trời. Điều ấy thật khó tin! Lại nữa, các vị ấy còn thuyết rằng, người nào đã lỡ tạo nghiệp sát sanh, không cần nhiều lần chỉ một lần, phải bị đoạ địa ngục chẳng sai. Điều ấy lại càng không thể tin được!

- Tâu đại vương! Đại vương nghĩ thế nào, nếu có người ném một viên đá nhỏ độ bằng hột bắp hay hột tiêu xuống mặt nước, viên đá ấy sẽ nổi hay chìm?

- Chắc chắn phải chìm.
- Nếu có một người chất vài trăm viên đá lớn vào một chiếc ghe rất to, có sức chở rất lớn - thì chìm không, Đại vương?
- Thưa không.

- Cũng vậy, là tội hay phước cùng sự tương quan giữa phước và tội, tâu Đại vương! Tương tự vậy có người làm việc ác, dù chỉ một lần, như giết sanh mạng loài hữu tình; thì ác nghiệp ấy có sức nặng đưa chúng sanh đầu thai vào cảnh giới đau khổ như địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la. Một người làm việc ác trọn đời nhưng nhờ tưởn nghĩ đến ân đức Phật, tâm người ấy trú vững chắc và hoan hỷ ở trong ân đức lớn ấy; nhờ vậy người ấy được sanh thiên cũng là điều hiển nhiên thôi.

- Trẫm đã hiểu.
- Lại nữa, Đức Thế Tôn còn dạy rằng: "Ghe dù lớn nhưng qua biển lớn, mà chở quá mức độ cho phép, ghe thuyền ấy sẽ bị chìm. Cũng vậy, thiện nghiệp nâng đỡ ác nghiệp, nhưng nếu ác nghiệp quá nặng, thiện nghiệp cũng sẽ bị chìm theo! Lại nữa, ghe thuyền ấy phải được vững chắc, kiên cố không rò rỉ; nếu rò rỉ, thấm nước thì phải tát cạn, phải bịt chặt lại. Cũng vậy, đừng để ác nghiệp xen vào nếu ác nghiệp xen vào tâm thì phải bịt chặt lại, tát cạn lần hồi ác nghiệp ấy đi. Nhờ vậy ghe, thuyền thiện pháp kia mới đến bến bờ an vui nhất định."

- Trẫm không còn nghi ngờ gì về điều ấy nữa.

* QUY Y TAM BẢO - THỌ TRÌ NGŨ GIỚI *



 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Thời gian tái sanh?

- Thưa đại đức, ví dụ có hai người ở đây cùng chết, một người được sanh lên cõi trời phạm thiên, một người đầu thai vào xứ Kasmir kế cận đây, thế thì ai sẽ đến trước?

- Cùng đến một lúc, tâu đại vương.
- Xa gần không đồng nhau mà sao lại cùng đến một lượt, thưa đại đức?

- Thế thì đại vương thử nhiếp tâm nghĩ đến xứ sở Alasanda của đại vương đi?
- Trẫm nghĩ rồi.
- Bây giờ đại vương lại nhiếp tâm nghĩ đến xứ sở Kasmir đi!
- Trẫm nghĩ rồi!

- Thời gian mà đại vương nghĩ đến hai xứ sở ấy, xứ sở nào mau hơn?
- Thời gian bằng nhau.

- Tại sao thế? Xứ Alasanda của đại vương cách đây ham trăm do tuần, xứ Kasmir cách đây chỉ có mười hai do tuần mà thời gian đi về lại bằng nhau?

- Quả đúng như thế thật. Nhưng đại đức có thể cho nghe thêm một ví dụ nữa chăng?
- Ví dụ có hai con chim cùng bay, một con đậu nhánh thấp, một con đậu nhánh cao, thử hỏi bóng của con nào rọi xuống mặt đất trước?
- Cùng một lần, không trước không sau.

- Chúng sanh chấm dứt thọ mạng ở đây, dẫu hoá sanh lên cõi Phạm thiên hay đầu thai cảnh người thì thời gian vẫn đồng nhau, không có sau trước, tâu đại vương.
- Vậy là trẫm đã hiểu. Sự tái sanh của chúng sanh, dàu ở cảnh giới nào đều xảy ra trong một niệm, chẳng có xa gần, trước sau.
- Đúng thế, tốc lực tâm đều bằng nhau.

Thiên long bát bộ?

Đó là tám loại phi nhân có sức mạnh hơn người nhưng không phải là người: Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Gia. Tám loài này do Thiên và Long đứng đầu nên gọi là Thiên Long bát bộ.

Thiên: là thiên thần (Deva), đứng đầu bởi Đế Thích. Thiên thần trong Phật giáo vẫn còn trong cõi sinh tử, có sống có chết, có tất cả mười hai thiên thần quan trọng nhất tượng trưng cho tám hướng và bốn tinh thể của vũ trụ: mặt trời, mặt trăng, bầu trời và mặt đất

Long: là rồng (Naga) nhưng không có chân, trông giống như một con mãng xà lớn, là chúa tể các loài trong nước. Kinh Phật kể rằng một con rắn tên là Mucilinda da cuộn thành một cái tàn che cho đức Phật nhập định trong một cơn giông bão.

Dạ Xoa: (Yaksha) quỷ thần (thần ăn được quỉ), có thể tốt hoặc xấu. Dạ Xoa Bát Đại Tướng có nhiệm vụ bảo hộ chúng sinh

Càn Thát Bà: (Gandharva) nhạc thần th.ân thể tỏa mùi thơm, phục thị Đế Thích, không ăn thịt, không uống rượu

A Tu La: (Asura) đại diện tính xấu xa của con người, chuyên tranh đấu, hận thù.

Ca Lâu La: (Garuda) chim đại bàng cánh vàng đầu có một cái bướu to gọi là Như Ý Châu, tiếng kêu bi thảm, được người Trung Hoa bản địa hóa thành Đại Bàng Kim Sí Điểu. Ca Lâu La thích ăn rồng, khi chết chất độc xông lên cháy tiêu thành tro, chỉ còn một trái tim xanh biếc

Khẩn Na La: (Kinnara) nhạc thần của Đế Thích, đầu có sừng, giỏi múa hát

Ma Hầu La Gia: (Mahoràga) là thần rắn, mình người đầu rắn.

12 loại cô hồn

HỎI: Xin cho biết đại lược về 12 loại cô hồn trong khoa nghi Chẩn tế cô hồn của Phật giáo.
(NGUYỄN NĂNG, Gia Nghĩa, Đăk Nông; DIỆU THIỆN, Long Khánh, Đồng Nai)


ĐÁP: Bạn Nguyễn Năng và Diệu Thiện thân mến!
Chẩn tế cô hồn là một biện sự khoa nghi, trong đó chư Tăng thừa oai lực Tam bảo khai thị cho các vong hồn giác ngộ Chánh pháp mà được siêu độ đồng thời ban phát cho họ đầy đủ thực phẩm, vật dụng để không còn thiếu thốn, đói lạnh. Mười hai loại cô hồn được triệu thỉnh bao hàm tất cả mọi người thuộc đủ các tầng lớp, thành phần trong xã hội.

1/ Loại cô hồn đầu tiên là “Tiền vương hậu bá chi lưu”, những vị vua chúa các triều đại chết do chính biến, soán chủ thay ngôi. Đang trong cảnh thái bình “Mấy đời chín lớp ở cao, non sông muôn dặm thâu vào một tay” (theo bản Việt dịch của Hòa thượng Bích Liên) nhưng bỗng chốc chiến hạm kéo đến, binh mã dấy lên và thế là cơ nghiệp nát tan, oán hận ngút ngàn. Để rồi “Ôi thôi, đỗ quyên kêu trót tàn canh, máu hờn nhuộm mãi trên cành đào hoa” (sđd).

2/ Thứ hai là loại cô hồn “Anh hùng tướng soái chi lưu”. Những tướng lĩnh anh hùng cái thế, lừng lẫy một thời, xông pha trận mạc, vào sinh ra tử nhưng rồi tử trận, máu nhuộm sa trường, thây phơi đồng nội. Và ngậm ngùi “Ôi thôi, ngựa nhà chiến tướng vắng không, hoa hèn cỏ nội một vùng buồn thiu” (sđd).

3/ Loại cô hồn thứ ba là “Văn thần tể phụ chi lưu”. Các quan chức hành chánh huyện phủ, học hành đỗ đạt nhưng phụng mệnh phải nhậm chức xa nhà, chết nơi quê người đất khách. “Nhà châu quận xa làng phụ mẫu, chốn nước trời theo dấu thần tiên”. Để rồi “Ôi thôi, chiến chinh biển loạn sông nghiêng, mờ mờ hồn bướm ly miền dương quan” (sđd).

4/ Thứ tư là loại cô hồn “Văn nhơn cử tử chi lưu”, tức hàng sĩ tử sinh viên học sinh. Dẫu học hành nhiều, đêm ngày đèn sách nhưng khi công chưa thành, danh chưa toại nữa chừng đã yểu mạng. Thương thay, “Ôi thôi, lụa hồng bảy thước đề tên, đất vàng một cụm lấp nền văn chương” (sđd).

5/ Loại cô hồn thứ năm là “Ty y Thích tử chi lưu”. Một số vị Tăng sĩ, tuy ban đầu có chí xuất trần nhưng không đạt được mục đích của đời sống xuất gia. Chỉ đàm luận suông triết lý nhà Phật mà ít dụng công thực hành, không buông xả lại còn bám víu nên chẳng được siêu thoát. Họ dật dờ, quanh quẩn “Cửa kinh trăng thảm lạnh lùng, nhà thiền leo lét đèn chong canh dài” (sđd).

6/ Thứ sáu là loại cô hồn “Huyền môn đạo sĩ chi lưu”. Những người luyện linh đơn, tiên đoán cát hung, thiên văn địa lý, đoán mệnh cho người mà mệnh mình mờ mịt nên khi chết vẫn bị đọa lạc. “Ôi thôi! Lò hương lâm quán lãnh sương, tiếu đàn gió lạnh thổi tàn hạnh hoa”. (sđd)

7/ Loại cô hồn thứ bảy là “Tha hương khách lữ chi lưu”. Các thương gia xuôi ngược buôn bán rồi bỏ mạng trên đường kinh thương. Không ít người trải qua bao bất trắc trên đường thủy, đường bộ, để rồi “Ôi thôi, vía theo mây bắc sề sề, hồn theo ngọn nước xuôi về biển Đông” (sđd).

8/ Thứ tám là loại cô hồn “Trận vong binh tốt chi lưu” tức những binh sĩ tử nạn trong chiến tranh. Trong vòng binh lửa, bom đạn tơi bời, mạng người như cỏ rác, máu chảy đầu rơi, xương tan thịt nát. Chỉ còn “Ôi thôi, cát vàng văng vẳng tiếng ma, mờ mờ xương trắng ai mà nhặt cho” (sđd).

9/ Loại cô hồn thứ chín là “Huyết hồ sản nạn chi lưu”. Những sản phụ và con chết trong khi vượt cạn. Sanh nở là thời khắc đau đớn và nguy hiểm, một số trường hợp gặp nạn dẫn đến tử vong. “Ôi thôi, nhành hoa nở trận mưa tuôn, đương khi trăng tỏ gặp luồng mây xâm” (sđd).

10/ Thứ mười là loại cô hồn “Sân ngoan bội nghịch chi lưu” tức những người bị báo chướng sanh nơi biên địa, đui điếc câm ngọng, chết vì tai nạn lao động, ghen tuông hay bị đầu độc. Bởi kiếp trước họ không tu hành, khinh khi Tam bảo, ngỗ nghịch đối với cha mẹ, tạo nhiều tội nghịch nên nay phải trả quả báo. “Ôi thôi, đêm trường thăm thẳm bóng ma, cửa mù thui thủi như tòa thu đông” (sđd).

11/ Loại cô hồn thứ mười một là “Quần thoa phụ nữ chi lưu”. Những cung phi mỹ nữ, hàng khuê các giai nhân, các mệnh phụ phu nhân gặp lúc thất thế lâm vào khốn cùng, chết thảm. Chạnh lòng, “Ôi thôi, phong lưu ngày trước đâu rồi, xương khô lạnh lẽo trên chồi cỏ cây” (sđd).

12/ Cuối cùng là loại cô hồn “Thương vong hoạnh tử chi lưu”, tức những hành khất, các tử tội, những kẻ chết do tai nạn nước, lửa, bị thú dữ ăn thịt và những người chết bất đắc kỳ tử do vô số tai nạn khác như thiên tai, dịch bệnh, tai nạn giao thông v.v…
Tóm lại, mười hai loại cô hồn đã kể ở trên thực chất chỉ là sự phân chia mang tính khái quát, đại diện cho các thành phần xã hội. Về chi tiết, trong mỗi loại cô hồn có vô vàn cá biệt, tùy theo nghiệp dĩ của mỗi người. Nói chung, những loại cô hồn này chịu nhiều khổ đau, vất vưởng và luôn bị đói khát hành hạ. Vì vậy, với từ tâm và tuệ giác, Đạo Phật thiết định khoa nghi Chẩn tế nhằm cứu độ cô hồn, nguyện cầu âm siêu dương thái.


Bài chú Đại Bi là Hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Từng câu đều là danh hiệu của các Đại tướng Thiên Long Bát Bộ. Chư vị Kim cang Thần Thủ, Hộ Pháp Thần Vương. Khi trì chú Đại Bi, các vị Thiên, Long, Hộ Pháp sẽ luôn ở bên cạnh ta. Nên trì tụng lớn tiếng, trong kinh "nghiệp báo sai biệt" cho biết việc niệm Phật, tụng kinh, trì chú lớn tiếng có mười công đức sau đây:

1, Dẹp được sự buồn ngủ ám ảnh
2, Thiên ma hoảng sợ
3, Tiếng vang khắp mười phương
4, Ba đường hết khổ
5, Tiếng đời chẳng lọt vào tai

6, Lòng không tán loạn
7, dongx mãnh tinh tường
8, Chư Phật vui mừng
9, Tam muội hiện ra trước mắt
10, Vãng sanh Tịnh Độ.

Tuy nhiên trong một số trường hợp đặc biết phải tụng thầm chỉ riêng mình nghe, hoặc chỉ nhép môi không ra tiếng như khi chúng ta đang làm việc, đi chung xe tàu với người khác, hoặc đi nằm trước khi ngủ.

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.

Nam Mô A Di Đà Phật
 
cái này chopper đọc rồi, ý nghĩa lắm m.n chịu khó bỏ chút thời gian đọc thử đi
 
* Trước khi làm việc gì nên tập xác định 3 thứ:

- Nhân (lí do làm việc đó, việc gì cũng có nguyên nhân của nó.)
- Duyên (con đường => phương thức và thời gian thực hiện)
- Quả (làm nó dẫn đến hậu quả thế nào, để được cái gì)
=> Xác định rõ 3 cái này, sẽ phân tích được lợi hại của sự việc để giải quyết.

* Có 4 người thầy để chúng ta học hỏi ( TS Lê Thẩm Dương - Quản trị cuộc đời => youtube )

- Thầy trên bục giảng, phải hỏi thật tích cực, hỏi đủ xứng đáng với đồng tiền bỏ ra để học. Hỏi sai càng tốt, biết mà sửa.
- Thầy vạn tuế mà ít ai hỏi đến đó là google. Bác Gu này là bách khoa toàn thư của nhân loại mà lại không biết khai thác. Toàn đi xem phim hàn quốc vs vào face :P
- Bản thân chúng ta chính là thầy, phải biết rút kinh nghiệm ra chứ. Kinh nghiệm tích luỹ được là nhờ ít một mà ra.
- Nhìn vào bạn bè mà học tập.
=> Chúc mọi người tiến bước trong việc học, trên thực tế phải học nữa học mãi và học cả đời đó các bạn. Đừng nghĩ chỉ có học mấy thứ trên ghế nhà trường là đủ :X

* Truyện hay Mai mới phát hiện và đang nghiên cứu nè, đương nhiên là truyện chứ không phải kinh. Đảm bảo là rất hay, nên mọi người cố gắng bỏ thời gian đọc nha. :) Truyện thơ hẳn hoi nha :)) Dễ đi vào lòng người ha :D

* Tham khảo: sơ lược 10 vị đại đệ tử tại đây truyện tranh về các ngài tại đây

T$C3$B4n+gi$E1$BA$A3+A-nan.jpg
T$C3$B4n+gi$E1$BA$A3+Ca-chi$C3$AAn-di$C3$AAn.jpg
T$C3$B4n+gi$E1$BA$A3+$C4$90$E1$BA$A1i+Ca-di$E1$BA$BFp.jpg


Tôn giả A-nan: Đa văn đệ nhất Tôn giả Ca-chiên-diên: Luận nghị đệ nhất Tôn giả Đại Ca-diếp: Đầu đà đệ nhất

T$C3$B4n+gi$E1$BA$A3+La-h$E1$BA$A7u-la.jpg
T$C3$B4n+gi$E1$BA$A3+M$E1$BB$A5c-ki$E1$BB$81n-li$C3$AAn.jpg
T$C3$B4n+gi$E1$BA$A3+Ph$C3$BA-l$C3$A2u-na.jpg


Tôn giả La-hầu-la: Mật hạnh đệ nhất Tôn giả Mục-kiền-liên: Thần thông đệ nhất Tôn giả Phú-lâu-na: Thuyết Pháp đệ nhất

T$C3$B4n+gi$E1$BA$A3+Tu-b$E1$BB$93-$C4$91$E1$BB$81.jpg
T$C3$B4n+gi$E1$BA$A3+Upali.jpg
T$C3$B4n+gi$E1$BA$A3+X$C3$A1-l$E1$BB$A3i-ph$E1$BA$A5t.jpg


Tôn giả Tu-bồ-đề: Giải không đệ nhất Tôn giả Upali: Trì giới đệ nhất Tôn giả Xá-lợi-phất: Trí tuệ đệ nhất

T$C3$B4n+gi$E1$BA$A3+A-na-lu$E1$BA$ADt.jpg


Tôn giả A-na-luật: Thiên nhãn đệ nhất

Thật ra, khi còn tại thế đức Phật đã không hề nói đó là mười vị đệ tử lớn nhất của Ngài, mà Ngài chỉ bảo rằng, vị này rất giỏi về phương diện này, vị kia xuất sắc về phương diện kia ... mà thôi. Kinh Tăng Nhất A Hàm có ghi một danh sách các vị đệ tử đứng đầu giáo đoàn về từng phương diện khác nhau, do chính đức Phật xác nhận, ví dụ: A Nhã Kiều Trần Như có pháp lạp cao hơn hết; Xá Lợi Phất có trí tuệ siêu việt nhất; Mục Kiền Liên thần thông bậc nhất; Nan Đà giữ gìn sáu căn cẩn trọng nhất; v.v... Danh sách ấy gồm cả thảy 41 tì kheo, 13 tì kheo ni, 11 cư sĩ nam và 10 cư sĩ nữ.

Con số “mười vị đệ tử lớn” này là do người đời sau chọn lựa. Bởi vậy, đã có nhiều danh sách khác nhau về “Mười Vị Đệ Tử Lớn”, nhưng danh sách sau đây được coi là thông dụng nhất: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp, A Nan, Ưu Ba Li, A Na Luật, Phú Lâu Na, Ca Chiên Diên, Tu Bồ Đề và La Hầu La. Có thể nói, đó là mười vị đệ tử tiêu biểu nhất của đức Phật, Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh, làm cho Phật pháp hưng thịnh trên khắp lãnh thổ Ấn Độ thời đó, và còn lưu truyền mãi đến ngày nay.

* Tôn giả Anan (Ananda)
1- NHÂN DUYÊN XUẤT GIA

Bảy vương tử dòng Thích Ca

Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này

A Nan có mặt trong đây

Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai

Phật hy vọng trong bảy người

Chính A Nan sẽ giúp ngài mai sau

Làm thêm hưng thịnh đạo màu

Lưu truyền Phật pháp về lâu về dài.

A Nan tuổi trẻ, đẹp trai

Lại thêm bản tính khoan thai hiền từ

Giàu tình cảm, rất ôn nhu

Được phe nữ giới coi như mặt trời

Hiện ra sưởi ấm lòng người

Giữa ngày đông giá khắp nơi lạnh lùng,

Nữ lưu cảm mến tôn sùng

Dù ngoài hay ở ngay trong giáo đoàn.

2- GIÚP CHO NỮ GIỚI ĐƯỢC XUẤT GIA

Phật thành đạo được năm năm

Thời vua Tịnh Phạn lìa trần còn chi

Bà thái hậu Kiều Đàm Di

Là di mẫu Phật xưa kia nuôi ngài

Giờ đây bà cũng ngỏ lời

Muốn xin được phép sống đời xuất gia,

Phật từ chối không nhận bà

Trước sau bác bỏ đã ba phen rồi,

Sợ bà năn nỉ lôi thôi

Phật đưa Tăng chúng qua nơi cận kề

Sang thành phố Tì Xá Li

Cùng nhau hành hóa tránh đi muộn phiền.

*

Nhưng di mẫu trí vững bền

Quyết tâm tập họp người thêm cạnh bà

Toàn người dòng họ Thích Ca

Phi tần, cung nữ xuất gia đồng tình

Có cùng chí hướng tu hành

Năm trăm phụ nữ lòng thành thiết tha,

Cùng cạo tóc, mặc cà sa

Ba y, một bát thế là cùng đi

Biến mình thành Tỳ kheo Ni

Chân trần, lội bộ rất chi nhọc nhằn

Hai mươi ngày với quyết tâm

Hơn hai nghìn dặm xa xăm chẳng nề

Đến tu viện Tì Xá Li

Quyết lòng gặp Phật lo bề xuất gia.

Đến nơi, trời ngả bóng tà

Mọi người mệt mỏi, bơ phờ xác thân

Đứng ngoài tu viện ngại ngần

May thay vừa lúc A Nan thấy đoàn

Nhìn qua xúc động vô vàn

Vốn giàu tình cảm, vội vàng hỏi thăm.

Mọi người đáp thật thành tâm:

“Chúng tôi cầu đạo nên cần xuất gia

Bỏ gia đình, lìa cửa nhà

Đến cầu xin Phật thiết tha bữa này

Nếu ngài từ chối, buồn thay

Chúng tôi nguyện chết tại đây không về!”

*

A Nan an ủi mọi bề

Rồi vào trình Phật rất chi nhiệt tình

Xin ngài chấp nhận lòng thành

Cho đoàn được phép trở thành Ni sư

Nhưng mà Phật mãi chối từ

A Nan năn nỉ rất ư thảm sầu

Tuôn dòng nước mắt khẩn cầu

Cuối cùng Phật chẳng nỡ đâu bác lời

Cả đoàn được chấp nhận thôi

Tì kheo Ni được ra đời từ đây

Với điều kiện những người này

“Tám phép hoà kính” hàng ngày phải theo

Để tôn trọng các Tỳ kheo,

Đoàn cam kết sẽ tuân điều luật trên.

3- NẠN MA ĐĂNG GIÀ

A Nan theo thói lề quen

Một hôm khất thực xong liền về ngay

Đi ngang giếng, khát nước thay

Thấy cô gái nọ nên thầy hỏi xin,

Cô đang múc nước giếng lên

Cô dòng “hạ tiện” cho nên ngại ngùng

Dám đâu dâng nước cúng dường.

A Nan bèn đáp: “Hèn sang mặc tình

Tôi là một kẻ tu hành

Không còn phân biệt quẩn quanh thói thường!”

Cô bèn dâng nước cúng dường

Về nhà tình chợt nở trong tâm hồn

Tương tư mãi, ngẩn ngơ luôn

Không màng ăn nữa, chẳng buồn sống thêm,

Mẹ dò hỏi biết chuyện trên

Than rằng con khó kết duyên với người

Thầy tu, dòng dõi cao vời,

Thương con bà cố tìm nơi giúp mình

Giúp câu “thần chú” thật linh

Nghe vào mê loạn hết minh mẫn liền.

*

Nàng bèn chờ đợi trước thềm

Khi thầy khất thực qua bèn đọc mau

Vẫy tay mời gọi đón chào.

Chắc gì thần chú kia nào có linh!

Nhưng A Nan quả thật tình

Nửa mê, nửa tỉnh bước nhanh vào nhà

Nàng mừng, cuống quít chẳng ngờ

Muộn màng phản ứng thành ra trễ rồi

A Nan bừng tỉnh ngay thôi

Nhờ oai lực Phật trí thời sáng lên

Bước ra về tu viện liền.

Hôm sau khất thực vẫn phiền nhiễu sao

Cô nàng bám sát theo sau

Khiến A Nan phải mau mau quay về

Trình lên Phật rõ mọi bề,

Phật truyền cho gọi nàng kia đến hầu.

Thoạt tiên nàng thấy lo âu

Nhưng vì tình ái nàng đâu ngại ngùng

Đến nơi quỳ lạy Phật xong

Nàng bèn trút hết nỗi lòng vương mang.

*

Phật nghe, rồi hỏi cô nàng:

“Nếu con muốn lấy A Nan làm chồng

Bước đầu con có bằng lòng

Đi tu nghiêm chỉnh trong vòng một năm?”

Cô nàng thấy chẳng khó khăn

Vội vàng ưng chịu vô ngần sướng vui

Mẹ nàng cũng phải tới nơi

Thuận cho con gái thành người xuất gia.

Mơ màng hạnh phúc thăng hoa

Nàng vui cạo tóc, cà sa mặc vào,

Tỳ kheo Ni, học đạo màu

Siêng nghe Phật pháp, dấn sâu tu hành

Tinh anh, tấn tới, thuận thành

Khiến tâm dục vọng si tình lặng đi.

