Đề án giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng các ngân hàng thuơng mại ở việt nam

nghemualaithaynhoem

Thành viên
Tham gia
5/10/2011
Bài viết
2
Phần mở đầu1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu. Trong cơ chế thị trường hệ thống Ngân hàng được chia làm 2 cấp: Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đảm bảo chức năng quản lý vĩ mô và các Ngân hàng Thương mại (NHTM) thực hiện kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, Tín dụng.NHTM hoạt động kinh doanh độc lập trên cơ sở hạch toán lỗ lãi.
“Lời ăn lỗ chịu”, nguồn vốn kinh doanh của NHTM không phải do Nhà nước cấp mà phải tự huy động vốn từ các nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trong xã hội, tiến hành các hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận bù đắp chi phí đầu vào, với nguyên tắc phù hợp với các chế độ chính sách kinh tế - xã hội hiện hành của Nhà nước.Hoạt động Tín dụng là hoạt động kinh doanh quan trọng nhất,mang lại lợi nhuận cao nhất cho NHTM.Nó được thực hiện trên cơ sở tính toán các khối lượng nguồn vốn mà các Ngân hàng huy động có thể sử dụng cho vay và nhu cầu về vốn tín dụng trong xã hội.Các khoản tín dụng NHTM cấp ra phải đảm bảo được hiệu quả kinh tế là thu hồi được vốn và lãi đúng thời hạn.
Cũng như các doanh nghiệp khác trong cơ chế thị trường, hoạt động kinh doanh của các NHTM chịu sự chi phối của các quy luật khách quan và chủ quan, trong đó có quy luật cạnh tranh. Chúng ta biết rằng không một loại hình kinh doanh nào mà lại gắn nhiều rủi ro như hoạt động Ngân hàng: Như rủi ro Tín dụng, Thanh toán, lãi suất, hối đoái…Trong đó rủi ro Tín dụng là rủi ro mà hậu quả do nó gây ra có thể tác động nặng nề đến hoạt động kinh doanh khác,thậm chí đe dọa sự tồn tại của NHTM.
Rủi ro trong hoạt động Tín dụng NHTM xảy ra khi xuất hiện các biến cố làm cho khách hàng, không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình đối với Ngân hàng vào thời điểm đáo hạn. Các khoản nợ đến hạn nhưng khách hàng không có khả năng trả ngay cho Ngân hàng sẽ thuộc về một trong hai trường hợp: khách hàng sẽ trả nợ cho Ngân hàng sau thời gian kể từ thời điểm đáo hạn như vậy Ngân hàng sẽ gắn rủi ro đọng vốn, hoặc khách hàng hoàn toàn không có khả năng trả nợ cho Ngân hàng trường hợp này Ngân hàng gặp rủi ro mất vốn.
Từ những phân tích trên ta nhận thấy rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng là điều không thể tránh khỏi, mà đặc biệt là rủi ro Tín dụng. Vì muốn giảm rủi ro trong hoạt động Tín dụng trước hết ta cần có các phòng ngừa, hạn chế khả năng xuất hiện nợ quá hạn.
Xuất phát từ những lý do trên cùng với sự cần thiết phải tìm hiểu của sinh viên nghành TCNH em đã chọn đề tài “ Các biện pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng ở các ngân hàng”. Em hi vọng sẽ học hỏi được thêm nhiều kinh nghiệm quý báu từ thầy cô và bạn bè,đồng thời làm sáng tỏ phần lý luận được bổ xung ở Nhà trường.

2. Kết cấu

Ngoài Phần mở đầu và Phần kết luận, đề tài được bố cục thành 3 phần sau đây :
Phần I : Những vấn đề lý luận về rủi ro Tín Dụng
Phần II : Các loại Rủi Ro Tín Dụng
Phần III : Nhận xét, đánh giá và đưa ra một số biện pháp nhằm hoàn thiện đề tài.

Đây là 1 bài viết của sinh viên nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót.Em mong muốn sẽ nhận được nhiều ý kiến đóng góp của bạn bè và quý thầy cô.Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô trong khoa kinh tế chuyên ngành Tài chính ngân hàng, và nhất là cô Đặng Thị Hải Lý đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.


