Emily trên dải cầu vồng - Lucy Maud Montgomery

Chương 20: Trong nhà cũ của John
Khi Người phụ nữ từng đét mông đức vua được chấp thuận và đăng tải trên một tạp chí New York khá danh tiếng, cả làng Hồ Blair và Shrewsbury đã xôn xao không ít, nhất là khi người ta thầm thì rỉ tai báo cho nhau tin tức khó có thể tin nổi, rằng Emily quả thực đã được trả nhuận bút bốn mươi đô la. Lần đầu tiên trong đời, họ hàng cô bắt đầu xem xét niềm say mê viết lách của cô với một thái độ khá nghiêm túc, rồi cuối cùng và mãi mãi, bà Ruth đành từ bỏ hết thảy mọi lời gièm pha về chuyện lãng phí thời gian. Tin chấp thuận này đến đúng thời điểm tâm lý phù hợp, khi lòng tin của Emily đã xuống thấp đáng kể. Suốt cả mùa thu rồi mùa đông, mọi tác phẩm của cô đều bị gửi trả lại, chỉ trừ những tác phẩm gửi cho hai tạp chí mà tòa soạn ắt hẳn cho rằng văn chương bản thân nó đã là giải thưởng và chẳng mấy liên quan đến những cân nhắc sặc mùi tiền bạc làm giảm giá trị của nó. Ban đầu, cô luôn cảm thấy khổ sở vật vã mỗi khi một bài thơ hoặc câu chuyện thấm đẫm nỗ lực của cô lại bị trả về kèm theo một mẩu giấy từ chối lạnh lùng hay một đôi lời ca ngợi nhạt nhòa – những sự từ chối “nhưng mà”, Emily gọi chúng như vậy, và căm ghét chúng hơn cả những thư từ chối được đánh máy. Nước mắt tuyệt vọng đã rơi. Nhưng một thời gian sau, cô càng lúc càng trở nên cứng cỏi, và không còn phiền muộn… quá nhiều… nữa. Cô chỉ nhìn lá thư của tòa soạn ấy bằng vẻ Murray và nói “Tôi sẽ thành công”. Và chưa một giây phút nào cô thật tâm nghi ngờ chuyện mình sẽ thành công. Trong sâu thẳm, tận đáy lòng, một cái gì đó nhắc nhủ cô rằng rồi có lúc, sẽ đến thời của cô. Vậy nên, dẫu nhất thời nao núng trước mỗi sự từ chối ấy, giống như khi chùn bước trước ngọn roi quất nhẹ, cô vẫn ngồi xuống và… viết một câu chuyện khác.

Dẫu vậy, tiếng nói nội tâm của cô càng lúc càng yếu ớt dưới tác động của bao nhiêu sự nản lòng như thế. Bằng việc Người phụ nữ từng đét mông đức vua được chấp thuận, tiếng nói ấy đột nhiên lại được nâng lên thành một bài ca tụng hân hoan mạnh mẽ. Tấm séc mang ý nghĩa lớn lao thật đấy, nhưng sức công phá của tờ tạp chí ấy còn mang ý nghĩa mãnh liệt hơn nhiều. Cô cảm thấy chắc chắn mình sẽ đạt được một chỗ đứng vững vàng. Thầy Carpenter cười khúc khích suốt khi đọc truyện và bảo cô rằng nó thực sự “xuất sắc không chê vào đâu được”.

“Phần đặc sắc nhất trong câu chuyện này là của bà McIntyre đấy ạ,” Emily rầu rĩ nói. “Con không thể gọi nó là tác phẩm của con được.”

“Bố cục là của trò; và những thêm thắt của trò hài hòa đến mức hoàn hảo với nền móng trò xây dựng. Và trò không đánh bóng thái quá câu chuyện của bà ấy; điều đó đã cho thấy tố chất của người nghệ sĩ. Trò có bị h.am m.uốn đó cám dỗ không?”

“Có chứ ạ. Có rất nhiều chỗ con cho rằng con có thể trau chuốt lên rất nhiều.”

“Nhưng trò đã không tìm cách làm thế; chính điều đó đã khiến nó thành tác phẩm của trò,” thầy Carpenter nói, rồi để cô lại một mình giải mã ý nghĩa câu nói của ông.

Emily tiêu ba mươi lăm đô la trong số tiền nhận được một cách hợp lý đến nỗi ngay cả bà Ruth cũng không thể tìm ra sai lầm nào ở tiền quỹ của cô. Nhưng với năm đô la còn lại, cô đã dùng để mua một bộ Parkman. Bộ này còn hay hơn nhiều so với bộ được đưa ra làm giải thưởng – thực ra là bộ được nhà tài trợ chọn lọc từ một danh sách đặt hàng qua bưu điện; và Emily cảm thấy tự hào hơn nhiều so với việc giành được nó nhờ chiến thắng trong một cuộc thi tài. Xét cho cùng, tự mình mua được đồ cho mình thì bao giờ mà chẳng hay hơn. Emily vẫn còn giữ những tập Parkman ấy; bây giờ đã có phần cũ sờn và chữ in không còn sắc nét nữa, nhưng lại thân thương với cô hơn tất cả những tác phẩm khác trong thư viện của cô. Suốt mấy tuần liền, cô chìm trong cảm giác hạnh phúc và hưng phấn. Người nhà Murray tự hào về cô. Hiệu trưởng Hardy khen ngợi cô, một nhà diễn thuyết địa phương khá tiếng tăm đã đọc truyện của cô tại một buổi hòa nhạc ở Charlottetown. Và, tuyệt vời hơn hết thảy, một độc giả từ Mexico xa xăm đã viết thư cho cô, bày tỏ niềm vui thích mà Người phụ nữ từng đét mông đức vua mang lại cho ông ta. Emily đọc đi đọc lại bức thư cho tới khi thuộc nằm lòng nội dung, và nhét nó xuống dưới gối mỗi khi đi ngủ. Chưa từng có một bức thư tình nào được đối xử bằng thái độ âu yếm hơn mức đó.

Rồi vụ căn nhà cũ của ông John xảy đến như một đám mây dông, làm tối sầm toàn bộ bầu trời xanh ngắt của cô.

Một tối thứ Sáu, một buổi hòa nhạc và “giao lưu” đã được tổ chức ở Ao Thành Kiến và Ilse được mời lên đọc thơ. Bác sĩ Burnley chở Ilse, Emily, Perry và Teddy trên chiếc xe trượt rộng rãi của ông, và họ đã đánh xe suốt tám dặm đường băng qua màn tuyết nhẹ vừa bắt đầu giăng trong bầu không khí vui vẻ rộn ràng. Nửa chừng buổi hòa nhạc, bác sĩ Burnley bị gọi ra ngoài. Trong một gia đình ở Ao Thành Kiến, có một người đột nhiên lâm bệnh nặng. Bác sĩ rời đi, dặn Teddy phải đánh xe đưa cả nhóm về nhà. Bác sĩ Burnley không hể nghi ngại khi đưa ra quyết định này. Ở Shrewsbury và Charlottetown, người ta có không ít quy định ngu ngốc về chuyện hộ tống các thiếu nữ, nhưng ở Hồ Blair và Ao Thành Kiến thì không. Teddy và Perry là những chàng trai tử tể; Emily là một người mang dòng máu Murray; Ilse không phải kẻ ngốc. Ngài bác sĩ hẳn sẽ đúc rút một cách ngắn gọn về họ như thế nếu ông suy nghĩ về vấn đề này.

Kết thúc buổi hòa nhạc, họ lên đường về nhà. Lúc này tuyết đang rơi dày và gió cuồn cuộn thổi, nhưng ba dặm đường đầu tiên, nhóm bạn đi dưới sự che chở của rừng cây và cũng không thiếu phần thú vị. Một vẻ đẹp hoang dã bí hiểm trùm khắp những hàng cây khoác áo choàng tuyết đang đứng dưới ánh sáng bằng bạc của vầng trăng nấp sau những đám mây dông. Chiếc chuông đeo trên cổ con ngựa kéo xe trượt tuyết rung lên ngạo nghễ trước tiếng gió rít gào xa tít trên không trung. Teddy dễ dàng điều khiển cỗ xe ngựa của ngài bác sĩ. Có những lúc, Emily đồ rằng cậu chỉ đánh xe bằng một tay. Cô băn khoăn mãi không biết liệu cậu có để ý thấy tối hôm đó cô đã lần đầu tiên bới tóc thật “cao”, thành một búi tóc đen như gỗ mun bên dưới chiếc mũ đỏ thẫm. Một lần nữa, Emily lại thấy chuyện gió bão cũng có gì đó khá thú vị.

Tuy nhiên, đến khi họ ra khỏi rừng thì rắc rối bắt đầu. Cơn bão ào ạt xô về phía họ trọn vẹn cơn cuồng nộ của nó. Con đường mùa đông cắt ngang các cánh đồng, uốn lượn quanh co khúc khuỷu với những khúc cua tay áo vào vào ra ra rồi lượn quanh các ngóc ngách, các khoảnh vân sam – một con đường hẳn sẽ “làm gãy lưng rắn”, như cách nói của Perry. Con đường gần như đã bị tuyết bịt kín và đàn ngựa bị lún xuống tới tận đầu gối. Còn chưa đi được một dặm thì Perry đã mất hết nhuệ khí mà rít lên.

“Chúng ta không thể nào về đến Hồ Blair trong tối nay được đâu, Ted.”

“Chúng ta phải kiếm chỗ nào đó thôi,” Ted hét to. “Chúng ta không thể hạ trại ở đây được. Mà chẳng có ngôi nhà nào đâu, trừ phi chúng ta quay về được con đường mùa hè ở phía bên kia đồi Shaw. Rúc sâu vào trong áo choàng đi nhé, các cô gái. Cậu vào trong với Ilse đi thì hơn, Emily ạ, còn Perry sẽ ra đây ngồi với tớ.”

Sự chuyển giao này đã phát huy tác dụng, Emily không còn cảm thấy cơn bão thú vị như trước nữa. Cả Perry lẫn Teddy đều vô cùng lo ngại. Họ biết rõ lũ ngựa sẽ không thể tiến xa quá khi tuyết dày đặc thế này; con đường mùa hè phía bên kia đồi Shaw sẽ bị tuyết bịt kín, và trên những ngọn đồi cao trống trải nằm giữa các thung lũng của Ao Thành Kiến và Hồ Blair, không khí lạnh căm căm.

“Chỉ cần đến được chỗ Malcolm Shaw là chúng ta sẽ ổn cả thôi,” Perry lầm bầm.”

“Chúng ta chẳng thể nào đi xa đến thế được đâu. Đến giờ thì quả đồi nhà Shaw đã ngập đến tận đỉnh hàng rào rồi ấy chứ,” Teddy nói. “Ngôi nhà cũ của ông John ở ngay đây này. Cậu thấy chúng ta có ở lại đây được không?”

“Lạnh như cái chuồng ngựa ấy,” Perry nói. “Hai cô gái sẽ đóng băng mất thôi. Chúng ta phải cố gắng đến cho được chỗ ông Malcolm.”

Khi lũ ngựa lặn lội được đến chỗ con đường mùa hè, hai cậu bé chỉ cần liếc mắt đã nhận ra ngay quả đồi nhà ông Shaw là một phương án vô vọng. Mọi dấu vết của con đường đã bị lớp tuyết đang trùm lên cả đỉnh hàng rào xóa sạch. Các cột điện thoại bị gió quật đổ lạc sang tận phía bên kia đường, và một cây to đổ xuống chắn ngang lỗ hổng thông từ con đường đồng ra đường cái.

“Chẳng thể làm được gì ngoài cách quay lại ngôi nhà cũ của ông John,” Perry nói. “Chúng ta không thể lang thang trên đồng ngược chiều cơn bão này để tìm đường băng tới chỗ đồi nhà Malcolm được. Thể nào chúng ta cũng mắc kẹt và chết cóng mất.”

Teddy đánh ngựa vòng lại. Tuyết rơi dày đặc hơn bao giờ hết. Mỗi phút trôi qua, lớp tuyết đóng trên mặt đất lại càng dày hơn. Dấu vết con đường đã hoàn toàn biến mất, và nếu ngôi nhà cũ của ông John ở cách đó quá xa thì ắt hẳn nhóm bạn sẽ chẳng bao giờ tìm thấy nó. May mắn thay, ngôi nhà lại ở ngay gần đó, và sau chặng đường cuối cùng loạng choạng băng qua lớp tuyết rắn chắc, có lúc khiến hai cậu con trai phải rời khỏi xe dò dẫm đi bộ, nhóm bạn đã tiến được đến khoảng đất trống nhỏ tương đối yên bình giữa rừng vân sam non, nơi tọa lạc ngôi nhà của ông John.

“Ngôi nhà cũ của ông John” vốn đã cũ kỹ từ bốn mươi năm trước, hồi John Shaw chuyển đến cùng cô dâu trẻ tuổi của mình. Kể từ hồi đó, ngôi nhà đã trở thành một chốn hiu quạnh, cách xa đường cái, và gần như mất hút dưới sự bao bọc của rừng vân sam. Ông John Shaw từng sống ở nơi này năm năm; sau đó vợ ông qua đời; ông bèn bán trang trại cho người em Malcolm và chuyển tới miền Tây. Ông Malcolm trồng trọt trên khu đất và tu sửa kha khá kho thóc nhỏ, nhưng riêng ngôi nhà thì từ thời đó đến giờ vẫn chưa từng có ai đến ở, chỉ trừ vài tuần mùa đông, mấy người con trai của ông Malcolm đến nghỉ tạm trong thời gian họ “ra ngoài kiếm củi”. Ngôi nhà thậm chí còn chẳng bị khóa. Ở Ao Thành Kiến, người ta chẳng tìm đâu ra kẻ trộm cắp và người lang thang. Nhóm người lỡ độ đường của chúng ta dễ dàng tìm thấy đường vào qua cánh cửa của mái hiên xập xệ, và ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm nhận ra mình đã thoát khỏi cơn gió đang rít gào và trận bão tuyết đang quay cuồng.

“Dù sao đi nữa chúng ta cũng không chết cóng được,” Perry nói. “Ted và tớ sẽ tìm cách cho lũ ngựa vào trong kho thóc rồi sau đó sẽ quay lại xem liệu chúng ta có thu xếp thoải mái cho mình được không. Tớ có diêm đây rồi mà tớ thì trước nay chưa từng lâm vào thế bí bao giờ.”

Perry chẳng gặp mấy khó khăn trong việc chứng minh lời khoe khoang của mình. Que diêm được cậu thắp sáng chiếu tỏ hai cây nến cháy dở cắm trong giá nến thấp bằng thiếc, một cái lò sưởi Waterloo cổ lỗ dù rạn nứt và han gỉ nhưng vẫn tương đối sử dụng được, cộng thêm ba cái ghế tựa, một cái ghế dài, một cái sofa và một cái bàn.

“Chuyện này thì có gì không ổn đâu nhỉ?” Perry cật vấn.

“Mọi người ở nhà sẽ lo lắng cho chúng ta lắm lắm, có vậy thôi,” Emily vừa nói vừa rũ cho tuyết rơi khỏi quần áo khoác.”

“Họ chẳng chết vì lo lắng sau một tối được đâu,” Perry nói. “Dù sao thì mai chúng ta cũng về được nhà rồi.”

“Còn từ giờ đến lúc đó thì đây quả là một chuyến phiêu lưu,” Emily bật cười. “Hãy cố hết sức tận hưởng vui thú từ nó đi nào.”

Ilse không nói gì; mà với Ilse thì như thế quả tình rất kỳ quặc. Nhìn sang, Emily nhận thấy cô bạn đang xanh như tàu lá, và cô chợt nhớ ra từ lúc họ rời khỏi hội trường buổi hòa nhạc, Ilse đã yên lặng đến là bất thường.

“Cậu không sao đấy chứ, Ilse?” cô lo lắng hỏi.

“Tớ không ổn chút nào cả,” Ilse nói, kèm theo nụ cười nhợt nhạt. “Tớ… tớ mệt mỏi và buồn nôn,” cô bổ sung bằng giọng mãnh liệt chứ không hề tao nhã.

“Ôi, Ilse…”

“Đừng có bốc hỏa lên,” Ilse mất kiên nhẫn nói. “Tớ không nhiễm bệnh viêm phổi hay viêm ruột thừa đâu. Tớ chỉ buồn nôn thôi. Có lẽ tại cái bánh tớ ăn ở buổi hòa nhạc ấy ngậy quá. Nó làm cái dạ dày bé nhỏ của tớ lộn tùng phèo cả lên rồi. Ọe…. e…e.”

“Cậu nằm xuống sofa đi,” Emily hối thúc. “Có lẽ cậu sẽ thấy khá hơn đấy.”

Khổ sở nhún vai, Ilse nằm xuống. “Đau bụng” không phải một vụ ốm đau vớ vẩn viển vông mà cũng chẳng phải trận ốm nặng đe dọa đến tính mạng, nhưng chắc chắn trong thời gian nhiễm bệnh, bệnh nhân sẽ bị nó hút cạn mọi nhiệt tình hứng khởi.

Cánh con trai tìm thấy một thùng củi đầy phía sau lò sưởi, bèn nhanh chóng đốt được một đống lửa bập bùng. Perry cầm lấy một cây nến và đi thám hiểm ngôi nhà nhỏ. Trong một căn phòng nhỏ thông từ bếp ra, có một cái gi.ường khung gỗ theo kiểu cổ phủ tấm đệm bện bằng dây thừng. Căn phòng khác – thời xưa từng là phòng khách của Almira Shaw – ngập lưng lửng rơm yến mạch. Trên gác chẳng có gì ngoài sự trống trải và bụi bặm. Nhưng Perry đã khám phá ra vài thứ trong cái chạn nhỏ.

“Ở đây có một hộp thịt lợn và đậu,” cậu thông báo, “và nửa hộp bánh quy nữa. Tớ đã tìm thấy bữa sáng cho chúng ta rồi. Hẳn là mấy người con trai nhà Shaw đã bỏ chúng lại đây. Gì nữa này?”

Perry mang ra một cái chai nhỏ, mở nút và ngửi khịt khịt vẻ nghiêm trọng.

“Whisky, chắc như bắp. Không nhiều, nhưng cũng đủ đấy. Thuốc của cậu đây rồi này, Ilse. Pha vào một ít nước nóng, rồi nhoắng cái là nó sẽ làm bụng cậu êm như ru luôn.”

“Tớ ghét vị whisky,” Ilse rên rỉ. “Cha tớ chẳng bao giờ uống thứ đó… cha không thích whisky.”

“Bác Tom thì có đấy,” Perry nói, như thể nói thế là xong chuyện vậy. “Nó là phương thuốc đảm bảo đấy. Cứ thử mà xem.”

“Nhưng làm gì có nước chứ,” Ilse nói.

“Vậy thì cậu cứ thế mà uống thôi. Trong chai này chỉ còn khoảng hai thìa con thôi. Cứ thử xem. Nếu không chữa khỏi thì nó cũng chẳng giết chết cậu đâu mà lo.”

Ilse tội nghiệp đang đau đớn khổ sở quá mức, đâm ra cô sẵn sàng dùng bất cứ thứ gì, trừ thuốc độc, chỉ cần cô cho rằng nó có khả năng giúp cô khá hơn. Cô bò ra khỏi sofa, ngồi xuống một cái ghế trước lò sưởi và uống liều thuốc này. Đây là loại whisky vừa mạnh vừa ngon, Malcolm Shaw có thể nói cho bạn biết thế. Và theo ý tôi thực ra trong chai không chỉ còn có hai thìa con, mặc dù Perry luôn nhất mực quả quyết rằng không thể nhiều hơn được. Ilse cuộn người ngồi trên ghế thêm mấy phút nữa, sau đó đứng dậy, ngập ngừng đặt tay lên vai Emily.

“Cậu có thấy không ổn chỗ nào không?” Emily lo lắng hỏi.

“Tớ… tớ say rồi,” Ilse nói. “Giúp tớ quay lại sofa đi. Tớ sắp ngã khuỵu xuống rồi. Gã Scotland ở Malvern nào từng nói rằng gã chẳng bao giờ say rượu nhưng whisky lúc nào cũng chôn trong đầu gối gã ấy nhỉ? Nhưng whisky của tớ thì còn ở cả trong đầu tớ nữa. Nó đang quay mòng mòng đây này.”

Cả Perry lẫn Teddy đều vọt tới giúp cô, và dưới sự kèm cặp của hai người, cô Ilse đang chân nam đá chân chiêu đã trở về tư thế an toàn trên sofa.

“Chúng tớ có làm gì được không?” Emily khẩn nài.

“Đã làm nhiều lắm rồi còn gì,” Ilse nói với vẻ phi thường trang nghiêm. Cô nhắm mắt lại và dẫu ai khẩn khoản đến thế nào cô cũng chẳng hề đáp lời. Cuối cùng, đành phải thấy rằng tốt hơn hết là cứ để mặc cô đấy.

“Cậu ấy ngủ một giấc là xong ấy mà, và đằng nào đi nữa, tớ đoán là nó sẽ giúp bụng dạ cậu ấy ổn định lại thôi,” Perry nói.

Emily chẳng tài nào nhìn nhận sự việc bằng thái độ bình thản thế được. Mãi nửa tiếng sau, khi tiếng thở êm ái của Ilse chứng tỏ cô quả thực đã ngủ say, Emily mới bắt đầu nhấm nháp mùi vị chuyến “phiêu lưu”. Gió quần quật quanh ngôi nhà cũ, lắc cửa sổ rung lên cành cạch như thể đang điên cuồng phẫn nộ vì các bạn trẻ đã thoát khỏi móng vuốt của nó. Thật dễ chịu xiết bao khi được ngồi trước lò sưởi, lắng nghe giai điệu hoang dã của cơn bão bại trận; thật dễ chịu xiết bao khi nghĩ về quãng đời đã qua của ngôi nhà cũ đã chết này, trong những tháng năm nó vẫn còn ngập tràn tình yêu và tiếng cười; thật dễ chịu xiết bao khi chuyện trò cùng Perry và Teddy về đủ mọi thứ trên đời, dưới ánh nến chập chờn; thật dễ chịu xiết bao khi thỉnh thoảng lại được ngồi lặng im, chăm chăm nhìn ánh lửa đang nhấp nháy đầy mê hoặc đang chiếu trên vầng trán trắng như sữa cùng đôi mắt mơ màng ám ảnh của Emily. Bất chợt nhìn lên, một lần nữa Emily phát hiện ra Teddy đang nhìn cô bằng ánh mắt lạ kỳ. Trong một thoáng, ánh mắt hai người giao nhau và dẫu hai ánh mắt chỉ giam cầm nhau trong thoáng chốc, nhưng vẫn đủ khiến Emily mãi mãi không bao giờ trở về con người cũ được nữa. Cô sửng sốt không hiểu đã có chuyện gì. Từ nơi nào mà tuôn trào ngọn sóng ngọt ngào khôn tả dường như đã nuốt trọn cả tâm hồn lẫn thể xác cô đây? Cô run rẩy… cô sợ hãi. Dường như nó đã mở bung những tiềm năng thay đổi đủ khiến người ta choáng váng. Suy nghĩ mạch lạc duy nhất hiện lên từ tâm trí hỗn loạn của cô là cô muốn được cùng Teddy ngồi trước ánh lửa như thế này mỗi tối cho đến tận cuối đời; và mặc xác bão với bùng! Cô không dám nhìn Teddy lần nữa, nhưng cô run lên bởi cảm giác ngọt ngào về sự gần gũi của cậu; cô ý thức một cách sâu sắc về dáng người cao ráo thẳng tắp trẻ trung của cậu, về mái tóc đen bóng mượt, đôi mắt xanh sẫm long lanh của cậu. Từ trước tới giờ, cô vẫn luôn biết rõ mình yêu quý Teddy hơn bất kỳ sinh vật giống đực nào lọt vào tầm mắt; nhưng đây là một cảm xúc khác hẳn so với yêu quý thông thường; cảm giác thân thuộc với cậu như máu thịt này đã nảy sinh cùng sự trao đổi ánh mắt đầy ý nghĩa ấy. Đột nhiên, cô dường như hiểu rõ lý do tại sao cô luôn lạnh nhạt với bất kỳ cậu trai nào ở trường trung học mong muốn được thành bồ của cô. Sự hân hoan của câu thần chú vừa đột ngột hạ trên người cô quá choáng ngợp đến độ cô không thể không phá vỡ nó. Cô vụt đứng dậy bước đến bên cửa sổ. Tiếng tuyết thì thầm huýt khẽ bên những giọt băng trắng xanh đậu trên bệ cửa dường như đang nhẹ nhàng tỏ ý khinh thị trước nỗi hoang mang của cô. Ba đụn cỏ khô to lợp tuyết hiện lên lờ mờ nơi góc kho, dường như đang cười rung bần bật trước tình thế khó xử của cô. Lửa trong lò phản chiếu ra bên ngoài khoảng đất trống có phần giống như đống lửa mừng của loài yêu tinh đang cười cợt dưới gốc linh sam. Đằng sau nó, phía bên kia khu rừng, là những khoảng trống khôn dò thấu của cơn bão trắng xóa. Trong một thoáng, Emily thầm ước sao cô được ở ngoài trời giữa vòng vây của chúng; ở ngoài đó, để được giải thoát khỏi sự giam cầm của niềm hân hoan đáng sợ đã bất ngờ vô duyên vô cớ biến cô thành tù nhân – cô, con người vốn căm ghét mọi ràng buộc.