*

Nửa năm trôi đẹp yên bề

Một hôm nhớ lại hành vi của mình

Chìm ái dục, đắm mộng tình

Khiến nàng hổ thẹn tâm thành ăn năn

Đến hầu Phật sám hối rằng:

“Từ nay con nguyện đạo vàng khắc ghi

Mãi làm một Tỳ kheo Ni

Như Lai sứ giả quyết đi trọn đời!”

Thuộc dòng “hạ tiện” đương thời

“Ma Đăng Già” đó mọi người gọi tên,

Nàng là cô gái đầu tiên

Phật cho phép được hưởng niềm xuất gia.

4- THUYẾT PHÁP CHO TỲ KHEO NI

Đẹp trai, tình cảm nhu hoà

A Nan khiến gái gần xa mến thầy

Trong ni viện nọ quanh đây

Có Ni cô trẻ đêm ngày thầm thương,

Một hôm cô bệnh bất thường

Nhắn người xin thỉnh thầy sang thăm mình:

“Con đang bệnh nặng thật tình

Chắc không qua khỏi, chết đành xuôi tay!”

A Nan thương cảm tới ngay

Thấy cô xốc xếch, gi.ường đầy gối chăn

Nhìn thầy t.ình tứ đăm đăm

Thầy bèn quay gót âm thầm bỏ đi.

*

Ni cô hổ thẹn kể chi

Sửa sang xiêm áo vội đi theo thầy:

“Xin thầy thứ lỗi lầm này

Xin thầy trở lại, con đây tâm thành

Mong nghe lời dạy tu hành!”

Cô đem tọa cụ rước A Nan ngồi.

Thầy ngồi, lên tiếng ngay thôi:

“Có tu tâm ý con người mới an

Mong cầu dục lạc dối gian

Là điều lầm lẫn vô vàn khổ đau.”

Rồi thầy giảng Pháp thật lâu

Vì yêu, cô chú tâm vào để nghe

Vì nghe, tâm sáng tức thì

Để rồi niệm ái dục kia dứt liền.

5- BỊ GIÈM PHA VÌ CHIA BÁNH

Một hôm thầy lại chuốc phiền

Khi thầy chia bánh luân phiên từng người

Dân nghèo quanh tu viện thôi

Mỗi người một bánh chia thời đều nhau,

Đến phiên cô gái đứng sau

Vô cùng xinh đẹp, bước mau đến gần

Thầy A Nan chẳng để tâm

Đưa tay bốc bánh, bốc nhằm một đôi

Dính nhau bánh khó tách rời

Thầy đưa cặp bánh cho người đẹp kia.

Thế là bị kẻ xấu chê

Ghét ganh, ác ý tức thì riễu ngay:

“Hai người tình ý chi đây

Cớ sao lại phát bánh này gấp đôi?”

Thầy nghe thương xót thói đời

Đắm mê ái dục trong nơi biển tình

Không nhàm chán, mãi quẩn quanh

Để rồi khổ não và tranh chấp hoài.

6- LÀM THỊ GIẢ CỦA PHẬT

Tuổi năm ba, gần già rồi

Phật cần thị giả giúp ngài thường xuyên

A Nan được đề cử liền

Chư Tăng khích lệ: “Thầy nên nhận lời

Thông minh, trí nhớ tuyệt vời

Thầy còn tuổi trẻ giúp đời dài lâu

Nối truyền chánh Pháp, đạo màu!”

Thầy nghe khuyên mãi, dám đâu cãi lời

Xin ba điều kiện mà thôi:

“Y phục của Phật thầy thời không mang

Cho dù cũ mới hay chăng;

Không theo Phật dự trai tăng người mời;

Khi cần mới tới Phật thôi!”

Chư Tăng trình Phật, ngài thời khen ngay:

“A Nan phẩm cách đẹp thay

Ba điều kiện đó do thầy đặt ra

Chỉ nhằm tránh tiếng gièm pha

Rằng thầy ham áo hay là ham ăn!”

*

Kể từ đó thầy A Nan

Làm thị giả Phật chuyên cần mãi thôi,

Khởi đầu tuổi trên hai mươi

Rồi hai mươi bảy năm trời tiếp theo

Thường xuyên hầu Phật sớm chiều

Ngài đi hành hóa rắc gieo pháp mầu

Thầy A Nan mãi theo sau

Vì nhân duyên được dài lâu bên ngài

Pháp như biển rộng trùng khơi

Đều chảy thấm đượm vào nơi tâm thầy,

Nạn về nữ giới bớt ngay

Vì thầy gần Phật hàng ngày thường xuyên.

Thầy A Nan cũng nghiễm nhiên

Trở thành gạch nối đôi bên thuận chiều

Giữa Phật và các Tỳ kheo

Thầy là thị giả được nhiều người thương.

7- TÌNH BẠN TRONG ĐẠO NGOÀI ĐỜI

Thầy giúp ai giúp hết lòng

Sở trường mình có cũng thường không khoe,

Ai nhiều sở đoản chẳng chê

Riêng phần ngoại đạo có gì trái sai

Thầy không đả kích một ai

Cho nên cảm hóa mọi người xung quanh,

Thầy tuy hùng biện nổi danh

Không hề sử dụng tài tranh luận này.

Lưu Di người bạn lâu ngày

Chỉ riêng quý trọng có thầy mà thôi

Ngoài ra chẳng kính một ai

Không tin Phật với các người xuất gia.

A Nan bèn mời bạn qua

Nghe lời Phật giảng, sáng ra vô ngần

Lưu Di sau đó phát tâm

Quy y tam bảo và luôn thuận thành.

Mọi tranh chấp trong Tăng đoàn

Thường do thị giả A Nan giải hòa

Chân tình, khéo léo, thiết tha

Tình đời, nghĩa đạo phô ra tròn đầy.

8- NỖI KHỔ TÂM LỚN NHẤT

Khổ tâm lớn nhất của thầy

Chính là anh ruột mãi gây bất hòa

Chính là Đề Bà Đạt Đa

Xấu xa tuy đã xuất gia tu hành

Không chính trực, thiếu lòng thành

Chỉ mang ý tưởng muốn rành thần thông,

Phật khuyên thanh lọc thân tâm

Chớ ham cầu chứng thần thông làm gì,

Đạt Đa bất mãn kể chi

Lòng thù nghịch Phật tức thì nổi lên

Muốn tìm cách hại Phật liền

Đoạt ngôi giáo chủ nắm quyền trong tay.

*

A Nan và Phật một ngày

Đi ngang chân núi nào hay có người

Đạt Đa trên núi cao vời

Xô nguyên tảng đá lớn rơi hãi hùng

Mong rằng Phật bị tử thương,

Đá lăn tới Phật bỗng dừng lại luôn.

A Nan và Phật một hôm

Cùng đi bỗng gặp một đoàn người kia

Đạt Đa đang dẫn họ đi

Phật liền tránh mặt, ngài thì rẽ ngay

Vào con đường nhỏ cạnh đây

Phật lên tiếng dạy: “Nghe này A Nan

Những người hung ác bạo tàn

Đen lòng, tối dạ mình cần tránh xa

Không vì sợ hãi người ta

Chỉ vì chạm trán quả là ích chi!”

Đạt Đa còn có nhiều khi

Lùa voi hại Phật đang đi trên đường

Hay thường tìm đến đạo tràng

Gây phiền cho Phật và Tăng bao lần.

*

Nhãn tiền quả báo chẳng lầm

Đạt Đa sau chết vô ngần thảm thương.

9- MỘNG VÀ NHỮNG DỰ ĐOÁN

Suốt hai mươi bảy năm trường

A Nan thị giả khả năng tuyệt vời

Theo Phật hành hóa khắp nơi

Giờ đây tuổi đã năm mươi hơn rồi

Một đêm nằm mộng lạ đời

Thấy bao sự việc nổi trôi khác thường

Tâm thần hoảng hốt hoang mang

Vội tìm hầu Phật và tường thuật ngay.

*

Phật nghe, suy đoán giúp thầy:

“Đây điềm báo trước cho ngày mai sau:

Tăng đoàn thánh thiện ít sao

Nhiều phần tử xấu len vào chen chân;

Như Lai sớm nhập niết bàn

Các đệ tử lớn cũng lần lượt theo;

Tương lai có lắm Tỳ kheo

Biếng tu, ganh tị, kiếm điều hại nhau;

Có người y, giới bỏ mau

Chỉ lo hưởng lạc lao đầu bến mê

Chỉ lo lợi dưỡng mọi bề

Hậu sinh bỏ mặc không hề lưu tâm;

Và rồi đệ tử xa gần

Xuất gia cùng với thành phần tại gia

Cùng nhau hủy Phật pháp nhà

Chứ hàng ngoại đạo khó mà hại ta;

Còn điềm mộng cuối diễn ra

Báo ba tháng nữa ta xa cõi trần

Như Lai sẽ nhập niết bàn

Rồi quần chúng với Tăng đoàn, chư thiên

Lo kinh điển bị lãng quên

Phải cần kết tập cho nên nhờ thầy

Thầy là thị giả lâu ngày

Mọi người tín nhiệm! Lành thay đạo vàng!”

10- THỈNH GIÁO LẦN CUỐI

Thế Tôn sắp nhập niết bàn

Sau khi tuyên bố, ngài nằm tại đây

Sa la nở khắp rừng cây

A Nan thị giả quỳ ngay cạnh ngài

Bồn chồn thỉnh giáo đôi lời:

“Xin Thế Tôn dạy trong thời mai sau

Hàng nữ giới nhiều xiết bao

Con nên đối xử thế nào cho yên?”

*

Đức Phật từ tốn dạy liền:

“Người tu quyết bỏ não phiền buông trôi

Theo đường giác ngộ sáng tươi

Bóng hình phụ nữ phải rời xa tâm.

Lỡ khi chạm mặt tối cần

Gặp người già cả ta luôn thốt lời

Xem như là mẹ mình thôi!

Gặp người hơn tuổi ta thời coi ngang

Xem như chị gái tỏ tường!

Gặp người thiếu nữ trẻ hơn tuổi mình

Xem như em trong gia đình

Giữ tâm trong sáng, nghiêm minh, đàng hoàng!”

*

Sau khi dạy những lời vàng

Phật còn dặn lại kỹ càng xiết bao

Trà tì, xây tháp ra sao.

A Nan đa cảm nên mau u hoài

Nghe xong sầu khổ bi ai

Trốn ra đứng ở một nơi vắng người

Xót xa giọt lệ tuôn rơi

Nghĩ huynh đệ khác đều khai ngộ rồi

Riêng mình tăm tối mãi thôi

Muốn sau khai ngộ còn ai cậy nhờ

Còn đâu nữa bậc ân sư

Để mình hầu cận mãi như thuở nào.

*

Tìm A Nan chẳng thấy đâu

Phật sai người kiếm, gọi vào cạnh bên

Phật an ủi A Nan liền:

“Thầy làm thị giả lâu bền, siêng năng

Không sơ suất, đẹp mọi đường

Bao nhiêu công đức rỡ ràng giờ đây

Như Lai đền đáp cho thầy,

Hãy nên tinh tấn thêm ngay từ giờ

Để rồi thầy sớm lìa xa

Thoát ly phiền não ngày qua buộc ràng

Rồi mau chứng ngộ đạo vàng!”

Phật nhìn đại chúng nhẹ nhàng nói thêm:

“A Nan điềm tĩnh, lành hiền

Thầy luôn nghe Pháp chẳng quên chút gì

Luôn săn sóc, mãi cận kề

Thầy làm thị giả chẳng hề quản công

Cho nên công đức vô cùng

Sẽ luôn sáng rỡ khắp vùng thế gian!”

Nghe xong tôn giả A Nan

Lấy tay che mặt, lệ tràn bờ mi

Lại thương cảm, lại sầu bi

Lùi xa đại chúng trốn đi ra ngoài,

Thế rồi lại bị mọi người

Mời vào bên Phật, quỳ nơi cạnh ngài

Để làm đại diện nhất thời

Xin nghe Phật dạy đôi lời trối trăng.

*

Phật lên tiếng dạy chư Tăng:

“Giữ gìn giới luật bao năm làm thầy;

Y vào ‘bốn niệm xứ’ này

Để mà an trú hàng ngày thân tâm;

Gặp người hung ác, bất nhân

Hãy mau xa lánh, chớ gần gụi chi;

Kinh điển kết tập ngay đi

Mỗi câu nên bắt đầu ghi như vầy

‘Tôi nghe nhớ như thế này…’

Rồi theo đúng Pháp quý thầy chuyên tu

Vì rằng Pháp được coi như

Pháp thân thường tại của Như Lai rồi!”

*

Sau khi vừa dạy dứt lời

Niết bàn Phật nhập ngay nơi chốn này.

11- THAM DỰ ĐẠI HỘI KẾT TẬP KINH ĐIỂN

Lễ trà tì xong tại đây

A Nan mệt mỏi vội quay trở về

Nghỉ nơi tu viện trước kia

Rồi sau tôn giả hướng về phương Nam

Nơi thành vương xá xa xăm

Để cùng đại hội chư Tăng luận bàn

Kết tập kinh điển rõ ràng

Sẽ khai mạc với mùa an cư này

Rằm tháng Tư sắp tới đây.

Tuy chưa chứng ngộ nhưng thầy quản chi

Bao nhiêu giáo pháp xưa kia

Từng nghe Phật dạy, khắc ghi nằm lòng.

Thầy về vương xá thong dong

Một ngày trước lúc chư Tăng họp bàn

Đại Ca Diếp chủ tọa đoàn

Chọn vào đại hội được năm trăm người

A La Hán chứng quả rồi

Đã khai ngộ mới được mời tham gia,

Thầy A Nan bị bỏ qua

Vì chưa chứng quả. Bất ngờ lắm thay!

Cho nên ngay buổi chiều này

Thầy buông bỏ tất cả ngay tức thì

Trầm tư mặc tưởng nghĩ suy

Tập trung thiền quán rất chi nhiệt tình

Đến khuya khai ngộ hoát nhiên

Thầy A Nan suốt thông liền! Thật vui!

Thầy A Nan chứng quả rồi

Hôm sau đại hội thầy thời tham gia

Không chờ cửa động mở ra

Thầy dùng thần lực để mà vào luôn

Giờ đây hiển lộ toàn thân

Tác phong đạo mạo sáng ngần phô ra

Như trăng ló khỏi mây mờ

Như sen sớm nở cánh pha ánh vàng

Làm cho thánh chúng ngỡ ngàng

Cùng nhau xưng tán A Nan nhiệt thành

Rồi ngay lúc đó đồng thanh

Cử thầy lên đọc tụng kinh tức thì,

Thầy Đại Ca Diếp chủ trì

Thầy A Nan đọc: “Tôi nghe thế này

Thế Tôn thuở ấy tại đây…”

Làu làu đọc tụng lời thầy âm vang

Những gì nghe Phật rõ ràng

Để rồi ghi nhớ kỹ càng nào quên.

Trong kỳ đại hội nói trên

Bao kinh kết tập đầu tiên hoàn thành

Do công tôn giả A Nan

Thiên tài, trí nhớ vô vàn tuyệt luân,

Mọi người cảm kích vô vàn

Được nghe lại những lời vàng Phật tuyên

Biết bao kinh điển nói trên

Giờ đây mãi mãi lưu truyền nhân gian.

12- NHẬP NIẾT BÀN

Sau khi Phật nhập Niết Bàn

Thầy Đại Ca Diếp thay chân dẫn đầu

Kế thừa y bát, đạo màu

Giáo đoàn lãnh đạo trước sau viên thành.

Hai mươi năm thoáng qua nhanh

Tới hồi già cả, hơn trăm tuổi rồi

Thầy vào núi nhập diệt thôi

Phó truyền đạo nghiệp cho người thay chân

Đó là tôn giả A Nan

Đứng ra dìu dắt giáo đoàn khắp nơi

Bấy giờ tám chục tuổi rồi

Kế thừa Phật nghiệp thấy thời thuận duyên

Như hoa bừng nở tự nhiên

Khi mùa xuân đến khắp miền hương bay,

Thế Tôn từ thuở trước đây

Cũng từng mong mỏi điều này đã lâu.

Thời gian thấm thoắt trôi mau

Bao đệ tử lớn trước sau lìa trần

Chỉ còn tôn giả A Nan

Một trăm hai chục tuổi năm nay rồi

Một mình một bóng đơn côi

Chợt suy tưởng tới Phật đời xa xưa

Cùng bao đệ tử thượng thừa:

“Giờ đều khuất bóng tựa như chim trời

Bay theo cơn lốc xa vời

Cùng nhau nhập diệt vào nơi niết bàn

Còn mình ta chốn nhân gian

Tựa khu rừng bị đốn tan hoang rồi

Chỉ còn một cổ thụ thôi

Che mưa ngăn gió thấy thời khó sao

Thế gian tịch mịch xiết bao

Niết bàn ta cũng nhập vào cho xong!”

Thế là tôn giả quyết lòng

Bèn đem giáo pháp truyền luôn cho người

Truyền cho đệ tử xong xuôi

Nhắm về hướng Bắc thầy thời tìm qua

Sông Hằng phía đó không xa

Sông chia hai nước, phân ra đôi bờ

Tì Xá Li, Ma Kiệt Đà

Cả hai chuẩn bị đang chờ chiến tranh.

Sông Hằng ở giữa phân ranh

Một hôm thầy quyết tự mình ra sông

Rời thuyền, ngồi giữa hư không

Dùng lửa tam muội từ trong thân mình

Giữ lòng yên ổn, an bình

Tự thiêu thân xác nhập nhanh niết bàn

Nhục thân chia tách đôi đàng

Để cho xá lợi giạt ngang đôi bờ

Chia đều hai phía đang chờ

Cả hai nước thỉnh về thờ giống nhau.

Cảm thông từ đó về sau

Đôi bên giao hảo còn đâu hận thù.

A Nan tôn giả từ xưa

Tính tình hòa nhã lại vừa khiêm cung

Hiền lành, nhẫn nhục vô cùng

Nghe nhiều, nhớ kỹ ai hòng sánh ngang

Nhiều công lao với đạo vàng

Người đời nhớ tưởng, vô vàn kính yêu.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
* Tôn giả Đại Ca-Diếp
1- VĨ NHÂN RA ĐỜI NƠI GỐC CÂY

Miền Trung nước Ấn Độ xưa Có ông trưởng giả rất ư sang giàu Vợ ông năm đó có bầu Một hôm đi dạo sân sau an nhàn Bỗng nhiên mỏi mệt tâm thần Bà ngồi xuống nghỉ dưới tàn cây cao Hạ sinh quý tử! Lạ sao! Gia đình sung sướng đón chào con yêu. Cậu con rất được nuông chiều Là con độc nhất, thoả điều ước mong. Lớn lên tướng tốt vô cùng Đẫy đà, trắng trẻo. Mừng trong gia đình!

Đến khi lên tám học hành Song thân vội vã mời danh sư về Cậu thông minh đủ mọi bề Bao nhiêu môn học tức thì tinh thông Có điều đặc biệt lạ lùng Từ khi còn nhỏ đến chừng lớn khôn Ưa thanh tịnh trong tâm hồn Thế gian t.ình d.ục cậu luôn xa lìa. Vĩ nhân rất đặc biệt kia Là Đại Ca Diếp uy nghi sau này.

2- VỢ CHỒNG KHI KHÔNG CHUNG gi.ường

Thời gian trôi lẹ làng thay Cậu trai độc nhất giờ đây trưởng thành Khôi ngô, tuấn tú, tinh anh Muốn chàng cưới vợ, gia đình cầu mong Chàng nghe hốt hoảng trong lòng Vội vàng từ chối, thưa cùng mẹ cha: “Con xin được phép xuất gia Cho con thoả nguyện rời nhà đi tu!”

Đương nhiên cha mẹ chối từ Chàng bèn tìm kế coi như vẹn toàn Nhờ nhà điêu khắc dùng vàng Đúc nên bức tượng một nàng “mỹ nhân” Với nhan sắc đẹp tuyệt trần Trình thưa cha mẹ: “Nếu cần cưới xin Mong gia đình hãy đi tìm Cô nào giống tượng con liền mới ưng!” Mẹ cha khó xử vô cùng. Bà La Môn có thầy thường quen thân Tiếp tay biến tượng kia luôn Thành ra một tượng “nữ thần” uy nghi Để lên kiệu có lọng che Cho người khiêng kiệu loan đi tin mừng: “Các cô thiếu nữ trong vùng Cầu gì hãy đến cúng dường tượng đây Nguyện cầu được thoả nguyện ngay Nữ thần ban phép! Đời này thăng hoa!” * Trong làng nọ ở phương xa Nhà ông trưởng giả đại gia sang giàu

Có con gái đẹp hàng đầu Hương trời, sắc nước ai nào sánh ngang Diệu Hiền tên gọi của nàng Vui cùng bè bạn, cô thường theo chân Đi chiêm bái khắp xa gần Khi nghe nói tượng nữ thần linh thiêng Cô theo bè bạn đi liền Rủ nhau cùng tới ước nguyền, vái van Khi nàng đến trước tượng vàng Dung nhan kiều diễm của nàng phô ra Tượng liền biến sắc bất ngờ,

Được tin vui đó thầy Bà La Môn Hỏi nhà nàng, tới thăm luôn Mang chuyện Ca Diếp cầu hôn ra bàn Mối mai nói khéo vô vàn Nghe xong thời phụ thân nàng cũng ưng. Khi Ca Diếp đính hôn xong Tiếp liền lễ cưới tưng bừng xiết bao Nhưng cô dâu thấy lạ sao Mặt tuy đẹp đẽ lại sầu chứa chan Đêm tân hôn chàng và nàng Nụ cười thiếu vắng, chẳng màng nhìn nhau

Trầm tư, tĩnh tọa canh thâu Mỗi người một góc, có đâu chung gi.ường Đến khi sáng rỡ vừng dương Thời chàng lên tiếng hỏi nàng một câu: “Cô nương sao lại buồn rầu?” Nàng im lặng mãi, hồi lâu đáp lời Giọng đầy ai oán: “Thân tôi Chán nhàm ngũ dục. Ưa đời tịnh tu!” Chàng nghe mừng rỡ vô bờ Vội vàng thổ lộ ước mơ giống nàng: “Dục tình tôi cũng chẳng màng Mong tu theo ánh đạo vàng từ lâu!” Chàng nàng đồng ý cùng nhau Hai gi.ường riêng biệt kê vào hai nơi Thế là thanh tịnh tuyệt vời Đúng theo ý nguyện hai người trước đây.

3- MƯỜI HAI NĂM KIÊN TRÌ TRÍ NGUYỆN

Ông bà trưởng giả một ngày Bất thần vào tận phòng hai vợ chồng Thấy hai gi.ường. Giận vô cùng Sai người vứt bỏ một gi.ường trong đây. Đêm về Ca Diếp tính ngay: “Một gi.ường còn lại mình thay nhau nằm Người này nằm ngủ thanh nhàn Người kia tĩnh tọa dưới sàn an nhiên Trong đêm thay đổi luân phiên.” Tán đồng ý đó Diệu Hiền mừng vui Rồi nàng lại chợt ngỏ lời “Mình sao chẳng sớm tìm nơi tu hành?” Trầm ngâm chàng mới trần tình: “Song thân còn sống sao đành lìa xa Anh là con một trong nhà Nỡ nào bỏ mặc ông bà ngóng trông.” Thế là cuộc sống vợ chồng Vui trong đạo vị. Tuyệt không dục tình

Chung phòng nhưng rất tịnh thanh Mười hai năm thoáng trôi nhanh dòng đời.

4- XUẤT GIA TU HÀNH

Phụ thân Ca Diếp già rồi Cả hai lần lượt qua đời trước sau Vợ chồng chàng mới cùng nhau Trông nom tài sản nhưng đâu vui gì. Nàng thời trong một ngày kia Sai nô bộc ép dầu mè bên hiên Mọt trong dầu bị chết chìm Sợ gây quả báo cho nên nàng buồn, Còn chàng thăm thú ruộng đồng Thấy bao cảnh tượng cũng không hài lòng Trâu cày khổ cực vô cùng

Đất cày sới khiến côn trùng chết theo Nông phu mệt nhọc tiêu điều Trần gian cuộc sống sao nhiều tang thương. Cùng mang tâm sự chán chường Cho nên Ca Diếp tìm đường xuất gia Dặn rằng: “Em ở lại nhà Anh đi trước cố kiếm ra bậc thầy Rồi anh trở lại mai này Đưa em cùng xuất gia ngay muộn gì! Trong khi chờ đợi, tiếc chi Hãy đem tài sản phân chia giúp người!”

5- TRỞ THÀNH ĐỆ TỬ

Khi vừa quá tuổi ba mươi Bước chân Ca Diếp khắp nơi du hành Dù cho hết sức tâm thành Tìm thầy học đạo quả tình khó sao Để rồi mãi hai năm sau Nghe tin đức Phật hàng đầu oai danh Là bậc đại giác đạt thành Ông bèn tìm tới vị minh sư này. Trúc Lâm tu viện đẹp thay Phật đang thuyết pháp tại đây giúp đời Ông vui theo với mọi người Hàng ngày nghe pháp, nghe lời Phật ban Những lời trí tuệ rỡ ràng Dần dần trấn động tâm can con người. Một hôm tĩnh tọa

Phật ngồi Dưới cây đại thọ, đất trời thăng hoa Tâm thành Ca Diếp tìm qua Cúi đầu sụp lạy, thiết tha thỉnh cầu Xin làm đệ tử đạo màu Xin nương tựa Phật dài lâu tu hành Phật lên tiếng dạy: “Thật lành! Ta chờ đệ tử quả tình đã lâu Tiếp tay phổ biến đạo màu Lưu truyền Phật pháp mai sau giúp đời Vừa vì mình, vừa vì người Hãy nên cố gắng tức thời khai tâm!” Trở về tu viện Trúc Lâm Sau khi được thế độ làm thầy tu Thầy Ca Diếp vui vô bờ Được nghe giáo pháp mong chờ từ lâu Cho nên chỉ tám ngày sau Thầy liền khai ngộ thật mau lạ thường.