Phần I : Những vấn đề lý luận về rủi ro Tín Dụng1.1 : Ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại1.1.1 Khái niệm,chức năng, vai trò của ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại đã hình thành tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống ngân hàng thương mại ( NHTM ) đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu được.Trên thế giới, khái niệm về NHTM ở các quốc gia không hoàn toàn như nhau. Tuy nhiên nhìn chung các định nghĩa về NHTM đều được phát biểu dựa trên tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động của nó. Chẳng hạn:
Ở Mỹ : Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác,
hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính”.
Ở Việt Nam, Định nghĩa Ngân hàng thương mại : Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà họat động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán
Từ những nhận định trên có thể thấy NHTM là một trong những định chế tài chính mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội.Về cơ bản NHTM có tính chất hoạt động tương tự nhưng nhiều loại hình tài chính khác với tư cách là những trung gian tài chính( những tổ chức thực hiện vai trò trung gian chuyển vốn từ người thừa sang người thiếu) . Điểm phân biệt quan trọng giữa NHTM với các loại hình trung gian tài chính phi ngân hàng hoặc các ngân hàng đầu tư là ở chỗ NHTM là trung gian tài chính được Nhà Nước cho phép chuyên cung ứng các dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế như: nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán và một số hoạt động ngân hàng khác có liên quan.
* Chức năng của Ngân hàng thương mại
Trong nền kinh tế thị trường, các NHTM đảm nhận một số chức năng sau :
- chức năng trung gian tín dụng :là chức năng chủ yếu và quan trọng của ngân hàng. Ngân hàng đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, nó tạo cho người gửi có được khoản thu nhập thông qua lãi suất với mức độ an toàn và mức độ thanh khoản cao. Với số vốn huy động được ngân hàng đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng đáng tin cậy. Các ngân hàng luôn tìm kiếm cơ hội để cho vay, coi đó là nhu cầu chủ yếu trong việc duy trì và mở rộng chức năng hoạt động của mình. Qua chức năng này các NHTM đã và đang thực hiện chức năng xã hội của mình làm cho sản phẩm xã hội tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng tài trợ cho các ngành, các thành phần kinh tế của đất nước làm ăn có hiệu quả, từ đó góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển
+ Đối với doanh nghiệp: Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh thì vốn vay tạo cho họ có khả năng để đầu tư công nghệ, mua sắm vật tư, máy móc, thuê nhân công… từ đó nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, tăng doanh thu và lợi nhuận.
+ Đối với hộ sản xuất : Nhờ được vay vốn mà họ có thể có đủ máy móc công cụ, nguyên nghiên vật liệu, hạt giống, phân bón, chuồng trại, thức ăn chăn nuôi, các nhu cầu cần thiết khác cho sản xuất kinh doanh có hiệu quả, khai thác tiềm năng kinh tế, kiếm được nhiều lợi nhuận.
+ Các cửa hàng bán buôn, bán lẻ : Nhờ có vốn vay từ ngân hàng sẽ góp phần thúc đẩy nhanh việc lưu thông hàng hóa từ người sản xuất tới người tiêu dùng.
+ Thông qua việc cấp tín dụng, các NHTM góp phần thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô là chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thực hiện điều chỉnh nền kinh tế, điều hòa lưu thông tiền tệ như cho vay tiêu dùng để kích cầu cho nền kinh tế đó là việc cho vay mua sắm nhà cửa, xe cộ,………
- Chức năng trung gian thanh toán: Là một chức năng quan trọng để ngân hàng thực hiện một số hoạt động. Ở các nước đang phát triển, công tác thanh toán của ngân hàng được thực hiện thông qua séc, phần lớn séc thanh toán trong nước được thực hiện bằng thanh toán bù trừ thông qua NHTM. Việc phát hành séc để rút tiền từ tài khoản tiền gửi và ký thác trong cùng một ngân hàng đơn thuần chỉ là sự chuyển đổi vốn từ tài khoản này sang một tài khoản khác tại ngân hàng đó. Đương nhiên quá trình này sẽ trở lên phức tạp tốn thời gian, tăng chi phí giao dịch khi việc thanh toán bù trừ lại diễn ra giữa các ngân hàng thuộc các địa bàn khác nhau, khác hệ thống lại trở lên dễ dàng và phổ biến.
Hiện nay, các NHTM thế giới và cả ở Việt Nam đã hiện đại hóa các công nghệ ngân hàng như các chương trình phần mềm máy vi tính và các phương tiện kỹ thuật hiện đại khác như thanh toán chuyển tiền qua máy tính, chuyển tiền điện tử, thẻ tín dụng, máy giao dịch tự động có khả năng rút và gửi tiền ATM, thẻ thanh toán…Thẻ tín dụng ATM giúp người ta có thể rút tiền từ một tài khoản nhất định thực hiện ký thác, thanh toán công nợ. Việc sử dụng những công nghệ ngân hàng như thế sẽ khiến các giao dịch nhanh hơn, chính xác hơn và an toàn hơn.
- Chức năng tạo tiền : Người ta cho rằng: “ Một trong những chức năng chủ yếu của các NHTM là tạo và hủy tiền “. Với mục đích tìm kiếm lợi nhuận, các NHTM không thể không quan tâm nó như một yêu cầu cho chính ngay sự tồn tại và phát triển của mình là tạo tiền. Chức năng này được thực hiện thông qua các hoạt động tín dụng, đầu tư trong mối liên hệ chặt chẽ với Ngân hàng trung ương của mỗi nước. Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của
khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội.
Ngoài ra các NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện những mục tiêu của chính sách tiền tệ. Việc cung ứng tiền tệ phải vừa đủ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế thông qua hoạt động tín dụng của NHTM. Ngân hàng trung ương có thể sử dụng các công cụ để điều tiết lượng tiền tăng hoặc giảm trong lưu thông cho phu hợp với chính sách tiền tệ quốc gia.
* Vai trò của các Ngân hàng thương mại
Trong nền kinh tế thị trường vai trò của các NHTM là vô cùng to lớn, nó tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển nhanh và hiệu quả hơn.
Với chức năng trung gian tín dụng, NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế thị trường: tại sao lại nói như vậy? chúng ta hãy hình dung một thế giới giản đơn trong đó không tồn tại hoạt động của hệ thống ngân hàng thì những khoản tiền tiết kiệm của dân chúng chỉ có thể được sử dụng hoặc là dưới dạng tiền mặt hoặc là dưới dạng đầu tư chứng khoán công ty, vàng hay bất động sản…tuy nhiên do giám sát các hoạt động của các công ty là rất cao và rủi ro do biến động giá cả chứng khoán trên thị trường chứng khoán luôn làm nản lòng những người muốn đầu tư, quy mô số lượng và chất lượng các dòng tiền từ những người tiết kiệm chuyển đến các công ty nhìn chung là thấp hoặc đó là những giao dịch mang tính nhỏ lẻ. Do những nguyên nhân trên khiến cho dân chúng: một là giảm tiết kiệm tăng tiêu dùng, hai là tiết kiệm đưa vào dự trữ dạng tiền mặt “ nằm chăn trong gối “. Hiện nay trong nền kinh tế thị trường NHTM đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn rỗi, tạm thời nhàn rỗi trong dân cư, thông qua hoạt động tín dụng NHTM đã cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình sản xuất và tái sản xuất.
Nhờ có hoạt động tín dụng của NHTM mà các doanh nghiệp, tổ chức hay cá nhân có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc thiết bị, tăng năng suất lao động, lợi nhuận thu được ngày càng cao từ đó tăng nhanh quá trình tích lũy, tiết kiệm,sự phát triển của nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường:
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan như: quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu… hoạt động sản xuất kinh doanh trên cơ sở đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu thị trường trên các phương tiện như giá cả, khối lượng, chất lượng, chủng loại hàng hóa, thời gian, địa điểm. Hoạt động của các doanh nghiệp phải đạt hiệu quả kinh tế nhất định theo quy định chung của thị trường thì mới đảm bảo đứng vững trong cạnh tranh. Để đáp ứng tốt các nhu cầu thị trường thì doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng lao động, không ngừng cải tiến máy móc, công nghệ, hoàn thiện cơ chế quản lý… Những hoạt động này đòi hỏi một khối lượng vốn đầu tư nhiều khi vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Giải quyết khó khăn này, doanh nghiệp có thể tìm đến ngân hàng xin vay vốn thỏa mãn nhu cầu đầu tư của mình. Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường. Nguồn vốn tín dụng của ngân hàng cấp cho doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh giúp doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu thị trường, đứng vững trong cạnh tranh.
Ngân hàng thương mại là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế :
Các NHTM là đối tượng và đồng thời là trung gian thực hiện chính sách tiền tệ, chính sách kinh tế quốc gia. Thông qua hệ thống của mình, bằng hoạt động tín dụng và thanh toán dưới sự tác động của ngân hàng trung ương, các NHTM đã góp phần mở rộng hoặc thu hẹp khối lượng tiền tệ cung ứng trong lưu thông, để ổn định giá trị đồng tiền. Thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng thương mại thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn của thị trường, thu hút vốn nước ngoài để tăng tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế đồng thời trên cơ sở mở rộng sản xuất phát triển ngành nghề, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, góp phần thực hiện các mục tiêu và chính sách xã hội của nhà nước.
Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế
Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, xu thế quốc tế hóa và toàn cầu hóa là tất yếu, nó ngày càng trở lên cần thiết và cấp bách. Việc phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn gắn với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu thành nên sự phát triển đó. NHTM cùng với hoạt động kinh doanh của mình, đóng vai trò quan trọng trong sự hòa nhập kinh tế khu vực và thế giới. Với các nghiệp vụ kinh doanh như nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh toán quốc tế, tài trợ ngoại thương, bảo lãnh…NHTM tạo điều kiện thúc đẩy ngoại thương phát triển, đưa các tập quán, luật pháp, trình độ kinh doanh…xích lại gần nhau từ đó điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế.
