Kẻ cắp tia chớp (The Lightning Thief)

Miyu - chan

Dưới chân mây, hoa phượng vẫn đang bay
Thành viên thân thiết
Tham gia
31/8/2017
Bài viết
84
Tên tác phẩm: Kẻ cắp tia chớp (The lightning thief)

Tác giả: Rick Riordan

Người đăng: @Miyu - chan, tức Trần Hà Ngọc Anh.

Thể loại: Hành động, phiêu lưu, viễn tưởng.

Nguồn: https://truyenfull.vn/percy-jackson-tap-1-ke-cap-tia-chop/

Tình trạng: Đã hoàn thành

Số chương: 22 chương

Đánh giá truyện theo độ tuổi: K+

Note: Các bạn có thể tìm đọc trọn bộ tiểu thuyết này trên mạng Internet nhé!
 
Chương 1: Tôi trót làm cô giáo dạy Đại số bốc hơi

Nói thật nhé, tôi đâu muốn làm á thần!

Nếu khi đọc sách này, bạn cho rằng một nửa dòng máu chảy trong huyết quản mình thuộc về thần thánh, tôi khuyên bạn hãy đóng sách lại ngay đi. Hãy tin mọi lời dối trá về thân thế của mình từ cha mẹ và sống cuộc đời bình dị như bao người khác.

Mạng á thần như trứng treo đầu đẳng. Đáng sợ lắm! Cái chết đau đớn, kinh khiếp luôn theo sát gót họ gần như mọi lúc mọi nơi.

Nếu bạn là một đứa trẻ bình thường, bạn đọc cuốn sách này vì bạn nghĩ nó là một điều hư cấu, thì thật tuyệt. Tiếp tục đọc nó nhé! Tôi ganh tị với bạn vì bạn có thể giả vờ những chuyện trong cuốn sách này chưa bao giờ xảy ra.

Nếu thấy những gì tả trong sách này giống với mình quá, nếu thấy trực giác, linh tính không chịu ngủ yên, hãy ngừng đọc ngay vì có thể bạn giống chúng tôi. Nếu bạn biết, chẳng chóng thì chày chúng cũng đánh hơi thấy và tìm đến lấy mạng bạn.

Đừng trách tôi không báo trước nhé.

Tên cha sinh mẹ đẻ của tôi là Percy Jackson.

Tôi mười hai tuổi. Vài tháng trước đây, tôi còn là học sinh nội trú tại Học việc Yancy, một trường tư dành cho học sinh cá biệt thuộc khu vực thượng New York.

Tôi có phải là một cậu nhóc “cá biệt” không?

Có, ai cũng biết thế.

Mọi thời điểm trong quãng đời ngắn ngủi và đau khổ của tôi đều chứng minh điều đó. Nhưng mãi đến tháng Năm vừa rồi, mọi chuyện mới bắt đầu tệ hại không chịu nổi. Đó là lúc khối lớp Sáu chúng tôi đi tham quan ở Manhattan. Hai mươi tám nhóc tỳ tâm thần có vấn đề cùng hai giáo viên lên chiếc xe buýt vàng chóe nhắm Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan thẳng tiến. Các mẫu vật trưng bày có từ thời Hy Lạp và La Mã cổ đại là mục đích tham quan của ngày hôm đó.

Phải phải, nghe như sắp bị tra tấn vậy. Hầu hết những chuyến tham quan của Học viện Yancy đều thế cả.

Nhưng hôm nay, thầy Brunner dạy tiếng Latinh sẽ hướng dẫn học trò, thế nên lòng tôi tràn ngập hy vọng.

Thầy giáo tôi trạc tuổi trung niên ngồi xe lăn có gắn động cơ. Tóc thầy thưa mỏng, bộ râu quai nón không chăm chút thường xuyên và thầy thường mặc áo khoác cũ sờn ám mùi cà phê. Nhìn qua chẳng ai bảo thầy có gì thú vị nhưng ngược lại, trong giờ học thầy hay kể chuyện, nói đùa và cho học trò chơi nhiều trò bổ ích. Thầy còn có một bộ sưu tập tuyệt vời toàn vũ khí và áo giáp của người La Mã cổ. Vậy nên chỉ mỗi tiết của thầy là tôi không thấy buồn ngủ.

Tôi hy vọng buổi tham quan này suôn sẻ, hay ít nhất cũng không có sự cố gì xảy đến với tôi.

Nhưng hỡi ôi, đó chỉ là hy vọng hão huyền.

Hình như buổi tham quan hay dã ngoại nào tôi cũng gặp chuyện khóc dở mếu dở. Chẳng hạn, trong chuyến thăm chiến trường Saratoga hồi lớp Năm, tôi gặp tai nạn với khẩu đại bác có từ thời Chiến tranh Cách mạng. Thực lòng thì tôi không cố tình nhắm bắn xe buýt của trường. Nhưng dù thanh minh thế nào đi nữa thì tôi cũng bị đuổi học. Còn nữa, hồi lớp Bốn, khi chúng tôi được đến phía sau hậu trường của hồ cá mập ở Thế giới Đại Dương, tôi chẳng may chạm vào cần đòn bẩy trên lối đi hẹp khiến cả lớp phải tập bơi bất đắc dĩ. Chưa hết, trước đó tôi còn… Mà thôi, chắc các bạn đoán ra cả rồi.

Nhưng lần tham quan này, tôi tự hứa với lòng nhất định mình sẽ ngoan.

Suốt quãng đường xuống trung tâm, tôi nghiến răng chịu cảnh nhỏ Nancy Bobofit - mặt đầy tàn nhang, tính hay táy máy - cầm bánh kẹp bơ đậu phộng rưới xốt cà chốc chốc lại đập vào đầu Grover, bạn thân nhất của tôi.

Grover là con mồi ngon xơi của những đứa ngỗ ngược như Nancy. Thằng bạn chí cốt của tôi gầy nhẳng, lúc buồn bực chỉ biết khóc. Chắc chắn nó đúp vài năm rồi vì trong khối lớp Sáu, chỉ mình nó có mụn trứng cá và vài cọng râu thưa. Grover là trẻ tật nguyền. Nó có giấy được miễn học thể dục cả đời vì bị bệnh gì đó ảnh hưởng đến cơ chân. Dáng đi của nó vẹo vọ trông rất tội nghiệp, như thể mỗi bước chân đều làm nó đau đớn. Tuy nhiên, chớ thấy vậy mà tưởng lầm. Mỗi khi căn-tin có món bánh bột ngô nhân thịt, nhìn Grover chạy đua đến đó thì cứ gọi là lác mắt nhé.

Quay lại chuyến tham quan để đời hôm ấy. Nancy Bobofit điềm nhiên đều đặn ném mẩu vụn véo từ cái bánh kẹp vào mái tóc nâu xoăn tít của Grover. Chỉ lát sau, đầu nó dính chi chít đầy mẩu bánh nhỏ. Nhỏ Nancy biết tôi không làm gì được nó vì tôi đang trong thời gian bị theo dõi chặt chẽ bởi từng mắc lỗi trước đó. Trước lúc đi, thầy hiệu trưởng đe rằng tôi sẽ bị đuổi học thẳng thừng nếu gây bất cứ chuyện gì không tốt, làm mọi người xấu hổ hoặc đơn giản chỉ là chọc cười ai đó trong chuyến đi này.

Tôi lẩm bẩm:

- Tớ sẽ lấy mạng con nhỏ cho coi.

Grover cố trấn tĩnh:

- Không sao đâu mà. Tớ thích bơ đậu phộng.

Nó lanh lẹ né mẩu bánh từ tay Nancy vừa bay tới.

- Thế này thì quá lắm.

Tôi đã chực đứng dậy nhưng bị Grover kéo xuống ghế, đoạn nhắc:

- Đang trong thời gian quản chế, chắc cậu biết nếu có xô xát, ai là kẻ phải giơ đầu chịu báng rồi đấy!

Giờ ngẫm lại, tôi ước lần ấy mình hạ đo ván Nancy luôn cho xong. Bị cấm túc trong trường sau giờ học không nhằm nhò gì so với mối họa tôi sắp tự rước vào thân.

Thầy Brunner dẫn đầu đoàn tham quan.

Điều khiển xe lăn đi trước, thầy đưa chúng tôi qua mấy phòng trưng bày rộng thênh thang, đi qua mấy bức tượng tạc từ đá cẩm thạch và dãy tủ kính bày đầy đồ cổ bằng chất liệu gốm màu da cam pha màu đen.

Tôi cực kỳ ngạc nhiên: suốt hai ba ngàn năm qua, sao đồ gốm vẫn chưa bị bể nhỉ?!

Thầy Brunner gọi chúng tôi đến vây quanh cây cột đá cao gần bốn mét. Đầu cột có con nhân sư lớn và kể rằng nó vốn là bia của ngôi mộ cổ, nơi an nghỉ của một bé gái trạc tuổi chúng tôi. Thầy còn kể tỉ mỉ về những hình chạm khắc hai bên cột. Chuyện của thầy khá hay. Tôi muốn nghe lắm nhưng mấy bạn đứng gần cứ nói chuyện riêng hoài. Mỗi lần tôi bực mình quát bảo họ im miệng, cô Dodds đứng canh chừng gần đó lại lừ mắt cảnh cáo tôi.

Cô Dodds người nhỏ thó quê ở Georgia, dạy môn Toán. Dù đã năm mươi tuổi nhưng cô luôn mặc áo da màu đen. Cô nanh nọc và đanh đá, trông như lúc nào cũng sẵn sàng cưỡi xe Harley phân khối lớn đâm thẳng vào tủ đựng đồ của kẻ nào mà cô không ưa. Cô mới dạy chúng tôi được vài tháng do thầy Toán cũ của chúng tôi bị suy nhược thần kinh.

Ngay hôm đầu nhận lớp, cô Dodds đã quý Nancy và coi tôi là tên vô lại. Mỗi khi cô xỉa ngón trỏ cong như móc câu về phía tôi với giọng ngọt như mía lùi: “Nghe này cưng…”, y như rằng tôi bị phạt ở lại sau giờ học cả tháng.

Có lần, sau khi bị cô bắt ngồi đến tận nửa đêm gôm hết phần bài giải trong chồng sách bài tập toàn cũ, tôi bảo Grover: “Chắc cô Dodds không phải là người”. Nó nghiêm trang nhìn tôi, bảo:

- Cậu hoàn toàn đúng.

Thầy Brunner vẫn đang nói về nghệ thuật thể hiện trong cách tổ chức ma chay của người Hy Lạp cổ.

Giọt nước tràn ly đúng lúc Nancy cười khúc khích, nói câu gì đó về hình chạm người thanh niên trần truồng trên cột đá. Không chịu nổi, tôi quay xuống:

- Có câm mồm không thì bảo?

Tôi không chủ tâm quát to như thế.

Cả lớp cười ồ. Thầy Brunner ngừng kể, nói với tôi:

- Trò Jackson vừa nhận xét gì thế?

Mặt tôi đỏ rần:

- Thưa thầy, không ạ.

Thầy Brunner chỉ bức tranh khắc trên cột:

- Em thử trình bày nội dung bức tranh này xem.

Nhìn bức điêu khắc, tôi mừng rơn vì biết khá rõ:

- Có phải Kronos đang nuốt các con vào bụng không ạ?

Rõ ràng thầy Brunner chưa thỏa mãn với câu trả lời ấy:

- Phải. Và ông ta đã làm thế vì…

Tôi cố moi óc nhớ bài:

- Vì… thần Kronos là chúa tể của các vị thần và…

- Các vị thần nào?