6- HOÀN THÀNH LỜI ƯỚC HẸN VỚI NGƯỜI XƯA

Phật về thăm lại quê hương Thầy Ca Diếp được tháp tùng một bên Dịp này Phật quyết định thêm Phép cho phái nữ được quyền xuất gia. Từ khi từ biệt cửa nhà Năm năm trời đã trôi qua êm đềm Nhớ lời hẹn với Diệu Hiền Thầy Ca Diếp quyết ưu tiên hoàn thành. Diệu Hiền khi sống một mình Năm năm trông ngóng quả tình nôn nao Khó lòng chờ đợi thêm lâu Nên xin gia nhập ngay vào phái kia Tại sông Hằng chốn cận kề Dù là ngoại đạo chẳng hề đắn đo Nhưng do sắc đẹp Trời cho

Bị người ganh ghét phao vu nhiều bề Khiến nàng khổ sở não nề Mong chồng đến cứu, đón về mà thôi. Thầy Ca Diếp hay tin rồi Nhờ ni sư nọ tới nơi cứu nàng Ni sư hoa hỉ tìm đường Chẳng bao lâu đã giúp nàng thoát ra Đưa về tới ni viện nhà Tại đây nàng được xuất gia an lành Nhưng rồi vì sắc đẹp mình Diệu Hiền lại cũng trở thành nạn nhân Xầm xì tiếng xấu lan dần Nên nàng quyết định không gần một ai

Ngưng đi khất thực ngoài đời Sống xa đại chúng tránh lời gièm pha. Thầy Ca Diếp rất xót xa Thầy xin phép Phật để mà phân chia Hàng ngày khất thực được chi Chia ra một nửa cho ni Diệu Hiền. Nhưng rồi cũng chẳng được yên Thị phi, đồn đại mãi thêm loan truyền Điều này kích thích Diệu Hiền Quyết tâm mãnh liệt thâu đêm tu hành Trang nghiêm, cẩn mật, nhiệt thành Phát lồ sám hối, điều tâm ý mình Cuối cùng đạt ngộ thật nhanh Phật khen: “Con thật tốt lành vô song Rất thông suốt ‘túc mạng thông’ Chuyện bao tiền kiếp nhớ không quên gì Nội trong chúng tỳ kheo ni Đứng vào bậc nhất, muôn bề giỏi giang!”

7- CHỈ CHUYÊN TU KHỔ HẠNH

Tâm thầy Ca Diếp vững bền Chuyên tu khổ hạnh triền miên không ngừng Trong hang động, ngoài núi rừng Hay ngồi quán tưởng giữa vùng tha ma Hoặc ngồi suy nghĩ sâu xa Lặng yên nơi gốc cây già, đồng hoang Mặc mưa nắng, mặc gió sương Rũ đi phiền não, chẳng màng lợi danh “Đầu đà” khổ hạnh tu hành Uống ăn, áo mặc quả tình đơn sơ Chỉ ưa đơn độc đường tu Sống đời già yếu vẫn ưa một mình Công cuộc hoằng pháp độ sinh Rõ ràng kém bớt nhiệt tình hăng say.

8- ĐỨC PHẬT CHIA HAI CHỖ NGỒI

Một hôm Phật muốn gặp thầy Phật sai người tới rừng cây đón mời Tóc râu thầy đã mọc dài Thân trong tiều tụy, vẻ ngoài tang thương Khi thầy tới bị khinh thường Mấy tỳ kheo trẻ am tường gì đâu. Hiểu tâm lý đó rất mau Phật bèn vẫy gọi thầy vào cạnh ngay: “Chỗ ngồi dành sẵn nửa này Mời thầy Ca Diếp tới đây cùng ngồi!” Những tỳ kheo trẻ rụng rời

Nghe lời Phật nói tức thời hiểu ra Tiếng ngài trưởng lão vang xa Họ chưa biết mặt nhưng mà nghe danh Phật liền dạy rõ ngọn ngành Việc thầy khổ hạnh tu hành lâu nay. Thầy Ca Diếp tiếp lời ngay: “Thưa rằng khổ hạnh nhưng đầy an vui Tịnh thanh, giải thoát, thảnh thơi Muốn hoằng dương Phật pháp nơi dương trần Phải cần củng cố tăng đoàn Sống cho nghiêm túc, vững vàng bản thân!”

9- GIƠ HOA MỈM CƯỜI

Họp trên Linh Thứu một lần Hoa sen một đóa Phật cầm đưa lên Khắp trong đại chúng lặng yên Vì chưa hiểu ý nên liền im hơi Riêng thầy Ca Diếp mỉm cười Phật liền hoan hỉ khoan thai phán rằng: “‘Chánh Pháp Nhãn Tạng’ rõ ràng Lại thêm có cả ‘Niết Bàn Diệu Tâm’ Ta truyền Ca Diếp một lần!” Nghe xong đại chúng vô ngần ngạc nhiên

Nào hay liên hệ sẵn duyên Giữa thầy và Phật bao tiền kiếp xưa Nay thầy được Phật truyền cho: “Mắt nhìn chánh pháp rất ư rõ ràng Thêm tâm màu nhiệm vô vàn Hiểu sâu ý nghĩa Niết bàn tối cao!”

10- KẾ THỪA BÁT CUẢ PHẬT

Thời gian thấm thoắt qua mau Phật nay tuổi thọ đã vào tám mươi Ngài gần nhập Niết bàn rồi Khá nhiều đệ tử qua đời trước đây Khả năng thừa kế lúc này Có thầy Ca Diếp và thầy A Nan. Ngay khi Phật nhập Niết bàn Thời thầy Ca Diếp không gần một bên Được tin thầy vội ngày đêm Từ nơi phương Bắc về liền tới nơi. Phật nhập diệt bảy ngày rồi Mọi người châm đuốc lửa thời cháy đâu

Thầy về cầm đuốc châm vào Lúc này lửa mới bốc cao cháy liền. Kể từ khi đó ưu tiên Đạo vàng trách nhiệm lưu truyền về sau Thầy Đại Ca Diếp dẫn đầu Lo toan truyền bá đạo màu khắp nơi Thầy cao tuổi hạ đương thời Lại thêm đạo hạnh ít người sánh ngang Cho nên y bát Phật mang Trao thầy nắm giữ đảm đương lúc này.

11- KẾT TẬP THÁNH ĐIỂN

Phật nhập diệt chín mươi ngày Thầy Đại Ca Diếp họp ngay tức thời A La Hán năm trăm người Tỳ kheo xuất sắc khắp nơi tụ về Họp trong hang đá rộng kia Nhóm thành đại hội uy nghi luận bàn Kết tập Pháp tạng rõ ràng Để rồi hoàn tất kho tàng quý thay Ba kho tàng quý báu này Là “Kinh”, “Luật”, “Luận” từ đây lưu hành Thầy Đại Ca Diếp quả tình Khả năng, oai đức xứng danh vô vàn Để mà lãnh đạo giáo đoàn Kết tập thánh điển trong lần đầu tiên.

* Hai mươi năm đã trôi thêm Thầy Đại Ca Diếp trở nên yếu già Sống lâu trong cõi ta bà Thầy trên trăm tuổi thăng hoa cuộc đời Đã hoàn thành nhiệm vụ rồi Giúp tăng, ni ở khắp nơi tu hành, Giúp hàng cư sĩ tiến nhanh, Cùng bao Phật tử thị thành làng thôn Giúp cho chánh pháp trường tồn Và cho giáo hội mãi luôn vững bền. * Thấy mình ngày mệt mỏi thêm

Làm chi được nữa, thầy liền nghĩ ra: “Ta cần theo gót Phật Đà Niết bàn là lúc để ta nhập vào!” Rồi tôn giả quyết định mau Trao bình bát lại người sau thay mình Thầy A Nan quả xứng danh Kế thừa nhiệm vụ sư huynh giáo đoàn. Thầy Đại Ca Diếp an nhàn Rời thành Vương Xá nhẹ nhàng tiến chân Hướng vào rừng núi ở gần Tu hành, thiền định, bụi trần lánh xa. Từ đây trong cõi ta bà Bóng thầy vắng biệt, ai mà thấy đâu! Nhục thân tôn giả nhiệm mầu Kín trong núi thẳm rừng sâu sau này!

* Tôn giả Ca-chiên-diên
1- THI ĐUA DIỄN THUYẾT VỚI ANH

Miền Nam Ấn Độ trước đây Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh Ca Chiên Diên với người anh của chàng. Cha là quan chức vẻ vang Quốc sư quyền thế thuộc hàng lớn lao. Người anh ham học xiết bao Chu du cầu học dài lâu một mình Sau khi danh toại công thành Trở về nơi chốn gia đình cố hương Nghĩ mình tài cán giỏi giang Dựng đài triệu tập xóm làng đứng quanh Nghe chàng thuyết giảng ngọn ngành Những điều ghi chú trong kinh Vệ Đà. Ca Chiên Diên chẳng đi xa Một mình tự học ở nhà mà thôi Cũng hùng biện, cũng có tài Dựng đài đối diện với nơi anh mình

Vệ Đà cũng thuyết giảng kinh Nào ngờ thu hút dân tình thành công Khách nghe mỗi lúc một đông. Người anh vắng khách, buồn lòng, nổi sân Đưa em đến trước phụ thân Nhờ cha yêu quý xử phân cho mình. Biết anh hiếu thắng đua tranh Ca Chiên Diên vội trần tình cùng cha: “Con đâu có ý xấu xa Tự con học hỏi tại nhà lâu nay Giờ đây diễn giảng ít ngày Thử xem kết quả có đầy khả quan!” Người cha xử trí khó khăn Cuối cùng tìm vợ luận bàn cùng nhau Tìm ra giải pháp đẹp sao: “Ca Chiên Diên được gửi vào chốn xa Nhà đạo sĩ A Tư Đà Là ông cậu ruột để mà học thêm.”

2- SƯ DẠY DỖ CUẢ ÔNG CẬU

A Tư Đà tiếng vang rền Là người thông thái bao miền nghe danh Ông đem tất cả tài mình Truyền cho người cháu thông minh hàng đầu. Ca Chiên Diên tiến bộ mau Bao điều học hỏi tiếp thâu lẹ làng, Thần thông sớm đạt dễ dàng, Khiến cho ông cậu ngày càng vui thêm. Khi song thân Ca Chiên Diên Sai người nhắn gọi con nên trở về Thăm nhà ít bữa rồi đi, Chàng bèn từ chối, không hề vấn vương Sợi dây gia quyến buộc ràng Không còn trói buộc chân chàng giờ đây. Cậu chàng nhận thấy điều này Một hôm lên tiếng: “Những ngày tháng qua

Bao nhiêu kiến thức của ta Truyền cho cháu hết nhưng mà đủ đâu Cháu nay cần học thâm sâu Cần thầy hướng dẫn giúp mau thành tài Hiện giờ cậu biết một người Thuộc hàng Đại Giác ra đời mới đây Đợi Ngài thành đạo một ngày Đến xin tu học thêm ngay với Ngài.” Thầy trò xuống núi chờ thời Đến vùng phụ cận Vườn Nai dựng nhà Ở đây ít tháng ngày qua Cậu chàng tạ thế, yếu già, tuổi cao. Ca Chiên Diên thời gian sau Đạt nhiều danh vọng, quên mau lời thầy Quên luôn đấng Đại Giác ngay Quên lời ông cậu dặn ngày xưa xa.

3- BÀI KỆ THẦN BÍ

Thời gian thấm thoắt trôi qua Gần Ba La Nại người ta chợt đào Tìm ra cổ vật quý sao Tấm bia khắc chữ cổ nào ai hay Giống như bài kệ xưa nay Không ai đọc được chữ này cho thông, Các quan bàn luận tán đồng Trình vua yết bảng, cầu mong tìm người: “Ai mà đọc hiểu kệ rồi Người tài sẽ được tức thời thưởng công!” Ca Chiên Diên giỏi vô cùng Học bao chữ nghĩa, tinh thông tuyệt vời Hiểu luôn văn tự cõi trời Nên ông đọc được kệ nơi bia này Trước vua phiên dịch từng lời:

“Vua của các vị vua thời là ai? Thánh của bậc thánh là ai? Người mà ngu dại trông thời ra sao? Còn người trí là thế nào? Bẩn dơ, cấu uế làm sao xa lìa? Niết bàn chứng đạt cách chi? Ai chìm đắm biển não nề tử sinh? Còn ai tự tại thân mình Thong dong giải thoát cõi lành tiêu dao?” Ca Chiên Diên đọc được mau Nhưng còn ý nghĩa dễ đâu tỏ tường

Hứa cùng vua sẽ tìm đường Tìm ra giải đáp nội trong bảy ngày Rồi tôn giả về nhà ngay Nghĩ suy tìm hiểu kệ này quyết tâm Nhưng sao thấy khó vô ngần Bèn nhờ những bậc uyên thâm góp lời Nhân tài ngoại đạo khắp nơi Không ai hiểu được ý bài kệ kia. Bỗng ông sực nhớ tức thì Lời thầy căn dặn trước khi lìa trần Về đấng Đại Giác tuyệt luân Nên ông quyết định đích thân gặp Ngài.

4- TÌM ĐẾN ĐẤNG ĐẠI GIÁC

Lên đường tìm tới Vườn Nai Quỳ nghe Phật giảng, lòng thời thiết tha, Nghe xong tâm trí sáng ra Nghĩ thầy xưa dạy quả là đúng thay. Sau khi trình bài kệ này Phật bèn giải đáp cho ngay tỏ tường: “- Vua các vua là Thiên vương Cung trời thứ sáu ánh vàng cao xa.

- Thánh các bậc thánh suy ra Là đấng Đại Giác Phật Đà uy danh. - Để ô nhiễm bởi vô minh Là người ngu dại thật tình chớ nên. - Có năng lực diệt não phiền Là người có trí, thoát miền u mê. - Dứt xong tham với sân, si Tức thời dơ bẩn xa lìa được nhanh. - Giới, định, tuệ khi hoàn thành Niết bàn chứng đắc quả tình khó chi! - Vướng vào ngã, pháp đôi bề Là còn trong biển não nề tử sinh. - Pháp tánh duyên khởi thấy rành Trong miền giải thoát an lành tiêu dao.”

Ca Chiên Diên vui biết bao Giờ đây tỏ ngộ trước sau mọi lời, Sau khi đảnh lễ Phật rồi Ông bèn hoan hỉ vào nơi cung vàng Nhắc lời Phật giảng rõ ràng Cho vua, quan hiểu từng hàng kệ bia Rồi quay lại Vườn Nai kia Xin quy y Phật rất chi tâm thành.

5- KHUYÊN NIỆM TAM BẢO

Ca Chiên Diên nay an lành Tiếp thu trí tuệ tinh anh sáng ngời Nhiệt tình học hỏi Phật rồi Trở thành đệ tử giỏi nơi hàng đầu Luận sư ưu tú, thâm sâu Hăng say truyền bá đạo mầu Thế Tôn Đồng thời lo cải hóa luôn Bạn xưa ngoại đạo hãy còn u mê Bao người kính nể theo nghe Tiếng tăm tôn giả rất chi lẫy lừng. Một lần tôn giả tháp tùng Theo chân Phật tới quê hương của Ngài

Để lo giáo hóa mọi người, Trong thời gian đó ở nơi chốn này Có ông trưởng giả bệnh thay Dường như chỉ sống ít ngày nữa thêm, Xót thương tôn giả tới bên Muốn dùng Phật pháp chữa liền cho ông Tiêu trừ bệnh khổ là xong Ôn tồn tôn giả khuyên ông nhiệt tình: “Quán niệm Tam Bảo giúp mình Mong nhờ uy đức giúp thành đạt nhanh Khiến cho tâm ý tịnh thanh Sẽ mau thuyên giảm bệnh tình ngay thôi!” Bệnh nhân trưởng giả tuân lời Theo câu khuyên đó một thời gian sau Thân tâm cảm thấy nhiệm mầu Trở nên an lạc! Giảm mau bệnh tình!

6- TUYÊN DƯƠNG GIÁO PHÁP BÌNH ĐẲNG

Vân du giáo hóa độ sinh Độ từng người một đã thành thói quen Và tôn giả Ca Chiên Diên Khiến người nghe pháp lòng tin vững vàng Một lần có vị quốc vương Trách ông theo Phật là đương sai lầm: “Phật không thuộc Bà La Môn Là dòng cao quý người dân nể vì!” Ông liền đáp, giọng từ bi: “Phật thường chỉ dạy rất chi hợp tình Bốn giai cấp xã hội mình Phân chia là để hoàn thành êm xuôi Phân công làm việc mà thôi! Thấp hèn, tôn quý con người khác nhau Không do giai cấp thấp cao Không do chủng tộc từ lâu tạo thành Mà do chính bản thân mình Gắng công giác ngộ, tận tình tu thân

Để rồi chứng quả được luôn Mới thành cao thượng, đáng tôn quý liền!” Rồi tôn giả thuyết phục thêm: “Phật là bậc chí tôn trên cõi đời Thuộc hàng giác ngộ tuyệt vời Tuyên dương bình đẳng cho người trần gian Tự do giải thoát vinh quang Đạo vàng, chánh pháp rỡ ràng sáng soi!” Quốc vương nghe thuyết xong xuôi Lòng bừng tỉnh ngộ để rồi thành tâm Nhờ tôn giả giới thiệu luôn Xin quy y chốn thiền môn Phật Đà, Rồi sau chỉnh đốn nước nhà Toàn dân bình đẳng hài hòa sống chung.

7- LUẬN VỀ TƯ CÁCH TRƯỞNG GIẢ

Thấy tôn giả mãi tuyên dương Xoá đi kỳ thị bất công lâu đời Bà La Môn phẫn nộ rồi Cho rằng giai cấp họ thời tối cao. Ca Chiên Diên một bữa nào Thọ trai mấy vị cùng nhau đang ngồi Cụ già gây hấn tới nơi Mọi người nhường chỗ tức thời đứng lên Riêng tôn giả vẫn ngồi yên Cụ già tức giận nên liền hét la: “Bạc râu, tuổi lớn là ta Xứng vai trưởng giả dòng Bà La Môn Sao ngươi đạo đức không còn Gặp tiền bối lại không tôn trọng người?” Nghiêm trang tôn giả đáp lời:

“Dù cho có ở trong giai cấp nào, Dù cho tuổi tác có cao, Nếu mà ngũ dục trước sau vẫn màng Tham, sân, si lại luôn mang Tác phong, đức độ trăm đường đáng chê Thời không đáng kính trọng chi Tôn xưng trưởng giả khó nghe vô cùng!” Cụ già kiếm chuyện không xong Lặng im, cứng miệng, ngượng ngùng bỏ đi.

8- ĐẠO ĐỨC KHÔNG PHẢI CHỈ CÓ Ở NGƯỜI TUỔI CAO

Một người Bà La Môn kia Giỏi tài biện luận, tức thì nổi điên Tìm tôn giả Ca Chiên Diên Muốn lên tiếng cật vấn, liền hét la: “Ngươi từng uyên bác tài ba Nổi danh hàng ngũ dòng Bà La Môn Nay sao lại đổi đạo luôn Trở thành đệ tử theo chân Cồ Đàm? Khó tha thứ! Nhục vô vàn! Còn tuyên Phật pháp, ý gian dụ đời Mê lầm cải đạo theo ngươi Coi thường trưởng lão! Khinh người bề trên?” Ôn tồn tôn giả đáp liền: “Bỏ đi tà kiến, lòng tin sai lầm

Theo đường chân chính sáng ngần Là điều cần thiết ta cần thực thi Và hơn nữa lòng từ bi Theo lời Phật dạy rất chi hợp tình Nên ta khuyến dụ bạn mình Theo đường sáng suốt, an lành bản thân!” Rồi tôn giả lại ân cần Tuyên dương Phật pháp uyên thâm tuyệt vời Khiến cho chấn động tâm người Người nghe tỉnh ngộ tức thời đổi thay Bỏ đi tà kiến lâu nay Xin theo Phật pháp, từ đây đổi đời.

9- LIÊN TỤC GIẢNG PHÁP

- Có lần khất thực một nơi Đang đi tôn giả bị người cản chân Cố tình thắc mắc hỏi han: “Kẻ cùng giai cấp sao ham tranh giành Nguyên nhân chi đã tạo thành? Tỳ kheo sao có lúc giành giật nhau?” Nghiêm trang tôn giả dạy mau: “Người cùng giai cấp từ lâu tranh giành Là do ‘tham dục’ hôi tanh Tỳ kheo dù đã tu hành khác chi Chỉ vì chút ‘chấp ngã’ kia Nghĩ ta riêng biệt cách ly với người Hay vì ‘chấp pháp’ mà thôi Nghĩ muôn sự vật trên đời khác ta Nên tranh giành mới xảy ra Vô minh, tà kiến! Thật là tiếc thay!”

Người kia vội nhạo báng ngay: “Vậy theo tôi nghĩ đời nay mọi người Mắc vòng tham dục hết thôi! Chấp ngã, chấp pháp đồng thời vướng luôn!” Nghe xong tôn giả ôn tồn Dạy rằng: “Có đức Thế Tôn đời này Đại giác ngộ! Đáng bậc thầy! Não phiền tham dục diệt ngay mọi đường, Chấp ngã, chấp pháp không vương, Ngài trong ba cõi xứng hàng đầu thôi, Bậc mô phạm thật tuyệt vời Cho loài trời với loài người lâu nay!” - Có lần hành hóa thường ngày

Nơi quê hương cũ lòng đầy từ bi Và tôn giả dạy nhóm kia Lời vàng chánh pháp rất chi tâm thành: “Nhớ rằng tín ngưỡng, tu hành Là nhằm giải thoát cho nhanh thân mình Thoát vòng quanh quẩn tử sinh Để cho cuộc sống an bình thong dong Đừng xem là nghề nghiệp chung Kinh doanh kiếm lợi ở trong cửa thiền.” - Có lần tôn giả giảng thêm Cho người nghe hiểu chớ quên vô thường: “Dù cho của cải bạc vàng

Và luôn danh vị, quyền năng chẳng bền Có sinh thời tử theo liền Hợp tan, thành hoại luân phiên xoay vần Ta nên tinh tấn nhận chân Ma vô thường đó phải cần diệt ngay Ta nên tu tập hàng ngày Theo lời Phật dạy lâu nay giúp đời Để mà đạt được tới nơi Kiếp vui vĩnh cửu con người cầu mong!”

10- LÀM CÁCH NÀO ĐỂ BÁN NGHÈO MUA GIÀU

Một hôm đi tới mé sông Chợt tôn giả thấy cảnh không bình thường Một cô ngồi khóc thảm thương Tay ôm vò nước vẻ đương chán đời, Khi tôn giả ghé đến nơi Hỏi thăm tự sự cô thời than van: “Bất bình đẳng khắp thế gian Người ta giàu có, con mang phận nghèo Suốt đời cơ cực tiêu điều Không còn muốn sống! Quyết liều tấm thân!” Xót thương tôn giả trấn an:

“Làm người cuộc sống chỉ cần bình yên Là điều tốt nhất chớ quên Nghèo đâu đáng để ta nên đau buồn, Cái nghèo hãy bán đi luôn Thế là thoát nợ không còn sầu bi!” Ngạc nhiên cô hỏi tức thì: “Thưa nghèo sao bán được đi cách nào?” Từ bi tôn giả giảng mau: “Tham lam kiếp trước kiếp sau đói nghèo Phải nên tu phước cho nhiều Mở lòng bố thí, bỏ điều tham lam Đó là cách tốt vô vàn Để mà đem cái nghèo nàn bán đi

Mua giàu vào được tức thì, Nhớ rằng bố thí có gì khó đâu Cô không tiền bạc sang giàu Ngoài vò nước đó cô nào có chi Vò thời của chủ nhân kia Nhưng cô có nước múc về mới đây Trút qua bình bát của thầy Tức là bố thí xong ngay khó gì!” Cô nghe lời dạy từ bi Trong tâm bừng tỉnh, tức thì ngộ ra.