Tóm lại, NHTM có vai trò vô cùng to lớn đối với sự phát triển kinh tế, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường, với sự cạnh tranh, xu thế toàn cầu hóa hội nhập ngày càng mạnh mẽ. Những rủi ro sẽ dẫn đến đổ vỡ NHTM mang tính hệ thống, lây lan dây chuyền có ảnh hưởng sâu rộng và nghiêm trọng tới niềm tin, đời sống kinh tế - chính trị - xã hội không những của một quốc gia mà còn cả khu vực và trên thế giới. Do đó một trong những mục tiêu quản trị cơ bản, có tính chất thường xuyên và lâu dài của bất kì một NHTM nào cũng phải hạn chế đến mức tối đa rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình nhất là hoạt động tín dụng, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
1.1.2 Tín dụng và vai trò của Tín dụng ngân hàng trong hoạt động kinh doanh của NHTM1.1.2.1 khái niệm, phân loại tín dụng : Thuật ngữ “ tín dụng ” xuất phát từ gốc la tinh “creditum” có nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm lẫn nhau hay nói cách khác là lòng tin.
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định lại quay về với một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam thì tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn nhau dựa trên cơ sở có hoàn trả cả gốc và lãi. Nhìn chung, mối quan hệ tín dụng luôn bao gồm hai mặt cơ bản đó là quan hệ cho vay và quan hệ hoàn trả, sự hoàn trả là đặc trưng thuộc về bản chất vận động của tín dụng, là điểm khác biệt để phân biệt sự khác nhau với các phạm trù kinh tế khác, ngoài ra tín dụng còn có đặc trưng cơ bản đó là lòng tín và tính thời gian.
Tùy theo góc độ quan sát, tùy theo tiêu thức và mục đích, người ta có thể nhìn nhận, phân chia tín dụng thành các loại khác nhau, chẳng hạn :
* Căn cứ vào tính chất chung nhất của quan hệ tín dụng giữa các nhóm chủ thể trong nền kinh tế thì tín dụng được chia làm 2 loại :
- Tín dụng thương mại : là loại tín dụng hình thành trực tiếp giữa những người mua, bán hàng hóa.
- Tín dụng ngân hàng : là loại tín dụng hình thành trong quan hệ vay mượn giữa các ngân hàng và các chủ thể khác.
Theo nghĩa này thì tín dụng ngân hàng bao hàm cả việc vay mượn của ngân hàng và việc các ngân hàng cho vay đối với nền kinh tế.
Tuy nhiên, trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng khi đề cập đến hoạt động tín dụng với nghĩa là một trong những chức năng cơ bản của các ngân hàng thì tín dụng thường được hiểu là hoạt động cấp tín dụng của các ngân hàng cho nền kinh tế từ các nguồn vốn khác nhau mà nghiệp vụ tín dụng huy động được, là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả. Hoạt động này được thực hiện dưới các hình thức cụ thể như : Cho vay bằng tiền, chiết khấu các giấy tờ có giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng… Rủi ro tín dụng mà đề tài nghiên cứu chính là rủi ro trong mảng tín dụng với nghĩa này.
*Căn cứ theo thời gian tín dụng thì tín dụng được chia ra làm 3 loại :
- Tín dụng ngắn hạn : Là loại tín dụng có thời hạn dưới 1 năm thường được sử dụng để cho vay bổ xung thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp và cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng của các cá nhân.
- Tín dụng trung hạn : Là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Loại tín dụng này dùng để cho vay vốn phục vụ nhu cầu mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh
- Tín dụng trung dài hạn : Là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Loại tín dụng này được sử dụng để cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn, có thời gian thu hồi vốn dài.
* Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn tín dụng thì tín dụng được chia làm 2 loại :
- Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa : Là loại tín dụng cáp cho các chủ thể kinh tế để tiến hành sản xuất và lưu thông hàng hóa.
- Tín dụng tiêu dùng : Là hình thức tín dụng cấp cho các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng : mua sắm nhà cửa, xe, các hàng hóa tiêu dùng khác. Ngày nay, tín dụng tiêu dùng là một trong những xu hướng phát triển và trở thành một thị trường tín dụng rộng lớn.
* Căn cứ vào sự đảm bảo tín dụng, tín dụng được chia làm 2 loại :
- Tín dụng không có đảm bảo ( tín chấp ) : Là loại tín dụng không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ 3, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng.
- Tín dụng có đảm bảo : Là loại tín dụng mà khi cho vay đòi hỏi người vay vốn phải có tài sản, cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của người thứ 3.
* Căn cứ vào hình thái giá trị tín dụng, tín dụng gồm 2 loại :
- Tín dụng bằng tiền : Là loại tín dụng mà hình thánh giá trị tín dụng được cấp bằng tiền.
- Tín dụng bằng tài sản : Là loại tín dụng mà hình thái giá trị tín dụng được cấp bằng tài sản
* Căn cứ vào phương pháp cho vay : gồm 2 loại
- Tín dụng trực tiếp : Là loại tín dụng mà người vay trực tiếp nhận tiền vay và trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
- Tín dụng gián tiếp : Là loại tín dụng mà quan hệ tín dụng có thông qua ( liên quan ) đến người thứ 3.
* Căn cứ vào phương pháp hoàn trả có 2 loại :
- Tín dụng trả góp : Là loại tín dụng mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kỳ.
- Tín dụng hoàn trả 1 lần : Là loại tín dụng được thanh toán một lần theo kỳ hạn đã thỏa thuận giữa khác hàng và ngân hàng.
1.1.2.2 Vai trò của Tín dụng Ngân Hàng
Hoạt động tín dụng ngân hàng có vai trò đặc biệt quan trọng, thể hiện trên những điểm cơ bản sau :
- Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ vốn có hiệu quả :
+ Tín dụng ngân hàng đáp ứng vốn để duy trì quá trình tái sản xuất, đồng thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế. Do đặc điểm của tuần hoàn vốn, nên trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp luôn có sự biến động về vốn, thời gian… do đó luân chuyển tiền tệ của các doanh nghiệp có lúc thừa lúc thiếu. Nguồn vốn doanh nghiệp tạm thời nhàn rỗi cùng với các nguồn tiết kiệm từ dân cư, nguồn kết dư từ ngân sách… được ngân hàng thương mại huy động và sử dụng để đầu tư cho các doanh nghiệp đang tạm thời thiếu vốn, cho nhu cầu tiêu dùng tạm thời vượt quá thu nhập của dân chúng, cũng như cho yêu cầu chi của ngân sách nhà nước trong lúc cần thiết…. Như vậy tín dụng ngân hàng đã góp phần điều hòa vốn một cách có hiệu quả trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế.
+ Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất: thông qua việc tập trung và ưu tiên vốn cho các ngành kinh tế mũi nhọn, kinh tế trọng điểm, là những nơi có nhu cầu vốn cực lớn, từ đó tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao sức mạnh, sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo điều kiện để phát triển các quan hệ kinh tế trong và ngoài nước…
+ Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hóa và luân chuyển tiền tệ thông qua việc tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực hiện được các cơ hội đầu tư sản xuất kinh doanh của mình. Thông thường các doanh nghiệp chỉ sử dụng đến vốn ngân hàng sau khi đã huy động mọi nguồn lực của bản thân, điều đó cũng có nghĩa là nếu không có tín dụng ngân hàng thì doanh nghiệp khó có khả năng thực hiện cơ hội đầu tư kinh doanh của mình. Nhất là trong cơ chế thị trường, mất cơ hội là hết sức nguy hiểm. Ngoài ra tín dụng ngân hàng giúp doanh nghiệp tăng thêm sức mạnh trong cạnh tranh, vươn lên tồn tại và phát triển trên thương trường.
+ Tín dụng ngân hàng là công cụ thúc đẩy chế độ hạch toán kinh doanh, tăng cường quản lý tài chính, tăng tích lũy đối với doanh nghiệp. Về phía người vay vốn luôn cân nhắc giữa hiệu quả vốn vay mang lại với thời hạn, lãi suất của vốn vay và họ chỉ vay khi tính toán có lãi, đó chính là bản chất của hạch toán kinh tế.
- Tín dụng ngân hàng là công cụ của nhà nước điều tiết khối lượng tiền tệ lưu thông trong nền kinh tế:
Như chúng ta đã biết, khi ngân hàng thương mại thực hiện hành vi cấp tín dụng cho nền kinh tế, cùng với khả năng “ tạo tiền ” các “ bút tệ ” sẽ được nhân rộng, tức là đã tạo ra một khả năng cung ứng tiền tệ. Và hiệu ứng ngược lại sẽ sảy ra, khi các ngân hàng thương mại thu hẹp. Chính từ khả năng này tín dụng ngân hàng đã được nhà Nước sử dụng như là một công cụ để điều tiết khối lượng tiền tệ lưu thông qua các chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà Nước như : Dự trữ bắt buộc, Hạn mức tín dụng, Lãi suất chiết khấu, Nghiệp vụ thị trường mở….
- Tín dụng ngân hàng thỏa mãn nhu cầu tiết kiệm và mở rộng đầu tư của nền kinh tế:
Tín dụng NHTM là công cụ giúp nhà nước thực hiện tốt chính sách tiền tệ, đồng thời cũng giúp chính NHTM có một môi trường kinh doanh tốt. Với sức mua đồng tiền ổn định sẽ tạo tâm lý an tâm trong dân chúng, từ đó huy động được tối đa các nguồn vốn tiềm tàng trong xã hội, thỏa mãn cao nhất nhu cầu vốn mở rộng đầu tư của nền kinh tế. Mặt khác, với hoạt động tín dụng NHTM trở thành trung gian tài chính đặc biệt có khả năng giảm thiểu các chi phí và rủi ro do đó đã thỏa mãn nhu cầu tiết kiệm và mở rộng đầu tư của nền kinh tế.
- Tín dụng ngân hàng là hoạt động chủ yếu đem lại lợi nhuận cho NHTM: trong kinh doanh tiền tệ của NHTM, tín dụng luôn là khoản mục lớn nhất, thường chiếm trên 70% tài sản có sinh lời của một ngân hàng. Nghiệp vụ tín dụng ngày càng được đa dạng hóa càng làm tăng vai trò của tín dụng trong tổng thể kinh doanh của NHTM và do đó, thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm phần lớn lợi nhuận, quyết định hiệu quả của hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Tóm lại : Hoạt động tín dụng với chức năng và vai trò của mình không những trở thành hoạt động quan trọng nhất, quyết định sự tồn tại và phát triển của một NHTM, mà còn có vai trò to lớn và ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển của cả lĩnh vực kinh tế - xã hội.