Tôi nói chữa:

- À không, người khổng lồ Titan. Kronos không tin các con, vốn là các vị thần. Thế nên ông ta nuốt sống các con mình. Đúng không ạ? Nhưng vợ Kronos đã tráo thần Dớt, lúc ấy là hài nhi, bằng một hòn đá rồi giấu con đi. Sau này, thần Dớt khôn lớn đã lừa cha để ông ói ra anh chị em mình…

Đám con gái đứng sau tôi kêu lên:

- Eo ôi!

- … Và thế là xảy ra cuộc chiến lớn, một bên là các vị thần, bên kia là người khổng lồ Titan. Cuối cùng, các vị thần đã chiến thắng.

Có tiếng cười khúc khích trong đám học trò.

Đứng sau lưng tôi, Nancy rỉ tai bạn nó:

- Học cho lắm cũng có mài kiến thức ra ăn được đâu. Sau này đi xin việc làm, chẳng ai yêu cầu: “Xin hãy giải thích tại sao Kronos lại nuốt các con vào bụng” cả!

Thầy Brunner hỏi:

- Trò Nancy Bobofit vừa có ý hay. Tôi xin diễn giải thành câu hỏi để trò Jackson giải thích nhé: Chuyện em vừa kể áp dụng vào thực tiễn như thế nào?

Grover thì thầm:

- Dính chưởng.

Nancy rít lên, mặt nó còn đỏ hơn cả mái tóc đỏ rực trên đầu:

- Câm ngay.

Ít nhất Nancy cũng bị bắt lỗi. Trong trường chỉ mình thầy Brunner luôn phát hiện được những điều bậy bạ mà nó phát ra. Tai thầy chẳng khác dàn ra-đa hiện đại.

Ngẫm nghĩ câu hỏi một lát, tôi nhún vai:

- Thưa thầy, em không biết ạ.

Thầy Brunner có vẻ thất vọng:

- Được rồi. Chuyện này khuyên con người ta không nên cả tin. Thần Dớt cho cha uống rượu pha mù tạt khiến ông nôn ra năm người con của mình vốn là các vị thần bất tử. Họ vẫn sống và trưởng thành ngay trong bụng người khổng lồ Kronos. Các vị thần đánh bại cha, dùng ngay liềm cắt cỏ của Kronos băm ông thành trăm ngàn mảnh nhỏ và rải xuống ngục Tartarus, phần tận cùng của địa ngục. Tôi biết các em mừng vì đã đến giờ ăn trưa. Phiền cô Dodds đưa các em ra ngoài nhé?

Cả lớp tản ra. Đám con gái ôm bụng, còn bọn con trai xô đẩy nhau cười đùa ầm ĩ. Grover và tôi dợm quay ra cửa thì nghe thầy Brunner gọi giật lại:

- Trò Jackson.

Biết ngay mà.

Tôi bảo Grover đi tiếp, đoạn quay lại hỏi:

- Dạ, thầy bảo gì em ạ?

Ánh mắt của thầy thật khó quên. Cặp mắt nâu luôn tập trung nhìn chăm chú ấy hình như đã cả ngàn tuổi và nhìn thấu sự đời.

- Trò phải học cách trả lời các câu hỏi thầy đưa ra chứ!

- Về người khổng lồ ư, thưa thầy?

- Về thực tiễn và cách áp dụng những kiến thức đã học vào đời sống thực tế.

- À, ra thế.

- Thông tin thầy cung cấp vô cùng quan trọng. Thầy mong em hiểu tầm quan trọng lớn lao của nó. Thầy chỉ muốn có được các câu trả lời tốt nhất từ em. Hãy nhớ lấy điều đó, Percy Jackson ạ.

Tôi chạnh lòng. Sao lúc nào thầy cũng thúc ép tôi thế ?!

Phải công nhận những ngày thi môn học của thầy vui cực kỳ. Khi đó, thầy Brunner mặc áo giáp của người La Mã cổ và thét vang: “Nhìn đây”. Tay cầm kiếm chỉ hộp phấn, thầy thách các trò chạy lên bảng, viết tên bất kỳ nhân vật huyền thoại nào của Hy Lạp và La Mã cổ từng được học, kể tên cha mẹ họ và vị thần mà họ thờ phượng. Nhưng khổ nỗi thầy kỳ vọng tôi phải học hành bằng bạn bằng bè, dù biết tôi mắc bệnh khó đọc và chứng mất tập trung. Cả đời tôi chỉ nhận toàn điểm C trở xuống. Không – thầy không chỉ kỳ vọng tôi phải học hành bằng bạn bằng bè. Thầy muốn tôi phải giỏi hơn nữa cơ. Nhớ cả đống tên người và thông tin về họ đã khó, huống hồ thầy còn đòi tôi phải đánh vần cho đúng từng cái tên.

Tôi lí nhí hứa sẽ cố gắng nhiều hơn nữa. Nhưng thầy Brunner chỉ buồn bã nhìn mãi bia đá như thể thầy đang dự đám tang người con gái nọ.

Lát sau, thầy bảo tôi ra ngoài ăn trưa cho kịp.

Cả lớp tụ tập trên bậc tam cấp của viện bảo tàng ngắm dòng người đi bộ tấp nập trên Đại lộ Số Năm.

Trên trời, một cơn dông lớn dữ dội đang kéo đến. chưa bao giờ tôi thấy đám mây to, đen kịt như thế trên bầu trời thành phố. Không biết có phải tại Trái đất đang nóng lên hay không mà từ Giáng sinh đến giờ, thời tiết khắp bang New York này kỳ lạ lắm: nào bão tuyết khốc liệt, nào lụt lội ghê gớm, nào cháy rừng do sét đánh. Lần này nếu có bão nhiệt đới xuất hiện, tôi cũng không ngạc nhiên.

Hình như không ai để ý đến thời tiết thì phải. Góc kia có mấy thằng con trai đang vãi mẩu bánh cho chim bồ câu ăn. Ở góc này, Nancy đang tìm cách móc túi một bà qua đường và tất nhiên cô Dodds không hề hay biết gì.

Tôi và Grover tách khỏi đám đông và tìm chỗ ngồi trên thành hồ dưới chân đài phun nước. Biết đâu thấy vậy, người qua đường sẽ tưởng hai đứa tôi không phải học sinh của cái trường toàn bọn học dốt, cá biệt mà các trường khác không nhận nên mới dồn cả vào đây.

Grover hỏi:

- Thầy phạt cậu à?

- Không. Đời nào thầy Brunner phạt tớ. Lắm lúc tớ chỉ mong thầy đừng quan tâm tớ quá thế. Tớ đâu phải thiên tài.

Grover im lặng một lúc lâu. Cứ tưởng nó sắp nhận xét một câu thật sâu sắc hay triết lý cao xa để an ủi tôi thì nó lại bảo:

- Tớ xin cậu quả táo có được không?

Tôi đắng hết cả miệng, chẳng thiết ăn bèn cho nó.

Ngắm dòng xe cộ chạy xuống phía cuối Đại lộ Số Năm, tôi nhớ căn hộ của mẹ chỉ cách đây một quãng. Từ Giáng sinh đến giờ chưa gặp được mẹ, giờ tôi chỉ chực nhảy ngay lên taxi về thẳng nhà. Mẹ sẽ ôm chầm lấy tôi, mừng rỡ vì được gặp con nhưng đồng thời bà sẽ thất vọng cho coi. Mẹ sẽ gửi tôi trở lại Học viện Yancy, với lời dặn dò tôi phải cố gắng cho dù tôi đã chuyển đến sáu ngôi trường trong vòng sáu năm[1] và chắc hẳn lần này cũng sẽ bị đuổi học nữa cho coi. Ánh mắt buồn rười rượi của mẹ chắc sẽ làm tôi quỵ mất.

Thầy Brunner ngồi trong xe lăn đậu phía dưới chân dốc dành cho người tàn tật. Thầy vừa đọc tiểu thuyết vừa ăn cần tây. Lưng ghế của thầy có gắn chiếc dù đỏ khiến nhìn từ xa, trông xe lăn giống bàn cà phê di động.

Vừa giở gói giấy bánh kẹp định ăn, tôi đã thấy Nancy Bobofit dẫn mấy đứa bạn xấu ma chê quỷ hờn đến đứng ngay trước mặt. Chắc nó đã chán móc túi khách du lịch nên đến đây gây sự. Con nhỏ ném phần ăn trưa còn lại vào người Grover:

- Ối, chỉ lỡ tay chứ không cố ý đâu.

Nó quay sang tôi cười phô hàm răng vẩu. Tàn nhang trên mặt nó màu vàng da cam, trông như ai vừa xịt sơn đầy mặt nó vậy.

Tôi cố không nổi nóng. Nhân viên tư vấn tâm lý của trường dặn tôi cả triệu lần rằng: “Nếu gặp chuyện chướng tai gai mắt, hãy đếm đến mười và cố tự chủ”. Nhưng lúc này tôi giận quá nên không nhớ được gì. Hai tai tôi lùng bùng như có ai đánh trống trận bên trong.
Tôi không nhớ là đã chạm vào người Nancy, chỉ thấy loáng cái nó đã ngồi bệt trong hồ nước, hét vang:

- PERCY ĐẨY EM NGÃ.

Không biết từ đâu, cô Dodds đã ở sát ngay cạnh hai thằng tôi.

Có vài đứa học trò thì thào:

- Cậu có thấy không…

- … nước hồ này kỳ quá…

- … hình như nước dâng lên lôi tuột con nhỏ Nancy…

Tôi không hiểu bọn nó nói gì, chỉ biết tai họa lại sắp giáng xuống đầu mình.

Ngay sau khi ngó từ đầu đến chân cô trò cưng, biết Nancy không hề hấn gì và hứa sẽ mua cho nó áo phông của viện bảo tàng ở quầy lưu niệm, bla bla bla, cô Dodds quay ngay sang tôi. Ngọn lửa đắc thắng bừng lên trong mắt cô như thể tôi vừa làm một chuyện cô đã chờ xem suốt mùa hè.

- Nghe này, cưng…

Tôi lúng búng:

- Em biết rồi. Một tháng gôm sách bài tập ạ?

Đó không phải điều cô Dodds muốn nghe.

- Đi theo tôi.

Grover la lên:

- Khoan đã. Lỗi tại em. Chính em đẩy bạn Nancy ạ.

Tôi trố mắt ngạc nhiên nhìn nó. Thật không thể tin nó dám bao che cho tôi. Grover vốn sợ cô Dodds như sợ cọp cơ mà.

Cô Dodds trừng mắt nhìn khiến cằm nó run bần bật.

- Cậu Underwood, tôi lại không nghĩ như vậy.

- Nhưng mà…

- Em ở nguyên đó.

Grover tuyệt vọng nhìn tôi. Tôi bảo nó:

- Không sao đâu. Cảm ơn cậu vì đã cố cứu tớ.

Cô Dodds quát lớn:

- Trò Percy, đi nào.

Nancy Bobofit trề môi đắc thắng.

Tôi nhìn nó với ánh mắt lát-nữa-mày-sẽ-biết-tay-tao. Đẩy nó ngã vào hồ nước được thì có bị rắc rối chút đỉnh cũng đáng. Ước gì tôi nhớ được động tác xô mạnh Nancy xuống nước khi nãy.

Tôi quay lại nhìn cô Dodds, nhưng cô ấy đã không ở đó. Cô ấy đang đứng ở lối vào viện bảo tàng, ở những bậc thang trên cùng, đang kiên nhẫn chờ tôi đi đến.