“Liệu có phải mình yêu Teddy rồi hay không?” cô nghĩ. “Không phải đâu… không phải thế đâu.”

Perry, không hề ý thức được hết thảy vấn đề chớp nhoáng đã xảy ra giữa Teddy và Emily, ngáp dài và vươn người.

“Có lẽ tốt hơn hết chúng ta nên kiếm cỏ khô đi thôi; nến sắp cháy hết rồi. Tớ cho là chúng ta có thể lấy rơm làm một cái gi.ường ngon lành thực sự đấy, Ted ạ. Mang đủ ra ngoài kia rồi chất lên khung gi.ường để làm cho các cô gái một chỗ ngủ dễ chịu thôi. Phủ lên trên bằng một trong những tấm thảm lông kia nữa là sẽ không đến nỗi quá tệ đâu. Tôi nay chúng ta thể nào cũng có những giấc mơ đẹp cho xem, đặc biệt là Ilse. Không biết cậu ấy đã tỉnh rượu chưa?”

“Tớ đã có cả rổ giấc mơ để đem bán đây rồi,” Teddy nói, có chút khác lạ, trong giọng nói và thái độ toát lên một niềm hân hoan mới mẻ không tài nào cân đong đo đếm được. “Cậu thiếu gì nào? Cậu thiếu gì đây? Một giấc mơ về thành công; giấc mơ phiêu lưu; giấc mơ về biển cả; giấc mơ về miền rừng; bất kỳ giấc mơ nào cậu muốn với cái giá hợp lý, kể cả một vài cơn ác mộng vặt vãnh độc nhất vô nhị. Cậu sẽ lấy gì để đổi lấy một giấc mơ đây?”

Emily quay lại; nhìn cậu không chớp mắt một hồi; và rồi quên hết thảy mọi nỗi xúc động và bất an để chìm trong nỗi khát khao cuồng nhiệt có một cuốn sổ Jimmy. Như thể câu hỏi của cậu, “Cậu sẽ lấy gì để đổi lấy một giấc mơ đây?” là một phương thức nhiệm mầu mở tung căn phòng nào đó vốn bị niêm phong trong trí óc cô, để cô nhìn thấy hiển hiện ngay trước mắt ý tưởng sáng chói cho một câu chuyện trọn vẹn, thậm chí đến cả cái tên cũng có – Người bán giấc mơ. Kể từ lúc đó cho tới hết buổi tối, Emily chẳng nghĩ về bất kỳ điều gì khác.

Hai chàng trai đã bỏ ra chỗ cái trường kỷ lót rơm, còn Emily, sau khi quyết định để mặc Ilse – có vẻ chừng nào còn ngủ thì chừng đó vẫn được thoải mái trên chiếc sofa – bèn nằm xuống cái gi.ường trong căn phòng nhỏ. Nhưng không phải để ngủ. Cô chưa bao giờ cảm thấy tỉnh táo không chút buồn ngủ hơn lúc này. Cô không muốn ngủ. Cô đã quên béng mất chuyện mình yêu Teddy; cô quên hết thảy mọi thứ, chỉ giữ lại cái ý tưởng tuyệt với; chương nối tiếp chương; trang kéo theo trang, nó cứ thế trải mình ra trước mắt cô trong bóng tối. Các nhân vật của cô sống, cười đùa, trò chuyện, sinh hoạt, vui sướng và đau khổ; cô nhìn thấy họ trên cái phông nền cơn bão ấy. Hai gò má cô bừng cháy, trái tim đập thình thịch, toàn thân râm ran bởi cảm hứng sáng tạo ngây ngất, một niềm hân hoan tuôn trào như thác lũ, như thể từ trong sâu thẳm tâm hồn, dường như tách biệt hoàn toàn với hết thảy mọi sự vật sự việc nơi trần thế. Ilse đã say vì món whisky Scotland bị bỏ quên của Malcolm Shaw, còn Emily bị say ngất ngây vì thứ rượu bất tử.
 
Chương 21: Một giọt máu đào hơn ao nước lã
Mãi tới gần sáng Emily mới chợp mắt được. Bão đã tan và cảnh vật quanh nhà cũ của ông John toát lên vẻ ma mị dưới ánh trăng đang lặn khi cuối cùng cô cũng trôi vào giấc ngủ, mang theo niềm vui vì đã hoàn thành công việc; vì cô đã nghĩ xong về câu chuyện của mình. Giờ thì chẳng còn phải làm gì nữa, chỉ cần ghi lại cốt truyện vào cuốn sổ Jimmy thôi. Cô sẽ không cảm thấy an ổn chừng nào còn chưa viết được chúng ra giấy trắng mực đen. Cô sẽ không tìm cách viết truyện này ngay bây giờ; ồ, sẽ không viết cho tới nhiều năm nữa. Cô sẽ phải đợi cho tới khi thời gian và kinh nghiệm biến ngòi bút của cô thành công cụ có khả năng mang sự công bằng đến cho nhận thức của cô – bởi vì theo đuổi ý tưởng suốt cả một đêm xuất thần là điều quan trọng, nhưng cũng quan trọng không kém là ghi lại ý tưởng đó ra giấy theo một bút pháp sẽ tái tạo được một phần mười sức quyến rũ và ý nghĩa ban đầu của nó.

Emily bị đánh thức bởi Ilse, lúc này đang ngồi bên mé gi.ường, trông nhợt nhạt và tiều tụy, nhưng đôi mắt màu hổ phách lại tràn ngập niềm vui không thể chế ngự.

“Chà, ngủ một giấc xong là tớ rũ sạch cơn trác táng rồi, Emily Starr ạ. Và sáng nay dạ dày tớ ổn định. Món rượu whisky của ông Malcolm đã làm nó yên ổn rồi; dẫu rằng theo ý tớ thì ba phần khổ vì bệnh còn bảy phần khổ vì phương thuốc ấy đấy. Có lẽ cậu vẫn băn khoăn không hiểu tại sao tối qua tớ chẳng chuyện trò gì.”

“Tớ nghĩ cậu say quá rồi chẳng trò chuyện gì được,” Emily thẳng thắn nói.

Ilse cười khúc khích.

“Có mà tớ say quá rồi nên không thể không nói ấy chứ. Lúc đến chỗ sofa, tớ đã qua cơn choáng váng rồi và tớ muốn nói, Emily ạ; chao ôi, tớ muốn nói! Và tớ muốn nói những chuyện ngu ngốc nhất, kể ra hết những điều tớ biết hay suy nghĩ. Chỉ có điều, tớ vẫn còn đủ lý trí để biết rõ rằng tớ không được phép nói những chuyện đó, nếu không tớ sẽ vĩnh viễn biến mình thành con ngốc; và tớ cảm thấy nếu tớ nói dù chỉ một lời thì nó cũng sẽ chẳng khác nào vừa tháo nút chai; tất cả sẽ tuôn ra tồng tộc. Vậy nên tớ khóa miệng lại, không nói năng gì. Tớ rùng cả mình khi nghĩ đến những chuyện mình có thể đã nói… và nói trước mặt Perry nữa chứ. Cậu sẽ không bao giờ còn bắt gặp Ilse bé bỏng chè chén lu bù nữa đâu. Từ hôm nay trở đi, tớ sẽ sửa mình.”

“Tớ chỉ không hiểu được,” Emily nói, “làm sao mà với cái gì cũng vậy, chỉ cần một lượng nhỏ xíu như thế cũng khiến đầu óc cậu đảo lộn hết cả lên.”

“Ôi chao, cậu biết mẹ tớ là một người nhà Mitchell rồi còn gì. Ai mà chẳng biết người nhà Mitchell chỉ cần nhấp một thìa rượu là đã ngã lăn cu chiêng ra rồi. Đó chính là một trong những trở ngại mang tính dòng họ đấy. Nào, tỉnh táo lên, tình yêu của tôi, người bạn thẳng thắn của tôi. Cánh con trai đang đốt lửa rồi, và Perry nói chúng ta có thể chế được một bữa ngon lành từ thịt lợn, đậu và bánh quy. Tớ đói ngấu đến nỗi có thể ăn sạch bách cả hộp đây này.”

Chính lúc Emily khua khoắng trong chạn tìm ít muối, cô đã có một khám phá vĩ đại. Ở tận trong góc ngăn chạn trên cùng, có một chồng sách cũ bụi bặm, hẳn là từ thời ông bà John và Almira Shaw – những sổ sách kế toán, niên giám, nhật ký mốc meo cũ rích. Emily lôi chồng sách xuống và khi nhặt lên xem, cô phát hiện ra trong đó có một cuốn sổ lưu bút cũ. Một tờ giấy xộc xệch long cả ra ngoài. Khi Emily đặt tờ giấy về chỗ cũ, đôi mắt cô rơi xuống tên bài thơ được dán lên trên. Cô cầm bài thơ lên, và lập tức hơi trở nên dồn dập hẳn. Huyền thoại Abegweit – bài thơ đã giúp Evelyn giành giải thưởng! Nó nằm đây, trong cuốn lưu bút ngả vàng cũ kỹ đã ít nhất hai mươi năm tuổi – chính xác đến từng từ, chỉ có điều Evelyn đã cắt bớt hai khổ để phù hợp với yêu cầu về độ dài.

“Mà lại là hai khổ thơ hay nhất chứ,” Emily khinh thường nghĩ. “Đúng kiểu Evelyn! Cô ta rõ ràng không có con mắt văn chương gì cả.”

Emily đặt lại đống sách vào trong kệ, nhưng cô tuồn trang giấy bị long khỏi sổ kia vào túi, và lơ đãng ăn phần bữa sáng được dành cho mình. Giờ thì cánh con trai đã bắt tay vào mở đường. Perry và Teddy tìm thấy một cái xẻng trong kho và chẳng mấy chốc đã khai thông được một lối dẫn ra đường cái. Cuối cùng, sau một cuốc xe dẫu chậm chạp nhưng yên ổn, nhóm bạn cũng về đến nhà và nhận thấy ở trang trại Trăng Non, mọi người vẫn bồn chồn lo lắng không biết số phận bốn cô cậu ra sao, và ai nấy đều có phần hốt hoảng khi được biết họ đã phải qua đêm trong ngôi nhà cũ của ông John.

“Cháu có khả năng bị cảm lạnh chết mất ấy chứ,” bà Elizabeth nghiêm nghị nói.

“Thì cũng có cách nào khác đâu ạ. Nếu không vậy thì sẽ bị chết cóng giữa trời tuyết mất,” Emily nói, và chẳng ai nói gì về vấn đề này nữa. Vì họ đã về nhà an toàn và chẳng ai cảm lạnh, còn cần phải nói gì khác nữa chứ? Đó chính là cách nhìn nhận vấn đề theo kiểu Trăng Non. Cách nhìn Shrewsbury thì có phần khác. Nhưng cách nhìn Shrewsbury không lộ rõ ngay lập tức. Đến tối thứ Hai, toàn bộ câu chuyện đã lan khắp Shrewsbury – Ilse kể lại nó ở trường và miêu tả trận say rượu của mình bằng thái độ hăm hở tột độ, giữa những tiếng cười đùa hú hét của bạn bè. Tối hôm đó, lần đầu tiên trong đời chủ động tìm gặp Evelyn Blake, Emily thấy Evelyn có vẻ khá hài lòng với chuyện này.

“Cậu không thể khiến Ilse ngừng kể câu chuyện đó đi được à, bạn thân mến?”

“Câu chuyện nào?”

“Sao chứ, chuyện say rượu tối thứ Sáu vừa rồi ấy – buổi tối cậu và cậu ta ở cùng Teddy Kent và Perry Miller trong cái ngôi nhà cũ trên Ao Thành Kiến đó đấy,” Evelyn nói nhẹ nhàng.

Emily bất chợt đỏ bừng cả mặt. Trong giọng Evelyn có cái gì đó – dường như cái thực tế trong sáng bỗng nhiên bị khoác lên sắc thái ý nghĩa đầy nham hiểm. Liệu có phải Evelyn đang chủ tâm tỏ ra xấc láo?

“Tôi chẳng hiểu tại sao bạn ấy lại không nên kể câu chuyện đó chứ.” Emily lạnh nhạt nói. “Đấy là một chuyện đùa hay ho về bạn ấy mà.”

“Nhưng cậu biết thừa mọi người sẽ nói gì rồi đấy,” Evelyn nói, giọng lịch sự. “Mọi chuyện có hơi… không phù hợp. Tất nhiên, cậu đâu thể ngăn mình bị kẹt giữa cơn bão… tôi cho là thế… nhưng Ilse sẽ chỉ làm mọi chuyện tệ hơn thôi. Cậu ta quá bất cẩn… chẳng lẽ cậu không có bất kỳ ảnh hưởng nào đối với cậu ta hay sao, Emily?”

“Tôi không đến đây để thảo luận về vấn đề đó,” Emily nói thẳng thừng. “Tôi đến để chỉ cho cậu xem một thứ tôi đã tìm thấy trong căn nhà cũ của ông John.

Cô chìa tờ lưu bút ra. Evelyn thất thần nhìn tờ giấy một lát. Rồi khuôn mặt cô nàng đỏ lên, chỗ hồng chỗ tía đầy khả nghi. Không kịp suy nghĩ, cô nàng giơ tay ra như thể muốn chộp lấy tờ giấy, nhưng Emily đã nhanh chóng thu nó lại. Đôi mắt hai người gặp nhau. Trong giây phút đó, Emily cảm thấy cuối cùng thì họ cũng hòa điểm với nhau.

Cô đợi Evelyn lên tiếng. Sau một lúc, Evelyn cũng nói; giọng sưng sỉa:

“Thế đấy, cậu định làm gì với nó hả?”

“Tôi vẫn chưa quyết định,” Emily nói.

Đôi mắt nâu dài xảo trá của Evelyn quét lên khuôn mặt Emily, vẻ xảo quyệt và dò hỏi.

“Hẳn là cậu định đưa nó cho tiến sĩ Hardy và làm tôi mất mặt trước cả trường chứ gì?”

“Ái chà, chẳng phải cậu xứng đáng bị thế còn gì?” Emily phán xét.

“Tôi… muốn giành được giải thưởng đó vì cha tôi đã hứa nếu tôi chiến thắng thì hè năm tới sẽ cho tôi đến Vancouver chơi,” Evelyn lẩm bẩm, đột nhiên trở nên suy sụp. “Tôi… tôi muốn đi đến phát điên lên được. Ôi, đừng tiết lộ chuyện của tôi, Emily… cha tôi sẽ giận dữ lắm. Tôi… tôi sẽ cho cậu bộ Parkman… tôi sẽ làm bất kỳ điều gì… miễn là đừng…”

Evelyn òa khóc. Emily chẳng muốn nhìn thấy cảnh tượng này.

“Tôi không muốn bộ Parkman của cậu,” cô nói. “Nhưng có một chuyện cậu cần phải làm. Cậu phải thú nhận với bác Ruth rằng chính cậu đã vẽ râu lên mặt tôi hôm có bài thi tiếng Anh chứ không phải Ilse.”

Evelyn lau sạch nước mắt, nuốt lời muốn nói vào trong lòng.

“Đấy chỉ là chuyện đùa thôi mà,” cô nàng nức nở.

“Đến mức nói dối về chuyện đó thì không còn là đùa nữa,” Emily lạnh lùng nói.

“Sao cậu… sao cậu… thẳng thừng thế.” Evelyn săm soi một hồi cũng tìm ra được một điểm khô ráo trên chiếc khăn tay. “Chỉ thuần túy trêu đùa thôi mà. Tôi phải chạy từ hiệu sách về để làm thế đấy. Tất nhiên, tôi cứ tưởng lúc tỉnh dậy cậu sẽ soi gương chứ. Tôi kh… không nghĩ là cậu cứ thế mà đến trường. Mà tôi cũng không biết là bác cậu lại coi chuyện này to tát thế. Tất nhiên… tôi sẽ nói với bác ấy… nếu cậu… nếu cậu…”

“Viết ra và ký tên vào đi,” Emily nói, chẳng chút lưu tình.

Evelyn viết ra và ký tên.

“Cậu sẽ đưa cho tôi… cái đó chứ,” cô nàng khẩn nài, bàn tay khẩn khoản vươn về phía tờ lưu bút.

“Ồ, không đâu, tôi sẽ giữ cái này,” Emily nói.

“Vậy thì xét cho cùng, có gì đảm bảo là cậu sẽ không nói… một ngày nào đó?” Evelyn khịt khịt mũi.

“Cậu có lời hứa của một người nhà Starr rồi,” Emily ngạo mạn nói.

Cô mỉm cười đi ra. Cuối cùng, cô đã giành chiến thắng trong cuộc chiến trường kỳ. Và cô đang nắm trong tay bằng chứng cuối cùng cũng rửa sạch tội lỗi của Ilse trong mắt bà Ruth.

Bà Ruth khịt mũi liên hồi trước tờ giấy Evelyn viết và hỏi hết câu này đến câu khác nhằm tìm xem Emily dọa dẫm cách nào mà lại kiếm được lời thú nhận ấy. Nhưng vì chẳng thể giội gáo nước lạnh lên niềm thỏa mãn của Emily trước chiến thắng này và biết rõ ông Allan Burnley vẫn luôn khó chịu với bà từ hồi bà xua đuổi con gái ông, bà thầm lấy làm mừng vì đã có một lý do phá bỏ lệnh cấm này.

“Vậy thì tốt rồi. Ta đã nói với cháu rằng Ilse có thể đến đây khi nào cháu tìm ra bằng chứng thích đáng chứng minh cho ta thấy con bé không chơi trò đó. Cháu đã chứng minh được, và ta sẽ giữ lời. Ta vốn là người công bằng mà,” bà Ruth kết luận – có lẽ lúc này chính bà mới là người phụ nữ bất công nhất trên đời.

©STE.NT

Cho đến lúc đó thì mọi chuyện ổn thỏa cả. Nhưng nếu Evelyn muốn trả thù thì cô nàng đã được thưởng thức trọn vẹn men say của nó vào ba tuần sau, mà chẳng cần phải nhấc một ngón tay hay uốn một tấc lưỡi nào để đổ thêm dầu vào lửa. Toàn thể Shewsbury sôi sục với lời đồn thổi về cái đêm bão gió đó – nào là bóng gió, nào là bóp méo sự việc và cả bịa đặt hoàn toàn. Emily bị mất mặt tại buổi trà chiều ở nhà Janet Thompson đến độ phải về nhà trong cảnh mặt mày trắng bệch vì nhục nhã. Ilse giận dữ đến phát điên.

“Tớ sẽ chẳng buồn bận tâm nếu quả thực tớ đã say sưa bê bết và sung sướng với nó,” cô giậm chân tuyên bố hùng hồn. “Nhưng tớ đâu có say đến độ thấy sung sướng chứ; mà chỉ say đủ để thấy mình thật lố bịch thôi. Có nhiều khi, Emily ạ, tớ cảm thấy sẽ thật tuyệt vời xiết bao nếu tớ là một con mèo, còn những mụ già Shrewsbury này chỉ là một lũ chuột nhắt. Nhưng hãy cứ vui vẻ đi. Thật lòng mà nói, tớ chẳng thèm quan tâm. Chuyện này chẳng mấy chốc sẽ trôi vào quên lãng. Chúng ta sẽ chiến đấu.”

“Cậu đâu thể chiến đấu với những lời bóng gió chứ,” Emily chua chát nói.

Ilse không quan tâm; nhưng Emily lại vô cùng để tâm. Lòng kiêu hãnh Murray buốt nhói đến mức không thể nào chịu nổi. Và càng lúc, nó càng nhức nhối hơn. Câu chuyện đêm bão đó còn được biến thành chuyện cười đăng trên một tờ báo lá cải xuất bản ở một thị trấn vùng nội địa và được xào xáo từ các bức thư “giật gân” gửi đến tòa soạn từ khắp mọi nơi trên miền duyên hải. Chưa từng có bất kỳ ai thừa nhận đã đọc nó, nhưng gần như tất cả mọi người đểu biết tất cả mọi thứ được viết ở đó; ngoại trừ bà Ruth, vốn chẳng bao giờ thèm mó đến báo với chí. Không cái tên nào được nhắc đến, nhưng tất cả mọi người đều biết bài báo muốn ám chỉ ai, và chẳng ai không nhận ra cái nọc độc đầy nham hiểm mà nó tiết ra. Emily những tưởng mình sẽ chết vì nhục nhã mất. Và cú đòn hiểm ác nhất là câu chuyện được kể lại ấy quá thô tục, quá xấu xí; và nó đã biến cái buổi tối đẹp đẽ tràn ngập niềm vui, sự khám phá cùng sự sáng tạo mê ly trong ngôi nhà cũ của ông John trở nên thô tục và xấu xí. Cô những tưởng thời khắc đó sẽ mãi mãi là một trong những ký ức đẹp đẽ nhất của cô. Và giờ thì thế này đây! Teddy và Perry tức điên lên và chỉ muốn giết người, nhưng các cậu ấy có thể giết ai bây giờ? Như Emily đã nói với hai cậu, dẫu họ có nói gì làm gì thì cũng chỉ làm tình hình thêm tồi tệ mà thôi. Sau vụ đăng tải bài báo đó, chuyện đã đủ tệ hại lắm rồi. Emily không được mời đến buổi vũ hội của Florence Blake diễn ra vào tuần sau – sự kiện xã hội trọng đại của mùa đông. Cô bị gạt ra khỏi bữa tiệc trượt băng của Hattie Denoon. Một vài mệnh phụ phu nhân ở Shewsbury chẳng thèm nhìn ngó gì cô khi họ gặp nhau trên phố. Những người khác thì đẩy cô ra xa cả ngàn dặm bằng cái vẻ lịch sự lạnh lùng, nhạt nhẽo. Có mấy cậu thanh niên quanh thị trấn lại tỏ thái độ thân thiện đến kỳ cục. Một người trong số đó, vốn hoàn toàn không quen biết gì với cô, đã bắt chuyện với cô ở bưu điện một tối nọ. Emily quay người nhìn cậu ta. Dẫu khổ sở và xấu hổ đến thế, cô vẫn là cháu gái của Archibald Murray. Mãi cho tới tận khi đã cách bưu điện tận ba khối nhà, cậu thanh niên tội nghiệp ấy mới có thể bình thường trở lại và ý thức được mình đang ở đâu. Cho tới tận giờ, cậu vẫn không tài nào quên được khi Emily Byrd Starr tức giận, đôi mắt cô trông như thế nào.