1.2 Rủi ro tín dụng và sự cần thiết hạn chế rủi ro tin dụng ở các ngân hàng thương mại
1.2.1 Tổng quan về rủi ro tín dụng của NHTM
1.2.1.1 Khái niệm rủi ro
Rủi ro có thể được hiểu là mối đe dọa bị tổn thất một phần nguồn vốn của ngân hàng hoặc không đạt được thu nhập hay đòi hỏi các khoản chi phí bổ xung để thực hiện các nghiệp vụ nhất định.
Trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói riêng không thể tránh khỏi rủi ro, quá trình mở rộng kinh doanh ngân hàng nói riêng thường đi liền với việc mở rộng phạm vi rủi ro. Hoạt động ngân hàng có rất nhiều nghiệp vụ, mỗi nghiệp vụ gắn với những rủi ro khác nhau qua đó đòi hỏi phải sử dụng các biện pháp tự bảo vệ và các biện pháp khác để giảm thiểu các rủi ro thiệt hại, mất mát có thể sảy ra.

1.2.2 Hậu quả, nguyên nhân rủi ro tín dụng và sự cần thiết ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng
1.2.2.1 Hậu quả của rủi ro tín dụng
Như đã nêu ở trên, chúng ta quan niệm : Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, là nguy cơ mức độ mất mát, thiệt hại tài chính mà ngân hàng phải gánh chịu do vô số những nguyên nhân khác nhau về cả phía ngân hàng, khách hàng và các yếu tố khác thuộc về môi trường hoạt động kinh doanh.
Khái niệm rủi ro tín dụng nêu trên trước hết đề cập tới khía cạnh hậu quả của rủi ro, trong đó nhấn mạnh sự thiệt hại mất mát về tài chính của bản thân mỗi ngân hàng khi cấp tín dụng cho khách hàng của họ. Tuy vậy thực tế thì những hậu quả của nó còn có tác động rộng hơn, có thể xem xét dưới các góc độ chủ yếu sau:
* Đối với ngân hàng thương mại :
Chúng ta đều biết các NHTM có vốn tự có thường chỉ chiếm từ 9%( theo luật tổ chức tín dụng ) trên tổng nguồn vốn hoạt động, nguồn vốn kinh doanh chủ yếu là vốn huy động nên khi rủi ro sảy ra sẽ dẫn tới tình trạng mất khả năng thanh toán chi trả dẫn tới khách hàng bị giảm lòng tin vào ngân hàng. Họ hạn chế quan hệ với ngân hàng, làm cho ngân hàng mất đi cơ hội khả năng tích lũy vốn, giảm sức cạnh tranh của ngân hàng. Khi họ gây ra phản ứng dây truyền một loạt khách hàng tới rút tiền hàng loạt làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán, suy yếu nhanh và có thể dẫn tới phá sản hàng loạt các ngân hàng.
* Đối với khách hàng
Khi ngân hàng gặp rủi ro thì người gửi tiền sẽ bị mất vốn dẫn tới gặp khó khăn trong kinh doanh. Nguồn đi vay, nguồn tài trợ từ các ngân hàng hoàn toàn bị mất, cơ hội kinh doanh bị tuột mất, tài sản bị tịch thu hoặc phát mại, khi người vay đứng trước nguy cơ phá sản.
* Đối với nền kinh tế :
Hoạt động kinh doanh ngân hàng có liên quan chặt chẽ trực tiếp tới toàn bộ nền kinh tế quốc dân, các doanh nghiệp, tổ chức dân cư. Khi NHTM bị sụp đổ, tác hại của nó ảnh hưởng xấu tới hầu hết các ngành kinh tế khác, phản ứng dây truyền của nó có thể làm tê liệt một số ngành và doanh nghiệp trực tiếp sản xuất, lưu thông hàng hóa sẽ bị đình trệ, chức năng là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế bị suy yếu, quyền lợi của khách hàng ( người gửi ) không được bảo vệ, ảnh hưởng xấu tới tiết kiệm đầu tư của nền kinh tế. Dẫn tới kinh tế rối loạn người lao động mất việc làm, khủng hoảng kinh tế xã hội kéo dài, khó khắc phục được trong 1 thời gian ngắn.