Sao cô ấy đi đến đó nhanh như vậy nhỉ?

ch.uyện ấy thường hay xảy đến với tôi. Chắc thi thoảng não tôi lại ngủ quên. Ngay sau đó, tôi biết mình vừa bỏ lỡ một điều gì đó, như thể một mảnh ghép của trò chơi xếp hình vừa tan vào hư không, để mặc tôi đứng đó nhìn trân vào chỗ trống. Nhân viên tư vấn tâm lý của trường bảo đó một phần là do chứng mất tập trung do hiếu động thái quá: não tôi nhận thức sai về sự vật hiện tượng bên ngoài.

Thực lòng tôi cũng không chắc lắm.

Tôi đi theo cô Dodds.

Đi được nửa bậc thang, tôi ngoái lại nhìn Grover. Mặt tái nhợt, nó hết ngó tôi lại quay sang cầu cứu thầy Brunner. Hình như nó muốn báo cho thầy biết chuyện nhưng thầy đang đắm mình vào cuốn tiểu thuyết trên tay, không để ý gì đến xung quanh.

Tôi quay đầu lại. Cô Dodds một lần nữa lại biến mất. Bây giờ cô ấy lại đang ở trong viện bảo tàng, đứng phía cuối sảnh ra vào, đang vẫy tay giục tôi khẩn trương tiến vào.

Tôi bụng bảo dạ: “Sẽ không có chuyện gì đâu. Chắc cô giáo ép mình đến quầy lưu niệm mua áo phông cho Nancy thôi”.

Nhưng rõ ràng tôi đoán sai bét.

Tôi theo cô vào sâu trong viện bảo tàng. Khi tôi bắt kịp cô, chúng tôi đã trở lại khu trưng bày mẫu vật thời La Mã, Hy Lạp cổ đại.

Ngoài chúng tôi ra, phòng trưng bày rộng thênh thang không một bóng người.

Cô Dodds đứng khoanh tay cạnh cây trụ đá lớn thờ các vị thần trong thần thoại Hy Lạp. Từ họng cô phát ra tiếng kêu lạ tai, nghe như tiếng gầm gừ.

Dù không có tiếng ấy, hồn vía tôi đã lên mây cả. Chỉ một mình đối mặt với thầy cô đã sợ rồi, đối mặt với cô Dodds đáng sợ gấp nghìn lần. Ánh mắt cô nhìn trụ đá không bình thường, như thể cô chỉ muốn nghiền nó ra cám.

- Cậu mang lại rắc rối cho chúng tôi.

Tôi cố giữ thân bằng cách chiều theo ý cô:

- Dạ, cô dạy phải.

Cô Dodds kéo mạnh tay áo khoác da màu đen:

- Cậu tưởng lần này tôi để yên sao?

Ánh mắt cô còn hơn cả giận dữ. Nó trở nên độc ác vô song.

Tôi hốt hoảng nghĩ thầm: “Dù thế nào thì cô Dodds cũng là cô giáo mà. Chẳng lẽ cô ấy nỡ h.ãm hại mình?”

- Thưa cô, em sẽ cố gắng hơn nữa ạ.

Có tiếng sấm làm rung chuyển cả tòa nhà.

- Này Percy Jackson, ngươi tưởng qua mắt được bọn ta sao? Chẳng chóng thì chày, bọn ta cũng tìm được ngươi. Nếu tự thú, ngươi sẽ bớt đau đớn nhiều đấy.

Tôi chẳng hiểu cô đang nói gì.

Tôi chỉ lo thầy cô tìm thấy đống kẹo tôi giấu trong phòng ở ký túc xá để thỉnh thoảng lén bán cho các bạn. Hoặc có lẽ họ biết tôi tải bài luận viết về Tom Sawyer trên mạng đem nộp mà không hề đọc chữ nào trong sách và giờ tính trừ phăng điểm của bài luận ấy. Hoặc tệ hơn, họ sẽ bắt tôi phải đọc cuốn truyện dày cộm đó.

Cô Dodds rít lên:

- Thế nào hả?

- Thưa cô, em không…

- Ta hết kiên nhẫn với ngươi rồi.

Thế rồi, một chuyện quái đản nhất trên đời xảy đến. Chắc đầu óc tôi có vấn đề rồi.

Cô Dodds bắt đầu thay hình đổi dạng.

Mắt cô đỏ rực như lò than nướng thịt ngoài trời, ngón tay vươn dài biến thành móng vuốt nhọn hoắt. Cô rít lên. Ý tôi là không phải rít giống người đang tức giận, mà như rắn hổ mang bành rít vậy. Áo khoác trên người cô tan chảy biến thành đôi cánh lớn có màng da dày.

Cô Dodds không còn là người nữa rồi. Cô biến thành mụ phù thủy nhăn nheo có cánh dơi, móng vuốt sắc nhọn và miệng đầy răng nhọn vàng khè và sắp sửa xé tôi thành từng mảnh nhỏ.

Sau đó, cơn ảo giác tiến triển quái dị hơn nữa.

Thầy Brunner một phút trước đó còn ngoài cổng viện bảo tàng giờ đã xuất hiện ngay cửa phòng trưng bày, tay giơ cao cây viết.

Vừa tung bút lên cao, thầy vừa hô to:

- Bắt lấy, Percy!

Lập tức, cô Dodds lăn xả vào tôi.

Hoảng hốt kêu to, tôi né sang một bên chỉ kịp nghe tiếng móng vuốt vụt trượt nghe vun vút ngay bên tai. Tôi chộp cây bút bi trên không trung nhưng khi chạm tay tôi, nó liến biến thành cây kiếm. Đó chính là cây kiếm bằng đồng mà thầy Brunner thường dùng trong những ngày thi.

Mắt long lên tàn độc, cô Dodds phóng vọt về phía tôi.

Đầu gối tôi bủn rủn, hai tay run bắn suýt làm rơi thanh kiếm.

Cô Dodds gầm lên:

- Cho mày chết này.

Dứt lời, cô lao thẳng vào tôi.

Cơn kinh hoàng hoàn toàn chế ngự tôi. Tôi chỉ làm đúng theo bản năng là vung kiếm lên.

Lưỡi kiếm sắc lẻm chém xả vai và xuyên qua người cô như thể thân xác cô làm từ nước.

Cô Dodds như lâu đài cát đặt ngay trước quạt công suất cực mạnh. Người cô nổ tung, biến thành bột màu vàng nghệ rồi tan biến ngay trước khi kịp rơi xuống. Dấu vết chẳng còn gì ngoài mùi trứng thối, tiếng kêu giãy chết và âm khí lạnh buốt. Tôi cảm tưởng cặp mắt vằn đỏ vẫn còn đâu đó trên cao đang trừng trừng nhìn tôi.

Chỉ còn mình tôi trơ trọi trong phòng trưng bày trống trải, quạnh quẽ.

Trong tay tôi có cây bút bi nhỏ.

Thầy Brunner biến mất. Ngoài tôi ra, xung quanh không còn ai khác.

Tay tôi run bắn. Chắc chắn đồ ăn trong bữa trưa của tôi bị nhiễm nấm gây ảo giác mất rồi.

Chẳng lẽ từ đầu đến cuối là do tôi tưởng tưởng ra sao?

Tôi trở ra phía ngoài.

Trời bắt đầu mưa.

Vẫn ngồi bên đài phun nước, Grover lấy sơ đồ viện bảo tàng che đầu cho khỏi ướt. Nancy Bobofit ướt như chuột lột sau khi vùng vẫy dưới hồ nước giờ vẫn đứng đó càu nhàu với mấy đứa bạn xấu ma chê quỷ hờn của nó. Vừa thấy tôi, nó bảo:

- Tao mong cô Kerr đánh cho mày tướp mông ra.

Tôi ngạc nhiên:

- Ai cơ?

- Thằng đần, cô giáo chứ còn ai.

Tôi chớp mắt lia lia. Trường tôi có cô giáo nào tên Kerr đâu nhỉ? Tôi hỏi Nancy rằng nó vừa nói nhăng nói cuội gì thế.

Nó tròn mắt nhìn tôi, tỏ vẻ chán nản, sau đó chẳng thèm trả lời câu hỏi của tôi.

Tôi hỏi Grover có thấy cô Dodds đâu không. Nó bảo:

- Ai cơ?

Tuy nhiên, nó hơi ngập ngừng và không dám nhìn thẳng tôi. Tưởng nó chòng ghẹo mình, tôi bảo:

- Đừng đùa nữa. Tớ hỏi nghiêm túc đấy.

Trên trời cao, tiếng sấm nổ rền.

Tôi thấy thầy Brunner ngồi bên trên bờ dốc dành cho người tàn tật, bên dưới cây dù màu đỏ. Thầy cắm cúi đọc sách như thể chưa hề nhúc nhích từ đầu buổi đến giờ.

Thấy tôi đến bên, thầy ngơ ngác nhìn lên:

- À, có phải cây bút của thầy không? Jackson này, lần sau đi học nhớ mang theo dụng cụ học tập nhé.

Mãi đến lúc thầy giật bút khỏi tay mình, tôi vẫn chưa nhận ra là mình đang cầm nó.

Tôi rụt rè:

- Thưa thầy, cô Dodds đâu rồi ạ?

Thầy mở to mắt nhìn tôi, vẻ không hiểu:

- Cô Dodds nào?

- Cô giáo đi cùng bọn em sáng nay ấy ạ. Cô Dodds dạy toán ấy.

Thầy nhíu mày ngồi thẳng lưng, nét mặt thoáng lo âu:

- Percy này, đoàn tham quan hôm nay không có cô Dodds nào cả. Còn nữa, thầy biết rõ mười mươi Học viện Yancy ta không có nữ giáo viên nào tên Dodds hết. Em có bị làm sao không vậy?
 
Chương 2: Ba bà già đan tất

Tôi thường gặp nhiều chuyện quái đản, nhưng thường thì cảm giác lạ lẫm qua nhanh, chẳng mấy chốc tôi không còn nhớ gì nữa. Nếu có ảo giác hai mươi tư giờ một ngày, bảy ngày một tuần, chắc tôi sẽ không chịu nổi.

Suốt năm học ấy, hình như cả trường cố tình hùa nhau đùa tôi thì phải. Họ tỉnh bơ bảo rằng cô Kerr, cô giáo tóc vàng xinh đẹp, người tôi chưa bao giờ gặp cho đến lúc cô lên xe buýt vào cuối buổi tham quan là cô giáo dạy môn đại số từ hồi Giáng sinh đến giờ.

Thỉnh thoảng, vì muốn bắt quả tang bạn bè nói dối, tôi vờ vô tình hỏi về cô Dodds nhưng họ chỉ trố mắt nhìn lại như thể tôi bị lẩn thẩn vậy.

Vì thế tôi gần như tin lời họ rằng cô Dodds chưa bao giờ có mặt trên đời.

Nhưng chỉ gần như thôi.

Duy chỉ có Grover không lừa được tôi. Khi nghe tôi nhắc cô Dodds, nó ngần ngừ giây lát rồi mới bảo không có cô giáo nào tên như vậy. Nhưng tôi biết nó nói dối.

Rõ ràng có chuyện gì đó không ổn. Lúc ở bảo tàng nhất định có chuyện gì đó bất thường xảy ra.

Ban ngày, tôi không có nhiều thời gian nghĩ đến ch.uyện ấy. Nhưng ban đêm, lắm lúc tôi giật mình toát mồ hôi lạnh choàng tỉnh từ giấc mơ có hình ảnh cô Dodds với móng vuốt sắc nhọn và cánh dơi to tướng.

Thời tiết tiếp tục diễn biến bất thường khiến tâm trạng tôi không sao vui lên được. Một đêm một cơn bão lớn đã quét sạch các cửa sổ ở ký túc xá nơi tôi đang ở. Mấy ngày sau, đài loan tin vòi rồng lớn chưa từng thấy xuất hiện ở thung lũng Hudson và tiếp đất cách Học viện Yancy có mười lăm dặm. Một trong những hoạt động hiện tại của môn học lịch sử là đếm số lượng rơi xuống bất thường của các loại máy bay nhỏ do các cơn gió giật bất ngờ gây nên ở khu vực Đại Tây Dương trong năm đó.