Nhưng cho dù cái ánh mắt Murray ấy có thể phá hủy hoàn toàn một kẻ phạm tội vô cùng cứng rắn thì nó lại vẫn không thể ngăn chặn những câu chuyện giật gân. Cô đau khổ cảm thấy tất cả mọi người đều tin vào những câu chuyện đó. Theo Emily được nghe kể lại, cô Percy ở thư viện cho biết cô ta luôn thấy không thể tin tưởng nụ cười của Emily Starr; rằng cô ta luôn cảm thấy chắc chắn nó được chủ tâm khoác cho cái vẻ khêu gợi và cám dỗ. Emily có cảm giác cô, cũng giống y như đức vua Henry tội nghiệp, sẽ chẳng bao giờ còn mỉm cười trở lại được nữa. Người ta nhớ lại rằng hồi bảy mươi năm trước, bà cụ Nancy Priest cũng ngông cuồng bừa bãi ra trò; và chẳng phải hồi còn trẻ, chính phu nhân Dutton cũng dính phải tai tiếng đấy thôi? Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, các vị biết đấy. Mẹ cô cũng từng bỏ nhà theo trai, đúng không nào? Lại còn mẹ Ilse nữa chứ? Tất nhiên, bà ta đã chết vì bị ngã xuống cái giếng cũ nhà ông Lee, nhưng nếu không bị thế thì ai mà biết được bà ta sẽ làm gì cơ chứ? Rồi còn cái câu chuyện từ thời nảo thời nào về vụ tắm trần trên bãi cát ở Hồ Blair. Nói tóm lại, còn lâu các vị mới thấy có cô gái đứng đắn nào lại có cái mắt cá chân giống như của Emily. Chắc chắn họ chẳng có cái thứ đấy đâu.

Thậm chí, anh chàng Andrew ngây thơ và không được chào đón cũng không còn ghé qua vào các tối thứ Sáu nữa. Chuyện này thực sự là một cú đòn đau. Emily vẫn luôn thấy Andrew là kẻ phiền phức và sợ chết khiếp những buổi tối thứ Sáu anh ta ghé thăm. Hễ chộp được cơ hội nào là cô chỉ nhăm nhăm tống khứ anh ta đi cho nhanh. Nhưng bạn cần phải thấy rằng việc Andrew tự nguyện khăn gói ra đi lại mang phong vị khác hẳn. Emily không khỏi siết chặt hai bàn tay khi nghĩ đến chuyện này.

Cô còn nhận được một tin tức cay đắng rằng Hiệu trưởng Hardy tuyên bố cô nên rút lui khỏi cương vị lớp trưởng lớp cuối cấp. Emily hất cao đầu. Từ chức? Thú nhận thất bại và thừa nhận tội lỗi? Còn lâu cô mới làm thế?

“Tớ có thể táng cho lão ấy một phát vào đầu,” Ilse nói. “Emily Starr, đừng có lo lắng về chuyện này. Cái đám lừa già lập cập nghĩ như thế nào thì có gì quan trọng chứ? Tớ mặc xác cho các vị thần địa ngục xử trí họ. Một tháng nữa là họ lại có vô khối thứ để mà xâu xé cho thỏa thích và sẽ quên chuyện này thôi.”

“Tớ sẽ không bao giờ quên được,” Emily xúc động nói. “Từ giờ cho tới chết, tớ sẽ vẫn nhớ nỗi nhục nhã đã phải trải qua trong mấy tuần này. Còn bây giờ, Ilse ạ, bà Tolliver đã viết thư đề nghị tớ từ bỏ chỗ của mình trong cuộc bán hàng phúc thiện của nhà thờ Thánh John.”

“Emily Starr… bà ấy không làm thế chứ!”

“Bà ấy làm thế đấy. Ồ, tất nhiên, bà ấy ngụy trang bằng cách viện cớ bà ấy muốn dành chỗ cho người họ hàng từ New York đang ở chơi, nhưng tớ hiểu mà. Và trên thư còn viết ‘Cô Starr thân mến’, cậu nhìn mà xem, trong khi mấy tuần trước vẫn còn là ‘Emily yêu dấu nhất đời’. Tất cả mọi người ở nhà thờ Thánh John rồi sẽ biết tại sao tớ bị đẩy ra ngoài. Trong khi chính bà ấy suýt nữa đã quỳ xuống van xin bác Ruth cho tớ nhận quầy bán hàng. Bác Ruth đâu có muốn cho tớ tham gia chứ.”

“Bác Ruth của cậu sẽ nói gì về chuyện này đây?”

“Ôi, đó mới là phần tồi tệ nhất, Ilse ạ. Giờ thì bác ấy ắt hẳn sẽ biết thôi. Từ lúc phải nằm bẹp vì đau thần kinh tọa, bác ấy chưa nghe được gì về chuyện này hết. Tớ cứ luôn thấp thỏm chỉ sợ bác ấy phát hiện ra rồi thì sẽ kinh khủng lắm. Giờ thì bác ấy bắt đầu đi lại được rồi, nên tất nhiên dù gì thì gì, chẳng mấy mà bác ấy sẽ nghe nhắc đến chuyện này thôi. Trong khi tớ chẳng có tinh thần đâu để mà đấu lý với bác ấy. Ôi, mọi chuyện chẳng khác gì một cơn ác mộng.”

“Dân thị trấn này toàn những kẻ đầu óc nhỏ mọn, xảo quyệt, hẹp hòi, ti tiện đến thế đấy,” Ilse nói, và lập tức thấy dễ chịu hẳn. Nhưng Emily không thể xoa dịu tâm hồn đau khổ của cô bằng một tràng tính từ được chọn lọc. Cô cũng chẳng thể viết lại nỗi khổ sở của mình và bởi vậy cũng không cách gì giải thoát bản thân khỏi nó được. Chẳng còn thêm những dòng ghi chép nhanh trong cuốn sổ Jimmy, chẳng còn thêm những bài viết trong nhật ký, chẳng còn truyện thơ mới. Giờ thì ánh chớp chẳng bao giờ đến nữa… chẳng bao giờ còn trở lại nữa. Sẽ không bao giờ còn gặp lại những cơn phấn khích bí mật diệu kỳ không ai có thể sẻ chia khi ta chìm đắm trong sự thấu hiểu và sáng tạo. Cuộc sống đã trở nên nghèo nàn hơn, nhạt nhòa hơn, mờ đục và không chút đáng yêu. Nhìn đâu cũng chẳng thấy được vẻ đẹp; thậm chí không thấy ngay cả trong không gian tháng Ba đượm màu trắng vàng hiu quạnh của Trăng Non, khi cô quay về nhà dịp cuối tuần. Cô khát khao được về nhà, nơi chẳng ai tin những điều xấu xa về cô. Ở Trăng Non, không ai nghe phong thanh gì về những chuyện đang được thầm thì bàn tán ở Shrewsbury. Nhưng chính sự không biết này lại khiến Emily khổ sở không yên. Chẳng mấy chốc mọi người rồi cũng sẽ biết; họ sẽ bị tổn thương, sẽ u sầu trước cái thực tế rằng một Murray, thậm chí ngay cả một Murray ngây thơ, cũng trở thành mục tiêu của vụ bê bối. Và ai mà biết họ sẽ nhìn nhận thế nào về sự cố Ilse gặp phải với món rượu Scotch của Malcolm chứ? Emily gần như thấy nhẹ cả người khi quay trở lại Shrewsbury. Cô tưởng tượng ra sự gièm pha trong hết thảy những lời thầy hiệu trưởng Hardy nói; tưởng tượng ra sắc thái sỉ nhục kín đáo trong mọi lời bình luân, mọi ánh mắt của bạn học. Chỉ độc Evelyn Blake làm bộ làm tịch như bạn bè và người biện hộ của cô, và đây mới chính là nhát dao tàn nhẫn hơn cả. Emily không biết liệu có gì nguy hiểm và xảo trá đằng sau cái điệu bộ giả tạo của Evelyn hay không; nhưng cô biết thừa thái độ khoa trương nào thân thiện, nào trung thành, nào tin tưởng chắc chắn bất chấp bằng cớ không gì tranh cãi nổi ấy mới chính là thứ dường như khiến cô bị vấy bẩn hơn hết thảy những lời đơm đặt bàn tán. Evelyn đi khắp nơi cam đoan với tất cả mọi người rằng cô nàng không tin một lời nào chống lại “Emily thân mến tội nghiệp”. Emily thân mến tội nghiệp có thể cười tươi mà chứng kiến cô ta chết đuối; hoặc cô ta cho là mình có thể làm thế.

Trong lúc đó, bà Ruth, vốn bị giam h.ãm trong nhà mất vài tuần vì chứng đau thần kinh tọa và bị nó hành cho thành cắm cảu đến nỗi dẫu bạn bè hay kẻ thù thì cũng đều không dám bóng gió với bà bất cứ điều gì về lời đồn thổi dính đến cháu gái bà, cũng bắt đầu để ý. Chứng đau thần kinh tọa của bà đã dứt và để bà được thoải mái dồn toàn tâm toàn trí vào những thứ khác. Ngẫm lại, bà nhớ ra mấy ngày gần đây, Emily không được ngon miệng lắm, và bà ngờ rằng cô cũng không ngủ. Ngay khi nghi ngờ này lóe lên trong đầu, bà Ruth bèn hành động luôn. Những lo lắng bí mật không được khoan dung dưới mái nhà của bà.

“Emily, ta muốn biết cháu đang có chuyện gì,” bà cật vấn vào một chiều thứ Bảy khi Emily, nhợt nhạt và lơ đãng, mắt thâm quầng, một lần nữa không ăn gì trong bữa tối.

Chút huyết sắc ửng lên trên khuôn mặt Emily. Vậy là cái giây phút cô khiếp sợ đã đến rồi. Ắt hẳn bà Ruth đã nghe kể lại tường tận mọi chuyện. Và Emily khổ sở nhận ra cô không đủ dũng cảm để chịu đựng cuộc chất vấn tất yếu sẽ xảy ra tiếp theo, cũng chẳng có tinh thần đâu để mà bình tĩnh tương đầu với nhưng câu hỏi tại sao, vì lí do gì của bà Ruth. Cô biết rõ mọi chuyện sẽ ra sao: kinh hoàng trước sự tình diễn ra ở nhà ông John – như thể bất kỳ ai cũng có thể ngăn chặn được nó; bực tức bởi lời đồn thổi – như thể Emily phải chịu trách nhiệm cho nó; cam đoan này nọ rằng từ xưa đến nay bà vẫn luôn tin chắc sẽ có lúc xảy ra chuyện như thế này; và rồi những tháng ngày không thể chịu nổi với những nhắc nhở, những lời gièm pha về sự việc. Emily thầm cảm thấy kinh tởm đến buồn nôn trước toàn bộ viễn cảnh này. Mất một lúc lâu, cô không cất lên được lời nào.

“Cháu đang làm gì vậy hả?” bà Ruth vẫn kiên trì hỏi.

Emily nghiến chặt răng. Thật không thể chịu đựng nổi, nhưng vẫn phải chịu đựng thôi. Câu chuyện phải được kể ra; điều duy nhất phải làm là làm sao để nó được kể càng sớm càng tốt.

“Cháu chẳng làm gì sai cả, bác Ruth. Cháu chỉ làm một chuyện khiến người ta hiểu nhầm thôi.”

Bà Ruth khịt mũi. Nhưng bà lắng nghe toàn bộ câu chuyện Emily mà không cắt ngang lần nào. Emily kể lại một cách ngắn gọn hết mức, cảm thấy mình như thể một kẻ tội phạm đang đứng trước bục nhân chứng, còn bà Ruth vừa là thẩm phán, vừa là bổi thẩm đoàn lẫn công tố viên. Khi đã kể xong, cô ngồi im lặng, chờ đợi một lời bình phẩm đặc trưng của bà Ruth.

“Thế người ta làm om sòm hết cả lên vì cái gì vậy?” bà Ruth hỏi.

Emily không biết nói sao cho đúng. Cô nhìn bà Ruth chằm chằm.

“Họ… họ vẫn đang nghĩ… và nói đủ mọi điều kinh khủng,” cô ngập ngừng. “Bác biết đấy… ở dưới Shrewsbury được chở che yên ổn này, người ta đâu có nhận ra một cơn bão sẽ như thế nào. Và, tất nhiên, mỗi người kể lại câu chuyện đều thêm mắm giặm muối một chút; đến lúc câu chuyện lan tràn khắp Shrewsbury thì tất cả bọn cháu đều say cả.”

“Điều khiến ta bực mình,” bà Ruth nói, “là các cháu lại đi rêu rao chuyện này khắp cả Shrewsbury. Vì lý do quái quỷ nào mà các cháu lại không chịu giữ kín mọi chuyện vậy hả?”

“Thế thì sẽ thành ranh mãnh mất,” con quỷ trong Emily đột nhiên nhảy vọt ra nói câu này. Giờ đây, khi câu chuyện đã được công khai, cô cảm thấy tinh thần phấn khởi đến độ suýt nữa đã cười phá lên.

“Ranh mãnh! Đó là sự khôn ngoan,” bà Ruth khịt mũi. “Nhưng, tất nhiên, Ilse làm sao giữ mồm giữ miệng được chứ. Ta nói mãi với cháu rồi, Emily, một người bạn ngu ngốc còn nguy hiểm gấp mười lần một kẻ thù. Nhưng cháu lo lắng đến chết dần chết mòn vì cái gì kia chứ? Lương tâm cháu trong sạch. Lời đồn thổi này rồi sẽ sớm chết thôi.”

“Hiệu trưởng Hardy nói cháu nên từ chức lớp trưởng,” Emily nói.

“Jim Hardy! Thế đấy, cha ông ta từng làm thuê cho ông nội ta suốt nhiều năm,” bà Ruth nói bằng giọng khinh bỉ tột cùng, “Jim Hardy lại tưởng rằng cháu gái ta sẽ cư xử không đúng đắn sao?”

Emily không hiểu ra làm sao nữa. Cô nghĩ ắt hẳn mình đang nằm mơ. Người phụ nữ khác thường này có phải bác Ruth không vậy? Đây không thể là bà Ruth được. Emily đang phải đương đầu với một trong những mâu thuẫn bản năng của nhân loại. Cô dần dần nhận thức được rằng ta có thể chống lại họ hàng ta, bất đồng ý kiến với họ, thậm chí căm ghét họ, nhưng giữa ta và họ vẫn luôn tồn tại một sợi dây liên kết. Bằng cách nào đó, các sợi gân của ta, các dây thần kinh của ta xoắn quýt cùng của họ. Bao giờ chẳng vậy, một giọt máu đào hơn ao nước lã. Cứ mặc kệ cho người ngoài công kích đi; thế thôi. Ít nhất bà Ruth cũng có một trong những đức tính của nhà Murray – trung thành với dòng họ.

“Đừng lo về Jim Hardy,” bà Ruth nói. “Ta sẽ nhanh chóng xử lý ông ta. Ta sẽ mở mắt cho mọi người thấy liệu mà giữ miệng lưỡi tránh xa nhà Murray ra.”

“Nhưng bà Tolliver đã yêu cầu cháu nhường cho họ hàng của bà ấy quầy hàng của cháu trong buổi bán hàng từ thiện,” Emily nói. “Bác biết như thế nghĩa là gì đấy.”

“Ta biết Polly Tolliver là môt kẻ giàu xổi ngu ngốc,” bà Ruth độp lại. “Từ hồi Nat Tolliver lấy nhân viên tốc ký của ông ta làm vợ, nhà thờ Thánh John chẳng còn như cũ nữa. Mười năm trước, bà ta còn là một cô nàng chân đất chạy quanh các ngõ hẻm của Charlottetown. Đến lũ mèo cũng chẳng cho bà ta vào trong. Giờ thì bà ta lại ra cái vẻ nữ hoàng và rắp tâm điều hành nhà thờ nữa. Ta sẽ nhanh chóng cắt hết móng vuốt của bà ta. Mấy tuần trước, bà ta còn lấy làm biết ơn vì có một người nhà Murray góp mặt trong gian hàng của bà ta. Đó là một thành tựu đối với bà ta.Polly Tolliver, đúng là không lẫn vào đâu được. Thế giới đang thành ra cái gì đây chứ?”

Bà Ruth oai vệ lên trên tầng, để mặc Emily hoang mang nhìn những phiền muộn đang dần biến mất. bà Ruth đã lại bước xuống, sẵn sàng cho cuộc chiến. Bà đã uốn tóc, đội chiếc mũ bon nê tốt nhất, mặc bộ váy lụa đen đẹp nhất và khoác chiếc áo choàng bằng da hải cẩu mới nhất. Với cách ăn vận như thế, bà rảo bước tới phố thượng, đến dinh thự Tolliver trên đồi. Bà lưu lại đó nửa tiếng đồng hồ, trò chuyện riêng cùng bà Nat Tolliver. Bà Ruth vốn thấp và đậm người, trông vô cùng tồi tàn và lạc hậu, bất chấp chiếc mũ bon nê mới và cái áo choàng da hải cẩu. Bà Nat ăn mặc rất thời thượng và trang nhã, với bộ váy từ Paris, chiếc kính cầm tay và mái tóc uốn xoăn xinh đẹp – thời đó, mốt uốn tóc xoăn vừa xuất hiện và bà Nat chính là người đầu tiên theo mốt này ở Shrewsbury. Nhưng chiến thắng trong cuộc đối đầu không rơi vào tay bà Tolliver. Không ai biết chính xác nội dung cuộc đối thoại trứ danh ấy. Chắc chắn bà Tolliver sẽ không bao giờ hé môi. Nhưng khi bà Ruth rời khỏi ngôi nhà rộng lớn ấy, bà Tolliver đang vò nhàu bộ váy Paris, còn mái tóc xoăn của bà bồng bềnh giữa đám đệm sofa trong lúc bà lau những giọt nước mắt uất hận và tủi hổ; còn bà Ruth cầm trong bao tay bức thư ngắn bà Tolliver gửi “Emily yêu quý”, cho biết người họ hàng của bà ta sẽ không nhận gian hàng tại hội chợ từ thiện và xin “Emily yêu quý” hãy làm ơn tiếp nhận quầy hàng như kế hoạch ban đầu. Tiến sĩ Hardy là đối tượng đối thoại tiếp theo, và một lần nữa bà Ruth lại ra về, như người ta nhìn thấy, trong tư thế chiến thắng. Cô hầu phục vụ trong nhà Hardy đã nghe thấy rồi sau đó kể lại cho mọi người một câu trong cuộc trao đổi đó, mặc dầu chẳng ai tin nổi bà Ruth từng nói như thế thật với tiến sĩ Hardy đeo kính oai nghiêm.

“Tôi biết ông vốn là thắng ngốc, Jim Hardy, nhưng vì Chúa, hãy giả vở tỏ ra ông không phải gã ngu năm phút thôi được không!”

Không, không đời nào có chuyện đó. Tất nhiên, chính cô hầu kia đã bịa chuyện.

“Cháu không còn gặp thêm nhiều rắc rối nữa đâu, Emily,” bà Ruth nói khi đã quay về nhà. “Polly và Jim đã no đủ rồi. Khi mọi người thấy cháu có mặt tại hội chợ từ thiện, họ sẽ nhanh chóng nhận ra gió đang thổi chiều nào để mà thuận thế giương buồm xoay theo chiều đó. Ta vẫn còn vài chuyện để nói với vài người trong thị trấn khi nào có cơ hội. Tình hình rồi sẽ thành gay go ra trò nếu các cô cậu đứng đắn không thể thoát khỏi nguy cơ chết cóng mà lại không bị người ta đơm đặt về chuyện đó. Đừng suy nghĩ về chuyện này nữa, Emily. Hãy nhớ là cháu luôn có gia đình hậu thuẫn.”

Lúc bà Ruth đã lên tầng, Emily bước đến bên tấm gương. Cô nghiêng tấm gương theo góc độ phù hợp và trao cho Emily – trong – gương nụ cười mỉm chậm rãi, quyến rũ và khiêu khích.

“Không biết mình cất cuốn sổ Jimmy ở đâu,” Emily nghĩ. “Mình phải bổ sung một vài đường nét cho bản phác thảo của mình về bác Ruth mới được.”
 
Chương 22: Yêu ai yêu cả đường đi
Khi người dân Shrewsbury phát hiện ra bà Dutton đang hậu thuẫn cho cô cháu gái, ngọn lửa tin đồn từng quét khắp thị trấn đã bị dập tắt trong một thời gian ngắn ngủi đến không ngờ. Bà Dutton đóng góp cho đủ loại quỹ của nhà thờ Thánh John nhiều hơn bất kỳ thành viên nào khác – hỗ trợ thích đáng cho nhà thờ quen thuộc vốn là một truyền thống của nhà Murray. Bà Dutton là chủ nợ của một nửa số thương nhân trong thị trấn; bà nắm trong tay một lá thư quan trọng của Nat Tolliver đủ khiến ông ta phải thao thức nhiều đêm. Bà Dutton có vốn hiểu biết đủ sức gây hoang mang về những bí mật vốn được đào sâu chôn chặt của các dòng họ – thứ hiểu biết bà sẵn sàng nhắc đến chẳng hề kiêng kỵ. Bởi vậy, bà Dutton thuộc kiểu người cần được giữ gìn tâm trạng vui vẻ, và nếu ai đó phạm phải sai lầm mà tưởng rằng vì bà quá khắt khe với cháu bà nên người ta muốn khinh rẻ cháu bà cũng chẳng thành vấn đề, vậy thì họ càng sớm sửa chữa sai lầm này thì càng tốt cho tất cả những ai có liên quan.

Tại quầy hàng của bà Tolliver ở hội chợ từ thiện quy mô lớn kia, Emily bán áo khoác trẻ em, chăn, giày len trẻ em, mũ bon nê; và cô mời chào các quý ông đứng tuổi vào mua bằng nụ cười giờ đây đã trở nên nổi tiếng của cô; tất cả mọi người đều đối xử tử tế với cô, và cô đã lấy lại được tâm trạng vui vẻ, mặc dù trải nghiệm vừa rồi vẫn lưu lại vết sẹo trong lòng. Nhiều năm sau, dân chúng Shrewsbury vẫn nói rằng Emily Starr chưa bao giờ thực lòng tha thứ cho họ cái tội bàn luận về cô; và họ còn nói thêm rằng người nhà Murray chưa từng biết đến chuyện tha thứ, bạn biết rồi đấy. Nhưng đừng có nói đến chuyện tha thứ làm gì. Emily đã phải chịu cảnh khổ sở sống dở chết dở, nên từ đó về sau, chỉ cần nhìn thấy bất kỳ ai từng dính líu tới nỗi khổ sở ấy của mình, cô đều không tránh khỏi cảm giác căm ghét. Một tuần sau đó, khi bà Tolliver mời cô đảm nhiệm vai trò rót trà tại buổi tiếp đón người họ hàng của bà ta, Emily đã lịch sự từ chối mà chẳng thèm nhọc công đưa ra bất kỳ lời biện bạch nào. Và từ trong cái cách cô hếch cằm hay trong cái ánh nhìn bình thản như nhìn kẻ bằng vai phải lứa, có thứ gì đó khiến bà Tolliver cảm nhận một cách sâu sắc rằng trong ánh mắt của một Murray ở trang trại Trăng Non, bà ta vẫn là Polly Riordan của ngõ Riordan và vĩnh viễn không bao giờ thành bất kỳ người nào khác.

Nhưng Andrew được chào đón khá ngọt ngào khi anh ta có phần bẽn lẽn ghé qua vào tối thứ Sáu sau đó. Mặc dù trên thực tế đã được chứng thực là người cùng hội cùng thuyền, nhưng rất có thể anh ta vẫn có phần không dám đoán chắc mình sẽ được nhận sự đón tiếp như thế nào. Tuy nhiên, Emily đối xử với anh ta bằng thái độ hòa nhã trông thấy. Có lẽ cô có mục đích riêng. Một lần nữa, tôi cần nhắc nhở để các vị nhớ rằng tôi là nhà viết tiểu sử của Emily chứ không phải người biện hộ cho cô. Nếu cô trả đũa Andrew bằng một cách thức nào đó mà tôi có lẽ không tán thành, tôi còn làm gì được ngoài việc phàn nàn về nó chứ? Tuy nhiên, tôi lấy làm mừng vì mình có thể tình cờ bình luận rằng theo ý tôi, Emily đã đi quá xa khi nói với Andrew – sau khi anh chàng kể lể về mấy lời khen ngợi mà anh ta nhận được từ viên quản lý – rằng anh chàng chắc chắn là một người tuyệt vời. Tôi thậm chí chẳng thể vì muốn bao biện cho cô mà nói rằng cô đã thốt lên câu này bằng giọng châm biếm. Cô không làm thế: cô nói nó bằng cái giọng điệu ngọt ngào nhất kèm theo hành động ngước mắt lên rồi sau đó cụp mắt xuống, khiến cho đến cả trái tim vốn rất ổn định của Andrew cũng bị lỡ mất một nhịp. Ôi, Emily, Emily!

