Kỹ thuật ảo hóa - các kiểu ảo hóa cơ bản

nang2911

Thành viên
Tham gia
12/10/2017
Bài viết
3
Ảo hóa hệ thống lưu trữ về căn bản là sự mô phỏng, kém chất lượng lập việc lưu trữ từ những thiết bị lưu trữ vật lý. Các đồ vật này mang thể là băng trong khoảng, ổ cứng hay phối hợp cả hai dòng. Việc làm này với lại những ích lợi như việc nâng cao tốc khả năng truy xuất dữ liệu, do việc phân chia các tác vụ đọc, viết trong mạng lưu trữ. Ngoài ra, việc mô phỏng những đồ vật lưu trữ vật lý cho phép tiết kiệm thời gian hơn thay vì phải định vị xem máy chủ nào hoạt động trên ổ cứng nào để truy tìm xuất.

Ảo hóa hệ thống lưu trữ với ba dạng mô hình sau đây:

- Host-based: Trong mô phỏng này, ngăn cách thức giữa lớp ảo hóa và ổ đĩa vật lý là driver điều khiển của những ổ đĩa. Phần mềm ảo hóa sẽ tróc nã xuất tài nguyên (các ổ cứng vật lý) phê duyệt sự điều khiển và truy nã xuất của lớp Driver này.

- Storage-device based: Trong dạng này, phần mềm ảo hóa giao tiếp trực tiếp sở hữu ổ cứng. Ta mang thể xem như đây là một dạng firmware đặc trưng, được cài trực tiếp vào ổ cứng. Dạng này cho phép truy tìm xuất nhanh nhất đến ổ cứng, nhưng cách thiết lập thường khó khăn và phức tạp hơn những mô phỏng khác. Nhà cung cấp ảo hóa được cung ứng cho các Server phê chuẩn 1 thiết bị điều khiển gọi là Primary Storage Controller.

- Network-based: Trong mô hình này, việc ảo hóa sẽ được thực thi trên 1 đồ vật mạng, ở đây mang thể là một vật dụng switch hay 1 máy chủ. Những switch hay máy chủ này kết nối với các trọng tâm lưu trữ (SAN). Trong khoảng các switch hay server này, các vận dụng kết nối vào được giao thiệp mang trung tâm dữ liệu bằng các “ổ cứng” mô hình do switch hay máy chủ tạo ra dựa trên trung tâm dữ liệu thật. Đây cũng là mô hình hay gặp nhất trên thực tiễn.

>>> Xem thêm: bán máy chủ HP ML350 Gen10

hai. Ảo hóa hệ thống mạng

Ảo hóa hệ thống mạng là 1 tiến trình hợp nhất tài nguyên, thiết bị mạng cả phần cứng lẫn phần mềm thành một hệ thống mạng ảo. Sau đấy, những tài nguyên này sẽ được phân chia thành những channel và gắn có 1 máy chủ hoặc một đồ vật nào đó.

với đa dạng bí quyết để thực hiện việc ảo hóa hệ thống mạng. Các bí quyết này tùy thuộc vào những thiết bị tương trợ, nghĩa là những nhà sản xuất trang bị đấy, không những thế còn phụ thuộc vào hạ tầng mạng sẵn có, cũng như nhà cung cấp dịch vụ mạng (ISP).Sau đây chúng tôi sẽ giới thiệu một đôi mô phỏng ảo hóa hệ thống mạng:

- Ảo hóa lớp mạng (Virtualized overlay network): Trong mô phỏng này, rộng rãi hệ thống mạng ảo sẽ cộng tồn tại trên 1 lớp nền tài nguyên sử dụng chung. Những tài nguyên đấy bao gồm những thiết bị mạng như router, switch, những dây truyền dẫn, NIC (network interface card). Việc thiết lập phổ biến hệ thống mạng ảo này sẽ cho phép sự đàm luận am tường giữa những hệ thống mạng khác nhau, sử dụng những giao thức và phương tiện truyền vận tải khác nhau, tỉ dụ như mạng Internet, hệ thống PSTN, hệ thống Voip.

- mô phỏng ảo hóa của Cisco: ấy là phân mô hình ảo hóa ra làm 3 khu vực, mang các chức năng chuyên biệt. Mỗi khu vực sẽ mang các liên kết với các khu vực khác để cung ứng những giải pháp tới tay các bạn một phương pháp thông suốt:

+ Khu vực quản lý truy tìm cập (Access Control): với nhiệm vụ chứng nhận quý khách muốn đăng nhập để sử dụng tài nguyên hệ thống, qua đó sẽ ngăn chặn các truy tìm xuất không hợp thức của người dùng; bên cạnh đó khu vực này còn kiểm tra, xác nhận và chứng nhận việc truy vấn xuất của người dùng trong vào các vùng hoạt động (như là VLan, Access list).