Từ đó bắt đầu quãng thời gian tôi luôn vô cớ cáu kỉnh và khó chịu, đồng thời lực học đuối dần, điểm D dần thay thế bằng điểm F. Tôi đánh nhau với Nancy và đám bạn nó thường hơn và hầu như tiết nào tôi cũng bị thầy cô tống ra ngoài hành lang.

Cuối cung, tôi đã cãi lại thầy Nicoll, thầy giáo dạy môn Ngữ văn khi thầy cứ hỏi đi hỏi lại rằng: tại sao tôi lười học môn thầy quá thế. Tôi ví thầy với “con sâu rượu”, dù tôi không chắc lắm về nghĩa vủa nó. Nhưng nó nghe có vẻ rất hay.

Tuần sau đó, thầy hiệu trưởng viết thư gửi mẹ tôi chính thức tuyên bố rằng: Năm học sau, tôi không được mời lại Học viện Yancy nữa.

Tôi cay cú nghĩ thầm: “Càng tốt. Thế lại hóa hay.”

Tôi nhớ nhà kinh khủng.

Tôi muốn được sống với mẹ trong căn hộ bé như cái tổ cò ở khu Thượng New York dù có phải học trường công và nghiến răng nhịn ông cha dượng đáng ghét say sưa cờ bạc tối ngày.

Tuy nhiên, Học viện Yancy cũng có thứ làm tôi phải nhớ nhung. Nào cảnh rừng cây tĩnh lặng ngoài cửa số phòng ký túc xá, nào dòng sông Hudson uốn lượn phía xa xa, nào mùi cây thông thoảng bay trong gió. Tôi sẽ nhớ Grover. Nó là bạn tốt tuy có hơi khác người. Tôi lo cho nó lắm: sang năm không có tôi ở bên, không biết nó có trụ nổi không.

Còn nữa, tôi sẽ nhớ lớp học tiếng Latinh, nhớ những buổi kiểm tra đầy vui nhộn của thầy Brunner. Tôi sẽ không bao giờ quên người thầy từng đặt niềm tin nơi tôi, nói tôi nhất định sẽ học hành tấn tới.

Đến thời điểm ôn thi cuối cấp, tôi chỉ dồn sức học môn Latinh. Tôi chưa quên hôm ở viện bảo tàng, thầy Brunner có bảo môn thầy dạy có tầm quan trọng sống còn với tôi. Dù không hiểu nguyên do, nhưng tôi bắt đầu tin thầy nói đúng.

Buổi tối trước ngày thi, tôi nản chí đến nỗi ném cả cuốn Hướng dẫn về Thần thoại Hy Lạp của Cambridge. Từ ngữ như nhảy múa trước mắt, quay vòng vòng quanh đầy tôi. Các chữ cái giống người cưỡi ván trượt, hết lộn lên lại nhào xuống. Tôi không thể nào nhớ được sự khác nhau giữa Chiron[2] và Charon[3], Polydictes[4] và Polyphemus[5]. Còn cách chia động từ tiếng Latinh ư? Quên nó đi.

Tôi sốt ruột đi tới đi lui trong phong, cảm giác như cả đàn kiến lửa đang bò trong áo sơ mi.

Tôi nhớ nét mặt nghiêm trang và cặp mặt sáng ngàn năm tuổi của thầy Brunner. Tiếng thầy văng vẳng bên tai: “Trò Percy Jackson, tôi chỉ chấp nhận ở em những gì tốt đẹp nhất mà thôi.”

Cố trấn tĩnh, tôi cúi xuống nhặt cuốn sách lên.

Trước nay, tôi chưa từng nhờ thầy giúp. Có lẽ lần này, nếu tôi hỏi thầy Brunner, thầy sẽ cho lời khuyên hữu ích. Hoặc chí ít tôi cũng có cơ hội xin lỗi trước khi nhận điểm F to tướng cho bài thi Latinh ngày mai. Tôi không muốn rời Học viện Yancy với tâm trạng day dứt khôn nguôi vì đã khiến thầy Brunner nghĩ mình là kẻ thất bại.

Hầu như phòng nào cũng tối đen, vắng vẻ, chỉ riêng cửa phòng thầy Brunner hé mở. Ánh đèn từ bên trong hắt ra vắt ngang hành lang kéo dài đến tận cửa lớn.

Khi cách cửa phòng thầy ba bước chân, tôi nghe có tiếng nói vẳng ra. Thầy Brunner vừa hỏi câu gì tôi nghe không rõ, chie nghe rõ ràng tiếng Grover trả lời:

- ... lo cho Percy, thưa thầy.

Tôi sững người.

Thường thì tôi không quen nghe lén ai bao giờ. Nhưng giả sử bạn cùng tuổi tôi, tôi thách bạn không nghe nếu biết bạn bạn thân nhất của mình đang nói chuyện với người lớn về chính mình.

Tôi nhích lại gần hơn.

Tiếng Grover vang lên:

- ... một mình trong hè này. Ý em là, bọn “Người Tử Tế” đã có mặt trong trường! Khi ta biết chắc, bọn chúng cũng biết luôn.

Thầy Brunner đáp:

- Nếu chúng ta giục giã cậu ấy chỉ làm tình hình thêm xấu đi. Ta cần thằng bé chín chắn hơn chút nữa.

- Nhưng cậu ấy không còn thời gian nữa. Ngày Hạ chí là hạn chót rồi…

- Ta sẽ giải quyết việc này mà không cần đến cậu ấy. Grover này, để thằng bé tận hưởng yên bình được ngày nào hày ngày ấy.

- Thưa thầy, nhưng cậu ấy đã nhìn thấy bà ta…

Thầy Brunner khăng khăng:

- Do tưởng tượng thôi. Sương Mù bao trùm toàn bộ học trò và đội ngũ giáo viên đủ để cậu ấy tin điều ngược lại.

- Thưa… Tôi… tôi không thể một lần nữa không hoàn thành nhiệm vụ. - Giộng cậu ấy nghẹn lại, - Ngài cũng biết nếu lần này thất bại, tôi sẽ gặp chuyện gì rồi.

Thầy Brunner dịu giọng:

- Không có chuyện đó đâu, Grover. Đáng lẽ ta nên để mặc bà ta, không can thiệp. Mà thôi, giờ cậu chỉ việc giữ cho Percy toàn mạng đến mùa thu tới…

Cuốn sách giáo khoa môn Thần thoại học tuột khỏi tay tôi, rơi xuống đất nghe đánh “thịch”.

Thầy Brunner im bặt.

Tim đập như trống làng, tôi nhặt nhanh sách và cắm đầu cắm cổ trở xuống sảnh.

Một bóng đen vụt qua khung cửa kinh sáng đèn trước phòng thầy Brunner. Cái bóng cao lớn hơn ông thầy cả đời ngồi xe lăn rất nhiều, nắm lăm lăm trong tay một thứ rất giống cây cung.

Tôi đẩy nhanh cánh cửa gần nhất và lẻn vào trong.

Mấy giây sau, tôi nghe tiếng lộp cộp-lộp cộp-lộp cộp như có ai dọng súc gỗ xuống sàn vang lên, kế đến là tiếng khụt khịt như thú đánh hơi ngoài cánh cửa phòng tôi đang nấp. Một cái bóng đen sì, cao to dừng ngay trước tấm kính cửa giây lát rồi đi tiếp.

Mồ hôi chảy thành dòng xuống cổ tôi.

Tiếng thầy Brunner ở đâu đó ngoài hành lang vọng lại nghe lào xào:

- Không có gì cả. Từ hồi Đông Chí đến giờ, đầu óc ta làm sao ấy.

Grover đáp:

- Tôi cũng vậy. Nhưng tôi thề là…

Thầy giáo ngắt lời:

- Thôi về ký túc xá đi. Ngày mai thi mấy môn liền đấy, nhớ học cho tốt vào.

- Ông nhắc chi cho thêm nản vậy.

Đèn trong văn phòng thầy Brunner vụt tắt.

Tôi đứng chờ trong phòng tối và tưởng thời gian như ngừng trôi.

Mãi sau, tôi chuồn ra hành lang và trở về phòng.

Grover nằm trên gi.ường, điềm nhiên ôn bài trọng tâm thi trong vở ghi môn Latinh như thể nó chưa xuống gi.ường từ tối đến giờ.

Nó nheo mắt:

- Vừa đi đâu về thế? Thuộc hết bài chưa mà ung dung quá vậy?

Tôi im lặng, không nói không rằng.

Grover nhíu mày:

- Trông cậu thất thần chưa kìa. Mọi chuyện ổn cả chứ?

- Chỉ… hơi mệt thôi.

Tôi quay đi để nó không nhìn mặt tôi mà đoán già đoán non và sửa soạn đi ngủ.

Tôi không thể hiểu thông tin vừa nghe được dưới nhà. Tôi chỉ ước tất cả đều là thông tin của trí tưởng tượng của riêng tôi mà thôi.

Nhưng có một điều quá rõ rang: Thầy Brunner và Grover bí mật nói chuyện với nhau vê tôi. Họ tin chắc tôi sắp gặp nạn.

Chiều hôm sau, vừa ra đến cửa phòng thi sau khi làm bài thi môn tiếng Latinh dài ba tiếng, mắt tôi như nhảy múa với những cái tên Hy Lạp và La Mã cổ đại tôi đã viết sai. Toi nghe tiếng thầy Brunner gọi giật lại.

Tôi thoáng lo lắng rằng thầy phát hiện đêm qua tôi nghe lén chuyện của thầy nhưng hóa ra tôi lo hão.

- Percy này, đừng nản lòng khi phải rời Học viện Yancy nhé. Theo thầy… thế là thượng sách, em ạ.

Giọng thầy như an ủi, nhưng câu chữ thầy dùng khiến tôi ngượng chín cả người.

Dù thầy rất khẽ khàng, nhưng mấy bạn chưa làm xong bài còn trong phòng nghe thấy hết. Nhỏ Nancy Bobofit nhìn tôi bĩu môi và gửi cái nụ hôn gió chế nhạo.

Tôi lẩm bẩm:

- Em biết rồi ạ.

Thầy hết cho xe chạy lên, lại cho xe chạy đẩy lùi xuống như thể thầy không biết phải nói gì:

- Tức là... em không hợp với trường này. Thế nên sớm muộn gì em cũng phải rời trường thôi.

Mắt tôi cay xè.

Thế đấy! Người thầy tôi kính trọng nhất đứng trước mặt cả lớp và bảo thẳng rằng tôi không có khả năng tiếp tục theo học được nữa. Suốt một năm qua thầy luôn tin tưởng tôi, vậy mà bây giờ thầy bảo số tôi thể nào cũng bị tống cổ khỏi trường.

Tôi run rẩy:

- Dạ phải.

- Không, không phải như em nghĩ đâu. Tôi nói linh tinh gì thế này. Tôi muốn nói là… em không hề bình thường một chút nào. Tôi không hề có ý…

Tôi cắt ngang:

- Cảm ơn thầy! Cảm ơn thầy đã nhắc em điều đó.

- Kìa Percy…

Nhưng tôi đã cắm cúi bỏ đi

Trong ngày cuối cùng của học kỳ, tôi tống hết quần áo vào va li.