Mùa xuân năm đó, mọi chuyện của Emily đều khá suôn sẻ. Cô nhận được một vài sự chấp thuận và mấy tấm séc, thêm vào đó, bắt đầu tỏ ra tự đắc vì mình có thể tàm tạm được gọi là nhà văn. Họ hàng của cô bắt đầu hơi nghiêm túc để tâm đến đam mê viết lách của cô. Không thể bác bỏ sự hiện diện của những tấm séc kia được.

“Từ đầu năm đến giờ, Emily đã kiếm được năm mươi đô la nhờ viết lách rồi đấy,” bà Ruth nói với bà Drury. “Tôi bắt đầu cho rằng đứa trẻ này đã tìm ra con đường kiếm sống dễ dàng rồi.”

Con đường dễ dàng! Emilym nghe lỏm được nhận xét này lúc đang đi qua hành lang, chỉ mỉm cười và thở dài. Bà Ruth, hay bất kỳ ai khác, thì biết được gì về bao nỗi thất vọng và bao thất bại của những con người leo lên Đường Alps chứ? Bà biết gì về bao nỗi tuyệt vọng và bao khổ sở vất vả của người nhìn thấy đồ mà không thể với tới được. Bà biết gì về bao đắng cay chua xót của người thai nghén được một câu chuyện tuyệt vời và viết nó thành câu chứ, để rồi phần thưởng cho mọi nỗ lực không ngừng nghỉ ấy chỉ là một bản thảo trống rỗng nhạt nhẽo? Bà biết gì về những cánh cửa tắc nghẽn và những điện thờ bất khả xâm phạm của ban biên tập? Về những mẩu thư từ chối tàn nhẫn và những lời ngợi khen nhạt nhòa đáng sợ? Về những hy vọng bị trì hoãn, về hàng tiếng đồng hồ ngờ vực chán chường và mất lòng tin vào bản thân?

Bà Ruth không biết gì về những điều này, nhưng bà đùng đùng phẫn nộ mỗi khi bản thảo của Emily bị trả lại.

“Khinh suất, ta gọi nó như thế đấy,” bà nói. “Đừng có gửi cho biên tập tòa soạn thêm một dòng nào nữa. Nhớ cho kỹ, cháu là một Murray đấy!”

“Cháu e là ông ấy không biết điều đó đâu ạ,” Emily nghiêm túc nói.

“Vậy tại sao cháu không nói với ông ta?” bà Ruth hỏi.

Vào tháng Năm, Shrewsbury xôn xao một dạo khi Janet Royal từ New York trở về nhà mang theo những bộ quần áo lộng lẫy, danh tiếng chói lòa cùng con chó su của cô. Janet vốn là một cô gái gốc Shrewsbury, nhưng cô chưa từng sống ở quê hương kể từ khi “lên đường tới nước Mỹ” hai mươi năm trước. Cô thông minh, tham vọng và cô đã gặt hái được thành công. Cô là biên tập viên văn học của một tạp chí quốc gia tiếng tăm dành cho phụ nữ, đồng thời là một trong những độc giả đọc bản thảo cho một nhà xuất bản có tên tuổi. Emily đã nín thở khi nghe tin cô Royal đến. Ôi chao, giá như cô có thể chỉ cần nhìn thấy cô ấy thôi; trò chuyện cùng cô ấy; hỏi cô ấy về hàng trăm thứ cô muốn biết! Khi ông Towers nói với cô bằng thái độ không hề khách sáo rằng hãy đi phỏng vấn cô Royal và viết thành bài cho tờ Thời đại, Emily run rẩy cả người, nửa vì hoảng loạn, nửa vì phấn khích. Đây chính là cái cớ của cô. Nhưng liệu cô có thể không… liệu cô có đủ tự tin không? Liệu cô Royal có cho rằng cô là kẻ tự phụ không thể chịu nổi không? Cô có thể hỏi cô Royal những câu hỏi như thế nào về sự nghiệp của cô ấy cùng những ý kiến của cô về chính sách đối ngoại của liên bang Mỹ cũng như thái độ tương hỗ giữa Mỹ và các quốc gia khác? Có lẽ cô chẳng bao giờ có đủ sức mạnh.

“Cả hai chúng tôi đều thờ phụng tại cùng một điện thờ, nhưng cô ấy là nữ tư tế cao cấp trong khi tôi chỉ là một nữ tu hèn mọn nhất,” Emily viết trong nhật ký. Sau đó cô thảo cho cô Royal một bức thư thấm đẫm tinh thần tôn sùng, và viết đi viết lại hàng chục lần, xin phép được phỏng vấn cô ấy. Sau khi gửi bức thư đi rồi, cô thao thức suốt cả đêm vì chợt nghĩ đến chuyện, lẽ ra cô không nên kết thúc bức thư bằng “Chân thành” mà nên đổi bằng “Trân trọng”. Cách nói “chân thành” có vẻ mang sắc thái của một mối quan hệ vốn không tồn tại. Cô Royal thể nào cũng cho rằng cô đang tỏ ra tự phụ cho xem.

Nhưng cô Royal đã gửi lại một bức thư duyên dáng; Emily đã nhận được nó vào hôm nay.

“Ashburn, thứ Hai.

“Cô Starr thân mến:

“Tất nhiên cô có thể đến gặp tôi và tôi sẽ kể cho cô nghe mọi điều tôi biết cho Jimmy Towers (Cầu Chúa mang lại sự bình an cho tâm hồn ông ấy, và chẳng phải ông ấy là anh bồ đầu tiên của tôi đó sao!) và mọi chuyện cô muốn biết cho chính bản thân. Tôi nghĩ, một nửa lý do khiến tôi quay trở lại đảo H.E. mùa xuân này là vì tôi muốn gặp người đã viết Người phụ nữ từng đét mông đức vua. Tôi đã đọc truyện này mùa đông năm ngoái khi nó được đăng tải trên tờ Roche và thấy nó thật hấp dẫn. Hãy đến kể cho tôi về bản thân cô và những tham vọng của cô nhé. Cô là người tham vọng, phải không nào? Và tôi cho là cô cũng sắp nhận ra các tham vọng của mình rồi, và nếu có thể, tôi rất muốn giúp. Cô có một thứ tôi không bao giờ có được – khả năng sáng tạo đích thực – nhưng tôi lại rất giàu kinh nghiệm và cô có thể thoải mái hỏi về những bài học tôi đã đúc rút được từ đó. Tôi có thể giúp cô tránh được một số bả mồi cạm bẫy, và tôi hẳn sẽ không giúp được nếu không phải đã từng bị ‘lôi kéo’ ở vài nơi rồi. Chiếu thứ Sáu tuần sau, hãy đến Ashburn khi ‘tan trường’ nhé, và chúng ta sẽ trò chuyện chân thành.

“Thân ái,

“Janet Royal.”

Emily rung động toàn thân khi đọc bức thư này “Thân ái” – ôi, Chúa ôi! Cô quỳ bên cửa sổ, đôi mắt mê say nhìn ra ngoài trời, hướng đến chỗ những cây linh sam mảnh mai giữa Miền Chính Trực và đồng cỏ ba lá ướt đẫm sương đằng sau. Ôi, liệu có thể chăng một ngày nào đó cô cũng sẽ trở thành người phụ nữ thành công, sáng chói giống như cô Royal? Bức thư kia dường như đã khiến điều đó trở nên có khả năng; dường như khiến mọi giấc mơ tuyệt vời đều trở nên có khả năng. Và vào thứ Sáu – bốn ngày nữa – cô sẽ tới gặp gỡ trò chuyện thân mật cùng nữ tư tế cấp cao của mình.

Nguồn ebooks: https://www.luv-ebook.com

Bà Angela Royal, tối đó đã ghé qua thăm bà Ruth, có vẻ như không hẳn nghĩ rằng Janet Royal là một nữ tư tế cấp cao hay một người phi thường. Nhưng thời đó, tất nhiên, nhà nữ tiên tri thường không được đánh giá cao nơi quê hương, và bà Royal đã nuôi Janet lớn khôn.

“Tôi chỉ muốn nói là con bé làm ăn khá lắm,” bà tâm sự với bà Ruth. “Lương của nó cao lắm đấy. Nhưng dẫu vậy thì nó vẫn là một cô gái già. Trên một số phương diện lại còn kỳ quặc như yêu quái nữa.”

Emily, lúc này đang học tiếng Latin bên cửa sổ hướng vịnh, bừng bừng phẫn nộ. Thế này thật không thua gì thái độ phạm thượng.

“Tuy nhiên ngoại hình con bé trông cũng ổn lắm,” bà Ruth nói. “Janet luôn là một cô gái tử tế.”

“Ồ, phải, nó đúng là khá tử tế. Nhưng tôi vẫn luôn sợ là nó quá thông minh nên chẳng lấy chồng được đâu, và tôi đã đúng. Mà con bé lại còn nhan nhản những ý niệm du nhập từ nước ngoài nữa. Nó chẳng bao giờ ăn đúng bữa; và thật tình có làm tôi phát ói trước cái mớ nhặng xị nó xới lên vì con chó của nó; Chu – Chin, nó gọi con chó thế đấy. Con chó làm chủ ngôi nhà. Con chó ấy đích xác thích làm gì thì làm và chẳng ai dám nói năng gì. Con mèo tội nghiệp của tôi bị khống chế hoàn toàn. Janet nhạy cảm với chuyện con chó lắm. Khi tôi phàn nàn vì con chó ngủ trên chiếc ghế bành bọc vài nhung lông, con bé bực bội đến nỗi cả ngày chẳng thèm hé răng. Đó là một điều khiến tôi không ưa ở Janet. Con bé luôn tỏ ra vô cùng kiêu ngạo mỗi khi bị xúc phạm. Và nó lại thấy bị xúc phạm trước những thứ mà nếu là người khác thì người ta chẳng bao giờ thèm để tâm một mảy may. Và một khi đã giận dỗi một người nào rồi thì nó thành ra giận dỗi với tất cả mọi người. Hy vọng sẽ không có bất cứ thứ gì chọc tức nó trước khi cháu đến vào thứ Sáu, Emily ạ. Nếu con bé đã cạn ráo cảm xúc vui vẻ thì nó sẽ tước đi sự vui vẻ ấy ở cháu. Nhưng về Janet, ta phải nói rằng con bé không thường xuyên cáu kỉnh đâu, và cũng không bao giờ có thái độ hèn hạ hay hằn học. Nó luôn rất nỗ lực vì bạn vì bè.”

Khi bà Ruth đã ra ngoài để hỏi han cậu bé bán tạp phẩm, bà Royal vội nói thêm,

“Con bé hứng thú với cháu lắm đấy, Emily. Nó lúc nào cũng khát khao được giao lưu với những cô gái xinh đẹp, trẻ trung, bảo rằng như thế sẽ khiến nó cảm thấy mình vẫn trẻ. Nó nghĩ tác phẩm của cháu bộc lộ tài năng đích thực. Nếu nó quý mến cháu thì sẽ may mắn cho cháu lắm đấy. Nhưng, thương cháu ta mới dặn, nhớ tỏ ra thân thiện với con chó su đó nhé! Cháu mà làm con chó đó giận dỗi là Janet sẽ chẳng nể nang gì cháu đâu, cho dù cháu có là Shakespeare cũng vậy.”

Sáng thứ Sáu, Emily thức dậy cùng niềm tin chắc chắn ngày hôm nay sẽ đánh dấu một trong những bước ngoặt của cuộc đời cô, một ngày của những khả năng chói lóa. Cô đã có một cơn ác mộng kinh khủng, mơ thấy mình đang ngồi như bị yểm bùa trước mặt cô Royal, không thể bật thốt được bất cứ từ nào ngoại trừ “Chu – Chin”, có mỗi một từ đó bị cô nhắc đi nhắc lại như một con vẹt bất cứ khi nào cô Royal hỏi cô gì đó.

Mưa rả rích suốt cả buổi sáng trong nỗi kinh hoảng của cô, nhưng đến trưa, trời quang đãng sáng sủa và dãy đồi vắt ngang bến cảng tự khoác lên mình tấm khăn quàng màu xanh thần tiên. Emily vội vã đi từ trường về nhà, tái nhợt bởi tính trang trọng của sự kiện. Phục sức như thế nào trở thành một nghi thức quan trọng đối với cô. Cô phải mặc bộ váy lụa màu xanh nước biển – không nghi ngờ gì về điều đó hết. Nó dài chấm chân và sẽ giúp cô có vẻ trưởng thành. Nhưng cô nên để tóc kiểu nào bây giờ? Kiểu tóc búi cao độc đáo hơn cả, phù hợp với nét mặt cô và sẽ cho nhiều lợi thế hơn khi cô đội mũ. Thêm vào đó, có lẽ vầng trán để trần sẽ khiến cô trông có vẻ thông thái hơn. Nhưng bà Royal đã nói cô Royal thích những cô gái xinh đẹp. Bởi vậy, bằng mọi giá cô cũng phải xinh đẹp. Mái tóc đen dày rủ trên trán và trên đỉnh đầu là chiếc mũ xuân mới mà Emily đã đánh bạo mua bằng tấm séc gần đây nhất, bất chấp sự phản đối của bà Elizabeth lẫn lời bình luận thẳng tuột của bà Ruth rằng tiền bạc chẳng ở lâu được với một con ngốc đâu. Nhưng giờ, Emily lấy làm mừng vì đã mua chiếc mũ. Cô không thể đến phỏng vấn cô Royal trong chiếc mũ thủy thủ màu đen đơn giản của cô được. Chiếc mũ vô cùng phù hợp, với cánh hoa violet bằng ren màu tím thẫm rủ xuống, phủ trên những sóng tóc đáng yêu lớp lớp gối lên nhau, vừa chạm tới cần cổ trắng như sữa của cô. Mọi thứ ở cô đều toát lên vẻ xinh xắn gọn gàng đầy trang nhã: trông cô như thể – tôi thích dùng cách nói cũ rích ấy – vừa xuất xưởng. Bà Ruth, đang vơ vẩn quanh hành lang, nhìn thấy cô bước xuống cầu thang và hơi choáng váng phát hiện ra Emily đã là một thiếu nữ.

“Con bé có dáng dấp y như một Murray vậy,” bà Ruth nghĩ.

Sự tán dương không thể đi xa hơn nữa được, mặc dù trên thực tế, nét mảnh mai thanh nhã của Emily chính là được thừa hưởng từ nhà Starr mà ra. Người nhà Murray oai nghiêm và cao quý, nhưng rất cứng nhắc.

Chỉ mất một đoạn đường đi bộ khá ngắn là tới Ashburn, ngôi nhà cũ đẹp đẽ màu trắng nằm giữa hàng cây cổ thụ, cách xa đường phố. Emily leo lên con đường rải sỏi, hai bên viền những bóng hình mùa xuân thanh mảnh nham nhở, y như một người sùng đạo đang dẫn tiến vào một ngôi đền thiêng. Một con chó trắng lông xù khá to đang ngồi trên đoạn giữa con đường rải sỏi. Emily nhìn con chó bằng ánh mắt tò mò. Cô chưa từng thấy con chó su nào. Cô rút ra kết luận Chu – Chin khá xinh, nhưng không sạch sẽ. Rõ ràng con chó đã có khoảng thời gian thích thú trong một bãi bùn nào đó, vì cả chân lẫn ngực đều loét nha loét nhoét. Emily hi vọng nó sẽ chấp nhận cô, nhưng đừng có tiến lại gần cô.

Rõ ràng con chó đã chấp nhận cô, vì nó quay người lon ton leo cùng cô lên con đường, thân thiện ngoe nguẩy cái đuôi mũm mĩm – hay nói cho đúng hơn là cái đuôi ắt hẳn sẽ mũm mĩm nếu không vừa ướt nhoét vừa lấm lem bùn đất. Nó háo hức đứng bên cạnh cô trong lúc cô rung chuông, và ngay khi cửa mở, con chó sung sướng nhảy bật lên người phụ nữ đứng bên trong nhà, suýt nữa đẩy người đó ngã lăn ra.

Cô Royal đích thân ra mở cửa. Như Emily nhìn thấy ngay lập tức, cô không xinh đẹp, nhưng toát lên nét đặc biệt không lẫn vào đâu được, từ búi tóc màu đồng cho tới tận ngón đôi dép lê bằng xa tanh. Cô mặc chiếc váy nhung tuyệt đẹp màu tím hoa cà, đeo cặp kính kẹp mũi vành đồi mồi, kiểu kính lần đầu tiên xuất hiện tại Shrewsbury.

Chu – Chin thè lưỡi, hăm hăm hở hở liếm ướt cả khuôn mặt cô, rồi lao vào trong phòng khách nhà bà Royal. Bộ váy mày tím hoa cà lấm lem dấu chân bùn đất khắp từ cổ cho tới tận gấu váy. Emily cho rằng Chu – Chin hoàn toàn xứng đáng với nhận xét không mấy hảo cảm của bà Royal và thầm nhận xét nếu đây mà là chó của cô thì nó hẳn sẽ cư xử ngoan ngoãn hơn nhiều. Nhưng cô Royal chẳng mảy may trách mắng con chó, và có lẽ sự phê bình bí mật của Emily, từ trong tiềm thức, đã được khơi nguồn từ cái nhận thức ngay tức thì rằng sự đón chào của cô Royal quá mức lạnh lùng, dẫu rằng cô đã bày tỏ thái độ lịch sự hoàn hảo. Từ bức thư của cô, Emily đã phần nào trông đợi một màn đón tiếp nồng ấm hơn.

“Vào trong nhà ngồi đi nào,” cô Royal nói. Cô dẫn Emily vào trong, vẫy tay ra hiệu về phía một cái ghế rộng rất thoải mái, còn cô ngồi xuống một cái ghế Chippendale bằng gỗ cứng có vẻ chẳng biết nhượng bộ ai. Chẳng hiểu sao, Emily, bình thường vốn đã nhạy cảm và vào lúc này lại càng nhạy cảm một cách khác thường, cảm thấy sự lựa chọn ghế ngồi của Royal như báo điềm xấu. Tại sao cô ấy không thân mật vùi người vào trong chiếc ghế Morris bọc nhung ngả lưng ra sau vừa sâu vừa rộng rãi? Mà cô lại ngồi ở đó, nghiêm nghị và xa cách, có vẻ như không mảy may chú ý đến những vết bùn kinh khủng trên chiếc váy xinh đẹp của cô. Chu – Chin đã nhảy phốc lên cái ghế bành khổng lồ bọc vải nhung lông, và ngồi ở đó, vênh váo ngó nghiêng hết người này đến người kia, như thể đang thích thú quan sát tình hình. Có thể nhận thấy quá rõ ràng, đúng như bà Royal từng tiên đoán, đã có chuyện gì đó làm cô Royal “phiền lòng”, và trái tim Emily đột nhiên nặng như chì.

“Hôm nay… trời thật đẹp,” cô ấp úng. Cô biết đây là một câu nói ngu ngốc không để đâu cho hết, nhưng vì cô Royal chẳng chịu hé môi nên cô đành phải nói gì đó. Sự im lặng quá đáng sợ.

“Rất đẹp,” cô Royal đồng ý, không hề liếc mắt về phía Emily mà vẫn nhìn Chu – Chin, lúc này đang quất cái đuôi ướt nhoét của nó lên một cái nệm xinh đẹp bằng lụa pha ren của bà Royal. Emily ghét Chu – Chin. Thật nhẹ nhõm khi căm ghét con chó, vì cô không dám ghét cô Royal. Nhưng cô chỉ ước gì mình đang ở cách xa đây cả ngàn dặm. Ôi, giá như không phải cô đang đặt gói bản thảo nhỏ trong lòng! Nhìn qua cũng biết nó là cái gì. Cô sẽ không bao giờ có đủ dũng khí cho cô Royal xem một bản thảo nào trong số đó. Vị nữ hoàng đang giận dữ này liệu có đúng là người đã viết bức thư thân thiện, tử tế kia không? Thật chẳng thể tin điều đó là sự thật. Đây ắt hẳn là một cơn ác mộng. Giấc mơ của cô đã trở nên “xa vời” quá sức tưởng tượng. Cô cảm thấy mình thật lỗ mãng, non nớt, dốt nát và bất lịch sự… và ngây thơ! Ôi chao, ngây thơ khủng khiếp!

Thời gian dần trôi; có lẽ không quá lâu, nhưng với Emily dường như đã hàng mấy tiếng đồng hồ. Miệng cô khô rang, não bộ tê liệt. Cô không thể nghĩ ra bất kỳ câu nào để nói. Trong tâm trí cô, chợt nhoáng lên một mối nghi ngờ đáng sợ rằng, sau khi viết thư cho cô, cô Royal đã nghe đồn thổi về buổi tối trong căn nhà cũ của ông John và bởi vậy mà thái độ của cô ấy mới thay đổi.

Emily khổ sở vặn vẹo trên ghế và gói bản thảo nhỏ trượt xuống sàn. Emily cúi rạp người xuống để lấy lại cái gói. Đúng lúc đó, Chu – Chin cũng bay từ trên ghế bành về phía nó. Những móng vuốt lấm lem bùn đất của con chó chộp lấy cành violet bằng ren rủ từ chiếc mũ của Emily và xé nó tuột xuống. Emily bỏ gói bản thảo đó để túm chặt lấy cái mũ. Chu – Chin bỏ cành hoa violet để nhảy chồm lên gói bản thảo. Rồi, ngậm chặt cái gói trong miệng, con chó phóng ra ngoài khung cửa kính đang để ngỏ thông với khu vườn.

“Ôi chao, nếu nó giật đứt tóc của mình thì có lẽ còn nhẹ nhõm hơn.” Emily giận dữ nghĩ thầm.

Con chó su quái ác đã tha mất câu chuyện mới nhất hay nhất cùng mấy bài thơ tuyển của cô. Có trời mới biết nó định làm gì với chúng. Có lẽ cô sẽ chẳng bao giờ còn nhìn thấy chúng lần nữa. Nhưng, ít ra, cũng còn may là bây giờ không còn phải lăn tăn xem có nên đưa cho cô Royal đọc chúng hay không.

Emily không còn bận tâm xem liệu tâm trạng cô Royal có tệ hay không nữa. Cô cũng không còn tha thiết mong được làm vừa lòng cô ấy – một người phụ nữ đã để con chó của mình cư xử như thế với khách mời mà chẳng buồn lấy nửa lời quở trách nó! Đấy, thậm chí cô ấy còn có vẻ thích thú với cái trò hề của con chó nữa. Emily dám chắc cô đã bắt gặp một nét cười thấp thoáng trên khuôn mặt cô Royal khi cô ấy nhìn cảnh violet tả tơi vương vãi trên sàn nhà.

Emily bất chợt nhớ đến một câu chuyện cô từng được nghe kể về cha của ông John Ngạo Mạn, người thường có thói quen nói với vợ, “Hễ khi nào có người tìm cách làm mất mặt bà, Bridget, cứ bĩu môi ra, Bridget, bĩu môi ra.”

Emily bèn bĩu môi ra.

“Con chó nghịch ngợm thật đấy,” cô nói giọng châm biếm.

“Rất nghịch,” cô Royal bình tĩnh tán thành.

“Cô không cho là nó sẽ tiến bộ hơn nếu được khép vào kỷ luật vừa phải sao?” Emily hỏi.

“Không, cô không nghĩ thế,” cô Royal trầm ngâm đáp lại.

Đúng lúc này, Chu – Chin quay lại, nhảy tưng tưng khắp phòng, quất đuôi hất một cái bình thủy tinh nhỏ rơi ra khỏi ghế đẩu, sau đó khịt khịt mũi ngửi ngửi đám mảnh vỡ, rồi lại nhảy phốc lên ghế bành, ngồi thở hổn hà hổn hển trên đó. “Chao ôi, tôi là một chú chó mới ngoan ngoãn làm sao chứ!”

Emily cầm sổ ghi chép và bút chì lên.