11- BIỂN ÁI TÌNH THÀNH TÌNH THƯƠNG RỘNG LỚN

Một lần giáo hóa phương xa Dừng chân tôn giả ghé qua một miền Nơi đây tiểu quốc bình yên Nhưng vua đang gặp muộn phiền tóc tang Vì bà hoàng hậu yêu thương Vừa qua đời tại cung vàng ít hôm Vua đau xót chẳng chịu chôn Đem ngâm thân xác vào luôn dầu mè

Để không bị rữa nát đi Muốn bà sống lại còn kề cận nhau. Quần thần bàn luận trước sau Muốn vua chấm dứt khổ đau muộn phiền Phải nhờ thầy Ca Chiên Diên Là người oai đức lại thêm biệt tài Luận sư khéo léo tuyệt vời Mong rằng có cách tức thời giúp vua Tinh thần sáng suốt như xưa Thêm bề dõng mãnh như từ lâu nay. Quần thần bèn tới nhờ thầy Quả nhiên tôn giả ra tay giúp liền Thấy vua sầu não yếu mềm Thầy bèn bẻ nhánh cây bên cạnh mình

Trao cho vua, nói tâm tình: “Đại vương mang nhánh cây xanh tươi này Về hoàng cung chăm sóc ngay Giữ cây xanh mãi lâu ngày được không?” Nhà vua đáp: “Khó vô cùng Nhánh cây tách khỏi thân trong ít ngày Làm sao tươi mãi được đây Chết khô, tàn uá đi ngay còn gì.” Lời tôn giả dạy từ bi: “Bao nhiêu nghiệp báo trước kia trả rồi

Trả xong, hoàng hậu qua đời Một khi mạng sống tới thời tiêu vong Làm sao có thể cầu mong Cho bà quay lại sống trong cõi trần!” Nhà vua bừng ngộ chân tâm Nỗi buồn tang tóc muôn phần tiêu tan, Nghe thêm tôn giả khuyên rằng: “Ái tình thuở trước đại vương từng dành Riêng cho hoàng hậu triều đình Giờ nên trải rộng ra thành bao la

Đem ban phát khắp mọi nhà Mọi người chung hưởng chan hòa tình thương Thời vương quốc sẽ phú cường Toàn dân hạnh phúc, bốn phương thanh bình!” Nghe lời khích lệ hợp tình Vua bèn an táng người mình thương yêu Đích thân chỉnh đốn trong triều Nhân dân an lạc suốt nhiều năm sau Họ càng tin tưởng đạo mầu Tin vào Phật pháp với bao tâm thành.

* Tôn giả Xá Lợi Phất
1- TRƯỚC KHI VÀ SAU KHI RA ĐỜI

Miền Nam Ấn Độ một thời Cách thành Vương Xá chỉ vài dặm thôi Quê hương đó chính là nơi Thầy Xá Lợi Phất ra đời thuở xưa, Phụ thân là một luận sư Bà La Môn giáo kể như giỏi tài, Khi thầy còn trong bào thai Mẫu thân tâm trí thấy hơi khác thường Trở nên linh mẫn vô cùng Thật là điềm lạ đáng mừng biết bao! Khi thầy lên tám tuổi đầu Thời bao kinh sử đã lầu thông ngay Lại thêm ăn nói giỏi thay Rất là lanh lợi ai đây sánh cùng. Một hôm tiệc lớn bất thường Người ta khoản đãi quốc vương, đại thần Luận sư, thái tử dự phần Thế mà cậu bé cả gan bước vào

Xá Lợi Phất tám tuổi đầu Leo ngồi tranh chỗ có đâu ngại gì Thế rồi các vị khách kia Nhận ra cậu bé nói nghe khác thường Với bao nghĩa lý tinh tường Ngôn từ khúc triết, rõ ràng, uyên thâm Mọi người kinh ngạc vô ngần Trăm bề bái phục, muôn phần ngợi khen.
2- BẬC THẦY CHÂN CHÍNH

Xá Lợi Phất lớn dần lên Thân hình cao lớn, dáng hiền, thông minh Mắt có thần, rất tinh anh Tác phong học giả trứ danh khác người. Khi chàng tới tuổi hai mươi Bèn xin phép được xa rời song thân Đi chu du khắp xa gần Tìm thầy học đạo lòng thầm thiết tha. Thầy đầu tiên San Xà Da Chàng theo học ít ngày qua với thầy Rồi chàng chợt nhận thấy ngay Rằng thầy không có đủ đầy khả năng Thỏa lòng ước vọng của chàng Nên chàng từ giã lên đường ra đi.

Bấy giờ trong số bạn bè Có người tri kỷ, rất chi tâm đầu Mục Kiền Liên bạn thân lâu Chàng bèn tâm sự có đâu ngại ngùng Mục Kiền Liên cũng tán đồng Cho rằng trên thế gian không có người Đủ tài dạy họ nữa rồi Hai chàng quyết định tức thời lập nên Một trường học mới trong miền Nhận môn sinh đến dạy riêng chốn này. Thế rồi cho đến một ngày Xá Lợi Phất chợt gặp ngay một người

Đang đi khất thực thảnh thơi Vẻ thời nghiêm túc, dáng thời oai nghi Thông minh, thanh tịnh, từ bi Chàng nhìn, thắc mắc, tức thì đến bên Hỏi thăm cung kính ngay liền Thầy tu hoan hỉ thuận duyên thốt lời: “Phật Thích Ca là thầy tôi Dạy cho giáo lý tuyệt vời cao siêu Tôi không đủ sức nói nhiều Chỉ xin đọc lại ít điều tinh anh Rằng: “Muôn vật từ duyên sinh Cũng từ duyên đó mà thành diệt đi!” Rồi thầy tu nói cho nghe Rằng Phật từng dạy rất chi tinh tường: “Mọi hành nghiệp đều vô thường Thảy đều sinh diệt thảm thương não nề, Khi sinh diệt chấm dứt đi Niết bàn an lạc tức thì hưởng vui!” Nghe thầy tu nói dứt lời Chàng Xá Lợi Phất tâm thời ngộ ngay Nhân sinh, vũ trụ lâu nay Chàng từng nghi hoặc, giờ đây hiểu rành.

Chàng về thuật lại ngọn ngành Cho Mục Liên rõ điều mình vừa nghe Cả hai vui sướng đê m.ê Nghĩ tìm ra được hướng đi rỡ ràng Bậc tôn sư với đạo vàng Đó là đức Phật vô vàn thân thương. Họ cùng quyết định lên đường Trúc Lâm tu viện vội vàng tìm qua Để xin đức Phật Thích Ca Từ bi cho họ xuất gia theo Ngài. Phật hoan hỉ nhận cả hai Biết tương lai họ là người giỏi giang Khả năng truyền bá đạo vàng Cho bao đệ tử và hàng chúng sanh.

3- XÂY CẤT TU VIỆN KỲ VIÊN

Từ khi theo Phật tu hành Thầy Xá Lợi Phất vang danh cửa Thiền Tăng đoàn uy tín tăng thêm Phật luôn tin cẩn cho nên cử thầy Đi lên miền Bắc xứ này Để mà giáo hóa dân ngay trong vùng Đồng thời giám đốc công trường Cất xây tu viện địa phương cúng dường Do ông Tu Đạt hiến dâng Nơi thành Vương Xá hiện đương tiến hành. Rất đông ngoại đạo bất bình Kéo nhau phản đối công trình nói trên, Họ đâu có để thầy yên Thách thầy tranh luận đôi bên tỏ tường,

Ông Tu Đạt lo vô cùng Riêng thầy lại rất vui mừng nhận ngay Muốn nhân cơ hội tốt này Hoằng dương giáo pháp tại đây giúp đời. Luận sư ngoại đạo nhiều người Cử ra đối chất, có tài đua tranh Thầy Xá Lợi Phất một mình Nhưng mà trí tuệ tinh anh hàng đầu Lại thêm thấu hiểu đạo màu Công khai tranh luận ai đâu sánh cùng Nghe thầy đối đáp hào hùng Vạch ra chân lý Phật từng tuyên dương Phía bên ngoại đạo nghe xong Chân tâm bừng sáng phục tùng theo ngay Cùng bao quần chúng vùng này Quy y Tam Bảo lòng đầy niềm tin Thế là tu viện Kỳ Viên Hoàn thành tốt đẹp nơi miền phương xa.

4- KÊU GỌI TỲ KHEO LẠC LỐI

Một thời Đề Bà Đạt Đa Người em họ Phật tỏ ra mê mờ Âm mưu phản bội bất ngờ Nhiều phen hại Phật nhưng mà không xong Tỳ kheo một số theo ông Còn ham lợi lộc, chưa thông đạo màu Một hôm họ tụ họp nhau Thầy Xá Lợi Phất bỗng đâu tới liền Vẻ uy nghi, dáng trang nghiêm Thầy nhìn đại chúng rồi lên tiếng rằng: “Tu hành theo ánh đạo vàng Chớ ham mong nhận thập phương cúng dường Chớ ham vật chất tầm thường

Hãy mau tỉnh ngộ theo đường chân tu Học điều Phật dạy từ xưa Để mau thoát khổ, vượt bờ tử sinh!” Rồi thầy thuyết giảng nhiệt tình Vạch ra chân lý tinh anh Pháp màu Soi đường giác ngộ tối cao. Tỳ kheo lạc lối từ bao lâu rồi Tỉnh ra, quỳ xuống tức thời Cùng nhau sám hối thốt lời thành tâm Theo thầy Xá Lợi Phất luôn Trở về lại với tăng đoàn trước đây. Phật hoan hỉ khen ngợi thầy Công lao to lớn dựng xây tăng đoàn.

5- NÊU GƯƠNG NHẪN NHỤC

- Thầy thương nhẫn nhục vô vàn Một lần thầy chẳng có căn phòng nào Để mà an giấc đêm thâu Tỳ kheo chiếm hết còn đâu phần thầy Thầy bình yên ra gốc cây Suốt đêm tĩnh tọa nơi đây chẳng phiền Dù là trưởng lão cao niên Thầy luôn nhường nhịn! An nhiên vô bờ! - Thầy cùng với La Hầu La Một ngày khất thực đi ra cổng thành Một tên vô lại lưu manh Vung tay lấy cát cố tình ném qua Vào bình bát La Hầu La Rồi dùng gậy đánh thật là đớn đau

Trò thời nổi giận lên mau Thầy bèn khuyên nhủ: “Giận đâu ích gì Con nên trải lòng từ bi Đem tình thương xót hướng về chúng sinh!” - Một hôm có kẻ cố tình Manh tâm khiêu khích, chạy nhanh đến thầy Nhắm vào lưng đánh thẳng tay Mạnh như trời giáng! Thân gầy lao đao! Thầy Xá Lợi Phất nhịn đau Thản nhiên tiếp tục cúi đầu bước đi Không hề bực bội chút gì Kẻ kia kinh ngạc, tức thì hối ngay Vội vàng quỳ lạy trước thầy Ăn năn xin lỗi, lòng đầy xót xa: “Con vừa trắc nghiệm thấy ra Gương thầy nhẫn nhục quả là quý thay Con xin được cung thỉnh thầy Ghé qua nhà để con đây cúng dường!”

Thầy hoan hỉ trải tình thương Theo về nhà kẻ hoàn lương quản gì Nhưng rồi một đám đông kia Nổi sân kéo tới tức thì bao vây Muốn trừng trị kẻ đánh thầy Thầy bèn can gián, tỏ bày đôi câu: “Người này biết sám hối mau Khỏi cần trị tội! Còn đâu lỗi lầm!”

6- TU HỌC KHÔNG THỐI CHUYỂN

- Thầy Xá Lợi Phất phát tâm Ghi trong câu chuyện tiền thân lâu rồi Thầy thường bố thí cho người Ruộng vườn, nhà cửa và tài vật luôn Hy sinh đến cả tấm thân Sáu mươi tiểu kiếp qua dần trước kia Đường tu học mãi từ bi Không hề thối chuyển chút chi trong lòng. - Thầy thường tỏ lượng khoan dung Có tỳ kheo nọ bỗng dưng vu rằng Bị thầy lăng nhục xỗ xàng Thầy bèn trình Phật rõ ràng đầu đuôi Rằng thầy tuổi gần tám mươi

Nguyện hiền như “đất”, “nước” nơi cõi trần Đồ dơ ai đổ xuống thân Cũng luôn chịu đựng nhục nhằn quản chi, Tựa như mặt đất hiền kia Và như nước sạch chảy đi xuôi dòng Dù đồ dơ bẩn vô cùng Người ta đổ xuống cũng không hề gì, Có đâu lại dám khinh khi Nỡ nào nhục mạ thầy kia nặng nề! Tỳ kheo vu cáo vội quỳ Thốt lời sám hối rất chi chân tình.

7- HÀNH TRÌ LỜI PHẬT DẠY

- Một lần khất thực ngoại thành Thầy cùng đệ tử khi quanh trở về La Hầu La chẳng vui chi Thức ăn khất thực có gì đủ đâu Riêng phần thầy đủ biết bao Nhưng thầy sơ ý có nào lưu tâm. Phật hay chuyện mới dạy luôn: “Thức ăn, lợi lộc nên phân chia đều Tinh thần hòa ái nên theo Tỳ kheo trẻ tuổi cần nhiều quan tâm!” Trong lòng cảm kích vô ngần Thầy Xá Lợi Phất nguyện tuân theo liền. - Một lần thầy vững lòng tin Khi nghe Phật dạy:

“Nơi miền phương xa Có đức Phật A Di Đà Chủ trì thế giới thật là vui thay Có tên Cực Lạc xưa nay Cõi này muôn vật đủ đầy tốt tươi An lành, vui thú tuyệt vời, Chúng sinh nếu muốn về nơi chốn này Phải vun trồng phước đức ngay Nhất tâm trì niệm hàng ngày thiết tha Danh hiệu Phật A Di Đà Cầu ngài tiếp dẫn khi mà vãng sinh Về nơi thế giới an bình Thoát vòng khổ não tử sinh luân hồi!” Pháp môn Phật dạy vừa rồi Thầy cùng đại chúng suốt đời tán dương.

8- NGỢI KHEN MỘT CÁI CHẾT ĐẸP

- Một lần thiền định trong rừng Thầy nghe vang tiếng hãi hùng vọng ra Trong hang núi nọ không xa Tới nơi thầy thấy đó là nạn nhân Một ni sư sắp thiệt thân Vì con rắn độc vô ngần cắn chân, Đón chờ cái chết tới gần Ni sư nay bỗng sắc thần an nhiên Không còn hốt hoảng gì thêm Trở nên bình thản, lặng yên lần tràng. Mọi người thắc mắc ngỡ ngàng Thầy Xá Lợi Phất nhẹ nhàng dạy ngay: “Ni sư đạt đạo lâu nay Bình tâm xem cái chết này như không Khi tâm ý điều phục xong Đớn đau thể xác đều cùng tiêu tan Nhìn tướng trạng của thế gian Bằng con mắt tuệ vô vàn an nhiên Vượt ngôi nhà lửa ngay liền!” Mọi người tán thánh, lặng im, nguyện cầu.

9- NHẬP KIM CƯƠNG ĐỊNH

Thầy Xá Lợi Phất buổi nào Lặng ngồi nhập định núi cao ven rừng Thầy đang nhập định kim cương Có hai con quỷ bỗng dưng đến gần Một con hung ác dữ dằn Một con thời lại vô vàn hiền lương Chợt con quỷ dữ nói rằng: “Đầu Sa môn thật dễ dàng đánh sao Chỉ cần một cú đập vào Nát ngay như cám có nào khó khăn.” Quỷ hiền vội vã can ngăn: “Ác thời vĩnh viễn trầm luân não nề Khổ đau nghiệp báo muôn bề!” Nhưng mà quỷ dữ chẳng nghe chút nào Nhắm vào thầy, đúng đỉnh đầu Vung tay đánh xuống thật mau bạo tàn. Thầy đang nhập định nghiêm trang

Cảm như lá rụng nhẹ nhàng mà thôi Thầy bèn xả định tức thời Thấy ngay ác quỷ đầy người máu me Quỷ liền sau đó thảm thê Đọa vào địa ngục có hề thoát đâu. Kim cương định thật nhiệm màu Toát ra thần lực lớn lao vô cùng Nếu không thầy chắc mệnh chung Vì khi quỷ đánh núi thường vỡ đôi.

10- XIN NHẬP NIẾT BÀN TẠI CỐ HƯƠNG

Một hôm Phật báo mọi người Ngài ba tháng nữa nhập nơi Niết bàn Mọi người sửng sốt bàng hoàng Thầy Xá Lợi Phất muôn vàn xót thương, Thầy thiền định, quán niệm rằng: “Trong thời quá khứ thông thường diễn ra Đệ tử chư Phật gần xa Nhiều hàng thượng thủ không chờ đợi thêm Trước chư Phật nhập diệt liền

Thật là tốt đẹp! Mình nên theo đường!” Thầy xin Phật nhủ lòng thương Cho thầy được nhập Niết bàn sớm hơn Nhập vào trước cả Phật luôn Tại nơi làng cũ quê hương mẹ già Thầy xin nhập diệt tại nhà Trong căn phòng cũ ấu thơ sinh thời. Nghe lời thỉnh nguyện êm xuôi Phật bèn hoan hỉ nhận lời ngay thôi Phật thọ ký cho thầy rồi Nói: “Thầy thành Phật trong đời vị lai Hiệu là Hoa Quang Như Lai Để rồi giáng thế giúp người trầm luân!”

Nói xong Phật bảo chư tăng Tiễn đưa thầy lúc lên đường về quê. Giã từ đại chúng ra đi Thầy Xá Lợi Phất quay về làng ngay. Đã lâu xa vắng chốn này Cho nên thân mẫu nơi đây vui mừng Đón thầy vào ở căn phòng Nơi thời thơ ấu thầy từng sinh ra. Khi thầy thưa với mẹ già Ý mong nhập diệt, lìa xa cõi trần Cụ bà kinh hoảng vô ngần Thầy bèn trấn tĩnh mẫu thân, thưa rằng: “Con vui nhập cõi vĩnh hằng Tâm con giờ đã hoàn toàn tịnh thanh Bình yên, sáng suốt, tinh anh Niết bàn thường trú an lành xiết bao Đó là hạnh phúc lớn lao Đâu như cái chết buồn đau thông thường. Mẫu thân chợt hiểu lời vàng Trong tâm phát khởi rộn ràng niềm vui.

11- NIẾT BÀN

Nửa đêm hôm ấy khắp nơi Dân làng nghe được tin thời kéo nhau Đến thăm thầy suốt đêm thâu Vua A Xà Thế cùng bao triều thần Sáng ghé thăm rất ân cần Thầy Xá Lợi Phất bình tâm thốt lời: “Tôi nay tám chục tuổi rồi Xuất gia đã quá bốn mươi năm trường Đời này gặp Phật đáng mừng Được thêm tinh tấn tu trong cửa Thiền Biển Phật pháp rộng vô biên Rất nhiều của báu phải nên kiếm tìm

Hôm nay tôi quyết tiến thêm Nhập vào cảnh giới tịnh yên Niết bàn Không còn sinh diệt xoay vần Cám ơn quý vị tiễn chân sáng này!” Nói xong tôn giả nhẹ xoay Nằm nghiêng bên trái! Sắc đầy thảnh thơi An trú trong đại định rồi Thế là tôn giả nhập nơi Niết bàn. Nhà vua cùng các quần thần Và cùng đại chúng vô ngần cảm thương Trong lòng bội phục tột cùng Thảy đều bộc lộ vẻ cung kính thầy.

12- TINH THẦN VĨNH VIỄN TẠI NHÂN GIAN

Sau khi nhập diệt bảy ngày Nhục thân tôn giả giờ này chuyển đi Tới giàn hỏa dựng uy nghi Để rồi làm lễ trà tì tại đây Lễ xong xá lợi của thầy Đem về chỗ Phật ngự ngay tức thì, Thầy A Nan quá sầu bi Khóc to thành tiếng rất chi não nùng Phật lên tiếng an ủi chung: “Thế gian thật tướng vô thường xưa nay Cũng như sinh diệt vần xoay

Vốn là đạo lý đời này mà thôi, Không bao lâu nữa tới thời Như Lai cũng nhập vào nơi Niết bàn Nhưng mà chánh pháp vẻ vang Hãy còn nguyên vẹn! Hãy nương dựa vào!” Ôm bình xá lợi hồi lâu Phật khen ngợi mãi trước sau đẹp lời: “Thầy Xá Lợi Phất sinh thời Là người trí tuệ tuyệt vời biết bao Chứng ngộ pháp tánh tối cao Chiêu hàng ngoại đạo công lao viên thành

Tuyên dương chánh pháp nhiệt tình Luôn luôn dũng mãnh và tinh tấn hoài Dứt trừ khổ não trần ai Đạo quả giải thoát chứng ngay rỡ ràng!” Trước bình xá lợi ánh vàng Mọi người đảnh lễ nghiêm trang cúi đầu. Dù viên tịch, muôn đời sau Tinh thần tôn giả có đâu phai tàn Mãi tồn tại ở thế gian, Trí tuệ siêu việt nhất hàng chư tăng.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
* Tôn giả U Ba Li
1- XUẤT THÂN TỪ GIAI CẤP NÔ LỆ

Ưu Ba Li vốn xuất thân Từ dòng nô lệ vô ngần đau thương Bị kỳ thị, bị khinh thường Làm thân hạ tiện chán chường lắm thay, “Thủ Đà La” giai cấp này Gồm nông dân với những tay thợ thuyền Cùng hàng tôi tớ nghèo hèn Từ khi sinh chẳng ai thèm lưu tâm Xem như rác, coi như phân Làm nghề khổ cực, tấm thân nhọc nhằn

Dầm mưa dãi nắng quanh năm Học hành bị cấm, vô vàn khắt khe. Chàng trai trẻ Ưu Ba Li Về phần sức khoẻ rất chi khiêm nhường Nhưng thông minh thật khác thường Hiếu cùng cha mẹ vô cùng nổi danh, Khi chàng khôn lớn trưởng thành Kiếm nghề sinh sống gia đình cầu mong Và rồi chàng được yên lòng Học nghề hớt tóc vô cùng khéo tay, Tính tình cẩn trọng lâu nay Nên hoàng cung tuyển dụng ngay vào làm Chuyên nghề hớt tóc cung vàng Lại thêm hầu hạ các hàng vương tôn Chàng vui nhận nhiệm vụ luôn Nhủ thầm cuộc sống không còn khó khăn.

2- CẠO TÓC CHO PHẬT

Sau khi thành đạo ba năm Phật về hoàng tộc để thăm mọi người. Ưu Ba Li tuổi đôi mươi Được người giới thiệu tới nơi hầu Ngài Để mà hớt tóc mà thôi Nhưng chàng chợt thấy lòng thời hoảng kinh, Về thưa chuyện với mẹ mình Mẹ dù giảng giải, nhiệt tình trấn an Chàng còn sợ sệt hoang mang Đích thân mẹ phải dẫn chàng vào cung. Mẹ con bái kiến Phật xong Chàng bèn tâm ý tập trung tức thì Từ từ, cẩn trọng mọi bề Lo hớt tóc Phật rất chi đàng hoàng Hành vi, cử chỉ của chàng Tập trung tâm ý như đang nhập Thiền.
3- AI XUẤT GIA TRƯỚC LÀ SƯ HUYNH

Về hoàng cung tạo niềm tin Phật bèn giảng Pháp ngay liền tại đây. Sau khi Phật rời chốn này Bảy vương tử muốn nghe ngay lời Ngài Muốn theo học đạo tuyệt vời Bàn nhau lén lút, bảy người thoát ly Xuất gia cùng rủ nhau đi Đến tìm Phật tại vườn Ni Câu Đà, Phải cạo đầu nếu xuất gia Cho nên phải dắt Ưu Ba Li rồi. Ưu Ba Li theo bảy người Lúc đang cạo tóc chàng thời lệ tuôn Bảy người vặn hỏi nguồn cơn Chàng bèn thổ lộ nỗi buồn chia xa: “Các vương tử khi xuất gia

Vân du muôn hướng khó mà gặp nhau!” Bảy người an ủi đôi câu: “Đừng lo sinh kế, há đâu muộn phiền Chúng ta giúp đỡ ngươi liền Khiến cho cuộc sống ấm êm sau này Ngọc châu trang sức có đây Xuất gia nào giữ trong tay làm gì Chúng ta để lại tức thì Giúp ngươi làm vốn yên bề sinh nhai!” Bảy người cởi tặng xong xuôi Lệnh cho chàng trở về nơi cũ liền. *

Bảy người đi khuất rừng bên Ưu Ba Li nghĩ buồn thêm phận mình Nếu quay về lại kinh thành Sợ Vua, hoàng tộc, bắt trình đầu đuôi Rồi chàng sẽ bị tội thôi, Còn như vương tử hạng người cao sang Vinh hoa, phú quý thế gian Xuất gia từ bỏ chẳng ham, chẳng màng Huống chi hạ tiện như chàng Có gì quý để vương mang ngại ngần Xuất gia chàng bỗng quyết tâm Lên đường tìm Phật theo chân bảy người Bao châu báu để lại thôi Treo cành cây đó xong rồi chàng đi.

* Vượt qua một chặng đường kia Ưu Ba Li chợt nghĩ về bản thân: “Phận nô lệ, hàng tiện dân Xuất gia chi được, muôn phần khó khăn!” Bên đường ngồi xuống khóc than Bỗng nghe người hỏi nhẹ nhàng bên tai Chàng quay đầu lại thấy ngay Thầy Xá Lợi Phất khoan thai cạnh mình Chàng bèn quỳ xuống trần tình: “Như con nếu muốn tu hành được không

Hay là vọng tưởng viển vông Phận người nô lệ khó mong ngang hàng?” Thầy bèn giảng giải: “Đạo vàng Tự do, bình đẳng muôn vàn từ bi Không phân biệt giai cấp chi Muốn thành đệ tử Phật thì khó đâu Xuất gia giữ giới trước sau Tu hành đạo quả sẽ mau viên thành!” Ưu Ba Li mừng thật tình Tâm hồn rạng rỡ, thấy mình thật may Theo thầy Xá Lợi Phất ngay Cùng đi gặp Phật lòng đầy niềm vui. * Sau khi bái kiến Phật rồi Ưu Ba Li nguyện theo nơi Đạo vàng.

Phật vui xuống tóc cho chàng Rồi cho thọ giới, nhập hàng xuất gia Và Ngài cũng phán thêm là: “Căn lành Thầy đã tỏ ra có rồi, Ưu Ba Li chắc tương lai Tuyên dương Phật pháp còn ai hơn Thầy! Khi Thầy chưa tới nơi này Bảy vương tử nọ tới đây trước rồi Cùng xin được xuất gia thôi Ta trên nguyên tắc nhận lời cho tu Nhưng mà họ phải tĩnh cư Thời gian liên tiếp kể như bảy ngày Để quên thân phận trước đây Từng là vương tử tràn đầy lợi danh Rồi xuất gia để tu hành Cùng Thầy gặp gỡ trong tình đồng tu!”