Đám con trai cười nói và khoe nhau dự định cho kỳ nghỉ hè sắp đến. Một đứa bảo sẽ thực hiên chuyến đi bộ đường trường xuyên đất nước Thụy Sĩ xinh đẹp. Đứa khác khoe sẽ lái du thuyền ở biển Carribbea cả tháng. Cũng như tôi, chúng đều là tội phạm vị thành niên, chỉ có khác là nhà chúng giàu nứt đố đổ vách. Bố chúng toàn là tổng giám đốc tập đoàn xuyên quốc gia nọ hay đại sứ Hoa Kỳ ở nước kia, hoặc chí ít cũng là một nhân vật nổi tiếng. Còn tôi chỉ là đứa cha căng chú kiết, xuất thân từ một dòng họ chẳng có ai thành danh cả.

Bọn bạn hỏi tôi hè định làm gì.

Tôi bảo sẽ về Manhattan với mẹ.

Tôi giấu chúng chuyện hè này tôi sẽ dắt chó đi dạo thuê để kiếm chút tiền mọn hoặc gõ cửa từng nhà bán phiếu mua báo dài hạn nhằm cung phụng cho thói cờ bạc của cha dượng. Có thế, ông mới cho tôi ăn ngày hai bữa. Nếu may mắn có thời gian rảnh rỗi, tôi sẽ lại ôm đầu lo cháy ruột vì không biết sẽ học ở đâu khi bắt đầu năm học mới.

Nghe tôi nói, một đứa trong nhóm đáp:

- À, thế cũng hay.
Đoạn nó quay sang với mấy đứa kia tán gẫu tiếp như thể cái thằng tôi chưa từng tôi tại trên đời.

Tôi sợ nhất là phải từ biệt Grover, nhưng hóa ra tôi lo hão. Nó đã mua sẵn vé xe buýt về Manhattan, cùng chuyến với tôi luôn. Vậy là trên đường quay về thành phố, chúng tôi lại vai kề vai ngồi sát bên nhau.

Dọc đường, Grover cứ bồn chồn ngoái nhìn chằm chằm vào lối đi giữa hai hàng ghế để quan sát hành khách trên xe.

Tôi nhớ rất rõ mỗi lần rời Học viện Yancy , Grover lại hoảng hốt, nhấp nhổm như ngồi trên chảo lửa như thể nó biết chuyện xấu thế nào cũng đến.

Lúc đầu tôi tưởng nó sợ bị trêu chọc. Nhưng trên xe buýt, ai rỗi hơi chòng ghẹo nó chứ.

Cuối cùng, chịu không nổi tôi bèn bảo :

- Tìm mấy “Người Tử Tế” chứ gì ?

Grover giật thót mình :

- Cái… cái gì? Cậu vừa nói gì?

Tôi bèn nói thật là đã nghe lén nó và thầy Brunner nói chuyện đêm trước ngày thi.

Mắt Grover giật liên hồi:

- Cậu nghe được gì rồi?

- À… có nghe được mấy câu. Mà này, Hạn chót vào ngày Hạ chí nghĩa là gì thế?

Grover nhăn như bị:

- Thôi mà Percy… Hôm ấy, chẳng qua tớ lo cho câu quá nên mới ra nông nỗi. Ý tớ là cậu ảo tưởng về việc cô giáo dạy toán là ma quỷ đấy.

- Nhưng Grover…

- Tớ bèn bảo thầy Brunner rằng cậu đang bị căng thẳng quá mức. Bằng chứng là trường làm gì có cô giáo nào tên Dodds, với lại…

- Này Grover, cậu nói dối dở lắm.

Hai tai nó đỏ lựng như mào gà.

Nó lục túi áo lấy tấm danh thiếp nhàu nát, bẩn lem nhem:

- Vậy cậu giữ cái này đi. Ngộ nhỡ hè có cần đến tớ thì cứ gọi.

Trên tấm giấy nhỏ có dòng chữ hoa kiểu cầu kỳ làm chứng khó đọc của tôi thêm trầm trọng. Mãi sau tôi mới nhìn ra nội dung sau:

Grover Underwood

Người trông giữ

ĐỒI CON LAI

Long Island , New York

009-0009

- Con lai là...

Grover gắt:

- Chớ nói to! Đó là địa chỉ nơi tớ ở... trong hè.

Tôi buồn nẫu ruột. Hóa ra, Grover có nhà nghỉ dành cho mùa hè. Tôi chưa bao giờ nghĩ nhà nó cũng giàu như đại đa số bọn bạn học trong Học viện Yancy.

Mặt tôi như đưa đám :

- Ra thế. Vậy trong hè, nếu có muốn ghé dinh thự nhà cậu, tớ gọi số này à?

Nó gật đầu:

- Hoặc… khi có chuyện, cậu cần tớ giúp.

- Hè tớ cần cậu làm gì?

Tôi cố tình ăn nói phũ phàng.

Màu đỏ lan từ mặt xuống cổ Grover:

- Percy này, thực ra là tớ... tớ phải bảo vệ cậu.

Tôi trợn mắt nhìn nó.

Suốt năm học vừa rồi, tôi phải ẩu đả không biết bao nhiêu lần để bảo vệ Grover khỏi bị bắt nạt. Gần đến ngày chia tay, tôi mất ăn mất ngủ vì lo không có tôi, Grover sẽ sống ra sao khi bắt đầu năm học mới. Và bây giờ nó lại hành động như thể người cần được bảo vệ là tôi ấy. Tôi bèn hỏi nó:

- Grover này, chính xác thì cậu đang bảo vệ tớ khỏi cái gì thế?

Một âm thanh ken két vang lên bên dưới chân bọn tôi. Khói đen bốc ra từ bảng đồng hồ và cả xe buýt bốc mùi như trứng thối. Bác lái xe lầm bầm nguyền rủa và tấp xe sát lề đường cao tốc.

Mấy phút sau, có tiếng loảng xoảng trong khoang chứa động cơ xe. Tài xế bảo tất cả hành khách phải xuống xe ngay.

Grover và tôi rời xe như bao người khác.

Mấy chục con người đứng lố nhố ven con lộ trải dài tít tắp. Nếu xe không hỏng và không phải bước chân khỏi xe buýt như thế này, chẳng ai để ý xem khu này thuộc địa phận nào. Bên đường phía chúng tôi đứng toàn cây gỗ thích và rác rến do xe cộ qua đường hất xuống. Nhìn qua con đường trải nhựa bốc hơi dưới nắng chang chang sang bên kia đường, tôi chỉ thấy một cửa hàng bán trái cây xây theo kiểu cũ.

Hàng hóa trong tiệm trông rất tươi ngon: nào anh đào và táo đỏ như màu máu, nào quả óc chó và mơ tươi mởn, nào rượu táo ướp lạnh đựng trong bình lớn. Tiệm không có khách, chỉ có ba bà già ngồi ở ghế bập bênh bên dưới tán cây gỗ thích, đang đan một đôi vớ lớn tôi chưa bao giờ thấy qua.

Vớ gì mà rộng như áo len, nhưng hình dáng đúng là vớ đi chân. Bà ngồi bên phải đan một chiếc, bà ngồi bên trái đan chiếc kia. Bà ngồi giữa ôm chiếc rổ lớn đựng cuộn sợi xanh dương to tướng, trông như cuộn dây điện.

Ba bà lão này giống trong chuyện cổ tích: mặt xanh tái, da nhăn nheo như vỏ trái cây héo, tóc bạc cột gọn sau gáy, giấu sau vành khăn lớn in hoa sặc sỡ và cánh tay gầy guộc thò ra từ tay áo váy bằng vải bông bạc phếnh.

Nhưng lạ nhất là hình như họ dồn cả sáu con mắt vào tôi. Họ không ngắm hành khách tản ra thành nhiều nhóm mà chỉ nhìn tôi… chằm chằm.

Tôi liếc Grover định kể ngày với nó nhưng mặt nó trắng bệnh không còn hột máu. Đầu mũi nó giật giật.

- Cậu sao thế Grover? Mà này, để tớ kể cho nghe…

- Nói ngay xem ba bà kia có nhìn cậu không? Có hay không?

- Có nhìn. Quái đản quá cậu nhỉ? Chẳng lẽ chân tớ đi vừa cặp vớ ấy?

- Thôi đừng đùa nữa. Vui lắm đấy mà đùa.

Bà già ngồi giữa lôi ra chiếc kéo lớn làm bằng vàng cẩn bạc, hai lưỡi kéo sắc lẻm, sáng loáng. Tôi nghe tiếng Grover thở hào hển. Nó giục:

- Mình vào xe đi, nhanh lên.

- Cái gì? Trong xe nóng như lò bánh mỳ ấy.

- Lên xe ngay đi.

Nó mở cửa bước vào nhưng tôi cứ đứng lỳ.

Bên kia đường, ba bà già vẫn không rời mắt khỏi tôi. Bà ngồi giữa cắt sợi dây. Tôi xin thề có nghe tiếng “xoạt” từ bên kia đường vọng sang. Hai bà bạn còn lại cuộn đôi vớ to khổng lồ lại, còn tôi phân vân tự hỏi vớ ấy dành cho ai: Kinh Kông hay yêu quái khổng lồ mình đầy lông lá.

Bác tài nổ máy. Một đám khói xám phụt ra từ động cơ xe chở khách. Cả chiếc xe rung bần bật, tiếng máy lại nổ giòn.

Hành khách reo lên mừng rỡ.

Vụt mạnh chiếc mũ mềm vào vô lăng, bác tài khoái chí:

- Có thế chứ. Mời bà con lên xe đi.

Vừa chạm chân lên sàn xe, tôi bất chợt choáng váng như thể bị cảm nắng.

Trông Grover cũng không hơn gì. Nó run cầm cập, hai hàm răng va vào nhau lách cách.

- Grover này?

- Gì cơ?

- Hình như cậu giấu tớ chuyện gì thì phải?

Nó đưa ống tay áo lên lau trán:

- Percy, lúc nãy cậu thấy gì ở tiệm trái cây?

- À, lại ba bà già đó. Họ có gì mà cậu sợ thế? Chắc họ không giống cô... Dodds đâu nhỉ?

Nhìn mặt Grover thật khó đoán câu trả lời, nhưng có điều tôi biết chắc ba bà ở tiệm trái cây còn đáng sợ hơn cô Dodds gấp nhiều lần. Nó bảo:

- Thì cứ kể xem cậu nhìn thấy những gì.

- Bà ngồi giữa lấy kéo cắt sợi dây.

Grover nhắm nghiền mắt, tai nó huơ huơ như làm dấu thánh nhưng không phải. Dấu của Grover cổ xưa hơn dấu thánh nhiều.

- Vậy, cậu thấy bà ta cắt sợi dây.

- Ừ. Thì sao?

Miệng hỏi thế nhưng trong lòng tôi biết đó là chuyện nghiêm trọng.

Grover cắn ngón tay cái, miệng lẩm bẩm:

- Thế này không được. Tớ không muốn kết cục như lần vừa rôi.

- Lần vừa rồi?

- Sao lúc nào cũng là lớp sáu thế. Không ai qua nổi lớp sáu cả.

Tôi bắt đầu phát hoảng vì thấy Grover nói nhảm hoài:

- Grover! Cậu huyên thuyên gì vậy?

- Khi nào đến bến xe buýt, cho tớ đi cùng cậu về nhà. Cậu hứa đi.

Yêu cầu của nó nghe rất kỳ khôi nhưng tôi hứa đại cho xong.

- Mê tín vừa thôi, ông mãnh! Sợ điềm gở à?

Grover không trả lời.

- Này, tớ muốn hỏi về việc cắt dây vừa rồi. Nó ám chỉ có người sắp chết hả cậu?

Nó rầu rĩ nhìn tôi như thể vừa chọn xong loại hoa mà tôi thích nhất dùng để phủ lên quan tài cho tôi vậy.
 