“Ông Towers cử cháu đến phỏng vấn cô,” cô nói.

“Cô rõ rồi,” cô Royal nói, không một giây nào rời mắt khỏi con chó su yêu quý.

Emily: “Cháu có thể phiền cô trả lời một vài câu hỏi không ạ?”

Cô Royal, bằng thái độ thân thiện thái quá: “Hấp dẫn đấy.”

(Chu – Chin, sau khi đã lấy hơi đủ, bèn lao vọt ra khỏi ghế và phóng như bay qua hai cánh cửa xếp nửa khép nửa mở của phòng ăn.)

Emily tham khảo cuốn sổ ghi chép và chẳng buồn suy nghĩ mà cứ thế hỏi luôn câu đầu tiên được viết trong đó: “Cô nghĩ cuộc bầu cử tổng thống mùa thu này sẽ có kết quả như thế nào?”

Cô Royal: “Cô chẳng bao giờ nghĩ đến vấn đề đó.”

(Mím chặt môi, Emily viết vào cuốn sổ ghi chép: “Cô ấy chẳng bao giờ nghĩ đến vấn đề đó.” Chu – Chin lại xuất hiện, vọt từ đầu này sang đầu kia phòng khách, lao vào trong vườn, mõm ngậm một con gà quay.)

Cô Royal: “Bữa tối của cô đi tong rồi.”

Emily, đang bỏ đánh dấu câu hỏi đầu tiên: “Liệu có khả năng Quốc hội Mỹ sẽ xem xét với thái độ tích cực đến những đề nghị hợp tác gần đây của chính phủ Canada không?”

Cô Royal: “Chính phủ Canada có đưa ra đề nghị hợp tác à? Cô chưa từng nghe nói đến những đề nghị đó.”

(Emily viết, “Cô ấy chưa bao giờ nghe nhắc đến chúng.” Cô Royal chỉnh lại cặp kính kẹp mũi.)

Emily, nghĩ thầm: “Với cái cằm và cái mũi như thế này thì lúc về già trông cô sẽ giống phù thủy đấy.” Nói: “Theo ý kiến của cô, có phải tiểu thuyết lịch sử đã qua thời đỉnh cao?”

Cô Royal, uể oải: “Tôi luôn để ý kiến của mình ở nhà mỗi khi tôi đi nghỉ.”

(Emily viết, “Cô ấy luôn để ý kiến của mình ở nhà mỗi khi cô ấy đi nghỉ,” và khát khao mơ ước có thể viết bản miêu tả của cô về cuộc phỏng vấn này, nhưng biết rõ ông Towers sẽ chẳng đời nào đăng nó. Rồi cô tự an ủi bản thân bằng cách nhớ lại rằng cô có một cuốn sổ Jimmy mới tinh ở nhà; đồng thời trong lòng dấy lên một niềm vui mừng tinh quái khi tưởng tượng đến bài viết sẽ được ghi vào đó tối nay. Chu – Chin bước vào. Emily thầm hỏi không biết trong khoảng thời gian ngắn ngủi vừa rồi, nó có kịp ăn hết con gà kia không. Chu – Chin, hiển nhiên đang có nhu cầu ăn tráng miệng, tự ý tóm lấy một trong mấy tấm vải phủ ghế bằng len móc của bà Royal, rồi mang theo nó bỏ xuống dưới cây đàn piano, bắt đầu hăm hở nhai gặm.)

Cô Royal, nồng nhiệt: “Chó cưng!”

Emily, đột nhiên được khơi nguồn cảm hứng: “Cô nghĩ gì về chó su?”

Cô Royal: “Sinh vật đáng mê mẩn nhất trần đời.”

Emily, tự nói với mình: “Vậy ra cô cũng mang một ý kiến theo đấy.” Với cô Royal: “Cháu không mê chúng.”

Cô Royal, kèm theo nụ cười băng giá: “Rõ ràng sở thích của cháu với loại chó khác hẳn so với của cô.”

Emily, tự nói với mình: “Giá như Ilse có mặt ở đây để thay cháu đặt biệt danh cho cô.”

(Một con mèo xám khổng lồ toát lên phong thái người mẹ bước ngang qua ngưỡng cửa bên ngoài nhà. Chu – Chin lao vọt ra từ dưới cây đàn piano, phóng giữa bốn cái chân kệ đứng cao, đuổi theo con mèo đang phi như bay. Cái kệ đứng đổ sầm xuống và cây thu hải đường xinh đẹp của bà Royal nằm tan nát trên sàn, giữa đống đất và mảnh gốm vỡ.)

Cô Royal, không chút đồng tình: “Tội nghiệp dì Angela! Dì ấy sẽ thương tâm lắm cho xem!”

Emily: “Nhưng chuyện đó không có gì to tát, phải không ạ?”

Cô Royal, dịu dàng: “Ồ, không; không hề.”

Emily, tham khảo cuốn sổ ghi chép: “Cô có nhận thấy nhiều thay đổi ở Shrewsbury hay không?”

Cô Royal: “Cô thấy người dân thay đổi rất nhiều. Thế hệ trẻ không mang lại cho cô những ấn tượng tốt đẹp.”

(Emily viết lại câu này. Chu – Chin lại xuất hiện, rõ ràng đã đuổi con mèo băng qua một vũng bùn mới, và tiếp tục thưởng thức món vải len phủ ghế, dưới cây đàn piano)

Emily đóng cuốn sổ ghi chép lại và đứng dậy. Dẫu có vì ông Towers đến mức nào đi chăng nữa thì cũng không đủ sức khiến cô kéo dài cuộc phỏng vấn này. Trông cô ta giống như một thiên thần trẻ, nhưng cô ta lại có những suy nghĩ khủng khiếp. Và cô cắm ghét cô Royal – ôi chao, cô mới căm ghét cô ta biết nhường nào chứ!

“Cảm ơn cô, thế này là đầy đủ rồi,” cô nói, với thái độ kiêu kỳ không thua kém gì cô Royal. “Cháu rất tiếc vì đã làm cô mất nhiều thời gian như thế. Tạm biệt cô.”

Cô hơi cúi đầu chào và bước ra hành lang. Cô Royal theo chân cô tới cửa phòng khách.

“Chẳng phải cháu nên mang con chó của cháu đi cùng thì hơn sao, cô Starr?” cô hỏi giọng ngọt ngào.

“Cô bảo sao ạ?”

“Cô bảo là sao cháu không mang con chó của cháu đi?”

“Chó của cháu?”

“Phải. Chắc hắn nó vẫn chưa xử lý xong tấm vải phủ ghế đâu, nhưng cháu có thể cầm cả tấm vải đi. Giờ thì nó cũng chẳng còn mấy ích lợi với dì Angela đâu.”

“Nó… nó… không phải con chó của cháu,” Emily hổn hển nói.

“Không phải chó của cháu? Thế nó là chó của ai?” cô Royal hỏi.

“Cháu… cháu cứ tưởng nó là của cô… con chó su của cô,” Emily nói.
 
Chương 23: Cánh cửa mở
Cô Royal nhìn Emily một lúc. Rồi cô túm lấy cổ tay Emily, đóng sầm cửa lại, kéo cô quay trở lại phòng khách, và kiên quyết đẩy cô ngồi vào chiếc ghế bọc nhung. Xong xuôi, cô Royal thả người xuống cái ghế sofa lấm lem bùn đất và phá lên cười – cười rũ rượi mất một lúc lâu. Thỉnh thoảng, cô đưa người về phía trước, vỗ mạnh lên đầu gối Emily, rồi lại ngả người ra sau và tiếp tục cười to. Emily ngồi đó, mỉm cười yếu ớt. Cảm xúc của cô đã bị tổn thương quá sâu sắc đến độ chẳng thể tiếp nhận nổi những trận cười thắt gan thắt ruột của cô Royal, nhưng trong tâm trí cô, một bản phác thảo đã bắt đầu thấp thoáng thành hình cho cuốn sổ Jimmy. Trong lúc đó, con chó trắng, sau khi đã cắn tấm vải ghế tơi tả, lại phát hiện thấy con mèo, bèn phòng ra đuổi theo nó lần nữa.

Cuối cùng cô Royal cũng ngồi thẳng lại và lau nước mắt.

“Ôi chao, thật vô giá. Emily Byrd Starr – thật vô giá! Đến khi tám mươi tuổi, cô sẽ nhớ lại chuyện này và gào rú ra trò. Ai sẽ viết lại câu chuyện này đây nhỉ, cháu hay là cô đây? Nhưng ai là chủ của con vật đó vậy nhỉ?”

“Chắc chắn là cháu không biết gì đâu ạ,” Emily dè dặt nói. “Cháu chưa bao giờ nhìn thấy nó trong đời.”

“Ái chà, hãy đóng cửa lại đã, trước khi nó có thể quay trở lại. Còn bây giờ, cô gái yêu quý, ngồi xuống đây cạnh cô nào; ở đây có một chỗ sạch sẽ bên dưới tấm nệm đấy. Giờ chúng ta sẽ chuyện trò thực sự nhé. Ôi chao, cô đã tỏ thái độ rất khó chịu khi cháu cố gắng đặt câu hỏi cho cô. Cô đã cố gắng tỏ thái độ khó chịu. Sao cháu không cho cô một trận chứ, cô gái yêu quý tội nghiệp bị sỉ nhục?”

“Cháu cũng đã muốn thế đấy ạ. Nhưng bây giờ, nếu cân nhắc đến lối cư xử của con chó mà cô cứ tưởng là của cháu kia thì cháu nghĩ cô đã vô cùng khoan dung với cháu rồi đấy ạ.”

Cô Royal lại bộc phát một trận cười nữa.

“Cô thật chẳng biết liệu cô có thể tha thứ cho cháu vì dám cho rằng cái con vật màu trắng lông xù kinh khủng kia chính là chú chó su có bộ lông màu vàng đỏ lộng lẫy của cô hay không. Trước lúc cháu về nhà, cô sẽ dẫn cháu lên phòng cô để cháu xin lỗi chú ta. Chú ta đang ngủ trên gi.ường cô. Cô đã nhốt chú chó trên đó để dì Angela yêu quý không phải lo lắng cho con mèo của dì ấy. Chu – Chin sẽ không làm tổn thương con mèo; chú ta chỉ đơn thuần muốn chơi đùa với nó thôi, còn cái con mèo già ngu ngốc ấy lại cứ chạy trốn chứ. Thế đấy, cháu biết mà, một khi mèo đã chạy thì chó làm sao lại không đuổi theo cơ chứ. Như lời Kipling nói đấy, nếu không làm thế thì chó đâu phải đích thực là chó. Giá như cái con chó trắng quỷ sứ kia chỉ dừng lại ở mức săn đuổi con mèo!”

“Dở cho cây thu hải đường của bà Royal quá,” Emily nói, giọng tiếc nuối.

“Phải, tội nghiệp thật. Dì Angela đã trồng nó bao nhiêu năm rồi. Nhưng cô sẽ kiếm cho dì ấy một cây mới. Lúc nhìn thấy cháu bước trên đường trong lúc con chó nhảy tưng tưng bên cạnh như thế, tất nhiên cô đã đoán ngay rằng nó là con chó của cháu. Cô đã diện bộ váy ưa thích nhất vì thực tình nó khiến cô trông có vẻ xinh đẹp; và cô muốn cháu yêu quý cô; rồi đến khi con quỷ sứ đó vấy bùn lên hết cả cái váy trong khi cháu chẳng thốt ra một lời quở trách hay xin lỗi nào, cơn giận dữ lạnh lẽo của cô cứ thế mà bùng lên thôi. Cô cứ thế mà phát giận; cô chẳng thể kiềm chế được. Đó chính là một trong những thiếu sót vặt vãnh của cô. Nhưng nếu không xảy ra những tình tiết mới khiến sự việc càng thêm trầm trọng thì thể nào cô cũng nhanh chóng quẳng nó sang một bên. Mà trong trường hợp này thì những tình tiết mới khiến sự việc càng thêm trầm trọng ấy lại cứ chồng lên hết phút này sang phút khác. Cô đã tự thề với lòng rằng nếu cháu thậm chí chẳng buồn cố gắng dạy dỗ con chó của cháu cư xử cho phải phép thì cô cũng sẽ chẳng nhắc nhở cháu làm gì. Và chắc hẳn cháu rất phẫn nộ vì cô thản nhiên để mặc con chó của cô tàn phá cành hoa violet của cháu và ăn mất bản thảo của cháu?”

“Đúng vậy ạ.”

“Chuyện xảy ra với xấp bản thảo ấy thật tệ quá. Có lẽ cô cháu mình có thể tìm thấy chúng; nó chẳng thế nuốt trọn xấp bản thảo ấy được, nhưng cô đoán là nó đã nhai tơi tả ra rồi.”

“Không sao đâu ạ. Cháu còn các bản sao ở nhà.”

“Và còn các câu hỏi của cháu nữa! Emily, cháu thật ngọt ngào quá. Cháu có ghi lại các câu trả lời của cô thật không vậy?”

“Chuẩn xác từng từ một ạ. Cháu cũng dự định sẽ cho đăng chúng y nguyên như thế. Ông Towers đã đưa cho cháu một danh sách câu hỏi để hỏi cô, nhưng tất nhiên cháu không định cứ nói thẳng toẹt ra như thế. Cháu đã định sẽ uyển chuyển cài nó vào cuộc đối thoại khi hai cô cháu nói chuyện. Nhưng bà Royal đến đây rồi kìa.”

Bà Royal đang tươi cười bước vào. Khuôn mặt bà thay đổi hẳn khi bà nhìn thấy cây thu hải đường. Nhưng cô Royal nhanh chóng can thiệp.

“Dì yêu quý, chớ khóc lóc hay ngất đi nhé – ít nhất thì cũng đợi cho đến khi dì nói cho cháu biết ở quanh đây có ai nuôi một con chó trắng lông xù quỷ sứ hư hỏng không?”

“Lily Bates,” bà Royal nói trong nỗi tuyệt vọng. “Ôi, cô ta lại thả rông con vật đó à? Trước khi cháu đến, nó đã khiến dì khổ sở không để đâu cho hết rồi. Thực tình nó chỉ là một con chó con to xác và nó không thể cư xử cho phải phép. Cuối cùng, dì đã phải bảo cô ta nếu dì còn thấy nó lảng vảng quanh đây lần nữa là dì sẽ đánh bả nó cho xem. Từ lúc nghe dì nói thế, cô ta đã nhốt kín con chó lại. Nhưng giờ thì… ôi chao.”

“Chuyện là thế này, con chó này đi vào trong nhà cùng với Emily. Cháu cứ tưởng nó là con chó của cô ấy. Lịch sự với khách cũng có nghĩa là lịch sự với con chó của khách – chẳng phải có một câu châm ngôn lâu đời nào đó diễn tả súc tích ý này hay sao? Ngay lúc bước vào, con chó đã hăm hở vồ lấy cháu, cứ nhìn bộ váy yêu dấu này của cháu là biết. Nó làm lấm lem hết cái ghế sofa của dì; nó xé tan nát cành hoa violet của Emily; nó săn đuổi con mèo của dì; nó hất đổ cây thu hải đường của dì; nó làm vỡ bình hoa của dì; nó chạy đi mang theo con gà của chúng ta; ôi chao, than ôi, nó đã làm thế đấy, dì Angela! Ấy vậy mà cháu, điềm tĩnh và lịch sự không để đâu cho hết, không thốt ra bất kỳ lời phản đối nào. Cháu xin thề là cách cư xử của cháu rất phù hợp với lối cư xử ở Trăng Non, có phải vậy không, Emily?”

“Có mà cháu tức giận quá nên chẳng nói gì được ấy chứ,” bà Royal rầu rĩ nói, lướt ngón tay trên cây thu hải đường tan nát.

Cô Royal ranh mãnh liếc trộm Emily một cái.

“Cháu thấy không, cô chẳng tài nào đánh lừa dì Angela được. Dì ấy quá hiểu cô rồi. Cháu phải thú nhận rằng cháu đã không cư xử duyên dáng như bình thường. Nhưng, dì yêu quý, cháu sẽ kiếm cho dì một cái chậu hoa và một cây thu hải đường mới; cứ nghĩ mà xem, dì sẽ vui vẻ đến thế nào trong quá trình chăm bẵm nó chứ. Sự mong đợi bao giờ cũng thú vị hơn nhiều so với việc nhận thức rõ.”

“Dì… sẽ chỉnh cho Lily Bates một trân,” bà Royal nói trong lúc bước ra ngoài tìm cái hót rác.

“Nào, cô gái yêu quý. Chúng ta tán chuyện thôi,” cô Royal vừa nói vừa ngồi xích lại gần Emily.

Đây chính là cô Royal trong thư. Emily nhận ra nói chuyện với cô ấy không khó chút nào. Họ trò chuyện vui vẻ suốt cả tiếng đồng hồ, và đến khi kết thúc cuộc nói chuyện, cô Royal đưa ra một đề nghị khiến Emily gần như nghẹn thở.

“Emily, cô muốn cháu theo cô quay về New York vào tháng Bảy này. Tạp chí Phụ nữ đang khuyết một vị trí; cũng chẳng to tát gì đâu. Nói chung cháu sẽ làm chân chạy vặt, và đủ mọi thứ công việc quái dị sẽ trút hết lên đầu cháu; nhưng cháu sẽ có cơ hội làm việc. Và cháu sẽ ở ngay tại tâm điểm vấn đề. Cháu biết cách viết; cô đã nhận ra điều đó ngay từ lúc đọc Người phụ nữ từng đét mông đứa vua. Cô quen biên tập viên của Roche và cô đã tìm hiểu được cháu là ai và cháu ở đâu. Đây mới là lý do đích thực cô về đây mùa xuân này; cô muốn bắt được cháu. Cháu không được lãng phí cuộc đời của mình tại nơi này; như thế là tội ác. Ồ, tất nhiên, cô biết Trăng Non là một nơi xinh đẹp, đáng yêu, thân thương; chan chứa chất thơ và đắm chìm trong bầu không khí lãng mạn, nó đúng là nơi phù hợp nhất dành cho thời thơ ấu của cháu. Nhưng cháu phải có cơ hội để trưởng thành, để phát triển và để được là chính mình. Cháu phải được khuyến khích bởi sự giao thiệp với những trí tuệ vĩ đại – sự trau dồi mà cháu chỉ có thể nhận được khi ở trong thành phố lớn. Hãy đi cùng cô. Nếu cháu đi, cô hứa với cháu rằng trong vòng mười năm, Emily Byrd Starr sẽ trở thành cái tên được săn đón giữa các tòa soạn báo của Mỹ.”

Nguồn ebook: https://www.luv-ebook.com

Emily hoang mang rối rắm ngồi đó, quá bối rối và choáng váng đến độ chẳng tài nào suy nghĩ mạch lạc được. Cô chưa bao giờ mơ tưởng đến chuyện này. Cứ như thể, cô Royal vừa đột nhiên đặt vào tay cô một chiếc chìa khóa để mở cánh cửa dẫn tới thế giới của hết thảy mọi ước mơ, mọi hy vọng và mọi tưởng tượng của cô. Đằng sau cánh cửa đó là tất cả những gì cô từng hy vọng về thành công và danh vọng. Tuy nhiên… tuy nhiên… nỗi oán giận nhạt nhòa kỳ quái nào kia đang khuấy đảo tận dưới đáy những cảm xúc quay cuồng của cô? Liệu có phải một cảm giác nhói đau đã được khơi dậy từ suy đoán lạnh lùng của cô Royal rằng nếu Emily không đi cùng với cô ấy thì tên tuổi cô vĩnh viễn sẽ chẳng ai biết tới? Liệu những bậc tổ tiên Murray có lật người trong mộ trước lời thì thầm rằng một trong những hậu duệ của họ chẳng bao giờ có thể thành công nếu không có sự hỗ trợ và “nâng đỡ” của một người xa lạ? Hay thái độ của cô Royal có phải đã nhuốm màu kẻ cả quá đậm? Cho dù có là gì đi chăng nữa thì nó cũng đã ngăn Emily khỏi lao mình quỳ sụp xuống chân cô Royal, nói theo nghĩa bóng.

“Ôi, cô Royal, như thế thì tuyệt quá,” cô ngập ngừng. “Cháu rất muốn đi… nhưng cháu e là bác Elizabeth sẽ không đời nào ưng thuận đâu ạ. Bác ấy sẽ bảo là cháu còn nhỏ tuổi quá.”

“Cháu đã bao nhiêu tuổi rồi?”

“Mười bảy ạ.”

“Khi ra đi, cô mười tám tuổi. Cô không quen biết bất kỳ ai ở New York… cô chỉ đủ tiền sống trong ba tháng. Cô mới chỉ là một đứa bé non nớt chưa từng trải sự đời… nhưng cô đã thành công. Cháu sẽ sống cùng cô. Cô sẽ chăm sóc cháu chu đáo không thua kém gì bác Elizabeth. Cứ nói với bác ấy rằng cô sẽ trông nom cháu y như con ngươi của cô vậy. Cô có một căn hộ nhỏ ấm cúng, yêu quý nơi chúng ta sẽ hạnh phúc như những bà hoàng, cùng với Chu – Chin yêu quý biết lấy lòng người khác. Cháu sẽ yêu Chu – Chin cho xem, Emily ạ.”

“Cháu nghĩ là cháu thích một con mèo hơn,” Emily quả quyết.

“Mèo! Ôi, chúng ta không thể nuôi mèo trong một căn hộ được. Nó sẽ không đủ ngoan ngoãn tuân theo kỷ luật. Cháu sẽ phải hy sinh những con mèo của cháu trên bàn thờ nghệ thuật thôi. Cô dám chắc cháu sẽ thích sống cùng cô đấy. Cô rất tử tế, hòa nhã và đáng mến, bất cứ khi nào cô thấy thích; mà nhìn chung thì cô thường xuyên thích như thế; và cô chưa bao giờ nổi nóng. Thỉnh thoảng thái độ của cô có chút băng giá, nhưng, như cô đã nói với cháu đấy, băng sẽ tan ngay ấy mà. Cô chịu đựng những bất hạnh của người khác bằng thái độ điềm tĩnh. Và cô không bao giờ nói với bất kỳ ai rằng họ bị cảm lạnh rồi, hay trông họ mệt mỏi quá. Ồ, cô thật sự là một người ở chung nhà đáng mến đấy.”

“Cháu dám chắc như vậy ạ,” Emily mỉm cười nói.

“Từ trước tới nay, cô chưa từng gặp cô gái nào khiến cô muốn được cùng chung sống,” cô Royal nói. “Cháu tỏa sáng theo một cách nào đó, Emily ạ. Cháu mang ánh sáng chiếu rọi những nơi u ám và nhuộm đỏ những chốn xám xịt. Nào, hãy quyết định đi cùng cô nhé.”

“Chính bác Elizabeth mới là người ra quyết định đấy ạ,” Emily rầu rĩ nói. “Nếu bác ấy bảo cháu có thể thì cháu sẽ…”

Emily chợt nhận ra mình đã đột ngột ngừng lời.

“Cứ thế đi,” cô Royal hân hoan kết thúc hộ câu nói dở dang. “Bác Elizabeth thế nào cũng sẽ tạt qua chơi. Cô sẽ đến nói chuyện với bác ấy. Tối thứ Sáu tới, cô sẽ về Trăng Non cùng cháu. Cháu phải có cơ hội.”

“Cháu không biết cảm ơn cô thế nào cho đủ, cô Royal ạ, vậy nên cháu sẽ không thử làm thế. Nhưng giờ cháu phải đi thôi. Cháu sẽ suy nghĩ kỹ càng về vấn đề này… hiện giờ cháu đang choáng váng quá nên chẳng suy nghĩ gì được. Cô không biết chuyện này có ý nghĩa như thế nào với cháu đâu ạ.”

“Có lẽ là cô biết đấy,” cô Royal dịu dàng nói. “Cô từng là một thiếu nữ ở Shrewsbury, héo hon mòn mỏi vì không có cơ hội nào.”

“Nhưng chính cô đã tạo cơ hội cho mình… và đã thành công,” Emily nói, giọng nhuốm màu khao khát.