Sau thời gian đã tĩnh cư Bảy vương tử nọ rất ư ngỡ ngàng Thấy trong đại chúng có chàng Ưu Ba Li đã nhập hàng tỳ kheo Xưng hô thấy khó bao nhiêu Hiểu tâm ý họ Phật kêu dạy liền: “Xuất gia học đạo trước tiên Cái tâm kiêu mạn phải nên diệt trừ Ưu Ba Li đã đi tu Các thầy đảnh lễ kể như hợp tình!” Phật đưa pháp chế tu hành Trở thành hiện thực vang danh muôn đời: “Nước trăm sông chảy biển khơi, Bốn giai cấp bị mọi người chia ra Nhưng cùng nhau được xuất gia Và cùng chung họ Thích Ca nhân từ!”

4- TRONG MỘT KIẾP TRƯỚC

Ngay năm đó, mùa an cư Ưu Ba Li dốc công phu học hành Nên Thầy giác ngộ rất nhanh Trở thành thượng thủ xứng danh giáo đoàn Mọi người kính phục vô vàn. Phật nhân chuyện đó kể rằng trước đây Trong một tiền kiếp của Thầy Cũng từng là thợ cạo ngay cung đình Quyết tâm sau đó tu hành Để rồi chứng quả và rành thần thông.

5- NHỮNG CẢNH NGỘ OÁI ĂM TRÊN ĐƯỜNG HÀNH ĐẠO

Sau khi Thầy chứng ngộ xong Ưu Ba Li tính vốn từng rất nghiêm Giờ càng cẩn trọng thêm lên Oai nghi giới luật giữ gìn tinh thông Cho nên đại chúng tôn xưng Thầy là bậc nhất ở trong giáo đoàn Mọi người hoan hỉ vô ngần Tỏ lòng cung kính, thành tâm trọng Thầy. Tuy nhiên một số trong đây Không màng giữ giới, hàng ngày buông lung

Cho nên oán ghét vô cùng Đặt điều nói xấu Thầy trong giáo đoàn Ưu Ba Li chẳng nổi sân Thầy luôn nhẫn nhục và luôn ôn hòa. Phật nghe được chuyện xảy ra Ngài lên tiếng dạy để mà thực thi: “Người mà giới luật nghiêm trì Như đèn sáng tỏ rạng khi đêm trường Nên ai phẩm hạnh đoan trang Thân tâm thanh tịnh lại càng thích ưa, Còn ai ám muội tâm tư Sợ vùng sáng sủa, sẽ ưa tối trời, Bậc thầy cao cả tuyệt vời Chính là giới luật mọi người phải theo!”

6- SỨ MẠNG HÒA GIẢI

Giới tu hành kể cũng nhiều Thành phần chứng quả bao nhiêu là người Tuy nhiên lắm kẻ buông lơi Buông lung phạm giới thấy thời ít đâu Đôi bên chẳng nhường nhịn nhau Luôn gây tranh chấp từ lâu nặng nề Phật đều phải phái người về Tới nơi hòa giải yên bề đôi bên Ưu Ba Li được chọn liền Vì Thầy đạo đức vượt lên hàng đầu Lại còn xét đoán trước sau Công minh chính trực ai đâu sánh cùng.

7- HỎI GIỚI PHÁP NƠI PHẬT

Ưu Ba Li được tôn xưng Giũ gìn giới luật nêu gương trưởng đoàn Những điều giới luật liên quan Thầy thường gặp Phật luận bàn cho thông. Một lần Thầy: “Bạch Thế Tôn! Người phạm quốc pháp có còn xứng danh Xuất gia nhập giới tu hành? Phật lên tiếng dạy: “Tùy tình hình chung, Xét ra quốc pháp một vùng Dù cho hợp lý hay không còn tùy Nhưng người phạm quốc pháp kia Nếu tòa chưa phán quyết về tội danh Chưa tuyên vô tội, oan tình Thời không được phép tu hành, xuất gia!” Một lần khác Thầy nêu ra Một câu hỏi Phật rất là lạ sao: “Bạch Thế Tôn! Có thể nào Tỳ kheo mai mối ngay vào hôn nhân Vì xã hội, vì nhân quần Gia đình tạo lập góp phần mối mai

Cho nhà gái, lẫn nhà trai?” Phật lên tiếng dạy: “Việc đời đa mang Nhà trai, nhà gái xóm làng Nếu đem ý tứ đôi đàng nói qua Hoặc là giới thiệu hai nhà Tỳ kheo làm vậy đều là sai thôi Lo toan quá! Phạm giới rồi! Phải mau sám hối tức thời chớ quên, Việc hôn lễ của đôi bên Chỉ cần được tổ chức thêm tại chùa Để cầu Tam Bảo lòng từ Chứng minh đôi trẻ, kể như vẹn toàn!”

8- PHÉP TẮC THĂM HỎI BỆNH NHÂN

“Người bệnh hoạn trong tăng đoàn Cần chăm sóc với viếng thăm thế nào? Nếu qua đời thời tính sao?” Ưu Ba Li cũng nêu câu hỏi này Thầy mong được Phật chỉ bày Lòng Thầy nhân ái lại đầy từ bi, Thầy theo lời Phật khắc ghi: “Việc chăm sóc bệnh nhân thì quý thay Người tu phải thực hành ngay Đây là ruộng phước chờ tay gieo trồng Vị tăng bệnh hoạn cầu mong Thầy mình và huynh đệ cùng tiếp tay Với hàng đệ tử lâu nay Hết lòng chăm sóc hàng ngày cho an!”

9- HÒA HỢP TĂNG

Việc đoàn kết trong tăng đoàn Ưu Ba Li cũng vô vàn thiết tha Một hôm Thầy hỏi Phật Đà: “Thế nào là phá hoại hòa hợp tăng?” Phật bèn lên tiếng dạy rằng: “Tỳ kheo nào giữ vững vàng đạo tâm Giữ gìn giới luật chuyên cần Sống theo giáo pháp xa gần đều hay Thời đệ tử tỳ kheo này Dù cho đã xuất gia hay tại nhà Phải luôn tôn kính thiết tha Nếu mà khinh thị tỏ ra coi thường Kể như họ đã tìm đường Phá đi sự hòa hợp tăng mất rồi!” Phật liền đó dạy thêm lời:

“Tại gia Phật tử ai người gây ra Rẽ chia tăng chúng xuất gia Những điều hiềm khích hay là phân chia Sự hoà hợp sẽ mất đi Đó là phá hoại, còn chi kết đoàn! Còn chính quyền với quan quân Việc trong tự viện chớ can thiệp vào Khiến tăng chẳng hòa hợp nhau Đó là phá hoại đạo màu chẳng nên. Nói chung kẻ phạm tội trên Đọa vào địa ngục ngay liền kiếp sau!

Còn như ai mãi dài lâu Hết lòng theo đúng đạo màu Thế Tôn Lo hòa hợp các chư tăng Tạo bao công đức vẻ vang một đời Kiếp sau sinh được cõi trời Hưởng nhiều sung sướng, bao người cầu mong!”

10- KẾT HỢP TẠNG LUẬT

Đến thời Phật nhập diệt xong Các hàng đệ tử lớn cùng họp nhau Kết tập kinh điển từ lâu Ngài Đại Ca Diếp đứng đầu chỉ huy Và tôn giả Ưu Ba Li Là người duy nhất được suy cử liền Đọc tụng tạng luật chẳng quên Vì Thầy có đủ thẩm quyền từ lâu Nổi danh giữ giới trước sau Rất chi nghiêm túc ai nào sánh ngang. Tuổi Thầy khoảng bảy mươi hơn Lời Thầy đọc tụng luôn luôn rõ ràng

Mỗi điều giới nêu thời gian Cùng là địa điểm Phật ban giới này Nguyên do, đối tượng trước đây Thầy đều ghi nhớ tới nay nằm lòng, Mọi người bội phục vô cùng Hết lòng tin tưởng khắp trong tăng đoàn.

11- TINH THẦN BÌNH ĐẲNG

Thầy Ưu Ba Li xuất thân Từ dòng “hạ tiện” vô ngần đáng thương Nhưng rồi địa vị rỡ ràng Rất là cao cả trong hàng chư tăng Cuối cùng nhiệm vụ vẻ vang Chủ trì tạng Luật đạo vàng thuở nao Trong kỳ kết tập tối cao Thật là bình đẳng nói sao cho vừa Ánh dương bình đẳng chói lòa Rọi ra khắp cõi ta bà đẹp thay Từ đời xưa tới đời nay Chúng sinh cùng được hưởng đầy hồng ân!”

* Tôn giả A Na Luật
1- TUỔI THƠ KHÔNG LO LẮNG

A Na Luật được sinh ra Ở trong vương tộc rất là nổi danh Thật thà, hoạt bát, thông minh Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông Nhưng vì sống mãi trong cung Giữa nơi kín cổng cao tường quẩn quanh Tuổi mười lăm, gần trưởng thành Vẫn còn ấu trĩ không rành chuyện chi Về đời sống ở ngoài kia Phía ngoài xã hội xa lìa hoàng cung.

2- NÓNG LÒNG MUỐN XUẤT GIA

Khi Đức Phật về cố hương Viếng thăm hoàng tộc, đạo vàng sáng soi Mở lời giáo hóa giúp đời Nên trong cung điện nhiều người theo tu. A Na Luật lúc bấy giờ Trưởng thành, chững chạc, đã là thanh niên Thế gian cuộc sống khắp miền Chàng nay chín chắn hiểu thêm cuộc đời, Lại thêm hoàng tộc bao người Xuất gia tìm đạo đang khơi phong trào

Tâm hồn chàng cũng xôn xao Để rồi quyết chí theo mau cùng đường. Chàng tìm anh ruột của chàng Tỏ bày ý chí mình đang mong cầu Người anh cũng rất tâm đầu Nhưng sau khi đã cùng nhau luận bàn Người anh chiều ý của chàng Nhường A Na Luật theo đường xuất gia.

Nhưng còn trẻ, còn mẹ cha Chàng cần xin phép để mà đi tu. Ba lần xin, mẹ khước từ Mẹ thương con trẻ quá ư mặn nồng Rồi bà phương tiện bằng lòng Nghĩ con sẽ chẳng thành công chút gì Bảo con: “Đến rủ Bạt Đề Nếu mà nó thuận ta thì mới ưng!” Bạt Đề thái tử hoàng cung Tương lai thừa kế quốc vương nước nhà Làm sao có thể xuất gia Mẹ chàng phương tiện nghĩ là khó xong. Chàng không thắc mắc trong lòng

Tìm Bạt Đề thuyết phục cùng xuất gia, Bạt Đề nào có thiết tha Sẵn bao phú quý vinh hoa cung vàng Sẵn bao dục lạc thế gian Dễ gì bỏ được để làm sa môn Nhưng vì quý mến nhau luôn Đôi bên tình bạn chí thân lâu đời Nếu từ chối khó mở lời Bạt Đề miễn cưỡng hoãn thời gian thôi: “Bảy năm sẽ lẹ làng trôi Xuất gia bạn gắng đợi tôi đi cùng!” A Na Luật phải khổ công Nằn nì thuyết phục mãi không ngại ngần, Bảy năm giảm xuống dần dần

Cuối cùng còn lại thời gian bảy ngày A Na Luật hoan hỉ thay Bảy ngày chờ đợi lòng đầy xôn xao. * Thế rồi thời hạn qua mau Cả hai người bạn rủ nhau lên đường Cùng năm vương tử trong cung Bảy người họp lại để cùng xuất gia Hân hoan tới khu rừng già Bỏ luôn y phục hoàng gia trên người,

Ưu Ba Li giúp ngay thôi Cạo cho sạch tóc xong xuôi tận tình Bảy vương tử khoác vào mình Cà sa đơn giản, tâm thành cùng đi Tìm ra mắt Phật chốn kia. Phật truyền họ phải cách ly bảy ngày Ở phòng riêng, tĩnh tọa ngay Để quên thân phận trước đây của mình Từng là hoàng tộc cung đình Rồi cho làm lễ, trở thành sa môn.

3- CỰ TUYỆT LỜI CẦU HÔN

A Na Luật xuất gia xong Học kinh, nghe pháp dốc lòng tu thân Tỳ kheo trẻ vui vô ngần Các điều Phật dạy chú tâm thực hành Tham gia hoằng pháp nhiệt tình Sống đời đạm bạc, chân thành, nghiêm trang. Một hôm hành đạo qua làng Không nơi am cốc để chàng nghỉ chân

Gặp cơn giông bão bất thần Đành tìm tá túc nhà dân cận kề, Căn nhà lớn rộng bốn bề Chỉ còn cô gái trẻ kia ở nhà Nết lẳng lơ, tính trăng hoa Thấy thầy tu trẻ quả là đẹp trai Cô bèn tán tỉnh mồi chài Vòng tay ôm ấp, mở lời cầu hôn. Không hề xáo trộn tâm hồn Chàng bèn nghiêm nghị mắng luôn cô nàng:

“Cô không biết xấu hổ chăng? Thật vô lễ! Chẳng đoan trang chút nào! Nhớ rằng sinh tử khổ đau Thị phi, phiền lụy từ lâu bắt nguồn Từ nơi t.ình d.ục dương trần! Cô nên tự quán sát tâm niệm mình Dập mau tắt lửa dục tình Xa rời ám chướng, vô minh kiếp người!” A Na Luật vừa dứt lời Quả nhiên cô gái tức thời tỉnh ra Ăn năn, hổ thẹn vô bờ Sau cùng khẩn thiết xin nhờ hồng ân Xin thầy hướng dẫn cô luôn Quy y tam bảo, thành tâm quay đầu Và tu thân mãi về sau Trở thành cư sĩ đạo màu tinh thông.

4- CÁI TẬT MÊ NGỦ

Một lần pháp hội thật đông Đang nghe Phật giảng kinh trong thiền đường Thầy A Na Luật mơ màng Tinh thần mệt mỏi, mê man ngủ vùi Phật nhìn xuống thấy vậy rồi Ngài liền quở trách mấy lời uy nghi: “Thầy A Na Luật dậy đi Sao thầy ngủ gục u mê miệt mài Giống như vỏ ốc bao ngoài Ốc nằm trong vỏ ngủ vùi ngàn năm!” Thầy nghe quở trách, ăn năn Vội vàng quỳ lạy thành tâm thốt lời: “Thế Tôn! Con biết lỗi rồi Tội con nằm ngủ biếng lười ngu si

Xin Thế Tôn lượng từ bi Thứ tha cho kẻ mê si lần này Suốt đời con nguyện từ nay Mắt luôn thức tỉnh đêm ngày mãi thôi!” Sau khi sám hối vậy rồi Thầy bèn lập hạnh thấy thời lạ sao Quyết không chịu ngủ chút nào Ngày đêm chỉ chú tâm vào chuyện tu, Vì không ngủ, mắt sưng vù Sau bao ngày tháng quá ư nhọc nhằn.

Phật nghe tin đến khuyên răn: “Thầy nên bỏ cách tu lầm đó ngay Hạnh ‘không ngủ’ đó chẳng hay Mắt cần giấc ngủ hàng ngày biết bao Mắt mà không ngủ khác nào Người không ăn uống làm sao sống còn!” Thầy A Na Luât tạ ơn Tạ lòng ưu ái Phật ban cho thầy Nhưng vì lời nguyện trước đây Nên thầy không muốn đổi thay ý mình Ngày đêm rốt ráo tu hành Không hề ngủ nghỉ, chí tình thức luôn. Ít lâu sau thật đáng buồn Thầy mù đôi mắt đâu còn thấy chi.

5- PHẬT GIÚP VÁ ÁO

Mắt mù sinh hoạt sớm khuya Thầy A Na Luật muôn bề khó khăn Không đi khất thực theo đoàn Đành chờ chia sẻ thức ăn hàng ngày Dù không lo lắng chuyện này Nhưng còn về chuyện vá may áo quần Vẫn còn trở ngại vô ngần Áo thầy thường mặc dần dần rách thôi Mắt mù không vá được rồi Đến khi ba áo trên người tả tơi Thầy đành chịu chẳng thốt lời Mọi người thấy vậy tức thời tiếp tay, Phật nghe tin cũng tới đây Đích thân lo chuyện vá may giúp liền, Thầy càng cảm động thêm lên Khi nghe tiếng Phật nói bên cạnh mình Thế là nước mắt long lanh Mắt mù xúc động ứa nhanh đôi hàng.

6- CHỨNG THIÊN NHÃN THÔNG

Thầy tuy mù, chẳng thấy đường Nhưng tâm trí vẫn vô cùng tinh anh Sau khi áo vá tốt lành Thầy A Na Luật quả tình vui thay Phật thường lui tới dạy thầy Tập tu thiền định hàng ngày cho chuyên “Kim Cang Chiếu Sáng” phép thiền Sau thời gian ngắn thầy liền chứng ngay “Thiên Nhãn Thông”, sáng suốt thay Mắt trời trông thấy đó đây tỏ tường

Những gì khuất mắt người thường Thầy đều thấy được rõ ràng khắp nơi Thấy gần xa, thấy trong ngoài Thấy miền cực lạc cõi trời phương Tây Thấy miền địa ngục lưu đày Cho nên chợt tới một ngày không lâu Thầy nhìn trong địa ngục sâu Thấy nhiều phụ nữ đọa vào chốn đây Thầy bèn hỏi Phật chuyện này Phật lên tiếng dạy: “Xưa nay thường tình Lòng từ với lại lòng tin Nữ so nam giới quả nhiên hơn rồi

Nhưng lầm lỗi cũng dễ thôi Vì ba tâm lớn hơn người phái nam: ‘Ghét ghen, dục vọng, tham lam’ Nguyên nhân đọa lạc vì tâm xấu này!” * Thầy A Na Luật một ngày Thành tựu quả thánh. Lành thay vô cùng! Lại vừa chứng “thiên nhãn thông” Trở thành đệ tử lớn trong giáo đoàn. Tuy nhiên có một đôi lần Thầy Xá Lợi Phất ân cần khuyên thêm: “Thế Tôn từng dạy chớ quên Đừng nên ngã mạn, đừng nên vọng cuồng Và đừng giao động tâm luôn Cả ba tâm đó phải mong diệt trừ Mới không phiền não ưu tư Mới mong giải thoát tới bờ thơm hương.”

7- NIỀM AN LẠC NƠI NÚI RỪNG TĨNH MỊCH

Một thời đại chúng bất thường Xảy ra tranh chấp vô cùng gắt gay, Thầy A Na Luật lúc này Thời đang hành đạo tại ngay trong rừng Có hai vị khác tu chung Cả ba hòa thuận, vô cùng thân nhau, Anh em dòng họ từ lâu Đều cùng ý hợp, tâm đầu thân thương Cùng giao ước chỉ một đường Tuân lời Phật dạy vững vàng tu thân Cả ba chứng quả thánh luôn Núi rừng tịch mịch khơi nguồn an vui. Phật thăm, ghé tới tận nơi Thấy ngay nếp sống tuyệt vời chốn đây Thuận hòa, an lạc tràn đầy Phật hoan hỉ gặp các thầy ngợi khen.

8- TRỘM CƯỚP QUY Y TAM BẢO

Thầy A Na Luật nhiều phen Cũng đi hành hóa khắp miền xa xôi Một hôm vừa tới một nơi Thì trời lại tối, thầy thời dừng chân Ra khu rừng vắng ở gần Thầy ngồi chờ sáng, tĩnh tâm tọa thiền, Bỗng đâu một đám cướp đêm Bất ngờ xuất hiện ở bên bìa rừng Chia nhau của cải tưng bừng Đang chia bỗng thấy thầy trong chốn này Cướp bèn muốn giết thầy ngay Mong không lộ chuyện bọn này cướp đêm Nhưng thầy lên tiếng nói liền: “Ta không sợ chết! Chớ quên một điều Hành vi sai trái đã nhiều Tuy không ai biết cũng đều hiểm nguy Luật nhân quả báo ứng kia Nhân nào quả nấy dễ gì thứ tha

Sẽ nhiều thảm họa xảy ra Tương lai đau khổ xót xa não nề!” Rồi thầy giảng pháp cho nghe Những điều khuyên nhủ từ bi, thánh hiền Lời vàng thấm đượm vang lên Động lòng trắc ẩn cướp liền hồi tâm Cùng nhau sám hối lỗi lầm Đem đồ trộm cướp chia phần lâu nay Trả về các khổ chủ ngay, Ít ngày sau đó nhờ thầy dắt đi Đến hầu Phật xin quy y Sống đời lương thiện rất chi tâm thành.

9- TÁM ĐIỀU GIÁC NGỘ CỦA BẬC ĐẠI NHÂN

Thầy A Na Luật nhiệt tình Trong việc hoằng pháp lợi sinh giúp người Công phu tu học trong đời Cũng luôn tinh tấn, Phật thời ngợi khen. Một lần Phật dạy thầy thêm Tám điều giác ngộ phải nên hành trì: - Vô thường quán chiếu ngay đi Để mà quyết chí xa lìa tử sinh - Sống theo thiểu dục đời mình Thân tâm tự tại đạt thành ngay thôi - Sống vui đạm bạc đủ rồi Mới mong trí tuệ con người phát sinh -

Siêng năng làm các việc lành Não phiền, ma chướng diệt nhanh tức thì - Thoát mau khỏi cảnh ngu si Rồi đem học vấn mình đi giúp đời - Người nghèo sinh oán hận thôi Tinh thần, vật chất ta thời độ sinh - Quyết tâm tiêu diệt tận tình Diệt năm dục vọng khiến mình lầm than - Không cầu an lạc bản thân Chúng sinh cứu độ phát tâm đại thừa.

10- TUỔI GIÀ

Thầy A Na Luật thuở xưa Cuộc đời tu học rất ư huy hoàng Thêm đời hành đạo rỡ ràng Ít ai ghi lại tỏ tường! Tiếc sao! Thầy viên tịch ở nơi nao? Lúc nào viên tịch? Ai đâu hay gì! Có điều chắc chắn được ghi Mọi người xưng tụng thầy khi ở đời Là đệ tử lớn tuyệt vời “Thiên nhãn đệ nhất” trong nơi giáo đoàn.

* Tôn giả Tu Bồ Đề
1- QUÝ TỨ RA ĐỜI

Tu Bồ Đề sinh ra đời Một ngày đặc biết đất trời lạ sao Trong nhà của cải biết bao Tự nhiên biến mất đường nào ai hay. Các thầy tướng số đoán ngay: “Đây là việc đáng mừng thay thật tình! Khi mà quý tử vừa sinh Bạc vàng, châu báu trở thành ra không Điều này tốt đẹp vô cùng Tương lai cậu bé thoát vòng lợi danh Đặt tên cậu là ‘Không Sinh’ Hay là ‘Thiện Cát’ quả tình hợp thay!” Thời gian chỉ mới ba ngày Bỗng nhiên của cải hiện ngay lại rồi Y nguyên như cũ mà thôi Thật là điềm rất lạ đời xưa nay.

2- THÍCH LÀM TỪ THIỆN

Khi còn niên thiếu trước đây Tu Bồ Đề sống đủ đầy, giàu sang Tuy gia đình lắm bạc vàng Chàng đâu nô lệ, chẳng màng giữ chi Bạc tiền cha mẹ cho kia Chàng luôn tìm dịp phân chia giúp đời, Đôi khi cởi áo tặng người Biếu ai nghèo khó, tả tơi, bần hàn. Mẹ cha thấy vậy phàn nàn Chàng bèn kính cẩn phân trần trước sau:

“Thưa rằng không rõ vì đâu Thân tâm con cảm thấy sao rõ ràng Những gì trên khắp thế gian Cùng con quan hệ vô vàn thiết thân Như cùng th.ân thể, chung phần Nào đâu có khác, thật gần gũi thay Nên con đem của trong tay Giúp người cũng giống giúp ngay chính mình!” Sau khi chàng đã trần tình Thời chàng tiếp tục giúp quanh xóm làng. Mẹ cha thấy khó khuyên chàng Cho nên quyết định tìm đường cầm chân Không cho đi lại xa gần Cấm ra khỏi cửa, giữ luôn trong nhà. Vận may từ đó ai ngờ Tu Bồ Đề có thời giờ rảnh rang Đọc về triết học kỹ càng Đọc về tôn giáo lời vàng khắc ghi Để rồi kiến thức ai bì Chàng thưa cha mẹ rất chi tự hào:

“Vạn tượng dày đặc biết bao Khắp trong vũ trụ hiện vào tâm con Nhưng tâm khi xét ở trong Dường như trống rỗng chẳng còn vật chi!”