Chương 3: Grover không mặc quần

Đến lúc thú tội: Xe vừa vào bến, tôi đã bỏ rơi Grover tắp lự.

Tôi biết, tôi biết. Làm thế là quá đáng với bạn bè lắm lắm.

Nhưng Grover làm tôi sợ muốn chết. Nó nhìn tôi như thể tôi chết từ tám đời, miệng lẩm bẩm: “Biết ngay mà, lần nào cũng thế” và “Sao không ai trụ nổi cho đến hết năm lớp sáu?”

Tôi không còn lạ gì Grover. Bàng quang nó hoạt động trên mức bình thường mỗi khi chủ nhân lo âu. Thế nên tôi không ngạc nhiên khi vừa xuống xe buýt, nó bắt tôi hứa phải đợi nó trước khi te te chạy thẳng vào nhà vệ sinh. Thay vì chờ bạn, tôi lấy va li chuồn ra cổng đón taxi về khu Thượng Manhattan.

Tôi bảo tài xế:

- Khu đông, ngã tư đường một trăm linh bốn và đường Prince.
***

Trước khi giới thiệu độc giả với mẹ tôi, tôi xin có đôi lời.

Tên bà là Sally Jackson, người tốt bụng nhất trần đời và là minh chứng sống cho câu triết lý cửa miệng của tôi: Người hiền chẳng bao giờ gặp lành.

Mẹ tôi lên năm tuổi cũng là lúc ông bà ngoại tôi tử nạn vì máy bay rơi. Sau đó, bà được ông cậu mang về nuôi nhưng người đó chẳng thèm quan tâm gì đến cô cháu gái. Vì muốn làm tiểu thuyết gia, nên suốt thời gian học trung học, mẹ tôi vừa học vừa đi làm quần quật cốt dành tiền lên đại học dự khóa viết văn. Thế rồi ông cậu bị ung thư khiến mẹ tôi đang học lớp mười hai phải bỏ ngang để ở nhà chăm sóc cậu. Ít lâu sau, ông cậu mất bỏ lại mẹ tôi tứ cố vô thân, không tiền bạc, không bằng cấp.

Thời gian ngắn ngủi tươi đẹp nhất của mẹ tôi là lúc gặp cha tôi.

Tôi không nhớ tý gì về cha, ngoại trừ cảm giác ấm áp bao trùm. Có thể đó là dấu vết nụ cười ông dành cho tôi. Mẹ không muốn nhắc đến cha vì hễ đả động đến ch.uyện ấy, mẹ lại buồn vô hạn. Mẹ cũng không có lấy một tấm hình của ông.

Chắc bạn đọc cũng hiểu: cha mẹ tôi không cưới xin gì hết. Mẹ bảo cha giàu có và là yếu nhân. Quan hệ của họ được giấu trong vòng bí mật. Thế rồi một ngày kia, cha lên tàu vượt biển Đại Tây Dương trong một chuyến công du khẩn cấp và không bao giờ trở lại.

Mẹ bảo cha mất tích ngoài khơi. Không phải chết, chỉ mất tích thôi.

Mẹ xoay xỏa đủ mọi nghề, học bổ túc ban đêm lấy bằng tú tài và cố gắng nuôi tôi khôn lớn. Chưa bao giờ tôi thấy mẹ phàn nàn hay nổi nóng, dù chỉ một lần. Nhưng tôi biết, tôi là một đứa trẻ chẳng dễ nuôi chút nào.

Cuối cùng, mẹ lấy dượng Gabe Ugliano, người chỉ đễ chịu trong ba mươi giây đầu gặp mặt, sau đó để lộ ngay bản chất là tay đểu cáng có hạng. Hồi còn bé tí, tôi đã gán cho dượng cái tên “Gabe Cóc Chết”. Xin lỗi vì tôi tả quá thực nhưng dượng Gabe hôi thật cơ. Người ông ta lúc nào cũng có mùi bánh pizza tỏi thiu ủ cả tháng trong quần đùi bẩn.

Làm trung gian hòa giải cho tôi và dượng, cuộc sống của mẹ khó nhọc thêm mấy phần: nào là cách Gabe Cóc chết đối xử với bà, nào là nỗi lo vì xung đột giữa cha dượng và con ghẻ có thể bùng nổ bất cứ lúc nào… Đơn cử là chuyện tôi về nhà là minh chứng hùng hồn cho điều đó.

***

Vừa bước qua ngưỡng cửa căn hộ nhỏ xíu, tôi vừa hy vọng mẹ đã đi làm về. Nhưng tôi sớm phải thất vọng vì trong phòng khách chỉ có dượng Gabe đang vui vẻ cùng đám bạn cờ bạc. Tivi mở kênh thể thao ESPN ồn ã. Vỏ bim bim và lon bia rỗng vương vãi khắp mặt thảm.

Chẳng buồn nhìn lên, dượng Gabe vừa cắn đầu điếu xì gà, vừa làu bàu:

- Mày về đấy à?

- Mẹ con đâu ạ?

- Đi làm. Mày có tiền không?

Thế đấy. Không hề có chuyện dượng niềm nở: “Vào nhà đi con. Mừng con dã trở về. Sáu tháng qua, con sống thế nào?”

Cha dượng tôi mập ra trông thấy. Trông ông ta giống con hải mã mú míp ních trong bộ quần áo mua ở cửa hàng đồ cũ. Đầu Gabe Cóc Chết chỉ còn ba cọng tóc lúc nào cũng chải mượt, vắt ngang qua đỉnh đầu hói bóng lưỡng như thể trông cho đẹp trai, bảnh chọe hay gì gì đó.

Dù quản lý gian hàng bán đồ điện tử Mega-Mart dưới khu Queens nhưng ông ta hầu như chỉ ngồi nhà. Theo tôi, đáng lẽ dượng phải bị đuổi việc từ lâu rồi mới phải. Ngược lại, dượng cứ lãnh lương tì tì để mua xì gà (thứ làm tôi buồn nôn) và tất nhiên, để uống bia. Lúc nào cũng thấy ông ấy nốc bia. Mỗi khi thấy mặt tôi ở nhà, dượng lại đòi tôi cúng tiền cho xới bạc. Gabe Cóc Chết gọi đó là “Bí mật giữa cánh dàng ông với nhau”, ngụ ý rằng nếu tôi hé môi với mẹ, ông ta sẽ đánh tôi sống dở chết dở.

Tôi bảo:

- Con không có tiền.

Gabe Cóc Chết nhướn đôi lông mày bóng dâu.

Ông ta đánh hơi thấy mùi tiền thính như chó săn thấy con mồi. Kể cũng lạ, tôi tưởng mùi hôi thối từ cơ thể ông át mọi mùi khác chứ.

- Mày đi tãi từ bến xe về chắc chứn tốn cả hai chục đồng. Chí ít giờ trong túi mày phải còn sáu bảy đồng tiền lẻ. Nhà tao đâu phải nhà nuôi trẻ làm phúc. Muốn sống ở đây phải biết điều chứ. Tao nói có gì trật không, Eddie?

Chú Eddie, vốn là quản lý tòa nhà chung cư này, nhìn tôi với vẻ mặt cắn rứt. Nếu tách chú khỏi chiếu bạc này, ai cũng bảo chú không đến nỗi tệ. Chú bảo:

- Kìa Gabe, cháu nó vừa chân ướt chân ráo vào nhà mà.

Dượng Gabe đay lại:

- Nhưng tao nói có đúng không?

Eddie vội cúi xuồng đĩa bánh, không dám ngẩng đầu lên. Hai người lạ ngồi cạnh cú cũng im lặng.

Tôi móc nắm tiền trong túi ném lên bàn:

- Này đây. Cầu cho dượng thua cháy túi.

Dượng Gabe gào lên sau lưng tôi:

- Này học sinh ưu tú, người ta gửi bảng điểm của mày về đây rồi đấy, con ạ. Học ngu còn ra vẻ ta đây!

Tôi sập cửa phòng “mình” đánh rầm. Thực ra, đó không hẳn là phòng riêng của tôi. Trong lúc tôi ở lại trường nội trú, nó là “phòng nghiên cứu” của dượng Gabe. Khốn nỗi ông ta chẳng “nghiên cứu” gì ngoài đống tạp chí xe hơi cũ. Tuy nhiên, cha ghẻ tôi khoái tống táng đồ đạc của tôi vào tủ, “trưng bày” đôi giày cao cổ dính ầy bùn lên bậu cửa sổ và cố hết sức làm phòng này ám mùi nước hoa đàn ông gớm guốc trộn mùi khói thuốc lá và bia thiu chua lòm.

Tôi ném va li lên gi.ường.

Về nhà thích thật.

Có thể nói mùi dượng Gabe còn tệ hơn ác mộng về cô Dodds, tệ hơn cả âm thanh sởn da gà lúc bà già bán trái cây cắt sợi dây xanh.

Nghĩ đến đó, tôi thấy tay chân bủn rủn. Tôi nhớ nét mặt hớt ha hớt hải của Grover – cách nó bắt tôi hứa không về nhà nếu không có nó đi cùng. Bất giác tôi rùng mình. Tôi cảm giác người nào... hoặc con gì đang ngó tôi chằm chằm. Có thể ngay lúc này nó đang bò lên cầu thang, móng vuốt ngày càng mọc dài nhọn hoắt.

Đúng lúc ấy, tiếng mẹ tôi vang lên :

- Percy về đấy à con ?

Tôi nhìn mẹ đứng ngay cửa phòng, bao nỗi sợ hãi tan biến mất.

Chỉ cần thấy mẹ bước vào phòng, lòng tan an bình, thanh thản ngay. Mắt mẹ lấp lánh và đổi màu dưới ánh đèn. Nụ cười mẹ ấm áp như tấm chăn mềm mại ủ ấm tôi ngày đông giá. Mái tóc nâu dài của mẹ điểm bạc nhưng với tôi, mẹ không bao giờ già. Mỗi khi mẹ nhìn tôi, hình như bà chỉ thấy tôi tốt đẹp mọi bề, không một chút xấu xa. Tôi chưa bao giờ nghe mẹ gắt gỏng hay nặng lời với ai bao giờ, ngay cả với dượng Gabe và tôi.

Mẹ ôm tôi vào lòng :

- Trời, Percy của mẹ. Mới từ Giáng sinh đến giờ, con đã cao lớn quá chừng.

Áo thun đồng phục của nhân viên cửa hàng kẹo mang dòng chữ “Nước Mỹ Ngọt Ngào” mẹ mang tên người có mùi thơm dễ chịu nhất trên đời. Nó là hỗn hợp mùi của sôcôla, cam thảo và đủ thứ ngọt ngon bày bán trong cửa hàng dưới khu mua sắm Grand Central. Như mọi khi, để đón tôi về nhà, mẹ mang về cho tôi một bịch tướng toàn “hàng mẫu miễn phí”.

Hai mẹ con ngồi bên mép gi.ường. Nhìn tôi ăn ngấu nghiến các thanh kẹo dẻo có mùi quả việt quất, mẹ dịu dàng vuốt tóc tôi, bắt tôi kể hết mọi điều tôi chưa viết trong thư. Mẹ không hề đả động đến chuyện tôi bị đuổi học. Dù thế tôi vẫn băn khoăn: liệu tôi thế này có là bình thường chăng ? Liệu tôi có ngoan, có xứng với tình yêu thương của mẹ ?

Tôi bảo rằng mẹ hỏi dồn dập như thế, tôi lấy sức đâu trả lời cho kịp: “Thôi mẹ, cứ hỏi người ta hoài!”. Nhưng trong thâm tâm, tôi cực kỳ vui sướng vì lại được ở bên mẹ.