“Phải… nhưng cô đã phải ra đi thì mới làm được như thế. Có lẽ nếu cứ ở nơi này thì cô sẽ chẳng bao giờ đạt được thành công. Và ban đầu, chặng đường phấn đấu gian nan khủng khiếp. Nó đã chiếm mất thời thanh xuân của cô. Cô muốn giảm bớt cho cháu một số khó khăn và những lúc nản lòng thối chí. Cháu sẽ tiến xa hơn rất nhiều so với những gì cháu đã làm được; cháu có khả năng sáng tạo. cô chỉ có thể xây dựng dựa trên những chất liệu do người khác tạo ra. Nhưng những người xây dựng như bọn cô cũng có nơi có chốn của mình; nếu không làm được gì thì bọn cô cũng có thể dựng nên những đền thờ dành cho các vị thần của mình. Hãy đi với cô, cô gái Emily yêu dấu, cô sẽ làm tất cả những gì có thể để giúp đỡ cháu bằng mọi cách.”

“Cảm ơn cô… cảm ơn cô,” là tất cả những gì Emily có thể nói. Đôi mắt cô ngân ngấn những giọt nước mắt biết ơn trước lời đề nghị trao tặng lòng cảm thông và sự giúp đỡ hào phóng này. Từ bé đến giờ, cô không mấy khi nhận được sự cảm thông hay động viên. Hành động này đã khiến cô xúc động sâu sắc. Cô ra về, lòng thầm nhủ cô phải xoay chiếc chìa khóa, mở cánh cửa thần kỳ dẫn đến một thế giới giờ đây dường như đang chất chứa toàn bộ vẻ đẹp và sự quyến rũ của cuộc sống… miễn là bà Elizabeth đồng ý cho cô đi.

“Mình không thể làm thế nếu bác ấy không tán thành,” Emily đưa ra quyết định.

Nửa đường trở về nhà, cô đột nhiên ngừng phắt lại và cười phá lên. Rốt cuộc, cô Royal đã quên mất, không cho cô xem Chu – Chin của cô ấy.

“Nhưng cũng chẳng sao,” cô nghĩ, “bởi vì trước hết, mình không thể tin được là sau chuyện này, mình lại có thể có bất kỳ mối quan tâm thực lòng nào đối với giống chó su. Hơn nữa, nếu được đi cùng cô Royal tới New York, mình sẽ thường xuyên được nhìn thấy chú ta thôi.”
 
Chương 24: Thung lũng ảo mộng
Liệu cô có tới New York cùng cô Royal không? Đây chính là câu hỏi mà bây giờ Emily phải đưa ra câu trả lời. Hay nói đúng hơn, câu hỏi mà bà Elizabeth phải đưa ra câu trả lơi. Vì, như Emily cảm nhận được, hết thảy mọi vấn đề đều phụ thuộc vào câu trả lời của bà Elizabeth. Và cô không thật lòng hy vọng bà Elizabeth sẽ cho phép cô đi. Emily có thể khát khao mơ ước đến những đồng cỏ xa xăm thú vị xanh tươi mơn mởn mà cô Royal đã vẽ nên, nhưng cô cũng khá chắc chắn rằng cô chẳng bao giờ có thể nhấm nháp cỏ trên đó được. Lòng kiêu hãnh – và cả định kiến – của nhà Murray sẽ là một rào chắn không thể vượt qua.

Emily không nói gì với bà Ruth về đề nghị của cô Royal. Bà Elizabeth có quyền được là người đầu tiên nghe tin này. Cô giữ kín bí mật sáng chói này cho tới tận kỳ nghỉ cuối tuần, khi cô Royal tới Trăng Non, rất lịch thiệp vui vẻ, và chỉ phảng phất chút xíu xiu vẻ kẻ cả, để đề nghị bà Elizabeth cho phép Emily đi cùng cô.

Bà Elizabeth im lặng lắng nghe – sự im lặng phản đối, theo như cảm nhận của Emily.

“Phụ nữ nhà Murray không bao giờ phải làm lụng kiếm sống,” bà lạnh lùng nói.

“Công việc này không hẳn là ‘làm lụng’ như bà nói đâu, bà Murray yêu quý,” cô Royal nói, với thái độ kiên nhẫn đầy lịch sự mà ắt hẳn người ta vẫn dùng với một quý bà mang theo cách nhìn của thế hệ đi trước. “Ở khắp mọi nơi, hàng nghìn phụ nữ vẫn đang bước vào đời sống nghề nghiệp và có công ăn việc làm.”

“Có lẽ họ sẽ chẳng gặp phải vấn đề gì nếu họ không xây dựng gia đình,” bà Elizabeth nói.

Cô Royal hơi đỏ mặt. Cô biết rõ trong cộng đồng Hồ Blair và Shrewsbury, cô vẫn bị coi là bà cô già, và bởi vậy là một người thất bại, bất kể thu nhập của cô là bao nhiêu và cô có vị trí như thế nào ở New York. Nhưng cô cố gắng giữ bình tĩnh và thử tấn công theo cách khác.

“Emily có năng khiếu viết lách đặc biệt,” cô nói. “Cháu cho là nếu được trao cơ hội, cô bé có thể làm được điều gì đó thực sự đáng giá. Cô bé phải được trao cho cơ hội, bà Murray ạ. Bà biết rõ rằng ở đây, sẽ chẳng có bất kỳ cơ hội nào cho kiểu công việc như thế.”

“Năm ngoái, Emily đã kiếm được chín mươi đô la bằng ngòi bút của mình,” bà Elizabeth nói.

“Lạy trời giữ cho tôi được kiên nhẫn!” cô Royal nghĩ. Cô Royal nói, “Vâng, và mười năm nữa, cô ấy có thể kiếm được vài trăm đô, nhưng ngược lại, nếu cô ấy đi cùng cháu, trong vòng mười năm nữa, thu nhập của cô ấy có thể lên đến hàng bao nhiêu nghìn đô la.”

“Ta phải suy nghĩ cẩn thận đã,” bà Elizabeth nói.

Emily không ngờ bà Elizabeth lại bằng lòng suy nghĩ cẩn thận vấn đề này. Cô những tưởng sẽ phải nhận sự từ chối dứt khoát.

“Bác ấy sẽ thay đổi ý kiến cho xem,” cô Royal thì thầm trên đường ra về. “Rồi cô sẽ có được cháu, Emily Bryd Starr yêu dấu ạ. Cô hiểu quá rõ những ông bà già Murray ấy. Họ luôn luôn biết cách nắm bắt cơ hội. Bác cháu sẽ cho cháu đi thôi.”

“Cháu e là không đâu ạ,” Emily rầu rĩ nói.

Khi cô Royal đã về, bà Elizabeth nhìn Emily.

“Cháu có muốn đi không, Emily?”

“Có ạ… cháu nghĩ vậy… nếu bác bằng lòng,” Emily ngập ngừng. Cô trắng bệch như tờ giấy… cô không nài nỉ cũng chẳng ngon ngọt dỗ dành. Nhưng cô không hy vọng gì… không một chút nào.

Bà Elizabeth mất một tuần suy nghĩ kỹ càng mọi chuyện. Bà gọi bà Ruth, ông Wallace và ông Oliver đến hỗ trợ. Bà Ruth nói bằng giọng ngờ vực,

“Tôi ngờ là chúng ta phải để con bé đi thôi. Đây là cơ hội tuyệt vời đối với nó. Cũng đâu phải con bé đi một mình… tôi sẽ không đời nào tán thành chuyện đó. Janet sẽ chăm sóc con bé.”

“Con bé còn quá nhỏ… con bé còn quá nhỏ,” ông Oliver nói.

“Có vẻ như đây là một cơ hội tốt dành cho con bé… nghe nói Janet Royal xoay xở tốt lắm,” ông Wallace nói.

Bà Elizabeth thậm chí còn viết thư cho bà cô Nancy. Câu trả lời quay trở về trong dòng chữ viết tay run run của bà cụ:

“Có lẽ các cô cậu nên để Emily tự mình quyết định,” cụ Nancy đề xuất.

Bà Elizabeth gấp bức thư của bà cô Nancy lại và gọi Emily vào phòng khách.

“Nếu muốn, cháu có thể đi với cô Royal,” bà nói. “Ta cảm thấy nếu ta cản trở cháu thì thật không phải. Chúng ta sẽ nhớ cháu… chúng ta vẫn muốn cháu ở cạnh chúng ta thêm vài năm nữa. Ta chẳng biết gì về New York. Ta nghe nói đó là một thành phố tội lỗi. Nhưng cháu đã được nuôi dạy tử tế. Ta sẽ trao quyền quyết định cho cháu. Laura, cô khóc lóc cái gì vậy hả?”

Emily có cảm giác chính mình cũng sắp òa khóc đến nơi. Ngạc nhiên thay, cảm giác mà cô cảm thấy lại không phải là sự nhẹ nhõm hay vui vẻ. Khát khao những bãi cỏ bị cấm đoán là một chuyện. Nhưng dường như khi hàng rào chắn đã bị hạ xuống và bạn được thông báo cứ tùy ý mà bước vào thì lại là chuyện khác.

Emily không lập tức lao về phòng để viết một bức thu tràn ngập niềm vui sướng cho cô Royal – lúc này đang đi thăm hỏi bạn bè ở Charlottetown. Thay vào đó, cô bước ra ngoài vườn suy nghĩ rất lung – suốt cả chiều hôm đó và cả ngày Chủ nhật. Trọn kỳ nghỉ cuối tuần ở Shrewsbury, cô luôn trầm ngâm lặng lẽ, ý thức rất rõ bà Ruth đang gắt gao quan sát cô. Vì lý do nào đó, bà Ruth không thảo luận vấn đề này cùng cô. Có lẽ bà đang nghĩ đến Andrew. Hoặc có lẽ gia đình Murray đã đạt được một sự thấu hiểu chung rằng phải làm sao để quyết định của Emily hoàn toàn không phải chịu bất kỳ tác động từ bên ngoài nào.

Emily không hiểu tại sao cô lại không viết thư cho cô Royal ngay lập tức. Tất nhiên cô sẽ đi. Chẳng phải có họa ngốc nghếch hết thuốc chữa thì mới không đi hay sao? Cô sẽ không bao giờ còn có cơ hội nhe thế nữa. Đó là một cơ hội chói lòa đến thế… mọi thứ đều trở nên dễ dàng… Đường Alps chỉ còn là một con dốc bằng phẳng hơi thoai thoải; thành công chắc chắn, chói lóa và nhanh chóng. Vậy thì, tại sao cô lại cứ phải liên tục tự nhủ với mình hết thảy những điều này; tại sao cô lại định đến xin lời khuyên của thầy Carpenter vào cuối tuần sau đó? Và thầy Carpenter cũng chẳng giúp được gì nhiều nhặn. Thầy bị thấp khớp và quạu quọ.

“Đừng có nói với ta là lũ mèo lại đang đi săn đấy nhé,” thầy rên rỉ.

“Không đâu ạ. Lần này con không mang bản thảo nào đến hết,” Emily nói kèm nụ cười yếu ớt. “Con đến xin lời khuyên về một vấn đề khác.”

Cô nói với thầy về tình trạng bối rối của cô.

“Đây là một cơ hội tuyệt vời,” cô kết luận.

“Tất nhiên đây là một cơ hội tuyệt vời… đi đi rồi biến chất thành dân Mỹ,” thấy Carpenter gầm gừ.

“Con sẽ không bị biến chất thành người Mỹ,” Emily phẫn nộ đáp lại. “Cô Royal đã ở New York hai mươi năm rồi, thế nhưng cô ấy có bị biến chất thành người Mỹ đâu.”

“Cô ấy không bị hả? Ta không nói biến chất thành dân Mỹ theo cái ý mà trò hiểu,” thấy Carpenter phản bác. “Ta không nhắc đến những đứa con gái ngu ngốc khăn gói đến ‘Hợp chủng quốc’ để làm việc rồi sáu tháng sau quay trở lại cùng chất giọng đủ khiến cho người ta bỏng rộp cả da. Janet Royal đã biến chất thành người Mỹ rồi; quan điểm, thần thái và phong cách của cô ấy đều đậm chất Mỹ. Và ta không chỉ trích gì chuyện đó hết; tất cả những điều đó đều ổn cả. Nhưng… cô ấy không còn là người Canada nữa; trong khi đó lại là điều ta mong muốn ở trò – vĩnh viễn là một người Canada thuần chất, làm được gì đó cho nền văn học của Tổ quốc trò, gìn giữ chất giọng và hương vị Canada của trò. Nhưng tất nhiên nếu thế thì sẽ không có nhiều đô la cho lắm.”

“Ở đây thì chẳng có cơ hội để làm bất kỳ điều gì hết,” Emily tranh luận.

“Không có… không nhiều hơn những cơ hội có được ở ngôi nhà Haworth[1],” thầy Carpenter gầm gừ.

[1] Nơi sinh sống của ba chị em nhà Bronte, cũng là nơi các bà sáng tác những tác phẩm nổi tiếng trên toàn thế giới như Đồi gió hú, Jane Eyre.

“Con không phải một Charlotte Bronte,” Emily phản bác. “Bà ấy là thiên tài… thiên tài có thể một mình vẫn đứng vững. Con chỉ có chút năng khiếu… năng khiếu cần được giúp đỡ… và… và… dẫn dắt.”

“Tóm lại là lôi kéo,” thầy Carpenter nói.

“Vậy theo ý thầy con không nên đi,” Emily lo lắng nói.

“Nếu trò muốn thì cứ đi đi. Đề đạt được sự nổi tiếng nhanh chóng thì tất cả chúng ta đều phải hạ mình đôi chút. Ôi chao, đi đi… đi đi… ta đang bảo trò thế đấy. Ta đã quá già để mà tranh luận rồi; cứ bình an mà đi đi thôi. Trò mà không đi thì đúng là kẻ ngốc… chỉ có điều… kẻ ngốc thỉnh thoảng cũng thành công đấy. Có một Thượng đế đặc biệt dành cho họ, chắc chắn rồi.”

Emily rời khỏi ngôi nhà nhỏ giữa thung lũng lòng chảo đó, đôi mắt có phần tối hơn bình thường. Trên đường lên đồi, cô gặp Già Kelly và ông bèn dừng con ngựa mập mạp cùng cỗ xe màu đỏ lại rồi vẫy tay ra hiệu vời cô.

“Cô gái yêu quý, có một ít bạc hà cho cháu này. Mà này, chẳng phải đã đến lúc… ờ… này, cháu biết đấy…” Già Kelly nháy mắt với cô.

“Ôi, cháu sắp thành bà cô già rồi, già Kelly ạ,” Emily mỉm cười.

Già Kelly lắc đầu túm dây cương lại.

“Chắc chắn cháu sẽ chẳng bao giờ gặp chuyện gì kiểu thế đâu. Cháu là một trong những con dân mà Chúa thật tâm yêu quý; chỉ có điều giờ đừng có tóm lấy một trong những người nhà Praste nhé; đừng bao giờ tóm một người nhà Praste, cô gái yêu quý.”

“Già Kelly,” Emily bất chợt nói, “cháu đã được đề nghị trao cho một cơ hội tuyệt vời… tới New York và trở thành nhân viên của một tòa báo. Cháu không thể quyết định được. Già nghĩ cháu nên làm gì thì hơn?”

Lúc nói chuyện này, cô đã nghĩ đến nỗi kinh hoàng của bác Elizabeth trước cái ý tưởng một người nhà Murray đi xin ý kiến Già Jock Kelly. Ngay cả cô cũng có phần xấu hổ trước hành động này.

Già Kelly lại lắc đầu.

“Cánh con trai quanh đây thì nghĩ gì chứ? Nhưng bà già ấy nói gì?”

“Bác Elizabeth bảo cháu có thể làm gì tùy ý.”

“Vậy thì chắc là chúng ta cứ để chuyện như thế thôi,” Già Kelly nói, rồi đánh xe đi mà không buông thêm một lời nào nữa. Rõ ràng Già Kelly chẳng giúp ích được gì.

“Tại sao mình lại muốn người khác giúp chứ?” Emily tuyệt vọng nghĩ. “Mình làm sao mà lại không thể tự quyết định được? Tại sao mình lại không thể nói là mình sẽ đi. Có vẻ như lúc này đây mình không trong tâm trạng muốn đi; mình chỉ cảm thấy mình nên đi thôi.”

Cô ước gì chú Dean đang ở nhà. Nhưng chú Dean đã không quay lại đây từ khi về Los Angeles hồi mùa đông. Và chẳng hiểu sao cô lại không thể thảo luận vấn đề này cùng Teddy. Chẳng có chuyện gì phát sinh từ thời khắc diệu kỳ trong ngôi nhà cũ của ông John; chỉ ngoại trừ việc một bầu không khí gượng gạo nào đó gần như đã hủy hoại mối quan hệ bạn bè xưa giữa họ. Đối với người ngoài, hai người vẫn là bạn bè thân thiết như từ xưa đến giờ, nhưng một điều gì đó đã mất… và dường như chẳng có gì ở đúng vị trí của nó cả. Cô sẽ không thừa nhận với chính mình rằng cô sợ không dám hỏi Teddy. Nếu cậu bảo cô cứ đi đi thì sao? Đó sẽ là nỗi đau thương không thể nào chịu đựng nổi… bởi vì điều đó sẽ chứng tỏ cậu chẳng thèm quan tâm đến chuyện cô đi hay ở. Nhưng Emily sẽ không hỏi cậu đâu.

“Tất nhiên mình sẽ đi,” cô nói to lên với chính mình. Có lẽ những lời nói được thốt lên thành tiếng sẽ giải quyết mọi chuyện đâu ra đấy. “Nếu không đi thì năm sau mình biết làm gì chứ? Bác Elizabeth chắc chắn sẽ chẳng bao giờ cho phép mình một mình đi bất cứ đâu. Ilse sẽ đi xa… cả Perry nữa… và có lẽ Teddy cũng thế. Cậu ấy nói cậu ấy buộc phải đi làm gì đó để kiếm tiền trang trải chi phí học mỹ thuật. Mình phải đi.”

Cô nói kiên quyết, như thể đang tranh cãi với một đối thủ vô hình nào đó. Sẩm tối khi cô về đến nhà, không có ai ở đó, và cô cứ đi đi lại lại không gnừng khắp quanh nhà. Những căn phòng lâu đời mới quyến rũ, đường hoàng và đẹp đẽ làm sao chứ, với nào nến, nào ghế tựa lưng hình thang, nào thảm bện! Căn phòng nhỏ bé của cô mới thân thương mời gọi xiết bao, với giấy dán hình thoi, với thiên thần bảo hộ, với cái lọ bầu bĩnh màu đen in hình hoa hồng cùng tấm kính cửa sổ kỳ cục lập dị! Căn hộ của cô Royal liệu có tuyệt vời bằng một nửa thế này không?”

“Tất nhiên mình sẽ đi,” cô nhắc lại lần nữa; cảm giác như thể chỉ cần bỏ qua từ “tất nhiên” ấy thì hẳn mọi chuyện đã được định đoạt rồi.

Cô bước vào vườn, đắm chìm trong vẻ đẹp lạnh nhạt, thờ ơ của đêm trăng đầu xuân, và đi đi lại lại trên những lối đi trong vườn. Từ xa xăm, vẳng đến tiếng còi tàu Shrewsbury – y hệt tiếng gọi từ thế giới đầy mê hoặc đằng sau nó; một thế giới tràn ngập thú vị, quyến rũ và kịch tính. Cô dừng lại bên chiếc đồng hồ mặt trời cũ kỹ phủ lớp địa y và lần dấu theo câu nói chạy dọc theo vành đồng hồ, “Cứ thế thời gian trôi”. Thời gian cứ thế trôi – gấp gáp, không chút lưu tình, ngay cả ở Trăng Non, vốn không thể bị hư hại bởi bất kỳ sự vội vã hay hối thúc nào của thời hiện đại. Lẽ nào cô không nên thuận theo dòng chảy? Những bông hoa loa kèn tháng Sáu trắng muốt rung rinh trong gió nhẹ; cô hầu như có thể nhìn thấy Bà Gió – người bạn lâu năm – đang cúi rạp trên khóm hoa để xoay nghiêng những cái cằm mịn màng của chúng. Liệu Bà Gió có đến gặp cô giữa phố phường đông đúc nơi thành phố? Liệu ở đó cô có được giống như con mèo của Kipling?

“Và chẳng biết liệu ở New York, có bao giờ mình gặp ánh chớp không,” cô bâng khuâng nghĩ.

Khu vườn lâu năm mà ông Jimmy yêu quý này mới đẹp đẽ làm sao! Trang trại Trăng Non lâu đời mới đẹp đẽ làm sao! Vẻ đẹp của nó có một nét lãng mạn tinh tế chỉ thuộc riêng mình nó. Sự mê hoặc toát lên từ đường cong của con đường đỏ thẫm ướt đẫm sương phía xa kia; sự quyến rũ thiêng liêng xa cách ở Ba Nàng Công Chúa; sự huyền diệu trong vườn cây ăn quả; nét ma mị đầy kích thích phảng phất trong rừng linh sam. Làm sao cô có thể rời bỏ ngôi nàh cổ đã bao bọc yêu thương cô này; đừng bao giờ nói với tôi rằng những ngôi nhà không biết yêu thương! – những ngôi mộ của các bậc tổ tiên bên hồ Blair, những cánh đồng mênh mông và những khu rừng ma ám nơi giấc mơ thời thơ ấu của cô đã từng được mơ? Đột nhiên, cô biết cô không thể rời bỏ chúng được, cô biết cô không bao giờ thật lòng muốn rời bỏ chúng. Đó chính là lý do khiến cô tuyệt vọng đi khắp nơi hỏi xin lời khuyên từ những người hoàn toàn ngoài cuộc. Thực ra cô vẫn hy vọng họ sẽ bảo cô đừng đi. Chính vì vậy cô mới mong mỏi mãnh liệt đến thế rằng chú Dean đang ở nhà – chắc chắn ông sẽ bảo cô đừng đi.

“Mình thuộc về Trăng Non; mình ở giữa những người thân thích của mình,” cô nói.

Không có gì để nghi ngờ về quyết định này; cô không muốn bất kỳ ai giúp cô đưa ra quyết định. Một cảm giác mãn nguyện sâu sắc từ tận đáy lòng xâm chiếm khắp người khi cô bước đi, tiến vào ngôi nhà cũ giờ không còn nhìn cô bằng ánh mắt trách móc nữa.Cô tìm thấy bà Elizabeth, bà Laura và ông Jimmy đang ngồi trong căn bếp tràn ngập ánh nến diệu kỳ.

“Cháu sẽ không tới New York, bác Elizabeth ạ,” cô nói. “Cháu sẽ ở lại Trăng Non cùng các bác.”

Bà Laura khẽ bật ra một tiếng kêu vui mừng. Ông Jimmy nói, “Hu ra!” Bà Elizabeth đan nốt một vòng tất nhưng vẫn chẳng nói gì cả. Rồi…

“Ta nghĩ một người nhà Murray sẽ làm thế,” bà nói.

©STENT: https://www.luv-ebook.com

Tối thứ Hai, Emily thẳng tiến đến Ashburn. Cô Royal đã trở lại và đón chào cô bằng thái độ ấm áp.

“Cô hy vọng cháu đến để nói với cô rằng bà Murray đã quyết định tỏ ra là người hiểu lý lẽ và để cháu đi cùng cô, cháu yêu.”

“Bác ấy bảo cháu có thể tự mình quyết định.”

Cô Royal vỗ tay.

“Ôi, tuyệt, tuyệt! Vậy là chuyện đã xong xuôi rồi.”

Emily tái nhợt, nhưng đôi mắt cô đen thẫm lại với sự thiết tha và cảm xúc dồn nén.

“Vâng, chuyện đã xong xuôi rồi… cháu sẽ không đi đâu ạ,” cô nói. “Cháu cảm ơn cô thật lòng, cô Royal ạ, nhưng cháu không thể đi được.”

Cô Royal chằm chằm nhìn cô; thoáng ý thức được rằng có nài nỉ hay tranh luận cũng chẳng ích gì; nhưng rồi ngay lúc đó lại bắt đầu nài nỉ và tranh luận.

“Emily… cháu không nói nghiêm túc đấy chứ? Sao cháu không thể đi được?”