3- QUAY VỀ NƯƠNG TỰA PHẬT

Nơi thôn xóm Tu Bồ Đề Phật đi giáo hóa lần kia ghé vào Dân làng vội vã theo nhau Quy y với Phật trước sau rộn ràng, Mặc dù tín ngưỡng nhà chàng Bà La Môn giáo đã hằng bao lâu Giờ đây cha mẹ cùng nhau Xin quy y Phật. Thấy sao lạ lùng! Lại xưng tụng Phật vô cùng: “Từ bi, trí tuệ, thần thông tuyệt vời!” Ngạc nhiên, muốn hiểu rõ thôi Tu Bồ Đề lén tới nơi đạo tràng. Đêm nay đèn đuốc sáng choang Tới nghe thuyết pháp dân làng đông sao Phật ngồi trên pháp tòa cao Chàng nhìn, lòng bỗng dâng trào niềm tin:

“Ngài sao tướng mạo uy nghiêm Vô cùng viên mãn giữa miền hào quang!” Chàng nghe Phật dạy tỏ tường: “Chúng ta tất cả chung cùng bản thân Đừng phân biệt “ngã” với “nhân” “Ta” với “người” chẳng chia phân chút nào Nhân duyên hòa hợp dài lâu Ta và vạn pháp nương nhau muôn đời Nên khi bố thí cho người Cũng là lợi lộc cho nơi chính mình!” Chàng nghe cảm động thật tình Những lời Phật dạy anh minh sáng ngời. Sau khi đức Phật trở lui Quay về tịnh thất nghỉ ngơi, khuya rồi

Tu Bồ Đề lén theo thôi Muốn xin gặp Phật nhưng hơi ngại ngần Thập thò qua lại vài lần Phật bèn lên tiếng gọi luôn chàng vào. Chàng quỳ ra mắt thỉnh cầu: “Con xin được Thế Tôn thâu nhận vào Xuất gia theo học đạo màu Trong hàng đệ tử dài lâu của Ngài!” Chàng xưng danh tánh xong xuôi Phật lên tiếng dạy:

“Mọi người địa phương Nói con thông tuệ nhất vùng Lành thay con muốn theo đường xuất gia Nhưng còn ý kiến mẹ cha Hai người có thuận thông qua chuyện này?” Chàng bèn kính cẩn thưa ngay: “Phụ thân con chắc khi hay rõ rồi Sẽ cùng hoan hỉ mà thôi Hai người cũng đã theo Ngài quy y!” Phật vui chấp nhận tức thì, Tu Bồ Đề được yên bề xuất gia Khoác lên mình áo cà sa Trở thành đệ tử thật là uy nghi.

4- KHẤT THỰC NHÀ GIÀU KHÔNG TỚI NHÀ NGHÈO

Một bình bát với ba y Tu Bồ Đề sáng ra đi theo đoàn Cùng đi khất thực trong làng, Chiều nghe Phật giảng đạo vàng uyên thâm Rồi tham thiền rất chuyên cần, Nhưng khi khất thực thầy luôn khác người Chọn nhà giàu có mà thôi Không ngừng chân trước nhà nơi nghèo nàn Thầy thường bộc lộ tâm can: “Người nghèo sinh sống vô vàn khó khăn

Tự nuôi thân không đủ ăn Không còn chi để phát tâm cúng dường ‘Lòng dư, sức thiếu’ đáng thương Đừng nên bắt họ đảm đương chuyện này!” Thầy Đại Ca Diếp khác thay Chỉ nhà nghèo mới khiến thầy dừng chân Chọn nhà nghèo túng xin ăn Nói rằng: “Muốn họ được ban phước lành Cúng dường tạo phước tâm thành Kiếp sau thoát khổ, mặc tình sướng vui!” Hai thầy khác biệt nhau rồi Phật hay biết được Ngài thời sửa sai: Dạy rằng: “Khất thực hàng ngày Phải đi tuần tự nhà này, nhà kia Giàu, nghèo không được phân chia Chớ nên chọn lựa! Oai nghi giữ gìn!”

5- KHÓC TRONG PHÁP HỘI BÁT NHÃ

Tại nơi tu viện Kỳ Viên Tu Bồ Đề đã nêu lên một lần Điều thầy thắc mắc thiết thân: “Thiện nam, tín nữ phát tâm bồ đề Làm sao an trú trọn bề? Và khi vọng niệm u mê quấy rầy Làm sao hàng phục được ngay?” Pháp hội bát nhã hôm nay đông người Phật nghe hỏi bèn trả lời: “Trong khi bố thí ta thời chớ quên Để an trú tâm cho bền ‘Bố thí vô tướng’ ta nên nhớ hoài Không thấy ta, không thấy người Và pháp bố thí xét thời cũng không!”

Nói xong Phật dạy thêm luôn: “Độ sinh cũng vậy, cũng không khác gì Muốn hàng phục vọng niệm kia ‘Độ sinh vô ngã’ thầy thì nên theo Theo ‘ba không’ vừa mới nêu Ta và người được độ đều là không Cũng không có pháp độ luôn, Ba không phải nhớ nằm lòng chớ quên!” Thầy Tu Bồ Đề hiểu liền Nghe lời khai ngộ quả nhiên tuyệt vời Hiểu sâu sắc đủ mọi lời Trong lòng cảm kích, lệ thời khẽ tuôn, Và rồi trong khắp tăng đoàn Đứng đầu hiều rõ “tính KHÔNG” là thầy.

6- “KHÔNG” LÀ GÌ?

Bà La Môn giáo vùng này Có người trí thức một ngày nêu lên Hỏi rằng: “Thầy nói khó tin! Hãy nhìn vạn vật khắp trên cõi trần Hiện đang tồn tại rõ ràng Tại sao thầy lại cho rằng là ‘không’?” Thầy Tu Bồ Đề giảng luôn: “Ngôi nhà trước mặt hiện trong mắt người Do bốn yếu tố mà thôi ‘Đất, nước, gió, lửa’ cùng vài nhân duyên Hợp thành nhà, cấu tạo nên Tách riêng từng thứ nhà liền tiêu vong Cho nên ta gọi là ‘không’ Nhà không thật có như trong ý mình Như ta nhận thức thường tình! ‘Có’, ‘không’ chẳng khác, hợp thành ‘một’ luôn Nhớ rằng ‘sắc bất dị không’ ‘Không bất dị sắc’ ghi lòng chớ quên!

Những gì có ‘sắc’ hiện lên Đều không có thật, chẳng bền vững lâu Tấm thân ta cũng khác đâu Chỉ là ‘giả có’, rã vào tương lai!” Rồi thầy chỉ tới cây xoài Dạy rằng: “Khi trái chín. Rồi rụng rơi Hạt xoài được đất chôn vùi Nảy mầm. Mọc lại. Với thời gian qua Thành cây xoài mới. Nở hoa Trở thành nguyên dạng như là trước tiên, Một khi có đủ nhân duyên Hột xoài, đất, nước lại thêm tay người Thì ta có cả vườn xoài, Nếu nhân duyên thiếu ta thời thấy ngay Cây xoài không mọc tại đây Đó là ‘không’ đấy! Điều này chớ quên! Sinh thành tạo bởi nhân duyên, Đến khi hoại diệt cũng nguyên nhân này!”

7- NGƯỜI NGHINH TIẾP PHẬT TRƯỚC NHẤT

Cung trời Đao Lợi một ngày Phật đang chuẩn bị từ đây trở về, Tin vui, đệ tử vừa nghe Tranh nhau rảo bước vội đi đón Ngài Muốn là người trước nhất thôi, Tu Bồ Đề cũng nghe lời báo trên Đang ngồi vá áo động bên Thầy bèn ngưng lại, đứng lên theo cùng Muốn đi đón Phật chào mừng Nhưng rồi nghĩ lại thầy dừng chân ngay Trở vào trong động vá may Trong khi ngồi xuống lòng thầy nghĩ suy: “Đi nghinh đón Phật làm chi? Chân thân của Phật dễ gì thấy ra

Bằng sáu căn trước mắt ta Nếu đi nghinh đón quả là lầm sai Khác nào nghĩ pháp thân Ngài Thật do tứ đại lâu nay hợp thành Thế là ta đã vô minh ‘Tính KHÔNG các pháp’ chẳng rành biết chi!” Thầy Tu Bồ Đề không đi Thản nhiên vá áo lòng thì ung dung. Phật về từ chốn thiên cung Bao nhiêu đệ tử đón mừng tới đây Liên Hoa Sắc trong số này Quỳ thưa cùng Phật cơ may của mình Rằng: “Con vui có duyên lành Nhanh chân đón Phật cung nghinh hàng đầu.” Phật bèn dạy: “Không phải đâu Tu Bồ Đề chính người đầu mà thôi Tuy ngồi trong động xa xôi ‘Tính KHÔNG’ hiểu rõ tuyệt vời hơn ai Rõ pháp thân của Như Lai Cho nên mới thực là người đầu tiên!”

8- MƯA HOA RỢP ĐẤT CÚNG DƯỜNG NGÀI

Thầy Tu Bồ Đề thường xuyên Ưa vui sống giữa thiên nhiên, núi rừng Những ngày mưa gió bão bùng Ngồi yên trong động, thầy không ra ngoài, Những hôm nắng ráo đẹp trời Kinh hành, thiền định ven đồi, dưới cây. Ở trong động núi một ngày Thầy ngồi nhập định, tâm đầy an nhiên Chợt đâu oai đức bừng lên Tỏa ra ánh sáng tới miền thiên cung Khiến cho ngay gìữa hư không Chư thiên xuất hiện cùng tung hoa trời Và cùng ca ngợi hết lời: “Tu Bồ Đề ở cõi người mà thôi Nhưng mà xứng được cõi Trời Mưa hoa rợp đất tận nơi cúng dường Chúng tôi kính ngưỡng vô cùng Và xin đảnh lễ tỏ lòng bữa nay!” Thầy nghe bèn xuất định ngay Ngước nhìn và hỏi: “Quý ngài là ai?”

Dẫn đầu thiên chúng đáp lời: “Tôi là Đế Thích, đồng thời quanh tôi Đều là thiên chúng cõi Trời!” Thầy bèn cảm tạ! Hoa rơi thơm lừng! Việc này đặc biệt vô cùng “Chư thiên ca ngợi, cúng dường muôn hoa” Ngoại trừ có Đức Phật ra Thầy người duy nhất! Quả là quý thay!

9- CHƯ THIÊN TRỔI NHẠC THĂM BỆNH

Thầy Tu Bồ Đề một ngày Bị lâm bệnh nặng, hao gầy tấm thân Tâm thời mệt mỏi vô ngần Nhưng thầy cố gắng quyết tâm ngồi thiền Giữ cho chánh niệm vững bền Đồng thời quán tưởng: “Các duyên đời này Có quan hệ bất ổn thay Cộng thêm nghiệp báo trước đây chất chồng Nên mình bệnh hoạn khốn cùng Thuốc men chỉ trị bệnh trong tạm thời Phải cần sám hối ngay thôi Và tu thiền quán để rồi nhận chân

Các điều nhân quả xoay vần Mới trừ đau khổ nơi tâm ý người, Khổ đau tâm ý diệt rồi Khổ đau th.ân thể tức thời tiêu tan!” Thầy thiền định một thời gian Để rồi cảm thấy nhẹ nhàng trong tâm Ung dung tự tại tấm thân Bệnh tình khổ não biến dần hết luôn. Ngay vào lúc đó trên không Vua Trời Đế Thích hiện cùng chư thiên Cùng thần âm nhạc uy nghiêm Giáng lâm đàn hát, trổi lên giữa trời

Sau khi khúc hát ngưng rồi Cả đoàn bái kiến thầy nơi đất liền. Tạ ơn, thầy vội đứng lên Thốt lời đáp lễ, tâm hồn thăng hoa: “Tu Bồ Đề bệnh sinh ra Khi mà các pháp bất ngờ chống nhau Nhưng mà pháp Phật nhiệm màu Nước cam lồ khiến bệnh mau hết rồi Thêm thiền như gió xuân tươi Khiến tôi bình phục, nay thời an nhiên!” Chư thiên hoan hỉ vô biên Cùng nhau đảnh lễ rồi lên đường về. * Xưa tôn giả Tu Bồ Đề Trí tuệ bát nhã muôn bề tinh thông Nhận chân về đạo lý KHÔNG Sâu xa, màu nhiệm nhất trong tăng đoàn Mọi người xưng tụng vẻ vang Thầy là bậc nhất am tường tính KHÔNG.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
* Tôn giả Mục Kiền Liên

1-- NGUYỆN CHỨNG THẦN THÔNG

Mục Kiền Liên vốn xuất thân
Con ông trưởng giả vô ngần giàu sang
Ông cha tu rất đàng hoàng
Nổi danh đạo đức xóm làng biết tên,
Nhưng bà mẹ thời luân phiên
Làm điều ác đức cho nên trong đời
Gây nhiều nghiệp nặng tày trời
Kiếp sau quả báo vào nơi đọa đày.
Riêng Mục Liên nổi tiếng thay
Thông minh, hiếu thảo lại đầy lòng nhân
Can trường, cương nghị, lạc quan
Thấy điều bất chính là can thiệp liền.
*
Trong tiền kiếp Mục Kiền Liên
Làm nghề chài lưới ở miền biển khơi
Bắt tôm bắt cá sinh nhai
Một hôm tâm niệm tức thời phát sinh
Rằng nghề này không tốt lành
Cho nên chàng đã quyết tình đổi thay
Và rồi sau đó ít ngày
Chợt chàng thấy một người hay đi về
Đó là đức Phật Bích Chi
An nhiên, tự tại, uy nghi tuyệt vời.
Chàng sinh tâm cung kính ngài
Một hôm cung thỉnh về nơi xóm nhà
Cúng dường cơm nước, hương hoa
Xong ngài hóa độ cho gia đình chàng,

Ngài không giảng pháp bình thường
Mà chuyên sử dụng con đường thần thông
Ngài bèn nhảy lên hư không
Xoay quanh phải trái, lộn vòng trước sau
Chàng nhìn khâm phục biết bao
Âm thầm thành kính nguyện cầu ước mong
Kiếp sau tu chứng thần thông,
Quả nhiên được thỏa nguyện trong đời này
Thần thông chứng đắc được ngay
Khi quy y Phật lòng đầy thiết tha.

2-- BẮC CẦU ĐƯA PHẬT QUA SÔNG

Trong tăng đoàn Phật Thích Ca
Chứng thần thông giỏi tính ra lắm người
Mục Kiền Liên được đương thời
Suy tôn hạng nhất trong nơi tu hành,
Tai thầy nghe rõ âm thanh
Dù âm thanh đó mặc tình gần xa,
Mắt thầy nhìn thấu suốt qua
Dù cho cảnh vật rất là khuất che,
Đường xa vạn dặm xá chi
Thầy đi khoảnh khắc tức thì tới nơi.
Trong việc hành hóa ở đời
Thầy luôn giúp Phật với tài thần thông.
*
Có lần dân chúng rất đông
Họp nhau bày tiệc cúng dường lớn lao
Mời bao giáo phái khác nhau
Thỉnh cả vua với biết bao đại thần
Tiệc thời dọn bên kia sông
Mục Kiền Liên đến dự phần đầu tiên
Lát sau nước bỗng dâng lên
Bao người ngoại đạo thấy liền chịu thua
Qua sông không được đành chờ,
Chợt đâu thầy thấy Phật và chư tăng

Từ phía xa, thầy vội vàng
Dùng thần lực để bắc ngang một cầu
Thế là ngoại đạo tranh nhau
Leo lên cầu trước có đâu ngại ngùng
Nhưng vừa đi đến nửa chừng
Thời cầu bị gãy vô cùng hiểm nguy
Mọi người rớt xuống sông kia
Kêu la cầu cứu thảm thê hãi hùng
Nhưng khi Phật tới bên sông
Thời cầu lại hiện ra vòng bên trên
Phật cùng tăng chúng bước lên
Còn người dưới nước nổi chìm dòng sâu
Thầy thương cảm vớt lên cầu
Cho theo gót Phật được mau qua bờ
Qua xong cầu lại bất ngờ
Hoàn toàn biến mất thật là lạ thay,
Tu sĩ ngoại đạo lúc này
Thảy đều tỉnh ngộ thấy ngay phần mình
Chỉ như bóng tối lung linh
Phật thời rạng ánh bình minh khắp miền

3- CÙNG PHẬT TƯƠNG KIẾN TRONG THIỀN ĐỊNH

Một lần thầy Mục Kiền Liên
Cùng Xá Lợi Phất ngồi thiền phương Nam
Hai thầy ở tại Trúc Lâm,
Phật thời phương Bắc xa xăm khác miền
Ngài ở tu viện Kỳ Viên.
Đêm nay thầy Mục Kiền Liên lại thiền
Thầy luôn luôn tu học thêm
Rất là tinh tấn và chuyên cần hoài
Trong khi thiền định bữa này
Có điều thắc mắc nên thầy tìm qua
Tới miền phương Bắc nẻo xa
Trước là thăm Phật sau là học thêm
Nhờ Ngài chỉ dạy suốt đêm
Cho dù xa cách đôi miền Bắc Nam
Vì thần thông thầy giỏi giang
Thiên nhãn, thiên nhĩ dễ dàng phát huy
Nên dù thầy chẳng cần đi
Vẫn hầu chuyện Phật bất kỳ ở đâu.
Thầy Xá Lợi Phất hôm sau
Nghe xong ca ngợi với bao chân thành
Cả hai bạn đạo tu hành
Cũng là bạn học thắm tình! Hiếm thay!

4-- AI THẦN THÔNG BẬC NHẤT

Đức Phật thuyết pháp một ngày
Chư tăng tụ họp hôm nay đông người
Thầy Xá Lợi Phất vắng thôi
Phật truyền một vị tới nơi mời về
Nơi thành Xá Vệ xa kia,
Thầy Mục Liên được cử đi thỉnh mời
Tuy rằng xa cách đôi nơi
Nhờ thần thông giỏi thầy thời quản chi,

Hai thầy gặp gỡ cận kề
Thầy Xá Lợi Phất có gì vội đâu
Bày trò trắc nghiệm cùng nhau
Lấy ra dải áo ném mau xuống thềm
Nhờ thầy Mục Liên lượm lên
Kết dây dài chắc và bền kể chi,
Thầy Xá Lợi Phất tức thì
Cột dây quanh núi Tu Di mấy vòng,
Thầy Mục Liên dùng thần thông
Dễ dàng dở núi lên không khó gì.
Thầy Xá Lợi Phất thâu về
Quanh pháp toà Phật dây kia cột vào,

Lần này dù cố biết bao
Thầy Mục Liên khó thể nào chuyển lay
Pháp toà Phật vững chắc thay,
Thầy Xá Lợi Phất nhân đây nói rằng:
“Chúng ta thần lực giỏi giang
Trổ tài lay chuyển dễ dàng Tu Di
Nhưng pháp toà Phật uy nghi
Không làm sao nhích được đi chút nào
Hôm nay thử nghiệm xem sao
Nhận chân thần lực từ bao lâu rồi
Chúng ta về hầu Phật thôi
Sư huynh bay trước, tôi thời theo đi!”

Thầy Mục Liên vội trở về
Thần thông sử dụng nên chi lẹ làng
Tới nơi thầy thật ngỡ ngàng
Thấy thầy Xá Lợi Phất sang đây rồi
Đi sau, tới trước lạ đời
Ở bên cạnh Phật đang ngồi thảnh thơi.
Phật giải thích cho hai người:
“Thần thông bậc nhất trong nơi tăng đoàn
Thầy Mục Liên vượt trội hơn
Chỉ vì thầy chẳng vội vàng quay lui,
Còn thầy Xá Lợi Phất thời
Là người trí tuệ lớn ai sánh cùng!”

5-- DỜI NÚI HÓA ĐỘ NGOẠI ĐẠO

Thầy Mục Liên giỏi thần thông
Một lần được phái đến vùng xa xăm
Nơi đây dân chúng, vua, quan
Đều theo ngoại đạo bao năm nay rồi
Nhiều người ngoại đạo cũng tài
Cũng thần thông giỏi nên người theo tin.
Tới vương quốc rộng lớn trên
Thầy nhìn xuống chợt thấy liền đám đông

Ngồi vòng quanh núi giữa đồng
Đang dùng thần lực để cùng hè nhau
Mong di chuyển quả núi cao
Thần thông ngoại đạo có đâu tầm thường.
Thầy bèn đáp xuống nhẹ nhàng
Hạ gần tới núi nhưng chân của thầy
Không hề chạm đỉnh núi này
Thế mà đủ chặn núi ngay lại rồi
Hết di động, núi ngưng thôi
Nhóm người ngoại đạo tức thời hoảng kinh
Nhận ra thầy giữa mây xanh
Họ bèn lên tiếng bất bình kêu la
Rồi gom thần lực tăng gia
Cùng di chuyển núi nhưng mà lạ thay
Xô hoài núi chẳng lung lay
Dù thần thông giỏi lâu nay phô bày.
Đang lo chẳng lẽ bó tay
Chợt đâu họ thấy bóng thầy trên cao
Vung tay! Núi bỗng biến mau!
Còn trơ đất phẳng! Nhiệm màu lắm thay!
Thế là họ cảm phục thầy
Nghĩ rằng đạo hạnh sâu dày bao la

Lại thêm trí tuệ cao xa
Mới làm được việc xảy ra vừa rồi
Cùng nhau tất cả mọi người
Xin làm đồ đệ, thốt lời thành tâm.
Thầy Mục Liên từ trên không
Từ từ hạ xuống ôn tồn nói ngay:
“Nếu mà quý vị hôm nay
Muốn theo Phật pháp thì ngày mai đây
Tôi xin giới thiệu bậc thầy
Đó là đức Phật! Ngài đầy từ bi
Hãy mau đến xin quy y
Chắc Ngài thâu nhận! Có chi ngại ngùng!”
Đám người ngoại đạo vui mừng
Theo về cửa Phật hết lòng từ đây.

6-- HÓA ĐỘ CHO LIÊN HOA SẮC

Trên đường khất thực một ngày
Trời chiều thầy Mục Liên quay trở về
Khi ngang qua cánh rừng kia
Bị người thiếu phụ rất chi bất ngờ
Chặn bên đường như đợi chờ
Miệng cười duyên dáng, lẳng lơ đưa tình
Phô ra quyến rũ thân hình
Như chào mời vị tu hành đi ngang.
Thấu nhìn tâm ý của nàng
Thầy ngừng chân lại nghiêm trang dạy rằng:
“Phần bà quả thật đáng thương
Xác thân đã chẳng theo đường sạch trong
Lại thêm mờ tối tâm hồn
Chính vì nhan sắc tội nguồn phát ra
Nặng nề nghiệp chướng sâu xa
Hãy mau thức tỉnh đi mà hoàn lương!”
Lời khuyên rộn rã âm vang
Như là xuyên thấu tâm can con người
Bà ta chợt tỉnh ngay thôi

Tuôn đôi dòng lệ, thốt lời than van:
“Thưa con tội lỗi vô vàn
Vết thương quá khứ ngập tràn thương đau
Muốn hồi tâm lại đã lâu
Mong ai cứu vớt có đâu dễ dàng!”
Thầy bèn an ủi nhẹ nhàng:
“Ăn năn, sám hối là đường phải theo
Dù cho tội lỗi quá nhiều
Nương vào Phật pháp sẽ tiêu trừ liền!”
An lòng, thiếu phụ xưng tên
Là Liên Hoa Sắc khắp miền nổi trôi:
“Lúc con mười sáu tuổi đời
Lập gia đình với một người chồng kia,
Cha con sau đó chết đi
Mẹ con còn trẻ chẳng nề tà tâm
Cùng chồng con bà thông dâm,
Con vừa sinh cháu gái, thầm khóc thương
Trẻ thơ bỏ lại nhà chồng
Con ra đi với cõi lòng đớn đau,
Rồi con lấy người chồng sau
Chàng thường buôn bán, đi lâu, vắng nhà
Mới đầu tưởng làm ăn xa
Sau này mới khám phá ra chuyện buồn
Chàng đưa vợ bé âm thầm
Giấu ngay nơi chỗ bán buôn của chàng,
Con tìm tới xem mặt nàng
Để rồi tê tái ngỡ ngàng héo hon
Đó là con gái của con
Với người chồng trước! Chẳng còn hồ nghi!
Bỏ nhà con lại ra đi
Biến thành dâm nữ, tiếc gì tấm thân
Nhắm đàn ông trả thù luôn
Lấy tiền của kẻ xa gần đi ngang
Đời con tội lỗi hoang đàng
Làm sao sám hối dễ dàng được đây?”
Liên Hoa Sắc nói đến đây
Nấc lên súc động vẻ đầy thương tâm.

Thầy Mục Liên giọng ân cần:
“Nếu bà quyết chí dấn thân cửa Thiền
Học theo Phật pháp ngay liền
Thời bà sẽ hưởng bình yên cuộc đời
Hoàn toàn được giải thoát thôi
Ung dung, tự tại, an vui tâm hồn
Xin bà hãy theo tôi luôn
Về ra mắt Phật rồi còn quy y!”
*
Thầy Mục Liên giỏi nhiều bề
Giỏi khi hóa độ, giỏi về thần thông,
Liên Hoa Sắc xuất gia xong
Bốn năm sau đó vô cùng vẻ vang
Thần thông đệ nhất giỏi giang
Ở bên phái nữ, trong hàng ni sư.