Có tiếng dượng Gabe từ phòng ngoài gọi oang oang :

- Này Sally, món xúp đậu có chưa?

Tôi nghiến răng trèo trẹo.

Người tốt bụng, xinh đẹp nhất đời như mẹ tôi xứng đáng lấy được người chồng triệu phú, chứ không phải cơm bưng nước rót cho lão Gabe Cóc Chết kia!

Muốn làm mẹ vui, tôi bảo mấy ngày cuối cùng ở Học viện Yancy vui lắm. Tôi còn bảo rằng dù bị đuổi học nhưng tôi không quá buồn bã. Ít nhất thì lần này, tôi cũng trụ được đến gần hết năm. Không những thế, tôi còn có thêm một vài người bạn mới và học tiếng Latinh không tồi. Còn nữa, thật lòng mà nói, mấy vụ đánh nhau không đến nỗi ghê gớm như trong thư thầy hiệu trưởng gửi phụ huynh. Tôi thật sự thích Học viện Yancy lắm và đó là tình cảm tận đáy lòng tôi.

Càng kể, tôi càng tin năm vừa qua tôi hoàn toàn vui vẻ. Tôi nghẹn ngào khi nhắc đến thầy Brunner và Grover. Giờ ngồi ôn lại, tôi thấy ngay cả vụ né tránh được bánh kẹp bơ đậu phộng của Nancy Bobofit ném vào người không đến nỗi quá khó chịu.

Nhưng khi kể đến chuyến tham quan viện bảo tàng thì...

Ánh mắt mẹ tôi như thúc giục tôi kể hết :

- Con bảo sao cơ? Cái gì làm con sợ thế?

- Thưa mẹ, không có gì ạ.

Phải nói dối mẹ, tôi day dứt ghê lắm. Tôi định kể mẹ nghe chuyện cô Dodds, chuyện ba bà già cắt sợi dây xanh nhưng chính tôi cũng thấy chúng thật ngớ ngẩn, không thể xảy ra trong đời thực.

Mẹ cắn môi ra chiều suy nghĩ. Bà biết tôi cố giấu nhưng không ép tôi nói thật.

- Có quà bất ngờ cho con đây. Mẹ con mình sẽ đi tắm biển.

Tôi mở to mắt sung sướng:

- Đến Montauk nữa hả mẹ?

- Ừ. Mình đi nghỉ ba đêm hai ngày. Cũng căn nhà gỗ cũ.

- Khi nào ạ?

Mẹ mỉm cười:

- Mẹ thay đồ xong, mình đi ngay.

Tôi không tin vào tai mình. Hai năm nay mẹ con tôi chưa đi Montauk vì được Gabe bảo nhà không đủ tiền. Chỉ nghĩ đến chuyện được đi biển, lòng tôi náo nức như hồi con thơ bé.

Dượng Gabe thò đầu vào cửa gầm lên:

Sally, tôi bảo cô nấu nò xúp đậu chứ có yêu cầu nem công chả phượng đâu mà chưa làm, còn ngồi ỳ đó?

Tôi chỉ muốn cho ông ta ăn quả thụi nhưng mẹ đã kịp đưa mắt ngăn lại. Tôi hiểu mẹ muốn nhắc tôi “chín bỏ làm mười” cho yên nhà yên cửa cho đến lúc mẹ thu xếp xong đồ đạc cho chuyến đi. Đến lúc ấy, hai mẹ con sẽ được yên thân.

Mẹ quay sang dượng Gabe:

- Em làm ngay đây. Chẳng là hai mẹ con vừa bàn sẽ đến Montauk vài ngày.

Cha ghẻ tôi nheo mắt:

- Lại đi à? Cô nói thật không đấy ?

Tôi lầm bầm:

- Biết ngay mà. Đời nào dượng cho mình đi chơi.

Mẹ tôi bình thản :

- Dượng đồng ý đấy. Chẳng qua dượng lo chuyện tiền nong thôi.

“Lo” ư? “Tức cành hông” thì có! Dượng tức vì phải bớt bia bớt rượu.

Mẹ nói thêm:

- Con à, Gabriel sẽ không phải làm món súp đậu. Mẹ sẽ làm món xúp đậu bảy lớp cho ông ấy ăn trong những ngày cuối tuần. Ngoài ra còn có xốt guacamole. Kem chua. Toàn món ngon thôi.

Mắt Gabe Cóc Chết sáng rực:

- Với lại, chi phí chuyến đi biển... trừ vào quỹ may quần áo mới của cô nhé.

- Vâng, cứ như thế anh ạ.

- Với lại, tối Chủ nhật cô nhớ thu xếp về sớm để kịp nấu bữa tối. Mà này, chớ lấy xe tôi đi lung tung. Chỉ đi từ đây đến Montauk và từ đó về nhà thôi đấy.

- Anh yên tâm, mẹ con em sẽ giữ gìn xe cẩn thận.

Dượng Gabe gãi cằm:

- Tôi chỉ đồng ý nếu cô nhanh tay làm vài món lai rai ngay bây giờ. Với lại bảo thằng nhỏ xin lỗi vì về đúng lúc tôi đang chơi bài làm người ta mất tập trung.

Tôi bụng bảo dạ: “Hay để tôi đá trúng “bộ hạ” ông vài phát? Muốn nằm liệt gi.ường rên rỉ cả tuần không?”

Nhưng mẹ tôi đã lừ mắt nhìn, nhắc tôi đừng chọ tức dượng.

Tôi chỉ muốn hét thật to: “Sao mẹ để ông ta trèo đầu trèo cổ hoài vậy? Ông ta nghĩ gì đâu cần mẹ quan tâm cho mệt xác?”

Tôi đành làu bàu:

- Con xin lỗi. Con có lỗi vì đã làm dượng mất tập trung trong ván bài cực kỳ quan trọng khi nãy. Mời dượng quay lại xới bạc ngay kẻo mọi người chờ.

Gabe Cóc Chết nheo mắt, cố vận hành bộ óc bé như hạt đậu để tìm xem trong giọng nói tôi có chút mỉa mai nào chăng.

- Thôi thôi, giờ mày nói gì chả được.
Nói đoạn, ông ta quay ra chơi bài.

Mẹ tôi bảo:

- Cảm ơn con. Ngay khi đến Montauk, mẹ con mình sẽ nói nốt chuyện... bất cứ chuyện gì con chưa kịp nói, nhé?

Tôi thoáng thấy ánh lo sợ trong mắt mẹ, hệt như mắt Grover trên xe buýt lúc chiều. Giống Grover, chắc mẹ cũng cảm nhân luồng gió lạnh buốt khác thường vừ vụt qua và linh tính hiểm nguy đang rình rập từng bước chân tôi.

Nhưng ngay sau đó mẹ cười xòa khiến tôi cho rằng mình lầm. Đời nào người như mẹ lại có những suy nghĩ u ám như thế.

- Mẹ xong ngay bây giờ đây.

Mẹ vỗ nhẹ đầu tôi rồi tất tả vào bếp.

***

Hơn tiếng đồng hồ sau, chúng tôi đã sẵn sàng lên đường.

Dượng Gabe không làm gi, chỉ quăng vội hành lý lên xe cho mẹ rồi vội vã quay lại với ván bài dở dang. Ông ta luôn miệng chì chiết, rên rỉ vì cuối tuần mẹ không ở nhà nấu đồ ăn nấu sốt, lại còn mang chiếc Camaro đời 78 của ông ta đi những hai ngày.

Quăng chiếc túi cuối cùng lên xe, ông ta hầm hè với tôi :

- Chỉ cần xe trầy một vết nhỏ thôi là mày liệu hồn tao đấy.

Làm như tôi sắp lái xe không bằng. Khổ nỗi cha ghẻ tôi không cần biết. Nếu hải âu trót ị lên lớp sơn mới của xe, ông ta sẽ tìm cách đổ hết tội lên đầu tôi.

Nhìn cha dượng đã ngà sau lảo đảo quay vào tòa chung cư, tôi tức không chịu nổi nên vô tình vung tay lên đúng lúc dượng Gabe vừa đến cửa. Tôi làm động tác giống hệt Grover làm lúc trên xe buýt, một kiểu làm dấu đuổi tà gì đó và phẩy tay về hướng Gabe Cóc Chết. Thế là cách cổng sập mạnh, va trúng mông khiến ông ta bay thẳng đến chân cậu thang hệt như bị trúng đạn đại bác. Chắc tại gió to quá, hay tại bản lề cửa bị hư nhưng tôi không nán lại lâu đủ để tìm hiểu rõ nguyên nhân.

Leo tót lên xe, tôi giục mẹ đi thật nhanh.

***

Nhà gỗ hai mẹ con thuê nằm trên bãi biển phái nam, gần cuối đảo Long Island. Nhà nhỏ xíu sơn màu tùng lam nhẹ bị lún gần nửa dưới cồn cát. Rèm cửa trong nhà bạc phếch. Khăn trải gi.ường lúc nào cũng dính cát bay từ ngoài vào và tủ kệ đầy mạng nhện. Còn biển thường lạnh buốt đến độ không thể bơi được.

Nhưng tôi thích nơi này vô cùng.

Hồi tôi còn bé xíu, mẹ đã đưa tôi đến đây. Còn mẹ đến nơi này trước cả khi có tôi. Dù chưa bao giờ mẹ nói ra nhưng tôi biết tại sao bà gắn bó đặc biệt với nơi này. Đây là nơi mẹ gặp gỡ cha tôi.

Xe càng đến gần Montauk, mẹ càng trẻ lại. Dấu vết của bao năm tháng nhọc nhằn hằn trên mặt mẹ chợt biến mất. Mắt mẹ đổi màu xanh biếc như màu biển khơi.

Xe đến nơi đúng lúc hoàng hôn. Hai mẹ con mở hết cửa sổ và dọn quanh một lượt như mọi khi. Xong xuôi, mẹ con tôi vừa dạo chơi trên bờ biển vừa ném bỏng ngô xanh cho đàn hải âu vờn quanh. Chúng tôi ăn thạch, kẹo bơ cứng màu xanh màu biển cùng đủ loại hàng mẫu miễn phí mẹ mang từ cửa hàng về.

Tôi xin có đôi dòng giải thích về thực phẩm màu xanh biển của mẹ.

Chẳng là dượng Gabe có lần bảo đồ ăn không thể có màu xanh nước biển. Mẹ và dượng cãi nhau, như bao chuyện nhỏ nhặt khác. Nhưng kể từ đó, mẹ hay tìm thực phẩm màu xanh về ăn: mẹ làm bánh sinh nhật có màu xanh, làm sinh tố xanh từ quả việt quất. Mẹ mua loại tortilla chip làm từ ngô xanh và các loại kẹo xanh từ tiệm về nhà. Dượng Gabe tức điên còn tôi khoái vô cùng.

Chọn đồ ăn màu xanh cộng với việc mẹ giữ họ thời con gái, không lấy họ Ugliano của dượng chứng tỏ mẹ không nhất nhất nghe lời ông ta. Tôi cũng giống mẹ ở chỗ rất có cá tính.

Thấy màn đêm dần buông, chúng tôi cùng nhóm lửa nướng xúc xích và kẹo marshmallow.

Mẹ thủ thỉ kể tôi nghe nhiều chuyện thời thơ ấu của mẹ, cả những chuyện xảy ra trước khi ông bà ngoại tôi mất vì tai nạn máy bay. Mẹ còn kể cho nghe về những cuốn sách mẹ muốn viết một khi mẹ có đủ tiền và nghỉ việc ở cửa hàng kẹo.