1.2.2.2 Sự cần thiết phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng:
Như đã nêu ở trên, rủi ro tín dụng là những tổn thất tiềm tàng phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng. Tính khách quan của việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng xuất phát chính từ tầm quan trọng của hoạt động cấp tín dụng, tầm quan trọng của danh mục tín dụng, bản chất rủi ro tín dụng và ảnh hưởng của rủi ro tín dụng tới hiệu quả kinh doanh, tới sự lành mạnh và an toàn của các ngân hàng. Một khi rủi ro tín dụng xảy ra nó không chỉ ảnh hưởng tới mọi hoạt động của ngân hàng, đến kết quả kinh doanh của ngân hàng mà còn ảnh hưởng quan trọng tới tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng ở mọi thanh phần kinh tế, cũng như ảnh hưởng tới hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Do vậy, NHTM cần phải có sự phòng ngừa và có những giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng.
1.3 Kết luận
Rủi ro tín dụng không những tác hại đối với ngân hàng mà còn nguy hại đối với nền kinh tế, trật tự xã hội. Phạm vi tác động của nó không chỉ giới hạn trong một quốc gia mà còn có thể lan rộng ảnh hưởng cả khu vực hay toàn cầu. Do đó quan tâm hạn chế tới rủi ro tín dụng không còn là việc riêng của ngân hàng thương mại mà còn là sự quan tâm chung của cả ngân hàng trung ương, chính phủ và toàn xã hội.



Phần II : Các loại Rủi Ro Tín Dụng

2.1 Các loại rủi ro chủ yếu mà NHTM thường gặp
2.1.1 Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là những thiệt hại về tài chính do sự biến động về lãi suất mà NHTM phải gánh chịu. Khi lãi suất biến động theo hướng bất lợi cho ngân hàng, tiền lãi thu được từ người vay không đủ bù đắp lãi huy động vốn. Rủi ro lãi suất có nguyên nhân từ sự không cân xứng về kì hạn giữa tài sản có và tài sản nợ. Chẳng hạn, khi ngân hàng huy động các tài sản nợ có thời hạn ngắn mà đầu tư vào tài sản có có thời hạn dài thì khi lãi suất thị trường biến động tăng lên NHTM bị thiệt hại và chịu rủi ro lãi suất.
Rủi ro lãi suất trong huy động vốn
Đây là loại rủi ro khi NHTM huy động quá nhiều tiền gửi có kì hạn, có lãi suất cao, nhưng sau đó lãi suất thị trường giảm ( do thay điều hành lãi suất cơ quan chủ quản, do quan hệ cung – cầu thị trường….)
Rủi ro lãi suất cho vay
Đây là loại rủi ro có ảnh hưởng rất lớn và khá thường xuyên vì hoạt động kinh doanh của các NHTM hiện nay chủ yếu dựa vào hoạt động cho vay với tỷ lệ thu lãi vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong thu nhập của các NHTM. Rủi ro lãi suất cho vay sảy ra khi lãi suất cho vay thị trường giảm, ngân hàng phải cho vay với lãi suất thị trường trong khi đã huy động với lãi suất cao hơn . Hơn nữa lãi suất cho vay lại thường xuyên biến động do áp lực cạnh tranh giữa các NHTM, thậm chí ngay cả chi nhánh trong cùng một hệ thống để thu hút khách hàng. Các NHTM muốn giữ khách hàng truyền thống , đồng thời mở rộng quy mô kinh doanh, thu hút khách hàng mới vẫn thường sử dụng công cụ lãi suất.
Rủi ro lãi suất trong hoạt động cho vay còn xảy ra khi Ngân hàng Nhà Nước thay đổi lãi suất cơ bản, lãi suất dự trữ bắt buộc để thực thi chính sách tiền tệ, gây ra hiệu ứng dẫn đến rủi ro lãi suất cho vay của các NHTM. Khi lãi suất cơ bản tăng thì lãi suất cho vay và huy động cũng sẽ tăng nhưng chỉ áp dụng cho những khoản vay mới phát sinh, còn những dư nợ hiện hành của NHTM, nhất là các khoản vay trung dài hạn có lãi suất danh nghĩa ghi trên hợp đồng tín dụng đang ở mức thấp. Nhất là các khoản cho vay trung và dài hạn thì rủi ro lãi suất là điều khó tránh khỏi
Rủi ro lãi suất thay đổi do cung – cầu thị trường tiền tệ liên ngân hàng, các khoản vay trên thị trường này có thời hạn ngắn và rất ngắn ( qua đêm….) lãi suất trên thị trường này thường xuyên biến động. Việc vay vốn chủ yếu đảm bảo khả năng thanh khoản, tìm kiếm chênh lệch lãi suất xong đòi hỏi phải có một sự nhận định phân tích chủ động khá cao nếu không cũng rất dễ gặp rủi ro.