7-- NGUYÊN DO NGÀY LỄ VU LAN

Thầy Mục Lìên nhớ thuở xưa
Mẹ thầy viên tịch kể như lâu rồi
Giờ này không biết nổi trôi
Chốn nào chẳng rõ! Thầy thời lo thay!
Trong khi thiền định hôm nay

Thầy quán chiếu thấy mẹ đầy khổ đau
Dưới vùng ngạ quỷ thẳm sâu
Héo khô, tiều tụy, thảm sầu lắm thay
Cổ thì nhỏ như kim may
Vẻ đang đói khát lâu ngày thiếu ăn,
Thầy thương xót mẹ vô vàn
Bèn đưa bình bát lại gần dâng cơm
Mẹ mừng bốc bỏ miệng luôn
Cơm chưa tới miệng, lửa tuôn khói trào
Mẹ đâu ăn được chút nào
Thầy nhìn thấy vậy nghẹn ngào đớn đau
Biết bà nặng nghiệp từ lâu
Sức thầy không đủ, dễ đâu cứu bà
Thầy bèn bái kiến Phật Đà
Xin Ngài chỉ cách để mà cứu nguy
Phật bèn dạy, giọng từ bi:
“Phải nhờ thần lực tăng, ni giúp mình
Toàn thể đại chúng nhiệt tình
Cùng nhau chú nguyện sẽ thành công thôi
Tiêu trừ nghiệp chướng lâu đời
Mẹ thầy sẽ thoát khỏi nơi đọa đày.
Ngày Rằm tháng Bảy tới đây
Là ngày “tự tứ” mùa này từ xưa
Tăng, ni mãn khóa an cư
Cùng nhau chú nguyện rất ư nhiệm màu
Giúp người quá vãng đã lâu
Tiêu tan nghiệp chướng, khổ đau bao ngày,
Giúp người còn sống đời này
Được nhiều phước báu hưởng ngay hiện tiền
Lòng hiếu thảo quý vô biên
Hãy theo phương pháp kể trên thực hành!”
Thầy nghe Phật, vui thật tình
Đến ngày “tự tứ” tâm thành theo ngay
Y lời Phật dạy mới đây
Thỉnh mời đại chúng chung tay góp phần
Cùng chú nguyện cho mẫu thân
Quả nhiên bà mẹ hưởng luôn phước lành

Rời nơi ngạ quỷ hôi tanh
Khổ đau thảm cảnh thoát nhanh được liền.
*
Kể từ đó thầy Mục Liên
Đem lời Phật dạy lưu truyền nhân gian
Lập ra lễ hội “Vu Lan”
Vào ngày “tự tứ” hằng năm cổ truyền
Tỏ lòng hiếu thảo đáp đền
Công Cha, nghĩa Mẹ như triền non cao
Như nguồn nước chảy dạt dào
Sinh thành, dưỡng dục xiết bao nhọc nhằn,
Vu Lan lễ hội hằng năm
Thầy Mục Liên được người dân tôn sùng
Ngoài tài “đệ nhất thần thông”
Còn là “đại hiếu” vô cùng nổi danh.

8-- THẦN THÔNG KHÔNG CHỐNG LẠI ĐƯỢC NGHIỆP LỰC

Quê hương đức Phật đản sinh
Ca Tì La Vệ cấm thành thương yêu
Một ngày gặp chuyện hiểm nghèo
Lưu Li vua của nước Kiều Tát La
Đem quân xâm lược đánh qua
Phật nghe tin thấy nước nhà lâm nguy
Ngài bèn ngồi chắn đường đi
Hào quang tỏa rộng, uy nghi vô vàn,
Vua Lưu Li tiến đến gần
Tỏ ra tôn kính, ngại ngần tiến quân,
Tới lui tất cả ba lần
Ý đồ xâm lược trong tâm chẳng dừng
Hình như muốn trả thù chung
Từ bao kiếp trước đã từng đấu tranh.
Đức Phật quán chiếu sự tình
Nhận ra nghiệp quả cấu thành trước đây
Thích Ca bộ tộc giờ này
Tới thời quả báo chịu ngay mọi bề
Về nguồn tội lỗi xưa kia
Giữa hai bộ tộc nguyện thề thù nhau
Nhân quả nghiệp báo đã lâu
Phải cần kết thúc trước sau một lần
Và Ngài quyết định lui chân
Để cho vua nọ tiến quân vào thành
Xua quân vây kín xung quanh
Ca Tì La Vệ thôi đành thảm thương!
Thầy Mục Liên nào chịu ngưng
Nghĩ nên sử dụng thần thông lúc này
Cứu nhân dân ở trong đây
Thầy liền tìm cách vội bay vào thành
Chọn năm trăm vị tinh anh
Thành phần ưu tú nổi danh đương thời
Bỏ vào bình bát xong xuôi

Bay ra thoát nạn tới nơi an toàn
Nhưng nhìn lại thời kinh hoàng
Thấy trong bình bát ngập tràn máu tươi
Năm trăm người biến mất rồi
Bấy giờ thầy mới tức thời ngộ ra
Những lời Phật dạy sâu xa
Vấn đề trả nghiệp quả là không sai
Thần thông chẳng giúp được ai
Một khi quả báo mình thời bó tay
Dù cho tài giỏi lâu nay
Cũng thua nghiệp lực tới ngày phát sinh.

9-- TUẪN GIÁO

Mục Liên tôn giả nhiệt tình
Hoằng dương chánh pháp tâm thành lâu nay
Tạo công đức lớn lao thay
Tiếp tay đức Phật bao ngày tháng qua
Cho nên ngoại đạo gần xa
Nổi lòng hiềm khích, tỏ ra thù hằn,
Họ từng hại Phật nhiều lần
Nhưng đều thất bại muôn phần chua cay
Mục tiêu chuyển hướng giờ đây
Vào người đệ tử là thầy Mục Liên,
Rình rập ngày, theo dõi đêm
Chờ cơ thuận tiện sẽ liền ra tay.
Mục Liên tôn giả một ngày
Đi ngang ngọn núi nơi đây cao vời
Tu sĩ ngoại đạo đông người
Thuộc phái Lõa Thể rình nơi núi này
Rắp tâm phục kích lâu nay
Từ trên đỉnh núi ra tay hại thầy
Hè nhau xô đá xuống ngay
Đá rơi ào ạt khiến thầy tử vong
Nhục thân nhừ nát thảm thương
Nhưng phường ngoại đạo sợ không xuống liền

Ba ngày chẳng dám đến bên
Sợ thần lực của thầy nên ngại ngùng.
Tin tôn giả bị mệnh chung
Được loan truyền đến hoàng cung trong ngày
Vua A Xà Thế nơi đây
Đùng đùng nổi giận lệnh ngay triều đình
Tìm hung thủ phái Lõa Hình
Bắt về trị tội! Tình hình thảm thay!
Mấy ngàn tu sĩ phái này
Bị ném vào hầm lửa gây kinh hoàng.
Về phần đại chúng tăng đoàn
Vì cùng thương tiếc, ngỡ ngàng than van:
“Thầy Mục Liên giỏi vô vàn
Thần thông đệ nhất, ai ngang tài thầy
Sao không tránh thoát nạn này
Để phường ngoại đạo ra tay hại thầy?”
*
Phật bèn lên tiếng dạy ngay:
“Thầy Mục Liên đã từng hay biết rằng
Một khi nghiệp báo vương mang
Thần thông cũng chẳng dễ dàng vượt qua
Thầy dùng huệ nhãn nhận ra
Trong tiền kiếp thuở xưa xa của mình
Đã từng mang tội sát sinh
Làm nghề đánh cá, tôm quanh biển ngoài
Chọn nghề này để sinh nhai
Khiến nhiều mạng sống từng bày chết oan,
Còn trong kiếp khác hiện thân
Là chồng nhu nhược bất nhân vô cùng
Nghe lời cô vợ dữ hung
Đem cha mẹ bỏ vào rừng hoang vu
Mặc cho ác thú, gió mưa
Dù cho bệnh hoạn, già nua, tật nguyền
Và nhiều nhân xấu tạo thêm
Trong bao tiền kiếp luân phiên tái hồi
Nay thầy muốn chấm dứt thôi
Nghiệp xưa muốn trả xong xuôi một lần,

Khi xuất gia cũng quyết tâm
Nguyện đem sinh mạng dấn thân giúp đời
Hoằng dương chánh pháp cao vời
Nên nay mãn nguyện nhập nơi Niết Bàn!”
Mọi người cảm động nguyện thầm
Noi gương tôn giả muôn phần kính yêu.​

* Tôn giả Phú Lâu Na

1-- CẮT BỎ RÀNG BUỘC GIA ĐÌNH

Xưa tôn giả Phú Lâu Na
Gia đình tăm tiếng, mẹ cha cưng chiều
Tràn đầy hạnh phúc, thương yêu
Nhưng vì ý thức sớm điều tối cao
Phải tìm ra tài sản nào
Thật là vĩnh cửu, không bao giờ tàn
Đó là chân lý đạo vàng
Nên nguyền cắt đứt buộc ràng thế gian
Quy y Phật, nhập Tăng đoàn
Hoằng dương Phật pháp quyết tâm trọn đời
Cho nên chỉ ít lâu thôi
A La Hán chứng quả rồi. Lành thay!
Diệt trừ phiền não hết ngay
Thoát ly sinh tử, lại đầy tài năng
Dễ dàng vận dụng thần thông
Để đi hành hóa thong dong khắp vùng.

2-- ĐƯỢC PHẬT THỌ KÝ

Một lần Phật giảng pháp xong
Nghe rồi tôn giả vô cùng cảm thông
Tới trước Phật trải nỗi lòng
Sau khi đảnh lễ, không dùng lời chi
Cúi đầu không phát biểu gì
Hai tay vỗ ngực, hướng về Thế Tôn.
Thế Tôn hiểu ý dạy luôn:
“Phú Lâu Na quả vô ngần công phu
Luôn tinh tấn trong đường tu
Hoằng dương chánh pháp rất ư nhiệt tình
Biện tài thuyết pháp đạt thành
Thầy là bậc nhất, rạng danh đứng đầu!
Trải vô lượng kiếp về sau
Thầy sẽ thành Phật. Đạo màu linh thay
Hiệu là Pháp Minh Như Lai
Thành Phật ngay thế giới này vẻ vang!”
Nghe lời thọ ký rỡ ràng
Thấy điều Phật dự báo tương lai mình
Khiến thầy cảm kích thật tình
Sâu xa xúc động, long lanh lệ trào.
Phật nhìn đại chúng phía sau
Dạy thêm rằng: “Đã từ bao kiếp rồi

Thầy Phú Lâu Na là người
Tuyên dương chánh pháp chẳng ai sánh cùng
Mong sao đại chúng gắng công
Tự mình tiến bộ theo gương của thầy,
Vãng sinh hãy nguyện sau này
Được về quốc độ tràn đầy an vui
Của Phật Pháp Minh Như Lai
Một nơi cực lạc bao người cầu mong!”

3-- LỜI KHUYÊN CHÂN THÀNH

Uy danh Phật cùng chư Tăng
Ngày càng tỏa rộng khắp trong các vùng
Khiến cho nhiều vị quốc vương
Trong lòng cảm hóa xin cùng quy y.
Nhiều vua sau đó tức thì
Khuyên người phạm tội nặng nề khắp nơi:
“Dù cho tội nặng tày trời
Nếu quy y Phật sống đời xuất gia
Lo tu hành thật thiết tha
Theo chân Tăng chúng để mà tu thân
Thời vua xá miễn tội luôn
Dù cho tội nặng muôn phần trước đây!”
Từ bi tâm Phật lâu nay
Như là biển cả chứa đầy nước sông
Trăm nguồn đổ tới mênh mông
Thấy người đau khổ Phật không nỡ đành
Mở lòng cứu độ chúng sinh
Tội nhân được phép trở thành thầy tu.
*
Tăng đoàn từ đó khác xưa
Nhiều phần tử xấu được đưa lẫn vào
Gây nhiều tai tiếng biết bao
Tu hành nghiêm túc có nào thiết tha
Khiến cho thầy Phú Lâu Na
Phải dùng lời thẳng thắn mà nhủ khuyên:

“Chúng ta chớ có được quyên
Giới điều Phật dạy đừng nên phạm vào!
Cái điều tối kỵ đứng đầu
Lòng tin Phật pháp từ lâu vững vàng
Mọi người tin tưởng đạo vàng
Nhớ đừng làm mất dễ dàng uổng đi!
Thế Tôn thời rất từ bi
Muốn ta sám hối diệt đi tội tình
Dù làm lỗi, nếu sửa mình
Sẽ thành trong sạch, sẽ thành người ngay!
Mong huynh đệ kể từ nay
Phát tâm tu học hàng ngày cho chuyên
Chúng ta quyết chí vững bền
Luôn theo giáo huấn mà đem thực hành!”
Phật nghe, khen ngợi nhiệt tình
Cho rằng tôn giả mãi thành công thôi:
“Biết khuyên bảo, khai hóa người
Giảng sư tài giỏi nhất nơi tăng đoàn!”

4-- MUỐN PHẬT PHÁP ĐƯỢC TRUYỀN BÁ KHẮP NHÂN GIAN

Là người cẩn trọng, thâm trầm
Nhưng đi hoằng pháp thầy luôn nhiệt tình
Không lo đến cá nhân mình
Mặc cho lợi hại miễn thành công thôi.
Phú Lâu Na đi khắp nơi
Bồ đề hạt giống thầy thời rắc gieo,
Trên đường hành hóa một chiều
Thầy gặp một số Tỳ kheo tu hành
Ẩn cư trong chốn rừng xanh
Nơi đây tịch mịch, xung quanh vắng người
Nhiệt tâm họ nguội lạnh rồi
Chúng sinh hoá độ thấy thời khó thay
Họ lui vào ở rừng này.
Phú Lâu Na đến chắp tay thưa rằng:

“Nếu Phật pháp dễ hoằng dương
Nếu mà hóa độ dễ dàng chúng sinh
Thời đâu cần kẻ tu hành,
Vì đời tăm tối u minh dãi dầu
Xấu xa, tội lỗi, khổ đau
Ta nên tinh tấn dài lâu giúp người
Chớ nên thối chí buông lơi
Nhớ rằng trách nhiệm của người xuất gia
Là đem chánh pháp trải ra
Giúp nhân gian khỏi xót xa muộn sầu!”
Nhiệt tâm tôn giả dạt dào
Chân tình lời nói đượm bao lòng từ
Các Tỳ kheo đang ẩn cư
Nghe xong xúc động tâm tư vô cùng
Họ bèn hoan hỉ lìa rừng
Theo thầy hăng hái lên đường bôn ba.

5-- THÁI ĐỘ KHI HÀNH HÓA

Bản thân thầy Phú Lâu Na
Mang theo bình bát để mà xin ăn
Vân du hành đạo nhọc nhằn
Thiên sơn vạn thủy bước chân chẳng ngừng

Bao người cảm hóa vô cùng
Xin theo Phật pháp rất đông mỗi ngày.
Việc hoằng pháp thành công này
Khiến Tỳ kheo khác muốn thầy giúp cho
Để mà học điều hay ho,
Khiêm cung thầy nói nguyên do của mình:
“Sự nghiệp hóa độ đạt thành
Những gì cảm hóa chúng sinh ở đời
Là do Đức Phật mà thôi
Cùng bao giáo pháp của Ngài bấy lâu,
Trước khi hành hóa nơi đâu
Tôi thầm cầu Thế Tôn mau hộ trì!”
Mọi người lại hỏi: “Vậy thì
Thấy thầy làm việc không hề nghỉ ngơi
Uống ăn kham khổ quá trời
Làm sao đủ sức độ đời được đây?”
Phú Lâu Na trả lời ngay:
“Mỗi lần hành hóa xong quay trở về
Tôi ngồi hầu Phật và nghe
Những lời dạy bảo muôn bề quý thay
Chính cam lồ pháp vị này
Là nguồn bổ dưỡng tràn đầy cho tôi,

Vầng dương trí tuệ của Ngài
Là người bảo vệ tuyệt vời mãi thôi
Tâm Ngài sống động trong tôi
Tôi nào cảm thấy cuộc đời khổ đâu!”
Nghe xong đại chúng cúi đầu
Chắp tay tán thán trước sau hết lời.

6-- ĐÂU CŨNG LÀ NHÀ

Trên đường hành hóa khắp nơi
Phú Lâu Na mãi sống đời nổi trôi
Thầy chu du tựa mây trời
Khi theo đại lộ, lúc ngồi công viên
Vượt rừng, băng núi liên miên
Bước chân vô định khắp triền non xa,
Dừng đâu nơi đó là nhà
Coi người thân thích chính là chúng sinh,
Không cần tiền bạc riêng mình
Trừ ba chiếc áo, một bình bát thôi
Mang theo tọa cụ để ngồi
Hoàn toàn buông xả, thảnh thơi cõi lòng!
Đôi khi vận động gia công
Cất xây tịnh xá, giảng đường một nơi

Nhưng khi hoàn tất xong xuôi
Thỉnh người tài đức đến nơi trụ trì
Còn thầy lại cất bước đi
Tiếp đường hành hóa rất chi miệt mài.

7-- PHƯƠNG PHÁP GIÁO HÓA

Phú Lâu Na có biệt tài
Khi thầy nói Pháp không ai sánh cùng,
Bao phương pháp Đức Phật dùng
Tùy căn cơ để dạy từng cá nhân
Thầy đều ghi nhớ, thấm nhuần
Rồi đem xử dụng tuyệt luân vô cùng
Bao phương tiện thầy mang dùng
Tùy cơ nói pháp, tiếng lừng vang xa:
- “Bệnh trong cơ thể người ta
Thời y sĩ chữa thật là dễ thay,
Bệng tâm lý thời bó tay
Phải cần phương tiện Phật hay dạy người
Đó là giáo pháp tuyệt vời
‘Giới, Định, Tuệ’ học bao đời khắc ghi
Chữa tâm bệnh ‘Tham, Sân, Si’
Tâm dơ bẩn quét sạch đi kỹ càng!”
Rồi thầy dạy các vị quan:
- “Gặp người phạm tội dễ dàng trị ngay
Nhưng ngăn ngừa tội mới hay
Ngăn người phạm tội khó thay vô vàn
Nếu theo giáo pháp đạo vàng
‘Năm Điều Răn Cấm’ ta mang thực hành
Rồi theo đủ ‘Mười Điều Lành’
Chẳng còn ai phạm tội tình nữa đâu!”
Thầy khuyên dân phải cùng nhau:
- “Tin vào giáo pháp đạo màu Thế Tôn
Phụng sự Tam Bảo luôn luôn
Hết lòng cung kính Sa Môn thuận thành!
Với người bệnh hoạn xung quanh
Tận tâm săn sóc ngọn ngành khổ đau!

Việc chi công ích dài lâu
Hết lòng ủng hộ trước sau nhiệt tình!
Với cha mẹ trong gia đình
Trọn niềm hiếu thuận, chân thành yêu thương!
Với người hàng xóm lân bang
Nêu cao điều tốt. Xấu thường bỏ đi!
Với loài vật nhớ khắc ghi
Không nên giết hại, chớ hề sát sinh!
Đó là ruộng phước tốt lành
Dưỡng nuôi huệ mạng của mình. Chớ quên!”
Chính dùng phương pháp kể trên
Đem ra giáo hóa khắp miền gần xa
Nhờ tài thầy Phú Lâu Na
Người đời tiếp nhận, thiết tha hành trì.

8-- NÓI PHÁP CHO VUA TẦN BÀ SA LA

Phú Lâu Na một ngày kia
Thần thông vận dụng, thầy đi thẳng vào
Trong nhà ngục, nói pháp màu
Cho nhà vua nọ khổ sầu xót xa

Đó là Tần Bà Sa La
Nhà vua nước Ma Kiệt Đà đấy thôi.
Trong hàng vua chúa đương thời
Vua quy y Phật là người đầu tiên
Giờ đây vua bị lụy phiền
Bị con độc ác bắt đem giam cầm
A Xà Thế, con bất nhân
Giam cha, bỏ đói cho dần chết đi
Để lên kế vị ngôi kia.
Phú Lâu Na giảng vua nghe đạo màu:
“Tu hành quan trọng hàng đầu
Tiêu trừ nghiệp báo phải mau đạt thành
Để mà giải thoát thân mình,
Chốn này tù ngục quả tình bủa vây
Tự do bị mất trong đây
Thật ra chính kẻ ở ngay bên ngoài
Thoát đâu trói buộc cuộc đời
Bị tù bởi sắc đẹp rồi lợi danh
Bởi tiền bạc, của hôi tanh
Tham lam, thù hận vây quanh hàng ngày,
Nói chung cõi ta bà này
Là tù vĩ đại lâu nay giam người!

Sợ chi cái chết tới nơi
Điều cần phải sợ: Chết rồi đi đâu?
Có về cảnh giới nhiệm màu?
Có về cực lạc từ lâu ước thầm?
Đại vương hãy cố nhất tâm
A Di Đà Phật niệm luôn lúc này
Nguyện về quốc độ của Ngài
An vui, giải thoát sau ngày vãng sinh!”
Nghe lời giáo hóa tận tình
Trong tù vua thấy tâm mình sáng ra
Và vua Tần Bà Sa La
Theo lời thầy Phú Lâu Na thực hành
Vâng lời Phật dạy tâm thành
Thời gian sau đó an lành vãng sinh.

9-- TINH THẦN GIÁO HÓA

Phú Lâu Na thật nhiệt tình
Thầy luôn thuyết pháp độ sinh khắp vùng
Dù người cung kính hay không
Chẳng nề gian khổ, chẳng mong dễ dàng
Nơi nào hóa độ khó khăn
Thầy càng phấn chí quyết tâm tiến hành
Mong truyền Phật pháp thật nhanh
Gieo hương giải thoát an lành khắp nơi.
An cư năm nọ xong xuôi
Thầy vào bạch Phật ngỏ lời xin đi
Tới hành hóa tại nước kia
Du Lô Na đó rất chi hiểm nghèo
Tính tình dân chúng phần nhiều
Dữ hung, lỗ mãng bao nhiêu đời rồi
Ham gây bạo động mãi thôi.
Ngại ngần Đức Phật thốt lời hỏi ngay:
- “Nếu khi thầy tới chốn này
Người ta mắng chửi thời thầy tính sao?”
Thầy thưa: “Chửi bới thế nào
Người ta còn tốt chứ đâu bạo tàn

Chửi thôi, chưa đánh dã man
Chưa dùng gậy gộc hại th.ân thể mình!”
- “Nếu người ta lại cố tình
Vừa dùng gạch đá đứng quanh ném vào
Rồi dùng gậy đánh thì sao?”
Phú Lâu Na đứng cúi đầu khẽ thưa:
- “Họ còn có chút lòng từ
Chưa dùng dao kiếm kể như tốt rồi
Con còn toàn vẹn thân người
Không thương tích nặng, thấy thời còn may!”
Phật nghe xong hỏi thêm ngay:
- “Nếu mà họ lại ra tay lần này
Dùng dao, dùng kiếm đâm thầy
Gây ra thương tích dẫy đầy thời sao?”
Thầy thưa: “Chẳng đến nỗi nào
Họ còn nhân tính có đâu tuyệt tình
Còn chưa sát hại sinh linh
Con dù thương tích đầy mình đớn đau
Nhưng còn sống, có chết đâu
Còn cơ truyền bá đạo màu giúp dân!”
- “Nếu mà họ quá bất nhân
Ra tay giết hại tấm thân của thầy
Thời thầy suy nghĩ sao đây
Có liều mạng tới chốn này nữa không?

- “Thưa rằng con đã quyết lòng
Dù cho bị giết cũng không ngại ngần
Con cám ơn họ muôn phần
Khi mà họ giết cái thân sắc này
Tức là họ đã ra tay
Giúp con giải thoát vào ngay Niết Bàn!”
Phật nghe khen ngợi vô vàn
Khen thầy nhẫn nhục khó khăn chẳng nề
Quyết tâm, quyết chí, vẹn thề
Tự thân ‘tâm cảnh’ không hề đảo chao
Luôn luôn tĩnh lặng biết bao
Tinh thần giáo hóa ai nào sánh ngang.

10-- CÔNG VIỆC GIÁO HÓA Ở DU LÔ NA

Du Lô Na khắp xóm làng
Phần nhiều săn bắn chẳng màng nghe chi
Sống như tiền sử trước kia
Hoàn toàn lạc hậu, dễ gì độ sinh
“Không văn hóa, thiếu văn minh
Họ nào nghe hiểu lời mình nói ra!”
Nhủ lòng, thầy Phú Lâu Na
Quyết tâm dấn bước thật là hăng say

Đóng vai người lạ tới đây
Không cho họ biết rõ thầy là ai.
Đầu tiên học tiếng nước này
Để mà tiếp xúc được ngay dân làng
Chưa cần truyền bá đạo vàng
Chỉ cần giúp họ việc hàng ngày thôi
Để dần cải thiện cuộc đời
Nếp sinh hoạt cũ lỗi thời bỏ đi.
Đóng vai y sĩ giỏi nghề
Suốt ngày thầy chỉ lo về thuốc thang
Mát tay chữa bệnh giỏi giang
Giúp người miễn phí, không màng thân quen
Chăm lo dân khắp trong miền
Tận tâm săn sóc tạo nên cảm tình.
Dạy thêm trồng trọt cho rành
Khiến hoa màu cũng đạt thành thật nhanh,
Lại còn đảm trách học hành
Đóng vai thầy giáo ở quanh khắp vùng
Dạy dân chữ nghĩa cho thông
Dạy dân lý lẽ đúng trong cuộc đời.
Khi mà dân chúng khá rồi
Cao sâu giáo lý thầy thời dạy thêm.
Dần dà lắm kẻ thân quen
Được thầy giáo hóa trở nên tâm thành

Nhiều người ngộ đạo rất nhanh
Quy y Tam Bảo quả tình đông thay,
Tính ra tại tiểu quốc này
Thầy từng thu nhận nơi đây lắm người
Năm trăm đệ tử giỏi tài
Đồng thời kiến tạo năm mươi ngôi chùa.
Phật từng dạy các giảng sư
Có mười đức tính kể như hàng đầu
Phải luôn thực hiện dài lâu
Phần tôn giả thuộc trước sau nằm lòng
Thầy thi hành tạo ích chung
Dù cho nghịch cảnh cũng không ngại ngần.