Cuối cùng, tôi lấy hết can đảm nêu thắc mắc đeo bám tôi mỗi lần đến nghỉ ở Montauk: thắc mắc về cha ruột tôi.

Cặp mắt mẹ mơ màng. Chắc bà sắp nhắc lại câu chyện về cha mà tôi nghe nhiều lần nhưng vẫn muốn nghe nữa.

- Cha con rất tốt bụng, đẹp trai, cao lớn và có uy lắm. Tuy nhiên, ông cũng rất dịu dàng. Con giống cha ở mái tóc đen bóng và màu mắt xanh lá cây tuyệt đẹp.

Tôi đỏ mắt:

- Thôi mà mẹ.

Mẹ vẫn cười cười, làm như bà biết tôi nghĩ gì.

Tôi sẽ ngượng chín nếu phải thú nhân tôi hay ngắm mình trong gương, hình dung mình lớn thêm vài chục tuổi để từ đó có chút khái niệm về diện mạo cha mình.

Mẹ tôi lục tung túi kẹo tìm kẹo màu xanh biển:

- Giá cha nhìn thấy con lúc này. Hẳn ông sẽ tự hào lắm lắm.

Tôi tự hỏi sao mẹ có thể bình thản mà nói thế. Tôi có gì hay ho chứ? Chẳng qua tôi chỉ là học sinh cá biệt vừa mắc chứng hiếu động thái quá vừa bị bệnh khó đọc với tổng kết dưới mức trung bình, đã thế còn phải học lớp sáu những sáu năm và bị đuổi học những sáu lần.

- Hồi ấy, con lên mấy? Lúc cha đi ấy?

Mẹ tôi đăm đăm nhìn ngọn lửa:

- Cha chỉ ở bên mẹ một mùa hè. Ngay trên bãi biển này. Cũng căn nhà gỗ này đây.

- Nhưng… lúc con mới sinh, cha có thấy con mà.

- Không đâu con. Ông biết mẹ sắp sinh nhưng chưa bao giờ thấy con. Ông có việc phải đi trước khi con chào đời.

Tôi định đính chính là: Theo trí nhớ, con biết đôi chút về cha. Cảm giác ấm áp. Và nụ cười của ông.

Tôi luôn cho rằng khi tôi mới rời bụng mẹ, hai cha con có gặp nhau. Dù mẹ không trực tiếp công nhận điều đó, tôi vẫn luôn tin nhất thiết đó phải là sự thật.

Giờ tôi lại nghe nói là cha chưa bao giờ thấy mặt con…

Tự nhiên tôi giận cha quá.

Dẫu biết mình vô lý nhưng tôi vẫn bất mãn vì ông đã vượt biển lần ấy, vì ông không có can đảm cưới mẹ tôi. Nếu cha không bỏ rơi hai mẹ con, đâu đến nỗi giờ chúng tôi phải sống chung nhà với Gabe Cóc Chết, tôi đâu phải học nội trú và chỉ được ở bên mẹ lúc nghỉ hè.

- Năm tới con lại ở nội trú ư? Mẹ định tìm cho con trường khác à?

Mẹ thổi thổi thanh kẹo từ trong đống lửa ra. Giọng bà đầy muộn phiền:

- Cũng chưa biết nữa. Chắc... chắc ta phải tính cách thôi.

- Mẹ không muốn con ở bên mẹ ư?

Tôi hối hận ngay lập tức vì đã trót lỡ lời.

Mắt mẹ ầng ậc nước. Bà nắm tay tôi thật chặt:

- Ôi, không phải vậy đây Percy. Mẹ... mẹ buộc phải làm thế. Vì điều đó tốt cho con nên mẹ mới phải gởi con đi xa như vậy.

Nghe mẹ nói, tôi lại nhớ đến lời thầy Brunner: Tốt nhất tôi nên rời khỏi Học viện Yancy.

- Vì con không được bình thường ư?

- Con nói như thể đó là điều tồi tệ vậy. Nhưng con đâu biết con trai mẹ đặc biệt vô cùng. Mẹ tưởng Học viện Yancy xa xôi như thế sẽ tốt cho con. Mẹ đã nhầm vì tưởng cuối cùng cũng tìm được chỗ an toàn cho con.

- Mẹ nói an toàn là sao? Chẳng lẽ con gặp nguy hiểm gì ư?

Khi ánh mắt chúng tôi gặp nhau, ký ức lại ùa về tràn ngập tâm trí tôi. Từ trước đến giờ tôi gặp nhiều chuyện rất kỳ cục và đáng sợ, trong đó có nhiều chuyện tôi chỉ muốn quên phắt.

Hồi lớp ba, có một ông mặc áo khoác đen to sù sụ theo dõi tôi ngoài sân chơi. Mãi đế khi thầy cô dọa gọi cảnh sát, ông ta mới gầm lên bỏ đi. Tuy nhiên, không ai tin khi nghe tôi kể rằng dưới vành mũ sùm sụp của hắn chỉ có một con mắt ngay giữa trán.

Chưa hết, trước đó rất lâu, hồi tôi học mẫu giáo, đến giờ ngủ trưa cô bảo mẫu vô tình đặt tôi vào cũi có con rắn nằm sẵn trong đó tự lúc nào. Lúc đón con, mẹ tôi thét lên khi thấy toi đang chơi với con rắn dài thậm thượt. Chỉ bằng đôi tay nhr xíu, mũm mĩm, tôi đã thắt nút mình rắn như thắt nút dải ruy băng.

Đến tuổi đi học – những chuyện sởn gai ốc luôn xảy ra. Những chuyện cực kỳ nguy hiểm. Và tôi bị buộc phải chuyển trường.

Dẫu biết nên kể cho mẹ chuyện ba bà già ở sạp trái cây, chuyện cô Dodds ở viện bảo tàng, nhất là màn ảo giác kỳ cục trong đó tôi phanh thây cô giáo thành tro bụi bằng thanh kiếm dài, thế nhưng tôi lại không dám.

Lạ thay, tôi có cảm giác nếu báo tin ấy, chuyến đi Montauk sẽ kết thúc ngay lập tức mà tôi lại không muốn thế chút nào.

- Mẹ cố giữ con càng gần mẹ càng tốt. Nhưng mọi người bảo thế là sai lầm. Nhưng còn có một lựa chọn duy nhất: nơi cha muốn gửi con theo học. Nhưng… mẹ không đành lòng làm thế.

- Cha muốn gửi con đến trường đặc biệt ư?

- Không phải trường. Là trại hè.

Tôi không hiểu gì cả.

Tại sao người cha không ở bên từ khi tôi chào đời có thể bàn với mẹ chuyện đưa tôi đi trại hè? Va nếu chuyện đi trại hè quan trọng đến vậy, tại sao trước nay mẹ chưa từng đả động đến?

Thấy tôi hoang mang, mẹ bảo:

- Xin lỗi con, nhưng mẹ không thể nói với con về trại hè. Mẹ… không thể để con đến đó. Làm thế có nghĩa mẹ con ta sẽ vĩnh viễn không còn gặp mặt nhau.

- Vĩnh viễn ư? Nhưng con tưởng trại hè chỉ…

Mẹ quay mặt đi, chăm cú nhìn đống lửa. Nhìn mặt mẹ, tôi biết chỉ cần tôi hỏi thêm câu nữa, bà sẽ khóc òa.

***

Giấc mơ đêm ấy của tôi sống động như ngoài đời thật.

Ngoài biển mưa gió bão bùng. Hai con vật đẹp như tranh vẽ, một con tuấn mã trắng tuyền và con đại bàng lông như dát vàng, đánh nhau dữ dội sát mép sóng. Đại bàng xà xuống, giương móng vuốt to lớn cào rách mũi chú ngựa trắng. Chú ngựa giận dữ chồm lên, vung chân dá cánh đại bàng. Giữa lúc giao tranh, đất trời rung chuyển. Đâu đó sâu trong lòng đất vang lên tiếng gầm ghê rợn xúi giục chúng lao vào nhau cắn xé.

Tôi chạy về phía chúng và biết mình nhất định phải can ngăn nhưng không hiểu sao chân tôi chạy rất chậm. Tôi biết cứ đà nay, tôi sẽ không kịp mất. Từ xa, tôi thấy đại bàng nhào xuống mổ lòi mắt chú ngựa bạch. Tôi thét lên: “Đừng!”

Tôi giật mình choàng tỉnh.

Bên ngoài đang có bão thật. Gió mạnh cỡ này chắc chắn phải có cây đổ, nhà sập chứ chẳng chơi.

Ngoài bãi cát không có tuấn mã và đại bàng, chỉ có sấm chớp chốc chốc rực sáng cả bầu trời. Những ngọn sóng cao sáu mét dội vào đụn cát nghe như tiếng đại bác.

Mẹ tôi thức giấc sau loạt sấm rền. Bà ngồi dậy, mắt mở to, nhìn tôi âu lo:

- Bão nhiệt đới.

Tôi biết chuyện này thật điên rồ. Mới đầu hè, biển ở Long Island không bao giờ có bão lớn như thế. Thế nhưng, đại dương dường như đã quên điều đó.

Trong tiếng gió hú, tôi nghe có tiếng gầm gừ từ xa vọng tới. Tiếng kêu nghe đau đớn, vật vã làm tôi sởn cả tóc gáy.

Sau đó là tiếng động tiến đến gần hơn, nghe như tiếng búa nện trên cát. Một giọng nói tuyệt vọng – ai đó vừa hét vừa đập vào cửa căn nhà gỗ.

Mẹ tôi mặc nguyên váy ngủ lao xuống đất, chạy ra mở cửa.

Grover ướt như chuột lột hiện trên khung cửa. Nhưng hình như... cậu ta không phải Grover, bạn tôi.

Nó hổn hển:

- Tôi kiếm hai mẹ con suốt đê. Các người nghĩ sao mà ra đây thế?

Mẹ nhìn tôi hoảng hốt. Bà không sợ Grover. Lý do nó đến tìm mới làm bà kinh hãi.

Tiếng mẹ gào át cả tiếng mưa:

- Percy! Ở trường đã xảy ra chuyện gì? Con đã không kể cho mẹ nghe chuyện gì?

Tôi chết sững, mắt nhìn Grover đăm đăm nhưng không hiểu trước mắt mình là cái gì.

Nó gào lên:

- Những Kẻ Bất Tử! Nó đuổi sát tôi rồi. Cậu chưa kể với mẹ ư?

Tôi sốc thực sự khi nghe nó mắng bằng tiếng Latinh. Tôi hiểu nó vừa nói gì nhưng quá kinh ngạc vì không biết bằng cách nào Grover tìm đến tận đây giữa đêm hôm khuya khoắt. Với lại, Grover không mặc quần. Chân nó... chỗ lúc trước là chân nó thì...

Mẹ nghiêm khắc nhìn tôi và lần đầu tiên đanh giọng ra lệnh:

- PERCY! Nói cho mẹ NGAY.

Tôi lắp bắp kể về ba bà già ở sạp trái cây và về cô Dodds. Mẹ nhìn chằm chằm vào tôi, mặt bà tái nhợt như thây ma trong ánh sáng lập loe.

Bà chộp lấy túi xách và quăng áo mưa cho tôi:

- Ra xe ngay. Cả hai đứa. NHANH LÊN!

Grover chạy ra chiếc Camaro. Nói chạy cũng không đúng, nó đang phi nước đại. Phần thân sau lông lá gân guốc của nó rung rung. Giờ tôi mới nhớ nó bảo có bệnh về cơ. Tôi đã hiểu lý do nó chạy thì nhanh nhưng đi bình thường lại như bị tật.

Bởi vì chỗ đáng lẽ phải có bàn chân lại thay bằng cặp móng guốc.
 
×
Quay lại
Top