2.1.2 Rủi ro ngoại hối
Là thiệt hại gây ra cho NHTM do sự biến động tỷ giá giữa đồng nội tệ và ngoại tệ. Ngân hàng lâm vào tình trạng rủi ro ngoại hối trong khi thực hiện các nghiệp vụ ngoại tệ khác nhau như : Mua bán ngoại tệ hoặc cho vay bằng ngoại tệ.
Kinh doanh ngân hàng là một nghề đầy rủi ro và rủi ro hối đoái là một trong những rủi ro đó. Thực chất của rủi ro hối đóai là rủi ro tỷ giá. Vậy vì sao Ngân hàng lại luôn đối mặt với rủi ro về tỷ giá? Và câu hỏi đặt ra là Rủi ro tỷ giá xảy ra khi nào? Như chúng ta đã biết bất cứ một Ngân hàng nào họ cũng có kinh doanh trên đồng nội tệ và ngọai tệ ví dụ như: mua, bán ngọai tệ, huy động bằng ngọai tệ, cấp tín dụng bằng ngọai tệ, đầu tư, mua các Giấy Tờ Có Giá bằng ngọai tệ, Dịch vụ thanh tóan bằng ngọai tệ, giao dịch hợp đồng tài chính ... Và một điều hiển nhiên với từng ấy , Ngân hàng luôn đối mặt với rủi ro tỷ giá.
vậy rủi ro tỷ giá sảy ra khi nào? Việc xảy ra Rủi ro tỷ giá trong kinh doanh ngân hàng phụ thuộc vào: Tỷ giá ngọai tệ(có thể lên, có thể xuống) và Trạng thái ngọai hối (Yếu tố kinh doanh) : chúng ta đã biết
Trạng thái ngọai hối = (Tài sản có ngọai tệ - Tài sản nợ ngọai tệ) + (Doanh số mua ?" Doanh số bán )
Có 2 trạng thái ngoại hối là hối trường và trạng thái ngoại hối đoản.
Trạng thái ngoại hối trường sảy ra khi tài sản Có ngoại hối lớn hơn tài sản Nợ ngoại hối. Ngược lại, trạng thái ngoại hối đoản sảy ra khi tài sản Nợ ngoại hối > tài sản Có ngoại hối.
Khi ngân hàng kinh doanh ngoại tệ có trạng thái ngoại hối trường về một ngoại tệ nào đó, nếu ngoại tệ đó lên giá, họ sẽ có lãi khi đánh giá lại và bị lỗ khi ngoại tệ đó xuống giá. Như vậy, ngân hàng luôn phải đối phó với rủi ro hối đoái khi tỷ giá hối đoái thay đổi.
Lãi hay lỗ trong kinh doanh ngoại hối chủ yếu phụ thuộc vào mức độ duy trì trạng thái ngoại hối mở, khi các ngân hàng và nhà kinh doanh ngoại hối nói chung giao dịch trên thị trường ngoại hói về mỗi loại ngoại tệ và cả danh mục ngoại tệ. Rủi ro trong kinh doanh ngoại hối thường là :
- Rủi ro về tỷ giá hối đoái :
Đây là rủi ro đặc trưng của kinh doanh ngoại hối và có ý nghĩa rộng lớn đối với nghiệp vụ này .
Lãi / lỗ đối với ngoại tệ i = ( trạng thái ngoại hối ròng của ngoại tệ i ) x ( mức biến động của tỷ giá ngoại tệ i )
Trạng thái ngoại hối ròng gồm 2 loại :
+ trạng thái ngoại hối trường ròng = tài sản Có – tài sản Nợ bằng ngoại tệ
+ trạng thái ngoại hối đoản ròng = tài sản Nợ - tài sản Có
Như vậy, để phòng ngừa rủi ro ngoại hối, ngân hàng phải cân bằng tài sản Có và tài sản Nợ với mỗi loại ngoại tệ và theo dõi sát biến động của tỷ giá hối đoái.
­ - Rủi ro về tỷ lệ swap ( tỷ lệ chuyển đổi )
Loại rủi ro này thực chất là rủi ro về lãi suất, nếu khối lượng giao dịch lớn thì mức độ rủi ro này cũng là điều đáng quan tâm.
- Rủi ro thực hiện ( rủi ro thanh toán ) :
Đây là loại rủi ro do đối tác không thực hiện trách nhiệm của họ gây ra hậu quả là hoạt động ngoại hối bị lỗ. Rủi ro thực hiện phụ thuộc vào uy tín thanh toán của khách hàng nên người ta thường gọi loại rủi ro này là rủi ro uy tín thanh toán. Rủi ro thực hiện trong nghiệp vụ mua bán kỳ hạn lớn hơn trong nghiệp vụ trao ngay do được tất toán sau một thời kỳ nhất định.

2.1.3 Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là những thiệt hại xảy ra khi NHTM không có đủ hoặc mất khả năng chi trả cho người gửi tiền. Rủi ro thanh khoản xuất phát từ sự không khớp nhau về thời hạn giữa tài sản nợ với tài sản có. Rủi ro này xảy ra khi ngân hàng lập kế hoạch dự trữ không chính xác, hoặc do ngân hàng nắm giữ nhiều tài sản có khó chuyển đổi, các khoản cho vay bị sai hẹn không thu hồi được dẫn đến kế hoạch dự trữ bị phá vỡ. Do biến động của nền kinh tế, chính trị, xã hội tác động tới tâm lý người gửi làm khách hàng ồ ạt rút tiền gây mất khả năng chi trả của ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản phát sinh khi những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút tiền ở ngân hàng ngay lập tức. Trong những trường hợp như vậy, thì ngân hàng phải đi vay bổ sung nguồn vốn thanh toán hoặc phải bán tài sản có của mình để đáp ứng nhu cầu rút tiền gửi của người gửi tiền. Trong cơ cấu tài sản có thì tiền mặt có độ thanh khoản cao nhất, do đó trước hết ngân hàng sử dựng tiền mặt để đáp ứng nhu cầu rút tiền mặt của khách hàng. Bởi vì tiền mặt tại quỹ không mang lại thu nhập lãi suất, cho nên trong những trường hợp bình thường ngân hàng chỉ duy trì một lượng tiền mặt ở mức tối ưu để đáp ứng nhu cầu rút tiền thường xuyên của người gửi tiền mà không ảnh hưởng đến độ thanh khoản của ngân hàng. Ngân hàng có thể làm được điều này, bởi vì qua kinh nghiệm công tác ngân quỹ hàng ngày ngân hàng có thể dự tính chính xác nhu cầu rút tiền gửi hàng ngày và trong trường hợp thiếu hụt tiền mặt tạm thời thì ngân hàng chỉ cần đi vay bổ sung một cách thông thường trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng.
Tuy nhiên trong một số trường hợp đặc biệt ngân hàng có thể đối mặt với rủi ro thanh khoản, ví dụ như trong tình huống dân chúng mất lòng tin vào ngân hàng, hoặc nhu cầu rút tiền có tính thời vụ mà ngân hàng không dự tính trước được đòi hỏi ngân hàng phải chi trả tức thời một khoản tiền lớn hơn mức bình thường. Trong bối cảnh đó thì hầu hết các ngân hàng đều đang phải đối phó với tình huống tương tự, thì chi phí huy động vốn bổ xung tăng lên đáng kể do lượng vốn cung ứng trên thị trường giảm. Hậu quả là ngân hàng phải bán một số tài sản có độ thanh khoản thấp để đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi. Điều này khiến cho ngân hàng gặp phải rủi ro thanh khoản nghiêm trọng và buộc phải bán thốc bán tháo tức thời ngay cả tài sản khó chuyển nhượng với giá rẻ mạt vì ngân hàng không có đủ thời gian để tìm người mua cũng như điều kiện thương lượng về giá cả. Do bán khẩn cấp bán tài sản với giá thấp khiến cho khả năng thanh khoản cuối cùng của ngân hàng bị đe dọa.