11-- KHÔNG ĐỒNG Ý VỚI TRƯỞNG LÃO ĐẠI CA DIẾP

Tới ngày Phật nhập Niết Bàn
Thời tôn giả chẳng được gần một bên
Phương xa thầy chợt nghe tin
Đang đi hành hóa thầy liền quay lui
Về thọ tang mong kịp thời
Dẫn theo đệ tử ít người cùng đi
Nhưng về thời muộn còn chi
Kim thân Đức Phật trà tì đã xong
Thầy buồn, đau xót trong lòng
Tiếc không về kịp để cùng thọ tang.
Được hay mọi người họp bàn
Tỳ kheo đông tới năm trăm tụ về
Tại Kỳ Xà Quật núi kia
Thầy Đại Ca Diếp chủ trì nơi đây
Để cùng kết tập lại ngay
Những ‘Kinh’, ‘Luật’ Phật dạy ngày tháng qua
Nên tôn giả Phú Lâu Na
Vội vàng tới đó để mà họp chung.
Điều nào kết tập đã xong
Thời tôn giả ngỏ ý đồng thuận thôi

Riêng phần giới luật cấm người
“Tám Điều Ăn Uống” cấm nơi tu hành
Thời tôn giả không đồng tình
Cho rằng điều cấm tạo thành khó khăn:
“Gây bất tiện cho Tăng đoàn
Có thời Phật cũng không ngăn cấm rồi
Cũng từng cho phép đấy thôi
Nay mà cấm đoán trái lời Thế Tôn!”
Cuộc tranh luận xảy ra luôn
Mọi người bàn cãi vô cùng xôn xao
Chẳng tìm ra biện pháp nào
Để mà giải quyết cho sao hài hòa

Nên tôn giả Phú Lâu Na
Sau cùng nhượng bộ thông qua việc này
Nói ra ý kiến riêng thầy:
“Từ nay tôi chỉ theo ngay ý mình
Đúng lời Phật dạy tuân hành
Còn riêng phần quý sư huynh xin tùy!”
Nói xong thầy lại ra đi
Lên đường hành hóa hướng về nẻo xa.
*
Về sau thầy Phú Lâu Na
Lúc nào nhập diệt khó mà biết thay,
Tại đâu cũng chẳng ai hay
Khó mà khảo chứng được ngay rõ ràng.
Người ta chỉ biết được rằng
Sau này thầy tiếp tục hoằng hóa thôi
Nhiệt tình đi khắp muôn nơi
Rắc gieo đạo lý giúp người thăng hoa.
Tỳ kheo khắp chốn gần xa
Tôn xưng thầy Phú Lâu Na tuyệt vời
Giảng sư số một giỏi tài
Trong giáo đoàn của Như Lai bấy giờ.​

* Tôn giả La Hầu La
1-- CẬU BÉ HẠNH PHÚC NHẤT THẾ GIAN

Khi chưa được phép xuất gia
Phật là thái tử, không xa cung đình
Ca Tì La Vệ hoàng thành.
Rồi ngài cưới vợ đẹp xinh mặn mà
Công chúa Da Du Đà La
Hai người cùng tuổi, thật là xứng đôi.
Năm ngài mười chín mừng vui
Sinh ra quý tử nối ngôi vua nhà
Đặt tên là La Hầu La
Thế là thái tử xuất gia được rồi
Vì vua cha từng hứa lời
Có con nối dõi vua thời mới ưng.
Thái tử từ giã hoàng cung
Bảy ngày sau lúc sinh xong con mình,
Nhìn công chúa ngủ yên bình
La Hầu La cũng an lành nằm bên
Ngài vào lần chót ngắm nhìn
Rồi lòng cương quyết tạm quên gia đình
Leo lên ngựa trắng đăng trình
Ra đi, rời khỏi hoàng thành, xuất gia.
*
La Hầu La tháng ngày qua
Lớn dần, được mẹ, ông bà thương yêu,
Tình thương của Phật cũng nhiều
Tình cha con đó trải đều muôn nơi
Chan hòa tỏa khắp đất trời
Phật thương tất cả mọi người như nhau

La Hầu La thật vui sao
Thế gian hạnh phúc ai nào sánh ngang.

2-- ĐỨA CON KHÔNG BIẾT MẶT CHA

Phật thành đạo, ngày vẻ vang
Ba năm sau đó lẹ làng trôi qua
Phật từ nước Ma Kiệt Đà
Từ phương Nam trở về nhà thăm quê
Ca Tì La Vệ xưa kia
Ở nơi miền Bắc, đường về khá xa.
Mọi người dòng họ Thích Ca
Cùng vua Tịnh Phạn đều ra cổng thành
Để nghênh đón Phật nhiệt tình,
La Hầu La với mẹ mình không ra.
Công chúa Da Du Đà La
Mười năm vắng bóng sống xa Phật rồi
Dĩ nhiên lòng cũng bồi hồi
Tuy mong gặp Phật nhưng hơi ngại ngần
Cũng vì lễ giáo một phần
Thêm vì tự trọng nên ngăn chân bà
Bà đành nhẫn nại không ra
Lên lầu cao để ngồi mà nhìn thôi,

Cổng hoàng cung thật đông người
Cố hương đón Phật niềm vui chan hòa.
*
Chợt đâu bé La Hầu La
Giờ đây mười tuổi, tìm bà thưa ngay:
“Mẹ ơi! Bà nội mừng thay
Nói con báo mẹ tin này rất vui
Cha con đã trở về rồi
Thế là con được gặp người tại đây!”
Bà ôm con trong vòng tay
Rưng rưng đôi mắt bao ngày nhớ mong
Chỉ tay xuống cổng hoàng cung
Run run giọng khẽ nói cùng với con:
“Hãy nhìn các vị Sa Môn
Người trang nghiêm nhất lại luôn dẫn đầu
Là cha con chứ ai đâu
La Hầu La hỡi, mẹ nào dễ quên!”
Mười năm xa cách triền miên
Biệt tăm biệt tích ngày đêm xa vời,
Mười năm như khói mây trôi
Như chiêm bao giấc mộng đời tái tê,
Lòng bà đã lắng mọi bề
Tựa như mặt nước ao kia lặng lờ

Giờ đây bỗng chốc bất ngờ
Ao như bị đá trên bờ ném ra
Nước lao xao, sóng loang xa
Không còn phẳng lặng như là trước đây.
*
Phật thời quán sát thấy ngay
Hiểu tâm ý những tháng ngày phôi pha
Phật bèn đáp lễ vua cha
Và bao đại chúng thiết tha đón mừng,
Rồi ngài vào chốn nội cung
Dẫn Xá Lợi Phất, đi cùng Mục Liên
Tới thăm lại bà vợ hiền
Sau mười năm chốn cửa thiền chia xa.
Nhìn bà Da Du Đà La
Phật đầy thông cảm, chan hòa xót thương
Lặng yên, dáng vẻ nghiêm trang
Nhưng trong ánh mắt vô vàn từ bi.
Bà thời nhìn Phật đứng kia
Nửa như hờn dỗi, nửa thì yêu thương
Tâm rối loạn, lòng ngổn ngang
Rồi bà bật khóc, đôi hàng lệ rơi,
Phật nhìn, đứng lặng yên thôi
Để cho bà khóc sầu vơi đôi phần.
Khi cơn xúc động lắng dần
Bà bèn bừng ngộ nhận chân ra rằng
Giờ đây có một đường ngăn
Bà cùng Phật không thể khăng khít rồi
Phật nào có thể thốt lời
Ngọt ngào an ủi như người chồng đâu.
Bà bèn lặng lẽ cúi đầu
Lau khô nước mắt thảm sầu vừa sa,
Đưa tay đỡ La Hầu La
Cùng quỳ xuống trước Phật và lặng thinh.
*
Bấy giờ Phật mới trần tình
Nói cùng bà, giọng chân thành thiết tha:

“Chính vì thiếu sót của ta
Khiến nàng bao tháng ngày qua muộn phiền,
Từ vô số kiếp luân phiên
Ta hằng mang một lời nguyền độ sinh
Giờ đây bản nguyện đạt thành
Mong nàng thông cảm, chớ đành trách ta,
Xin đừng ủ dột nét hoa
Hãy vui với nguyện cao xa giúp đời!”
Rồi nhìn con, Phật tiếp lời:
“La Hầu La đã lớn rồi! Mau ghê!”
Lời từ ái, giọng vỗ về
Dạt dào tình cảm, tràn trề lòng thương.
La Hầu La lại ngượng ngùng
Kêu “cha” với Phật nghe chừng khó khăn
Vì người trông tựa ông thần
Từ bi nét mặt, thêm phần trang nghiêm,
Thông minh nên chú hiểu liền
Phật nay nào phải cha riêng của mình,
Phật là một đấng cha lành
Cha chung được khắp chúng sinh tôn sùng.

3-- CHÚ SA DI ĐẦU TIÊN

Thời gian ngụ ở hoàng cung
Phật luôn kề cận sống cùng chư Tăng
Trong bàu không khí nghiêm trang
Không bầy mỹ nữ, không hàng cung nga
Chẳng đàn hát, chẳng múa ca
Rượu chè, yến tiệc tránh xa hết rồi.
Chỉ sau một ít ngày thôi
Phật đưa Tăng chúng xa rời hoàng gia
Tới công viên Ni Câu Đà
Ngoại ô chốn đó thật là thuận duyên.
La Hầu La đã dần quen
Không còn sợ sệt cạnh bên cha mình
Ngây thơ cậu nói tâm tình
Ước mong sống cạnh cha lành mãi thôi.

Thiêng liêng phụ tử tình người
Phật bèn từ ái trả lời con ngay:
“La Hầu La! Cũng có ngày
Ta cho con được ở hoài bên ta!”
Quả tình sau đó không xa
La Hầu La được xuất gia theo ngài.
*
Nguyên vì mẹ cậu lâu nay
Nghĩ về Phật mãi, lòng đầy nhớ mong
Nên bà thường tập cho con
Đã thêm dạn dĩ miệng còn rất lanh.
Một hôm bà bảo con mình:
“Theo cha cho lẹ, xin nhanh gia tài
Đó là tài sản tuyệt vời
Chắc rằng con sẽ được ngài ban cho!”
Trưa hôm ấy từ ngoại ô
Phật và Tăng chúng đi vô trong thành

Sau khi khất thực an lành
Phái đoàn của Phật rời thành đi ra
Về công viên Ni Câu Đà
La Hầu La chợt bất ngờ theo luôn
Thốt lời thỏ thẻ cầu mong:
“Phật ơi! Xin Phật cho con gia tài!”
Con theo chân Phật xa rồi
Nhìn theo mẹ bỗng bồi hồi xót xa
Công chúa Da Du Đà La
Nghĩ con có thể xuất gia mà buồn
Thế là héo hắt tâm hồn
Thương con nước mắt trào tuôn hàng giờ.
*
Phật về tới Ni Câu Đà
Mời thầy Xá Lợi Phất nhờ giúp luôn:
“La Hầu La đang theo chân
Xin tôi tài sản thế nhân thường tình
Tôi không muốn cho con mình
Hưởng phần tài sản mong manh chóng tàn
Gia tài tạm bợ vô ngần
Mà tôi muốn cháu hưởng phần thanh cao
Với chân hạnh phúc dạt dào
Gia tài quý báu của nào sánh ngang
Đó là Phật pháp, đạo vàng
Nhờ thầy nhận cháu vào hàng xuất gia!”
Khi xuống tóc La Hầu La
Phật nhờ người giúp rất là thuận duyên
Nhờ tay thầy Mục Kiền Liên
Mây lành giăng phủ khắp triền non xa.
Rồi Phật dạy La Hầu La
Lạy thầy Xá Lợi Phất và tôn ngay
Làm thầy truyền giới! Lành thay!
La Hầu La kể từ nay dự phần
Theo chân Phật, nhập giáo đoàn
Là người thứ nhất trong hàng Sa Di.
Phật từng nghĩ trước mọi bề
Tương lai ngôi báu sẽ về tay con

La Hầu La tuổi còn non
Làm sao cáng đáng cho tròn chức năng
Trị thiên hạ thật khó khăn
Phật bèn phương tiện rỡ ràng: “xuất gia”.
Công chúa Da Du Đà La
Biết con nay đã xa nhà, hết vui,
Vua Tịnh Phạn cũng vậy thôi
Cũng buồn nhớ cháu nội hoài sớm trưa,
Vua tìm Phật trút tâm tư:
“Trẻ em phải có phép từ phụ huynh
Xuất gia thì mới hợp tình!”
Phật nghe hợp lý, đặt thành lệ chung.

4-- TUỔI TRẺ NGHỊCH NGỢM

La Hầu La xuất gia xong
Tu như người lớn vô cùng khó sao
Lớn lên mười mấy tuổi đầu
Làm thời chăm chỉ, tu nào trang nghiêm
Vui đùa, nghịch ngợm liên miên
Nói lời dối gạt gây phiền mãi thôi.

Khách tìm thăm Phật lắm người
Từ xa lặn lội tới nơi chốn này
Hỏi thăm thời chú chọc ngay
Chỉ đường dối trá ra tay ghẹo người
Phật một nơi, chỉ một nơi
Đường đi qua lại xa vời khó khăn
Khách thăm mệt nhọc vô vàn
Lại không gặp Phật, lỡ làng chuyến đi.
La Hầu La nghịch thoả thuê
Lại thêm bướng bỉnh chẳng hề sợ ai
Không hề nhận lỗi lầm sai
Đây là ảnh hưởng từ thời trẻ thơ
Nhớ hồi vương giả khi xưa:
“Ta là con Phật, cháu Vua trong triều!”
Còn người lớn chỉ một điều
Luôn luôn dễ dãi nuông chiều chú thôi.
Tiếng đồn về chú lần hồi
Đến tai đức Phật khiến ngài bận tâm
Ngài phiền lòng, muốn đích thân
Tới nơi dạy dỗ khuyên răn tức thì.

5-- SỰ RĂN DẠY NGHIÊM KHẮC CỦA PHẬT

Một hôm Phật quyết định đi
Một mình ngài tới, uy nghi vô vàn,
La Hầu La bèn vội vàng
Sửa sang y áo nghiêm trang đón ngài,
Phật vào, nghiêm nghị, khoan thai
Chú đi lấy nước ngài ngồi rửa chân.
Phật lặng yên chẳng nói năng
Rửa chân xong mới nhẹ nhàng hỏi ngay:
“La Hầu La! Chậu rửa đây
Bây giờ uống nước trong này được không?”
“Nước dơ rồi, bạch Thế Tôn
Làm sao uống được, nước còn sạch đâu.”

Phật bèn dạy: “Đúng vậy sao
Con nay cũng giống nước nào khác chi
Con từng thọ giới Sa Di
Nhưng tu tập chẳng chút gì siêng năng
Không làm trong sạch thân tâm
Lời không thận trọng mỗi lần nói ra
Suốt ngày dối gạt người ta
Bày trò trêu ghẹo gần xa muộn phiền,
Tâm con tam độc đảo điên
Tạo ra cáu bẩn triền miên dẫy đầy
Khác gì nước bẩn trong đây
Không ai dùng được nước này nữa đâu!”
La Hầu La đứng cúi đầu
Lặng im, hổ thẹn, dám nào ngước lên
Đến khi nghe lệnh Phật truyền
Nói bưng nước bẩn đổ liền, tiếc chi
Bấy giờ chú mới dám đi
Đổ xong mang chậu không kia vào phòng.
*
Phật liền hỏi: “Chậu trống không
Cơm ăn nếu đựng ở trong chậu này

Thời con ăn được không đây?”
Chú bèn kính cẩn thưa ngay đôi lời
Rằng trong chậu bẩn quá trời
Cơm canh chứa đựng ai người dám ăn.
Phật bèn lên tiếng khuyên răn:
“Con so với chậu muôn phần giống nhau,
Xuất gia thời đã khá lâu
Con không tu tập đạo mầu cho chuyên
Giới, Định, Tuệ chẳng tiến thêm
Còn Thân, Miệng, Ý não phiền mãi gây
Không hề gột sạch lâu nay
Trong tâm cáu bẩn vẫn đầy biết bao
Còn đâu có chỗ trống nào
Thức ăn đạo lý chứa vào được thêm!”
*
Nói xong Phật vẻ trang nghiêm
Đưa chân đá nhẹ chậu liền lăn xa
Rồi ngài hỏi La Hầu La:
“Con e sợ chậu bể ra không nào?”
Chú thưa chậu bẩn, gớm sao
Một đồ vật xấu ai nào quan tâm
Cho dù bể chẳng ai cần
Không ai tiếc chậu rửa chân bẩn này.
Phât nghe xong liền dạy ngay:
“Con không tiếc chậu! Đúng thay vô ngần!
Con nào khác chậu rửa chân
Chẳng ai mến tiếc và cần con đâu
Con tu hành, học đạo mầu
Nhưng không gìn giữ chút nào oai nghi
Cợt đùa, dối trá làm chi
Chỉ mang kết quả xấu về mà thôi
Không ai thương mến nữa rồi
Con đường giác ngộ xa vời cách ngăn
Đến khi lìa cõi dương gian
Vẫn còn mê ám! Vô vàn thảm thương!”

La Hầu La thấy ngượng ngùng
Ăn năn, xấu hổ, thẹn thùng xiết bao
Trong lòng tự hứa về sau
Ra công nỗ lực để mau sửa mình
Âm thầm phát nguyện chân tình
Thân tâm đổi mới mong thành đạt ngay.
Kể từ ngày đó lành thay!
La Hầu La tiến bộ ngày một thêm
Lỗi lầm tuổi trẻ tránh liền
Thành con người mới đáng khen mọi đường.

6-- SA DI ĐƯỢC PHÉP Ở CHUNG PHÒNG VỚI TỲ KHEO

Một ngày quét dọn sân vườn
Quét xong nghe giảng Pháp thường rất lâu
Về phòng mình gần canh thâu
La Hầu La thấy phòng sao có người
Khách tăng trú ngụ mất rồi,
Tăng đoàn quy định mỗi nơi một người,
Chú đành đi chỗ khác thôi
Chạy vào trú ẩn nơi hôi hám này
Cầu tiêu ở kế cận đây
Tránh mưa đang xối xả ngay trên đầu
Tỏ ra nhẫn nhục dài lâu
Ngồi thiền an tịnh có đâu muộn phiền
Giữ tâm ý thật an nhiên
Dù trong hoàn cảnh ban đêm phũ phàng
Sự tiến bộ thật rõ ràng,
Phật hay biết chuyện vội vàng kêu ra:
“Hãy về tịnh thất với ta
Để mà tạm trú cho qua đêm này!”
Phật ra huấn thị từ nay
Sa Di được trú cùng thầy hai đêm.
*
Thầy Xá Lợi Phất thường xuyên
Hay đi hoằng Pháp cho nên vắng nhà

Khiến đệ tử La Hầu La
Không người chăm sóc, lơ là đường tu,
Nay thầy luôn dắt theo trò
Cận kề dạy dỗ mong cho tốt lành.
La Hầu La tiến bộ nhanh
Theo thầy khắp chốn, tu hành rất siêng
Hết nghe Pháp lại ngồi thiền
Độ sinh kinh nghiệm học thêm hàng ngày.

7-- ĐỨC NHẪN NHỤC

Một hôm chú bước theo thầy
Vào thành khất thực gặp tay hoang đàng
Du côn lấy cát dưới mương
Bỏ vào bát chú trên đường đi qua,
Dùng gậy đánh chú xót xa
Khiến cho máu nhỏ giọt ra trên đầu.
Chú căm giận lộ ra mau
Chợt nghe thầy dạy đạo mầu bên tai:

“Phải luôn nhẫn nhục ở đời
Lòng từ phát triển, xa rời hận sân
Thương yêu mọi loại xa gần
Chớ kiêu, chớ hận mỗi lần khen chê!”
Chú nghe, nhịn nhục bước đi
Bị người thóa mạ chẳng hề nổi sân,
Về tu viện chú tịnh tâm.
Phật nghe, khen ngợi, ân cần dạy thêm:
“Thế gian đối nghịch triền miên
Gian ngay, xấu tốt, ác hiền chống nhau
Người tu nhẫn nhục trước sau
Đường tu giải thoát sẽ mau viên thành!”

8-- CON ĐƯỜNG KHAI NGỘ

La Hầu La rất thông minh
Tu hành tinh tấn tiến nhanh rất nhiều
Hai mươi tuổi thọ Tỳ Kheo
Trang nghiêm, đường bệ, nối theo gót thầy
Dụng công tu tập hàng ngày
Giờ đây cung cách phô bày uy nghi.
Nhưng thời gian mãi trôi đi
La Hầu La chẳng ngộ gì được thêm
Vì nguồn “vương giả” chưa quên
Vì tăng đoàn cứ ngợi khen đủ điều
Chú nghe tâng bốc sớm chiều
Hãy còn tuổi trẻ nên nhiều động tâm,
Chú dù tinh tấn bội phần
Vẫn không chứng ngộ, vẫn cần tiến xa.
*
Rồi Đại Đức La Hầu La
Một ngày được Phật chỉ ra con đường:
“Quán rằng sắc ấy vô thường
Thọ, Tưởng, Hành, Thức chẳng vương lại gì,
Thân tâm cũng vậy khác chi
Vô thường vạn vật nhớ ghi nằm lòng!”

Nghe lời Phật dạy vừa xong
Tâm hồn Đại Đức bỗng bừng sáng ra
Tìm nơi vắng vẻ lánh qua
Ngồi trong tư thế như tòa hoa sen
Tập trung tâm ý vững bền
Bao lời Phật dạy quán liền một khi
Quán bất tịnh, quán từ bi
Sạch tâm tham dục, sạch bề hận sân;
Quán thêm trí tuệ sáng ngần
Để mong chuyển hoá các mầm si mê;
Đếm hơi thở nhẹ mọi bề
Cho tâm loạn động tức thì được yên;
Sâu vào đại định, đủ duyên
Thế là dứt sạch não phiền vây quanh
Đạo quả giải thoát tới nhanh
Hoát nhiên đại ngộ đạt thành. Lành thay!
Phật vừa đến, khen ngợi ngay:
“Thầy là đệ tử Như Lai mong cầu
Oai nghi, tế hạnh hàng đầu
Mật hạnh đệ nhất ai đâu sánh cùng!”

9-- NHẬP NIẾT BÀN

Sau khi đã chứng ngộ xong
Địa vị tôn giả ở trong Tăng đoàn
Được đề cao rất vẻ vang
Thêm lời kính mộ của hàng tại gia
Tín đồ khắp chốn gần xa
Cúng dường hoan hỉ thật là thành tâm.
Ngài không lừng lẫy tiếng tăm
Chuyên tu “mật hạnh” âm thầm một nơi:

“Suốt ngày kín tiếng lặng hơi
Giảm phần tiếp xúc với người chung quanh
Chuyện vô ích chẳng tốt lành
Tránh đi không nói, không tranh luận gì
Bao nhiêu giới luật nghiêm trì
Im lìm tu tập rất chi kiên cường.”
Ngoài ra dáng vẻ đường hoàng
Nằm, ngồi, đi đứng, nói năng nhu hòa
Trang nghiêm hình tướng phô ra
Xứng danh bậc nhất thật là “oai nghi.”
Lại thêm ngài mãi khắc ghi
Những điều đức hạnh thực thi nhiệt tình
Dù nhỏ nhặt, miễn tốt lành
Đứng đầu “tế hạnh” vinh danh cũng ngài.
Nói chung suốt cả cuộc đời
Tuy không sôi nổi, bao lời ngợi ca.
*
Và tôn giả La Hầu La
Cuối đời, nhập diệt trước cha mẹ ngài
Khoảng năm mươi mốt tuổi đời.
Mãn phần sớm muộn ai người quan tâm
Mục tiêu quan trọng tối cần
Chính là giác ngộ bản thân của mình!​
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
* Tổ Quy Sơn kể chuyện:

Một người vào rừng bị voi đuổi cắm đầu chạy ... tới một cái giếng cạn. Cây đa trên bờ giếng thả một cái rễ dài trong lòng giếng. Người ấy vội nắm rễ cây đa, định tuột xuống giếng để tránh voi. Nào ngời đáy giếng có ba con rồng đang phun lửa ...

Bốn bên thành giếng có 4 con rắn độc đang le lưỡi nhe nanh. Chỉ còn trông cậy ở sợi day toong teng để tạm sống. thì oái oăm thay, sợi dây bị 2 con chuột: 1 trắng 1 đen thay nhau gặm nhấm. Mạng sống thật mong manh.

Trong lúc bối rồi, người ấy ngửa mặt lên trời. Bỗng năm con ong bay qua, để rớt vài giọt mật. Mải liếm mật ngọt, anh quên hết nguy nan.

* Voi đuổi: vô thường đang bức bách con người đi đến cái chết.
* Rễ đa: mạng sống mong manh của kiếp người.
* Ba con rồng: Do tham + sân + si con người tạo nghiệp ác => đọa vào 3 đường ác: địa ngục; ngạ quỷ; súc sinh.

* Bốn con rắn: thân từ 4 đại hợp thành: đất - nước - gió - lửa; bốn đại hằng bệnh hoạn, chỉ đợi đủ duyên là tan rã.
Vạn pháp do nhân duyên sanh
Cũng do nhân duyên mà diệt​

* Chuột: trắng - ngày; đen - đêm => Ngày đêm đi qua, sinh mạng mòn dần, cái chết sắp tới.
* Năm con ong cho mật: 5 dục ( tiền tài; sắc đẹp; danh vọng; ăn ngon; ngủ nhiều ) => Gặp năm thứ này, con người say đắm, quên hết lo âu nguy hiểm.
 
viết nhiều thế:)) ngại đọc quá:KSV@05:
 
×
Quay lại
Top