“Cháu không thể rời bỏ Trăng Non; cháu yêu nó quá; nó có ý nghĩa quá lớn lao đối với cháu.”

“Cô tưởng cháu muốn đi cùng cô chứ, Emily.” Cô Royal oán trách nói.

“Cháu muốn. Và một phần trong cháu vẫn muốn. Nhưng một phần khác trong cháu lại khiến cháu không đi được. Xin cô đừng cho rằng cháu là kẻ ngu ngốc hay vô ơn, cô Royal.”

“Tất nhiên cô không nghĩ cháu là kẻ vô ơn,” cô Royal nói, bất lực, “nhưng cô có… phải, cô có nghĩ rằng cháu là kẻ ngu ngốc khủng khiếp. Cháu cứ thế ném bỏ cơ hội vươn đến một sự nghiệp. Ở đây, cháu liệu có bao giờ làm được điều gì đáng giá không? Cháu không ý thức được con đường của cháu sẽ gian nan đến thế nào đâu. Ở đây cháu không thể lấy được chất liệu… không có môi trường… không…”

“Cháu sẽ tạo ra môi trường riêng của mình,” Emily nói, hơi mất bình tĩnh. Xét cho cùng, cô nghĩ, quan điểm của cô Royal cũng giống y như của bà Alec Sawyer, và thái độ của cô thực sự mang vẻ kẻ cả. “Còn về phần chất liệu… người dân sống ở đây cũng giống y hệt người dân ở bất kỳ nơi nào khác; cũng đau khổ, sung sướng, lầm lỗi và khát khao đúng y như những người dân New York.”

“Cháu thì biết gì về điều đó chứ,” cô Royal nói, có phần dằn dỗi. “Cháu sẽ chẳng bao giờ viết được bất cứ thứ gì thực sự đáng giá khi ở đây… không thứ gì lớn lao. Không có cảm hứng… cháu sẽ gặp trở ngại trên mọi phương diện; các toà soạn lớn sẽ chẳng buồn liếc mắt quá cái dòng địa chỉ đảo Hoàng tử Edward trên bản thảo của cháu. Emily, cháu đang tự tử trên phương diện văn chương đấy. Rồi cháu sẽ nhận ra điều đó lúc ba giờ sáng giữa một đêm trắng nào đó, Emily Byrd Starr ạ. Ồ, và hẳn là sau vài năm nữa, cháu sẽ kiếm được khách hàng từ lớp giáo lý và xử lý các giấy tờ nông nghiệp. Nhưng cháu sẽ thỏa mãn với chuyện đó chứ? Cháu biết thừa là không. Và rồi, sự ghen tị tầm thường của những chốn bé nhỏ õng ẹo như thế này nữa; nếu cháu làm được bất cứ điều gì mà đám bạn học của cháu không thể làm được thì rồi trong số bạn bè cháu, sẽ có người không đời nào tha thứ cho cháu. Và tất cả bọn họ sẽ cho rằng cháu chính là nữ nhân vật chính trong tất cả các câu chuyện cháu sáng tác; nhất là khi cháu miêu tả nhân vật đó là người xinh đẹp và quyến rũ. Nếu cháu viết một câu chuyện tình, họ sẽ đoán chắc đó là câu chuyện của cháu. Cháu sẽ mệt mỏi vì Hồ Blair; cháu sẽ hiểu hết người dân sống ở đó – họ là người như thế nào, họ có thể trở thành người như thế nào; sẽ chẳng khác gì cảm giác đọc một cuốn sách lần thứ hai mươi rồi. Ồ, ‘trong bụng mẹ’, như cách cô từng nói hồi lên tám, với một người bạn chơi cùng mới sáu tuổi. Cháu sẽ nản chí; rồi dần dần cái thời khắc ba giờ sẽ nhấn chìm cháu; cái thời khắc ba giờ hằng đêm, hãy nhớ nhé; cháu sẽ từ bỏ; cháu sẽ cưới cái người anh họ của cháu…”

“Không bao giờ.”

“Chà, hoặc ai đó giống như cậu ta, vậy đấy, rồi thì ‘an phận’…”

“Không, cháu sẽ không bao giờ ‘an phận’,” Emily quả quyết nói. “Không bao giờ chừng nào cháu còn sống… thế thì tẻ nhạt đến mức nào chứ!”

“… và cháu sẽ có một phòng khách giống như phòng khách của dì Angela,” cô Royal nói tiếp không chút lưu tình. “Một bề lò sưởi ken đầy ảnh; một cái giá vẽ với bức ảnh ‘phóng đại’ lồng trong cái khung rộng hai mươi xăng ti mét; một album bọc vải nhung đỏ trên có tấm khăn lót đan bằng kim móc; một cái chăn kỳ dị trên chiếc gi.ường trong phòng dành cho khách; một cờ hiệu vẽ tay trong hành làng; và, như một chi tiết thanh lịch cuối cùng, một khóm trúc thiên môn sẽ ‘mang vẻ yêu kiều đến giữa chiếc bàn tại phòng ăn’ của cháu.”

“Không đâu,” Emily nghiêm trang nói, “những thứ như thế không thuộc về truyền thống nhà Murray.”

“Chà, vậy thì là những thứ cũng có tác động tương đương về mặt tinh thần. Ồ, cô có thể nhìn thấy cả cuộc đời cháu. Emily, tại một nơi như thế này, nơi người ta chẳng thể nhìn xa quá mũi mình một dặm.”

“Cháu có thể nhìn xa hơn thế,” Emily nói, hếch cằm lên. “Cháu có thể nhìn tới những vì sao.”

“Cô đang dùng cách nói ẩn dụ, cháu yêu ạ.”

“Cháu cũng thế. Ôi, cô Royal, cháu biết cuộc sống nơi này có phần tù túng trên một số phương diện; nhưng bầu trời chẳng thuộc về cháu nhiều hơn mức nó thuộc về bất kỳ ai khác. Cháu có thể không thành công ở đây; nhưng, nếu vậy, cháu cũng sẽ chẳng thành công ở New York. Nếu rời bỏ mảnh đất cháu yêu thương, một suối nguồn sự sống nào đó sẽ cạn khô trong tâm hồn cháu. Cháu biết ở nơi này, cháu sẽ gặp nhiều khó khăn và nản lòng, nhưng người ta đã vượt qua những khó khăn còn tệ hại hơn gấp nhiều lần. Cô biết câu chuyện cháu kể cho cô về ông Parkman rồi đấy; hàng bao nhiêu năm trời, ông ấy chẳng thể viết được liên tục quá năm phút; ông ấy đã mất tận ba năm để hoàn thành một trong những cuốn sách của ông ấy; mỗi ngày sáu dòng trong suốt ba năm. Cháu sẽ luôn nhớ đến câu chuyện đó mỗi khi cháu nản lòng thối chí. Nó sẽ giúp cháu trải qua những đêm trắng, bất kể là bao nhiêu đêm đi chăng nữa.”

“Chà,” – cô Royal vung hai bàn tay ra – “cô đầu hàng. Cô cho rằng cháu đang phạm phải một sai lầm khủng khiếp, Emily ạ; nhưng nếu sau này cô phát hiện ra cô đã sai, cô sẽ viết thư thừa nhận điều đó. Và nếu cháu phát hiện ra cháu đã sai, hãy viết thư cho cô thừa nhận điều đó nhé, và cháu sẽ thấy rằng cô luôn sẵn sàng giúp đỡ cháu như từ trước đến giờ vẫn thế. Thậm chí, cô sẽ không nói, ‘Cô đã bảo mà.’ Hãy gửi cho cô bất kỳ truyện nào của cháu phù hợp với tờ tạp chí của cô nhé, và hãy nhờ cô cho ý kiến trong bất cứ trường hợp nào cô có thể. Ngày mai cô sẽ quay về New York ngay. Cô định đợi đến tháng Bảy chỉ cốt để đưa cháu theo cùng. Vì cháu không đi nên cô quay về thôi. Cô không thích sống tại một nơi mà tất cả những gì ngưỡi ta nghĩ chỉ là cô đang chơi ván bài dở và thua trong trò chơi hôn nhân; nơi toàn bộ cánh con gái – chỉ trừ cháu – đều tỏ thái độ tôn kính đến mức đáng ghê tởm đối với cô; và là nơi những người lớn tuổi không ngừng nhắc đi nhắc lại trông cô giống mẹ cô đến mức nào. Mẹ cô vốn xấu xí. Hãy chào tạm biệt thật nhanh nào.”

“Cô Royal,” Emily tha thiết nói, “cô tin rằng – đúng vậy phải không ạ – rằng cháu rất cảm kích trước tấm lòng của cô chứ? Sự cảm thông và động viên của cô có ý nghĩa rất lớn đối với cháu… sẽ luôn luôn có ý nghĩa đối với cháu hơn nhiều so với tưởng tượng của cô.”

Cô Royal len lén quét khăn tay lướt qua đôi mắt và cúi chào duyên dáng.

“Cám ơn cháu vì những lời nói tử tế đó, tiểu thư ạ,” cô nói nghiêm trang.

Rồi cô bật cười khe khẽ, đặt hai tay lên vai Emily vào hôn lên má cô.

“Chúc cháu luôn nhận được mọi lời chúc tốt lành nhất từng được nghĩ đến, được nói hay được viết ra trên đời,” cô nói. “Và cô cho là sẽ… dễ chịu lắm… nếu có bất kỳ nơi nào lại có thể có ý nghĩa đối với cô giống như ý nghĩa hiển nhiên của Trăng Non đối với cháu.”

Ba giờ đêm hôm đó, dù thao thức nhưng rất mãn nguyện, Emily nhớ lại rằng cô vẫn chưa từng được gặp Chu-Chin.
 
Chương 25: Tình yêu tháng Tư
“10 tháng Sáu, 19…

“Tối hôm qua Andrew Oliver Murray đã cầu hôn Emily Byrd Starr.

“Nghe nói Emily Byrd Starr đã bảo cậu ta rằng cô không đồng ý.

“Tôi lấy làm mừng vì mọi chuyện đã qua. Thỉnh thoảng, tôi vẫn có cảm giác nó sắp xảy ra rồi. Mỗi buổi tối Andrew có mặt ở đây, tôi đều cảm thấy anh ta đang cố gắng lái cuộc nói chuyện đến một chủ đề nghiêm túc nào đó, nhưng tôi chưa bao giờ cảm thấy mình có thể đối phó được với cuộc thảo luận, và luôn tìm cách đánh lạc hướng anh ta bằng những chuyện tầm phào.

“Tối hôm qua, tôi tới Miền Chính Trực cho một trong những chuyến dạo chơi cuối cùng của tôi tại nơi này. Tôi leo lên đồi linh sam và đưa mắt nhìn bao quát khắp cánh đồng sương mù lấp lánh sắc bạc dưới ánh trăng. Những bóng dương xỉ và bóng cỏ ngọt hoang dã dọc bìa rừng trông không khác gì bầy yêu tinh đang nhảy múa. Và phía bên kia cảng biển, dưới ánh trăng sáng, là bầu trời đỏ tía ánh màu hổ phách của buổi hoàng hôn. Nhưng đằng sau lưng tôi là bóng tối; một bóng tối thấm đượm mùi nhựa linh sam khiến cho nó không khác gì một căn phòng ngát hương giúp người ta có thể mơ những giấc mơ và nhin thấy những ảo ảnh. Bao giờ cũng vậy, mỗi khi bước vào Miền Chính Trực, tôi luôn để lại phía sau vương quốc của ánh sáng ban ngày và của những thứ đã quen thuộc để đến với vương quốc của bóng tối, của bí ẩn và sự mê hoặc, nơi bất kỳ chuyện gì cũng có thể xảy ra; nơi bất kỳ điều gì cũng có thể biến thành sự thực. Ở nơi này, tôi có thể tin bất kỳ thứ gì – những thần thoại cổ xưa, truyền thuyết, tiên rừng, thần đồng áng, yêu tinh. Một trong những thời khắc diệu kỳ nhất trong cuộc đời đã xảy đến với tôi; dường như tôi đã thoát khỏi thân xác của mình và được tự do; tôi dám chắc mình đã nghe thấy tiếng vọng của ‘lời nói ngẫu nhiên’ đó của các vị thần; và tôi muốn một thứ ngôn ngữ chưa từng được sử dụng nào đó để diễn tả những gì tôi nhìn thấy và cảm nhận.

“Rồi Andrew bước vào, bảnh bao, cứng nhắc và lịch sự.

“Những vị thần đồng áng; những nàng tiên, những giây phút diệu kỳ, những lời nói ngẫu nhiên tán loạn chạy trốn mất. Giờ chẳng còn cần đến thứ ngôn ngữ mới nào nữa.

“ ‘Đáng tiếc là mốt tóc mai dài đã ra đi cùng thế hệ cuối… nó phù hợp với anh ta lắm cho mà xem,’ tôi thầm nhủ bằng thứ tiếng Anh đơn giản.

“Tôi biết Andrew đến để nói một chuyện đặc biệt nào đó. Nếu không anh ta đã chẳng theo tôi vào Miền Chính Trực mà sẽ theo đúng lẽ thường chờ đợi tôi trong phòng khách nhà bác Ruth. Tôi biết chuyện gì đến rồi cũng phải đến thôi, và tôi hạ quyết tâm xử lý cho xong để dứt điểm chuyện này. Dạo gần đây, thái độ trông ngóng của bác Ruth và mọi người ở Trăng Non đã trở nên ngột ngạt hẳn. Tôi tin chắc tất cả mọi người đều đoán chắc rằng lý do tôi không tới New York là vì tôi không chịu nổi khi phải chia tách với Andrew!

“Nhưng tôi sẽ không nhận lời cầu hôn của Andrew dưới ánh trăng trong Miền Chính Trực. Có lẽ tôi sẽ bị bỏ bùa mà chấp nhận anh ta mất. Vậy nên khi anh ta nói, “Chỗ này dễ chịu thật đấy, hãy ở lại đây một lúc nhé; xét cho cùng, anh thấy là chẳng có gì đẹp đẽ bằng tự nhiên,’ tôi bèn đáp lại một cách nhẹ nhàng nhưng kiên quyết rằng, mặc dù thiên nhiên mang lại cảm giác khoan khoái vô cùng, nhưng thời tiết đang quá ẩm ướt so với một người dễ có nguy cơ mắc bệnh lao phổi, vậy nên tôi phải vào nhà thôi.

“Chúng tôi vào trong nhà. Tôi ngồi đối diện với Andrew và nhìn chằm chằm vào cuộn len móc của bác Ruth trên tấm thảm. Có lẽ tới tận cuối đời, tôi cũng vẫn nhớ rõ màu sắc và hình dáng của cuộn len đó. Andrew nói nhát gừng về những chuyện vô thưởng vô phạt, rồi bắt đầu tung ra những ám hiệu; hai năm sau anh ta sẽ lên làm quản lý; anh ta đặt niềm tin vào những người kết hôn sớm; vân vân và vân vân. Anh ta cứ lúng ta lúng túng như gà mắc tóc. Có lẽ tôi có thể khiến mọi chuyện trở nên dễ dàng hơn với anh ta, nhưng tôi vẫn buộc lòng mình chai sạn lại, nhớ rõ rằng anh ta đã tránh xa đến mức nào trong suốt những tuần lễ đáng sợ diễn ra vụ bê bối về chuyện ở ngôi nhà ông John kia. Cuối cùng anh ta buột miệng.

“ ‘Emily, hãy kết hôn khi nào… khi nào… ngay khi anh có thể nhé.’

“Dường như anh ta cảm thấy anh ta nên nói gì đó, chứ không ý thức được hoàn toàn mình đang nói gì; vậy nên anh ta mới nhắc lại ‘ngay khi anh có thể’ rồi dừng lại.

“Tôi thậm chí còn chẳng tin là mình có dấu hiệu xấu hổ nào.

“ ‘Tại sao chúng ta lại nên kết hôn?’ tôi hỏi.

“Andrew có vẻ thất kinh. Hiển nhiên đây không phải thái độ nhận lời cầu hôn theo chuẩn truyền thống Murray.

“ ‘Tại sao ư? Tại sao ư? Tại vì… anh thích thế,’ anh ta cà lăm.

“ ‘Em không đồng ý,’ tôi nói.

“Andrew nhìn tôi chằm chằm một lúc, cố gắng tiếp thu cái ý nghĩ đáng ngạc nhiên rằng anh ta vừa bị từ chối.

“ ‘Nhưng tại sao?’ anh ta hỏi; bằng tông giọng và thái độ y hệt bác Ruth.

“ ‘Vì em không yêu anh,’ tôi nói.

“Andrew đã đỏ bừng mặt. Tôi biết anh ta cho rằng tôi thật khiếm nhã.

“ ‘Anh… anh… tưởng… mọi người đều thích thế,’ anh ta cà lăm.

“ ‘Em không đồng ý,’ tôi nhắc lại. Tôi nói bằng một giọng mà đến cả Andrew cũng không thể nhầm lẫn được.

“Anh ta quá ngạc nhiên đến mức tôi không nghĩ là anh ta có bất kỳ cảm giác nào khác ngoài ngạc nhiên, không có cảm giác gì khác thậm chí là nỗi thất vọng. Anh ta không biết nên nói gì hay làm gì; một Murray thì không thể ngon ngọt dỗ dành; vậy nên anh ta đứng dậy và ra về mà không nói thêm lời nào nữa. Tôi cứ tưởng anh ta đã đóng sầm cửa lại, nhưng sau đó tôi phát hiện ra đó chỉ là do gió đập mà thôi. Tôi ước gì anh ta đã đóng sầm cửa lại. Hành động đó sẽ cứu vớt lòng tự trọng của tôi. Thật mất mặt khi từ chối một người đàn ông để rồi sau đó phát hiện ra rằng cảm xúc chủ đạo của anh ta là hoang mang.

“Sáng hôm sau, bác Ruth, hiển nhiên đã nảy sinh dự cảm xấu sau chuyến viếng thăm chớp nhoáng của Andrew, bèn thẳng thừng hỏi tôi xem đã có chuyện gì. Bác Ruth chẳng có chút tinh tế gì hết. Vậy là tôi cũng trả lời bác bằng thái độ thẳng thừng tương tự.

“ ‘Cháu tìm thấy thiếu sót gì ở Andrew?’ bác ấy lạnh lùng hỏi.

“ ‘Chẳng có thiếu sót gì cả… nhưng anh ấy nhạt nhẽo quá. Anh ấy có đầy đủ mọi ưu điểm, chỉ thiếu tí muối thôi,’ tôi đáp, vẻ kiêu kỳ.

“ ‘Hy vọng cháu không sảy một li đi một dặm,’ bác Ruth u ám nói; có nghĩa là, theo ý hiểu của tôi, muốn nhắc đến thị trấn Stovepipe. Hẳn tôi đã có thể khiến bác Ruth an tâm về điểm này nếu tôi muốn. Tuần trước, Perry đến nói với tôi rằng cậu ấy sẽ học luật tại văn phòng của ông Abel ở Charlottetown. Đây là một cơ hội tuyệt vời với cậu ấy. Theo như tôi hiểu thì ông Abel đã nghe bài diễn thuyết của cậu ấy vào buổi tối diễn ra cuộc thi hùng biện liên trường và kể từ đó vẫn để mắt đến cậu ấy. Tôi thật tâm chúc mừng cậu ấy. Tôi thật lòng vui mừng.

“ ‘Ông ấy sẽ trả lương đủ để tớ trả chi phí ăn ở,’ Perry nói, ‘và có lẽ tớ sẽ xoay xở được quần áo từ nguồn không chính thức nào đó. Tớ phải tự cáng đáng công việc của mình thôi. Bác Tom sẽ không giúp tớ. Cậu biết lý do rồi đấy.’

“ ‘Tớ rất tiếc, Perry,’ tôi nói, khẽ cười.

“ ‘Cậu có thể không, Emily?’ cậu ấy hỏi. ‘Tớ chỉ mong sao chuyện này được giải quyết xong xuôi.’

“ ‘Chuyện đã được giải quyết xong xuôi.’

“ ‘Có lẽ tớ đã biến mình thành một tên ngốc hết thuốc chữa vì cậu,’ Perry lầm bầm.

“ ‘Cậu tưởng thế thôi,’ tôi an ủi cậu; nhưng vẫn bật cười. Chẳng hiểu sao tôi không tài nào nhìn nhận ý kiến của Perry bằng thái độ nghiêm túc hơn so với của Andrew. Tôi lúc nào cũng có cảm giác cậu ấy chỉ đang ngộ nhận là cậu ấy yêu tôi thôi.”

“ ‘Cậu đừng có mà vội vã kiếm một gã khôn ngoan hơn tớ đấy nhé,’ Perry cảnh cáo. ‘Tớ sẽ leo cao cho xem.’

“ ‘Tớ tin chắc cậu sẽ làm được,’ tôi ấm áp nói, ‘và khi đó sẽ không ai mãn nguyện hơn bạn của cậu Emily Byrd Starr đâu.’

“ ‘Ôi, bạn bè,’ Perry dằn dỗi nói. ‘Tớ đâu phải vì cần bạn nên mới muốn cậu. Nhưng tớ vẫn luôn nghe nói có dụ dỗ tán tỉnh gì một người nhà Murray thì cũng chẳng ích lợi đâu. Tớ hỏi cậu một chuyện được không? Đây vốn không phải chuyện của tớ… nhưng cậu định cưới Andrew Murray đấy à?’

“ ‘Đây không phải chuyện của cậu… nhưng tớ không có ý định đó,’ tôi nói.

“ ‘Chà,’ Perry nói lúc rời đi, ‘nếu có khi nào cậu thay đổi suy nghĩ thì hãy cho tớ biết nhé. Rồi sẽ ổn thỏa cả thôi… nếu đến lúc đó tớ vẫn chưa thay đổi suy nghĩ.’

“Tôi đã tường thuật lại câu chuyện này y như nó đã xảy ra. Nhưng… tôi còn viết vào cuốn sổ Jimmy thêm một phiên bản nhẽ ra nên xảy ra của nó. Tôi nhận ra tôi đã bắt đầu khắc phục được khó khăn bấy lâu nay trong việc cho những nhân vật tưởng tượng của mình đóng cảnh yêu đương một cách trôi chảy. Trong phiên bản tưởng tượng của tôi, cả Perry và tôi đều nói năng lưu loát.

“Theo tôi thấy, thật ra tâm trạng của Perry tệ hơn Andrew một chút, và tôi lấy làm tiếc vì điều đó. Tôi rất quý Perry với tư cách là một người bạn và một người thân. Tôi không muốn làm cậu ấy thất vọng, nhưng tôi biết rồi cậu ấy sẽ nhanh chóng vượt qua được chuyện này thôi.

“Vậy là năm sau, tôi sẽ là người duy nhất còn ở lại Hồ Blair. Tôi không biết đến lúc đó mình sẽ có cảm giác gì. Tôi dám chắc thỉnh thoảng sẽ cảm thấy hơi tẻ nhạt… có lẽ vào lúc ba giờ sáng, tôi sẽ ước gì mình đã đi cùng cô Royal. Nhưng tôi sẽ kiên trì làm việc một cách bền bỉ và nghiêm túc. Để leo lên đỉnh Đường Alps thì sẽ phải trải qua một chặng đường dài.

“Nhưng tôi tin vào chính mình, và đằng sau tấm rèm, luôn luôn có thế giới của tôi.

“Trăng Non

“21 tháng Sáu, 19…

“Tối nay, ngay khi về đến nhà, tôi đã cảm nhận được một bầu không khí bất mãn rõ rành rành, và nhận ra bác Elizabeth đã biết toàn bộ câu chuyện về Andrew. Bác ấy giận dữ còn bác Laura thì tiếc nuối, nhưng chẳng ai nói năng gì. Lúc chạng vạng, ở trong vườn, tôi cùng bác Jimmy chuyện trò cặn kẽ mọi chuyện. Có vẻ như, sau khi không còn choáng váng đến chết lặng nữa, Andrew đã khá suy sụp. Anh ta chẳng thiết ăn uống gì nữa, và bác Addie phẫn nộ cật vấn rằng vì con trai bác ấy không đạt tiêu chuẩn của tôi nên chẳng biết tôi có trông chờ kết hôn với một hoàng tử hay một triệu phú hay không.