2.1.4 Rủi ro công nghệ và hoạt động
Rủi ro công nghệ phát sinh khi những khoản đầu tư cho phát triển công nghệ không tạo ra được khoản tiết kiệm trong chi phí như đã dự tính khi mở rộng quy mô hoạt động. Tính không hiệu quả trong đầu tư công nghệ của ngân hàng phát sinh trong trường hợp : ví dụ dung lượng đầu tư quá lớn dẫn tới công nghệ không sử dụng đến và hậu quả là tổ chức bộ máy trở lên quan liêu kém hiệu quả, hoặc là quy mô hoạt động không được mở rộng, mặc dù đã được đầu tư công nghệ mới. Rủi ro về công nghệ có thể gây nên hậu quả là khả năng cạnh tranh của ngân hàng giảm xuống đáng kể và nguyên nhân tiềm ẩn của sự phá sản ngân hàng trong tương lai. Ngược lại, lợi ích của việc đầu tư công nghệ là tạo cho ngân hàng một sức bật quan trọng trong cuộc cạnh tranh dữ dội trên thương trường và đồng thời cho phép ngân hàng phát triển các sản phẩm mới, tiến tiến, hiện đại giúp cho ngân hàng tồn tại và phát triển bền vững.
Rủi ro hoạt động có mối liên hệ chặt chẽ với rủi ro công nghệ và có thể phát sinh bất cứ lúc nào nếu hệ thống công nghệ bị trục trặc hoặc là hệ thống hỗ trợ bên trong ngừng hoạt động. Ví dụ hệ thống máy tính xử lý sai khoản đi vay của ngân hàng thành khoản cho vay, dẫn tới trạng thái cho vay của ngân hàng có thể ở mức quá cao, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng và một tình thế khẩn cấp đã đến, ngân hàng phải lập tức vay tiền từ ngân hàng TW để đảm bảo khả năng thanh toán.

2.1.5 Rủi ro nguồn vốn
Là loại rủi ro phát sinh do ngân hàng không duy trì đủ số vốn cần thiết theo yêu cầu pháp lý và yêu cầu mở rộng, phát triển kinh doanh
Rủi ro nguồn vốn thường xảy ra dưới hai hình thức :
- Rủi ro thừa vốn : NHTM thông qua hình thức “ Đi vay để cho vay ” nhằm tìm kiếm lợi nhuận, còn nguồn vốn tự có “ chỉ là cái đệm chống đỡ sự sụt giá của các tài sản có ”. Khi nguồn vốn của ngân hàng bị ứ đọng có nghĩa là ngân hàng không cho vay ra được hoặc không sử dụng hết, trong khi đó ngân hàng vẫn phải trả lãi cho người gửi tiền, chi các khoản chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lý. Nếu không khắc phục được tình trạng này, đến một chừng mực nào đó, mức độ thua lỗ lớn sẽ dẫn tới việc đóng cửa ngân hàng.
- Rủi ro do thiếu vốn: Do việc chuyển hoán các kỳ hạn sử dụng vốn và nguồn vốn không nhịp nhàng dẫn tới việc ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu cho vay và đầu tư hoặc nhu cầu thanh toán của khách hàng. Thực tế, ngân hàng thường chỉ có các nguồn vốn ngắn hạn trong khi sử dụng vốn lại là các kỳ hạn dài hơn. Nguồn vốn tự có ít nhưng lại cho vay với tổng số dư nợ quá số lần cho phép làm thiếu hụt khả năng thanh toán cuối cùng hoặc là do những nguyên nhân khác dẫn tới việc lượng tiền gửi tại ngân hàng rút ồ ạt trong khi đó số tiền đầu tư có kỳ hạn chưa đến thời điểm để thu hồi, gây tình trạng mất cân bằng.
Rủi ro này thể hiện ngân hàng thiếu vốn hoạt động do đó khả năng thanh toán của ngân hàng kém. Vì vậy ngân hàng lại càng khó lòng huy động được vốn do sự cạnh tranh giữa các thể chế tài chính trên thị trường vốn, từ đó phạm vi hoạt động của ngân hàng bị thu hẹp có nguy cơ bị vỡ nợ.

2.2 Rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM
2.2.1 Hoạt động tín dụng
Mặc dù hoạt động tín dụng ra đời từ rất lâu nhưng cho đến nay người ta vẫn chưa thống nhất khi định nghĩa đầy đủ về tín dụng. Khái niệm “ Tín Dụng ” có nguồn gốc từ thuật ngữ La tinh “ CREDITTUM” có nghĩa là sự tin tưởng tín nhiệm. Hiểu theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam, Tín Dụng ở đây biểu hiện mối quan hệ vay mượn và hoàn trả.
Phạm trù tín dụng là một phạm trù kinh tế, nó ra đời, tồn tại và phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Có thể nói tín dụng ra đời và phát triển song song với nền sản xuất và trao đổi hàng hóa tiền tệ. Tín dụng được phát sinh khi một bên ( chủ nợ ) giao cho bên kia ( con nợ ) sử dụng một số tiền nhất định đến hạn trả nợ người vay phải trả cho người cho vay số tiền đã vay kèm theo một khoản tiền lãi mà hai bên đã thỏa thuận trước. Với đặc điểm cơ bản của hoạt động tín dụng là :
- Người sở hữu có một số vốn ( biểu hiện bằng hàng hóa hay tiền ) chuyển giao cho người khác sử dụng trong một thời gian nhất định.
- Hết thời gian sử dụng, người sử dụng vốn phải hoàn trả vốn cho người chủ sở hữu với một giá trị lớn hơn, phần chênh lệch đó gọi là lãi
- Tín dụng ra đời và phát triển là một yếu tố khách quan của nền sản xuất hàng hóa. Tín dụng có vai trò quan trọng không chỉ trong hoạt động kinh doanh ngân hàng mà còn đối với cả nền kinh tế với hai chức năng cơ bản là phân phối lại tài nguyên và thúc đẩy lưu thông hàng hóa phát triển.