+ Khu vực con đường dẫn (Path Isolation): Nhiệm vụ của khu vực này là duy trì liên lạc phê duyệt tầng Network, chuyên chở liên lạc giữa các vùng khác nhau trong hệ thống. Trong những vùng này tiêu dùng giao thức khác nhau, như MPLs và VRF, vì thế cần 1 cầu nối để liên lạc giữa chúng. Ngoài ra, khu vực này có nhiệm vụ kết liên (maping) giữa các trục đường truyền dẫn với các vùng hoạt động ở 2 khu vực cạnh nó là Access Control và services Edge.

+ Khu vực liên kết với dịch vụ (Services Edge): Tại đây sẽ áp dụng những chính sách phân quyền, cũng như bảo mật ứng mang từng vùng hoạt động cụ thể; song song qua đấy phân phối quyền truy hỏi cập đến dịch vụ cho người mua. Các nhà cung cấp với thể ở dạng san sẻ hay phân tán, tùy thuộc vào môi trường vững mạnh áp dụng và buộc phải của người dung

>>> Xem thêm: HPE ML30 Gen10



3. Ảo hóa ứng dụng

Ảo hóa áp dụng là 1 dạng khoa học ảo hóa khác cho phép chúng ta tách rời mối liên kết giữa áp dụng và hệ điều hành và cho phép cung ứng lại vận dụng thích hợp với nhu cầu user. 1 Ứng dụng được ảo hóa sẽ ko được cài đặt lên máy tính 1 phương pháp bình thường, mặc dầu ở giác độ người dùng, ứng dụng vẫn hoạt động một cách thức bình thường. Việc quản lý việc cập nhật phần mềm phát triển thành thuận tiện hơn, khắc phục sự đụng độ giữa những ứng dụng và việc thử nghiệm sự tương thích của chúng cũng trở nên thuận tiện hơn. Bây giờ đã với hơi nhiều chương trình ảo hóa áp dụng như Citrix XenApp, Microsoft Application Virtualization, VMware ThinApp ... Mang 2 cái công nghệ chủ yếu sau:

- Application Streaming: áp dụng được chia thành phổ thông đoạn mã và được truyền sang máy người tiêu dùng lúc cần tới đoạn mã đó. Những đoạn mã này thường được đóng gói và truyền đi dưới giao thức HTTP, CIFS hoặc RTSP

- Desktop Virtualization/Virtual Desktop Infrastructure (VDI): áp dụng sẽ được cài đặt và chạy trên một máy ảo. 1 Cơ sở vật chất điều hành sẽ tự đông tạo ra những desktop ảo và cung ứng những desktop ảo này đến các đối tượng dùng.

4. Ảo hóa hệ thống máy chủ

Ảo hóa hệ thống máy chủ cho phép ta sở hữu thể chạy rộng rãi máy ảo trên 1 máy chủ vật lý, đem đến phổ biến ích lợi như nâng cao tính di động, thuận lợi thiết lập với các máy chủ ảo, giúp việc điều hành, san sẻ tài nguyên thấp hơn, qu ản lý luồng làm việc phù hợp mang nhu cầu, nâng cao hiệu suất khiến việc của 1 máy chủ vật lý.

Xét về kiến trúc hệ thống, các mô phỏng ảo hóa hệ thống máy chủ mang thể ở hai dạng sau:

- Host-based: Kiến trúc này tiêu dùng một lớp hypervisor chạy trên nền móng hệ điều hành, sử dụng những nhà cung cấp được hệ quản lý cung cấp để phân chia tài nguyên tới những máy ảo. Ta xem hypervisor này là một lớp phần mềm riêng biệt, do vậy các hệ điều hành khách của máy ảo sẽ nằm trên lớp hypervisor rồi tới hệ quản lý của máy chủ và rốt cuộc là hệ thống phần cứng… 1 số hệ thống hypervisor dạng Hosted với thể đề cập đến như VMware Server, VMware Workstation, Microsoft Virtual Server…

- Hypervisor-based: hay còn gọi là bare-metal hypervisor. Trong kiến trúc này, lớp phần mềm hypervisor chạy trực tiếp trên nền móng phần cứng của máy chủ, không phê duyệt bất kì 1 hệ điều hành hay một nền móng nào khác. Qua đó, những hypervisor này sở hữu khả năng điều khiển, kiểm soát phần cứng của máy chủ. Đồng thời, nó cũng mang khả năng quản lý các hệ điều hành chạy trên nó. Đề cập cách thức khác, các hệ quản lý sẽ nằm trên những hypervisor dạng bare-metal rồi tới hệ thống phần cứng. Một số ví dụ về những hệ thống Bare-metal hypervisor như là Oracle VM, VMware ESX Server, IBM's POWER Hypervisor, Microsoft's Hyper-V, Citrix XenServer…

>>> Xem thêm: ThinkSystem SR950
 
×
Quay lại
Top