“Bác Jimmy nghĩ tôi đã hành động hoàn toàn đúng. Bác Jimmy hẳn vẫn nghĩ tôi đã hành động hoàn toàn đúng ngay cả khi tôi có giết chết Andrew và vùi xác anh ta trong Miền Chính Trực đi chăng nữa. Thật dễ chịu khi có một người bạn như vậy, mặc dù quá nhiều bạn như vậy thì cũng không phải chuyện tốt cho ta.”

“22 tháng Sáu, 19…

“Tôi không biết chuyện gì tệ hơn – có người ta không thích cầu hôn ta hay không có người ta thích cầu hôn. Cả hai đều có phần chẳng dễ chịu gì.

“Tôi đã rút ra kết luận rằng tôi chỉ tưởng tượng ra mấy thứ này nọ trong ngôi nhà cũ của ông John thôi. Tôi e là bác Ruth đã đúng khi bác ấy thường bảo rằng trí tưởng tượng của tôi cần phải được kiềm chế bớt. Tối nay, tôi tha thẩn trong vườn. Dẫu đang là tháng Sáu, trời vẫn lạnh buốt, và tôi có đôi chút cô đơn, chán nản, bải hoải; có lẽ vì hôm nay, hai truyện ngắn tôi vốn kỳ vọng khá nhiều lại bị trả về. Đột nhiên, tôi nghe thấy tiếng huýt sáo ra hiệu của Teddy trong vườn cây ăn quả cũ. Tất nhiên tôi đi theo tiếng gọi. Đối với tôi, đây luôn luôn là trường hợp ‘Ồ, hãy huýt sáo lên và tôi sẽ đến bên cạnh, anh bạn ạ’ – tuy nhiên, tôi thà chết còn hơn là thừa nhận điều này với bất cứ ai, chỉ trừ với nhật ký của tôi. Ngay khi nhìn thấy mặt cậu ấy, tôi đã biết cậu ấy có tin vui.

“Cậu ấy có thật. Cậu ấy chìa ra một bức thư, ‘Ngài Frederick Kent’. Tôi chẳng bao giờ có thể nhớ được tên của Teddy là Frederick – đối với tôi, cậu ấy chẳng bao giờ có thể là bất cứ gì khác ngoài Teddy. Cậu ấy đã giành được học bổng theo học tại trường Thiết kế ở Montreal – năm trăm đô trong vòng hai năm. Ngay lập tức, tôi thấy phấn khích không thua gì cậu ấy – với một cảm giác kỳ quái ẩn sau niềm phấn khích trộn lẫn giữa sợ hãi, hy vọng và mong ngóng mà chính tôi cũng không thể nói được cái nào trội hơn cái nào.

“ ‘Cậu thật tuyệt, Teddy!’ tôi nói, hơi bẽn len. ‘Ôi, tớ mừng lắm! Nhưng còn mẹ cậu, bác ấy nghĩ gì về chuyện này?’

“ ‘Mẹ sẽ để tớ đi thôi; nhưng mẹ tớ sẽ cô đơn và khổ sở lắm,’ Teddy nói, lập tức trở nên u sầu. ‘Tớ muốn mẹ đi cùng, nhưng mẹ không đời nào rời Vạt Cúc Ngải. Tớ không thích nghĩ đến chuyện mẹ tớ phải sống ở đó một mình. Tớ… tớ chỉ mong sao mẹ tớ không đối xử với cậu như thế này, Emily. Giá mẹ tớ không như thế… cậu đã có thể trở thành niềm an ủi rất lớn cho mẹ tớ.’

“Tôi không biết liệu Teddy có khi nào nghĩ rằng chính tôi cũng cần được an ủi hay không. Bầu không khí lặng lẽ kỳ quái buông trùm lên chúng tôi. Hai chúng tôi dạo bước dọc đường Ngày Mai – giờ đây con đường đã trở nên xinh đẹp đến mức khiến người ta phải băn khoăn không biết liệu có bất kỳ ngày mai nào có khả năng khiến nó trở nên đẹp đẽ hơn nữa được không – cho tới khi đến hàng rào dựng bên bãi cỏ ven hồ; và đứng ở đó dưới bóng râm của những cây linh sam xanh xám. Tôi đột nhiên cảm thấy trong lòng trào dâng niềm hạnh phúc, và trong một lúc, một phần trong tôi đã trồng lên một khu vườn, đã sắp đặt những căn phòng xinh đẹp, mua cả tá thìa bạc chắc nịch, bày biện căn phòng áp mái của tôi, trang trí cho một tấm khăn trải bàn bằng lụa Damash cỡ lớn; còn một phần khác trong tôi chỉ chờ đợi. Phút trước tôi nói tối hôm đó trời thật đẹp – thật ra không phải thế; vài phút sau tôi lại nói có vẻ như trời sẽ mưa – thật ra không phải thế.

“Nhưng ai đó phải nói gì đó chứ.

“ ‘Tớ sẽ làm việc chăm chỉ; tớ sẽ nỗ lực gặt hái được mọi thành quả có thể trong hai năm đó,’ cuối cùng Teddy nói, chăm chăm nhìn xuống hồ Blair, nhìn lên bầu trời và những đồi cát, nhìn những bãi cỏ xanh mướt thong dong, nhìn hết thảy mọi thứ trừ tôi.’Rồi, có lẽ, xong xuôi sau đó, tớ sẽ xoay sở để đến Paris. Ra nước ngoài; chiêm ngưỡng kiệt tác của những nghệ sĩ vĩ đại; sống trong môi trường của họ; nhìn những cảnh tượng đã được thiên tài của họ biến thành bất tử… tớ đã khát khao những điều đó suốt cả cuộc đời rồi. Và khi tớ trở về…’

“Teddy đột ngột dừng lại và quay sang nhìn tôi. Nhìn vào ánh mắt của cậu ấy, tôi những tưởng cậu ấy định hôn tôi… tôi thật sự nghĩ vậy. Nếu không nhắm mắt lại thì tôi không biết mình nên làm gì nữa.

“ ‘Và khi tớ trở về…’ cậu ấy nhắc lại; và một lần nữa dừng lại.

“ ‘Sao?’ tôi hỏi. Với cuốn nhật ký này, tôi không phủ nhận rằng tôi đã nói câu đó bằng tâm trạng có phần trông ngóng.

“ ‘Tớ sẽ khiến cái tên Frederieck Kent vang danh ở Canada!’ Teddy nói.

“Tôi mở mắt ra.

“Teddy đang cau mày nhìn dòng nước hồ Blair nhập nhòa sắc vàng. Một lần nữa, tôi có cảm giác không khí đêm nay không tốt cho mình. Tôi rùng mình, nói vài câu sáo mòn lịch sự, rồi để mặc cậu ấy cau mày đứng đó. Tôi không biết liệu có phải vì quá xấu hổ nên cậu ấy đã không hôn tôi; hay chỉ đơn thuần là cậu ấy không muốn làm thế.

“Tôi có thể quan tâm sâu sắc đến Teddy Kent nếu tôi cho phép bản thân làm thế… nếu cậu ấy muốn tôi làm thế. Có vẻ như cậu ấy không muốn. Cậu ấy chẳng nghĩ đến chuyện gì ngoài thành công, tham vọng và sự nghiệp. Cậu ấy đã quên mất ánh mắt chúng tôi trao nhau trong căn nhà cũ của ông John; cậu ấy đã quên mất rằng ba năm trước, bên ngôi mộ của George Horton, cậu ấy đã nói rằng tôi chính là cô gái đáng yêu nhất thế gian. Cậu ấy sẽ gặp hàng trăm cô gái tuyệt vời trên thế giới; cậu ấy sẽ không bao giờ còn nghĩ đến tôi nữa.

“Vậy thì cứ thế đi.

“Nếu Teddy không muốn tôi thì tôi cũng không muốn cậu ấy. Đó chính là truyền thống của nhà Murray. Nhưng tôi vốn chỉ mang một nửa dòng máu Murray mà thôi. Vẫn còn phải cân nhắc đến một nửa Starr trong tôi. May mắn thay, tôi cũng có sự nghiệp và tham vọng để mà nghĩ đến, có một nữ thần đố kỵ để mà phụng sự, như thầy Carpenter từng nói đó. Có lẽ nữ thần ấy sẽ không dung thứ cho một lòng trung thành đã bị sẻ chia.

“Tôi nhận thấy rõ ba loại cảm xúc.

“Trên hết, tôi bình tĩnh đến mức lạnh lùng và xử sự đúng theo truyền thống.

“Bên dưới đó đang kìm nén một thứ cảm xúc hẳn sẽ khiến tôi tổn thương khủng khiếp nếu tôi cứ để mặc nó.

“Và dưới sâu hơn nữa, là một cảm giác nhẹ nhõm kỳ quái vì tôi vẫn giữ được tự do của mình.”

“26 tháng Sáu, 19…

“Toàn thể người dân Shrewsbury đều đang cười đau cả bụng trước chiến tích gần đây nhất của Ilse, và một nửa người dân Shrewsbury tỏ thái độ không tán thành. Ilse vốn ghét một học sinh cuối cấp rất vênh váo lúc nào cũng ra vẻ ta đây là người quan trọng và hiện vẫn giữ nhiệm vụ trợ giáo ở nhà thờ Thánh John vào các Chủ nhật. Chủ nhật vừa rồi, Ilse đóng giả thành một bà già, mượn quần áo từ một người họ hàng nghèo của bà Adamson, vốn là bạn cùng phòng trọ của cậu ấy – một cái váy đen dài kín cổng cao tường viền nhiễu đen, một cái mũ bon nê góa phụ, cộng thêm một tấm mạng che mặt góa phụ bằng nhiễu đen dày cộp. Đóng bộ như thế xong, cậu ấy loạng choạng đi xuống phố, rầu rĩ dừng lại trước bậc thềm nhà thờ, làm ra vẻ cậu ấy không thể leo lên bậc thềm được. Anh chàng Vênh Váo kia nhìn thấy cậu ấy và, vốn ẩn dưới vẻ vênh váo cũng có chút bản năng lịch thiệp, bèn hào hiệp giúp đỡ. Anh ta đỡ bàn tay đang đeo găng run run của cậu ấy – lúc ấy nó đang run rẩy thật; Ilse vốn đang chết cười đằng sau tấm mạng che mặt – và dìu cậu ấy bước những bước run rẩy, yếu ớt lên bậc thềm, băng qua hiên, dọc lối đi giữa hai hàng ghế và bước vào trong hàng ghế nguyện. Ilse lẩm bẩm lời cầu chúc đứt quãng dành cho anh ta, đưa cho anh ta một tờ rơi của nhà thờ, ngồi đó suốt buổi lễ và rồi lại loạng choạng về nhà. Ngày hôm sau, tất nhiên, câu chuyện đã lan truyền khắp trường và anh chàng khốn khổ kia bị những cậu trai khác chế giễu đến độ cạn ráo mọi vênh với váo – ít nhất cũng là tạm thời – dưới màn tra tấn này. Có lẽ sự cố này sẽ giúp anh ta thấy thoải mái hơn.

“Tất nhiên tôi đã trách mắng Ilse một trận. Cậu ấy vốn là người vui vẻ, táo tợn và chẳng thèm để ý gì đến hậu quả. Cậu ấy luôn nghĩ gì làm nấy, thậm chí sẵn sàng nhảy lộn nhào giữa nhà thờ. Tôi yêu cậu ấy; yêu cậu ấy, yêu cậu ấy; và tôi không biết năm tới đây mình sẽ làm gì khi không có cậu ấy ở bên. Từ giờ trở đi, những ngày mai của chúng tôi sẽ luôn luôn bị chia tách; và dần trở nên xa cách; và đến lúc chỉ thỉnh thoảng mới gặp mặt nhau, chúng tôi sẽ chẳng khác gì người xa lạ. Ôi chao, tôi biết thế; tôi biết thế.

“Ilse giận điên lên trước cái mà cậu ấy gọi là ‘thái độ táo tợn’ của Perry khi dám nghĩ đến chuyện tôi có thể cưới cậu ta.

“ ‘Ôi, đó không phải thái độ táo tợn đâu; phải gọi là sự hạ cố mới đúng,’ tôi vừa nói vừa cười. ‘Perry thuộc dòng dõi công tước vĩ đại xứ Carabas[1] đấy.’

[1] Ý Emily muốn nhắc đến Hầu tước Carabas, nhân vật hư cấu trong câu chuyện cổ “Chú mèo đi hia”.

“ ‘Ồ, tất nhiên cậu ta sẽ thành công. Nhưng ở cậu ta luôn luôn mang cái hương vị của thị trấn Stovepipe,’ Ilse vặn lại.

“ ‘Sao lúc nào cậu cũng khắt khe với Perry thế hả Ilse?’ tôi phản đối.

“ ‘Cậu ta là một thằng đần ba hoa khoác lác đến thế còn gì,’ Ilse khinh khỉnh nói.

“ ‘Ôi dào, cậu ấy chỉ đương ở cái độ tuổi mà bọn con trai cái gì cũng biết,’ tôi nói, cảm thấy mình khá khôn ngoan và chín chắn. ‘Một thời gian nữa, cậu ấy rồi sẽ trở nên dốt hơn và dễ chịu đựng hơn thôi,’ tôi nói tiếp, cảm thấy mình khá dí dỏm. ‘Và từ hồi ở Shrewsbury, cậu ấy đã tiến bộ lên rồi còn gì,’ tôi tổng kết, cảm thấy khá tự mãn.

“ ‘Cậu nói cứ như thể cậu ta là kẻ ngớ ngẩn không bằng,’ Ilse giận dữ. ‘Vì Chúa, Emily, đừng có ra vẻ kẻ cả và hợm hĩnh như thế!’

“Nhiều khi Ilse giúp tôi trở nên tốt đẹp hơn nhiều. Tôi biết tôi xứng đáng với điều đó.”

“27 tháng Sáu, 19…

“Tối qua, tôi mơ thấy mình đang đứng trong ngôi nhà hóng mát lâu năm ở Trăng Non và nhìn thấy viên Kim Cương Mất Tích sáng lấp lánh trên sàn nhà dưới chân tôi. Tôi mừng rỡ nhặt nó lên. Nó nằm trên tay tôi một lúc; rồi nó dường như tránh khỏi sự nắm giữ của tôi, vụt bay lên không trung, để lại đằng sau một vệt sáng dài mảnh mai rực rõ, và biến thành một vì sao trên bầu trời phía Tây, ngay bên trên rìa thế giới. ‘Đó là ngôi sao của mình; mình phải với được tới nó trước khi nó lặn mất,’ tôi nghĩ, và bắt đầu lên đường. Đột nhiên chú Dean xuất hiện bên cạnh tôi; và chú ấy cũng đang theo bước vì sao kia. Tôi cảm thấy mình cần phải đi chậm lại vì chú ấy bị khập khiễng nên không đi nhanh quá được, và trong lúc đó, ngôi sao cứ chìm xuống thấp dần thấp dần. Tuy nhiên tôi cảm thấy mình không thể bỏ mặc chú Dean được. Rồi cũng đột ngột như lúc nãy, mọi chuyện xảy ra đúng như trong mơ – đẹp đẽ đến nhường nào, không vướng chút khó khăn gì – Teddy cũng xuất hiện bên cạnh tôi, chìa hai tay về phía tôi, với ánh mắt tôi đã từng nhìn thấy hai lần trước đây. Tôi đặt tay vào trong tay cậu ấy; và cậu ấy kéo tôi về phía mình; tôi ngẩng mặt lên; rồi chú Dean bật ra một tiếng kêu cay đắng, ‘Ngôi sao của tôi đã lặn rồi.’ Tôi quay ngoắt đầu lại; ngôi sao đã tắt; và tôi tỉnh giấc, giữa buổi ban mai xấu xí, xám xịt, có mưa; không ngôi sao; không Teddy, không nụ hôn.

“Tôi tự hỏi giấc mơ ấy có ý nghĩa gì; nếu như nó quả thật mang bất kỳ ý nghĩa nào đó. Tôi không được phép nghĩ rằng nó có ý nghĩa gì. Theo đúng truyền thống thì một người nhà Murray không được mê tín.”

“28 tháng Sáu, 19…

“Tối nay là tối cuối cùng tôi ở lại Shrewsbury. ‘Tạm biệt, thế giới huy hoàng, tôi về nhà đây’ – vào ngày mai, khi bác Jimmy đến đón tôi và hành lý của tôi đã được đưa lên chiếc xe ngựa cũ và tôi sẽ trở về Trăng Non trên cỗ xe oai vệ đó.

“Ba năm ở Shrewsbury này dường như dài dằng dặc khi tôi ngóng đợi nó đang ở phía trước. Còn bây giờ, ngoảnh đầu nhìn lại, dường như chuyện chỉ vừa mới xảy ra ngày hôm qua. Tôi cho rằng mình đã gặt hãi được điều gì đó trong khoảng thời gian này. Tôi không sử dụng quá nhiều từ in nghiêng; tôi đã học được cách kiềm chế và sự cân bằng tương đối; tôi đã hiểu biết hơn một chút về cuộc đời; và tôi đã học được cách mỉm cười trước một tờ thông báo từ chối. Tôi nghĩ đó chính là bài học khó khăn nhất trong mọi bài học; và không có gì phải nghi ngờ rằng đó chính là bài học cần thiết nhất.

“Khi nhìn lại ba năm ấy, có một số chuyện hiện lên rõ ràng và ý nghĩa hơn so với những chuyện khác, như thể tự bản thân chúng đã mang một ý nghĩa đặc biệt nào đó. Và không phải lúc nào những chuyện đó cũng là những chuyện mà chúng ta có lẽ đã dự liệu. Vì dụ như, sự thù hằn của Evelyn và thậm chí cả sự cố ria mép khủng khiếp kia dường như đã phai nhạt dần và không còn quan trọng nữa. Nhưng cái giây phút tôi nhìn thấy bài thơ đầu tiên của mình trên tạp chí Vườn và Rừng – ôi chao, đó đúng là thời khắc đáng nhớ; chuyến đi bộ tới Trăng Non sau đó quay trở lại vào buổi đêm hôm diễn kịch; chuyện viết bài thơ ngắn khác thường mà sau đó đã bị thầy Carpenter xé nát; buổi tối trên đống cỏ khô dưới vầng trăng tháng Chín; bà cụ thú vị từng đét mông đức vua; giây phút ở trong lớp học khi tôi phát hiện ra những dòng thơ của Keats về ‘những giọng nói từ trên cao’; và cái giây phút ở trong ngôi nhà cũ của ông John khi Teddy nhìn vào mắt tôi; ôi chao, dường như đối với tôi, đây chính là những thứ tôi sẽ lưu giữ trong bảo tàng Vĩnh Hằng một khi những lời chế giễu của Evelyn cùng vụ tai tiếng về chuyện ở căn nhà cũ của ông John cùng những rầy la của bác Ruth cùng nhịp điều học hành kiểm tra đã vĩnh viễn trôi vào quên lãng. Và lời hứa của tôi với bác Elizabeth đã giúp tôi, đúng như thầy Carpenter dự đoán. Có lẽ không phải trong nhật ký của tôi – ở đó thì tôi khá thoải mái; người ta cũng phải có một ‘lối thoát’ chứ – mà là trong các truyện ngắn và các cuốn sổ Jimmy của tôi.

“Chiều nay lớp chúng tôi tổ chức lễ tốt nghiệp. Tôi mặc chiếc váy mới bằng vải phin nõn màu kem đính hoa violet và mang một bó lớn hoa mẫu đơn hồng. Chú Dean, đang ở Montreal trên đường về nhà, đã đánh điện tín cho người bán hoa ở đây gửi cho tôi một bó hồng – mười bảy bông hồng – mỗi bông cho một năm tuổi đời tôi; và bó hoa được trao cho tôi khi lên nhận bằng tốt nghiệp. Chú Dean yêu quý là người như thế đấy.

“Perry là người thay mặt lớp phát biểu và cậu ấy đã có một bài diễn thuyết hay ho. Và cậu ấy đã nhận được huy chương vì sự giỏi giang toàn diện. Có một cuộc tranh đua gay gắt giữa cậu ấy và Will Morris, nhưng Perry đã giành chiến thắng.

“Tôi đã viết và đọc bản tiên đoán tốt nghiệp. Bài viết rất thú vị và có vẻ như cử tọa đều thích thú. Tôi còn có một bản viết khác trong cuốn sổ Jimmy để ở nhà. Nó thú vị hơn nhiều nhưng chưa hoàn thiện để được đọc.

“Tối nay tôi đã viết bức thư xã giao cuối cùng cho ông Towers. Tôi luôn căm ghét trò quảng cáo này nhưng tôi cần mấy đồng xu nó mang lại, thêm nữa người ta không nên khinh thường cái nền tảng giúp người ta leo lên những nấc thang danh vọng tuổi thanh xuân.

“Tôi còn phải đóng gói đồ đạc nữa. Bác Ruth thỉnh thoảng lên ngó nghiêng trong lúc tôi thu dọn nhưng chỉ lặng im một cách kỳ cục. Cuối cùng, bác ấy nói, kèm theo tiếng thở dài.

“ ‘Rồi ta sẽ nhớ cháu lắm cho mà xem, Emily ạ,’

“Tôi chưa từng mơ tưởng bác ấy sẽ nói hay có cảm xúc như thế. Và nó khiến tôi cảm thấy không thoải mái. Từ khi bác Ruth tỏ thái độ tử tế đến thế về vụ bê bối liên quan đến chuyện xảy ra ở ngôi nhà của ông John, tôi đã có cảm nhận khác về bác ấy. Nhưng tôi không thể nói là tôi sẽ nhớ bác ấy được.

“Tuy nhiên, vẫn phải nói gì đó.

“ ‘Cháu sẽ luôn biết ơn bác, bác Ruth ạ, vì những gì bác đã làm cho cháu suốt ba năm qua.’

“ ‘Ta chỉ cố gắng thực hiện bổn phận của mình thôi,’ bác Ruth nói.

“Tôi nhận ra mình thấy tiếc nuối đến mức lạ kỳ khi phải rời xa căn phòng nhỏ mà tôi chưa từng yêu quý và cũng chưa từng yêu quý tôi, và cả ngọn đồi trải dài lấp lánh những vì sao kia; xét cho cùng, tôi đã có những phút giây tuyệt vời tại nơi đây. Nhưng tôi chẳng hề nuối tiếc chút nào khi phải rời xa bức tranh thạch bản nữ hoàng Alexandra, hay cái bình hoa giấy. Tất nhiên, tiểu thư Giovanna sẽ đi cùng tôi. Cô ấy thuộc về căn phòng của tôi ở trang trại Trăng Non. Ở nơi này, dường như cô ấy luôn luôn là một kẻ bị lưu đày. Tôi thấy đau lòng biết bao khi nghĩ đến chuyện tôi sẽ không bao giờ còn được nghe thấy tiếng gió đêm trong Miền Chính Trực. Nhưng tôi sẽ có gió đêm trong rừng cây bụi nhà ông John Ngạo Mạn; tôi nghĩ bác Elizabeth định cho tôi một cây đèn dầu để soi cho tôi viết lách; cửa phòng tôi ở Trăng Non đóng kín; và tôi sẽ không phải uống trà ngọt. Chạng vạng ngày hôm nay, tôi đã tới cái hồ nhỏ lấp lánh như ánh ngọc trai vốn luôn là một địa điểm đầy mê hoặc để nấn ná vào những chiều tối mùa xuân. Xuyên qua những cái cây viền quanh bờ, sắc hồng và sắc vàng nhạt từ phương Tây vắt ngang từ bờ bên này sang bờ bên kia. Hồ nước phẳng lặng không chút gợn, và mọi cái lá, mọi cành cây, mọi nhành dương xỉ, mọi nhánh cỏ đều được soi mình trong đó. Tôi nhìn xuống; và thấy khuôn mặt của mình; và bởi một dáng xoắn vặn kỳ quái phản chiếu từ một cành cây đang nghiêng xuống, dường như tôi đang đội trên đầu một vành lá – chẳng khác gì một vòng nguyệt quế.

“Tôi coi đó là một điềm lành.

“Có lẽ chỉ là Teddy thấy xấu hổ thôi!”

The end
 
×
Quay lại
Top