2.2.2 Khái niệm về rủi ro Tín dụng
Để có thể đưa ra một định nghĩa chuẩn về rủi ro tín dụng thì thật là rất khó. Nhưng hầu hết đều cho rằng : “ Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng kì hạn ”. Điều này bao gồm cả nguy cơ khó khăn tiềm ẩn và các hậu quả thực tế của các nguy cơ ấy một khi đã xảy ra có tác dụng đến hoạt động ngân hàng.
Có quan điểm cho rằng : “ Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi cấp tín dụng cho khách hàng. Có nghĩa là khả năng khách hàng không trả nợ được theo hợp đồng gắn liền với mỗi khoản tín dụng ngân hàng cấp cho họ. Hoặc nói cụ thể hơn, luồng thu nhập dự tính mang lại từ các tài sản có sinh lời của ngân hàng có thể không được hoàn trả đầy đủ xét cả về mặt số lượng và thời gian” .
Dù hiểu theo cách nào đi chăng nữa thì rủi ro Tín dụng cũng có điểm chung đó là việc ( hiện tượng ) khách hàng không thực hiện đầy đủ những cam kết đã ký với ngân hàng về cả mặt số lượng và thời gian.

2.2.3 Những dấu hiệu rủi ro tín dụng
* Các dấu hiệu :
Các khoản cho vay không bao giờ bị giảm giá trị bất thình lình mà không có những tín hiệu báo trước. Đối với hầu hết các trường hợp, một khoản cho vay đang xấu dần đi đều có những dấu hiệu báo trước là rắc rối đang sắp xảy ra. Nếu cán bộ tín dụng muốn phát hiện ra các khoản cho vay có vấn đề thì họ phải tiếp tục nghiên cứu cẩn thận các khoản vay thông qua việc sử dụng vốn đầu tư để xác định nhũng yếu tố báo hiệu sự giảm giá trị của các khoản cho vay.
Dưới đây liệt kê ra một vài dấu hiệu rủi ro có thể xảy ra đối với khoản cho vay :
1- Khách hàng trì hoãn nộp các báo cáo tài chính.
Báo cáo tài chính là tài liệu quan trọng dùng để thẩm định cho vay và là cơ sở trực tiếp đánh giá việc vay vốn, sử dụng vốn của ngân hàng. Vì vậy các báo cáo tài chính như : Bảng cân đối kế toán, báo cáo lỗ lãi, báo cáo chu chuyển tiền tệ…Có mối quan hệ mật thiết với khoản vay. Việc trì hoãn mọi báo cáo tài chính có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, ngân hàng cần phải tiến hành kiểm tra phân tích và kết luận cụ thể.
2- Khách hàng chậm trễ trong việc bố trí cho cán bộ ngân hàng kiểm tra cơ sở SXKD.
Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng là quan hệ bạn hàng bình đẳng trước pháp luật. Song mối quan hệ này phải được thực hiện trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau. Một khi có sự chậm trễ trong việc giàn xếp trong cuộc viếng thăm doanh nghiệp, sẽ là dấu hiệu cho biết tình hình SXKD của khách hàng có vấn đề.
3- Chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp giảm sút, hàng tồn kho tăng lên quá mức, doanh số bán hàng giảm sút cùng với các khoản công nợ gia tăng, điều đó làm cho khả năng thanh toán giảm sút
4- Khó khăn khi giải thích mục đích vay.
5- Hoàn trả nợ vay ngân hàng chậm hoặc quá thời hạn.
Các trường hợp hoàn trả nợ vay ngân hàng chậm quá thời hạn thỏa thuận đều coi như các dấu hiệu cơ bản của rủi ro.
6- Sự thay đổi nhà quản lý, hoặc sự thay đổi tổ chức hoạt động
Đều coi như dấu hiệu cần xem xét.
7- Các thảm họa thiên tai như bão lụt, hỏa hoạn.
Đều có thể là những nguyên nhân ảnh hưởng lớn đến hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Các biến động về chính trị, xã hội sẽ dẫn đến môi trường xã hội, môi trường kinh tế bất ổn định, sẽ tạo điều kiện nảy sinh rủi ro
8- Khách hàng không kể ra được chính xác và đầy đủ thông tin tài chính, đặc biệt là những thông tin về những món nợ ghi trong danh mục.
9- Không cung cấp những thông tin mà ngân hàng yêu cầu.
10- Doanh nghiệp giao dịch buôn bán với nhiều chủ nợ.
11- Hủy bỏ bảo hiểm
12- Những khoản chi trội thường xuyên trong tài khoản kinh doanh ( phát hành séc quá số dư )

2.2.4 Các loại rủi ro tín dụng
* Rủi ro tín dụng ngắn hạn.
Tín dụng ngắn hạn nhằm bổ xung vốn lưu động còn thiếu phát sinh trong quá trình kinh doanh của các đơn vị sản xuất trong nền kinh tế. Như vậy, tín dụng ngắn hạn chỉ cung cấp một phần chứ không phải toàn bộ số vốn lưu động trong một thời gian ngắn. Rủi ro tín dụng ngắn hạn thường xảy ra khi cán bộ tín dụng phạm phải sai lầm trong quá trình tính toán hiệu quả đầu tư và thiếu thận trọng trong công tác thẩm định. Để khắc phục được loại rủi ro này, chúng ta phải xem xét kỹ lưỡng để đưa ra những kết luận đúng đắn về tình hình tài chính của doanh nghiệp, nâng cao chất lượng công tác thẩm định.
* Rủi ro tín dụng trung, dài hạn.
- Tín dụng trung và dài hạn là khoản vay với mục đích là đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản cố định. Rủi ro tín dụng trung và dài hạn thường xảy ra khi có những diễn biến bất thường trong quá trình xây dựng và tiến hành sản xuất kinh doanh do thời gian thu hồi vốn quá dài. Ngoài các thông số kinh tế, kỹ thuật các nhà đầu tư cần phải tính đến các biến động về chính trị, chính sách của Nhà nước ( các yếu tố phi kinh tế ) , nếu không rất dễ dẫn tới rủi ro gây thiệt hại lớn cho hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Để tránh được rủi ro này, các nhà đầu tư cần phải tính toán, cân nhắc một cách chính xác và tỉ mỉ hiệu quả của dự án đầu tư trong quá trình thực hiện dự án, trong đó có có các yếu tố về kinh tế kĩ thuật như: Nguyên nhiên liệu đầu vào, khả năng tiêu thụ đầu ra, các sản phẩm cùng loại và sản phẩm thay thế hiện đang có trên thị trường…
* Rủi ro tín dụng chiết khấu
Tín dụng chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, qua đó khách hàng chuyển quyền sở hữu thương phiếu chưa đến hạn thanh toán cho ngân hàng nhận về một khoản tiền bằng mệnh giá thương phiếu – lãi suất chiết khấu và phí hoa hồng. Hình thức chiết khấu các thương phiếu được lập trên cơ sở hợp đồng kinh tế được pháp luật thừa nhận.
Thương phiếu giả là loại hình gây nhiều rủi ro nhất trong nghiệp vụ chứng khoán. Thương phiếu được lập khi không có một quan hệ thương mại tương ứng nhằm mục đích đánh lừa ngân hàng. Thương phiếu giả tạo có các loại sau:
- Thương phiếu trống : người bị ký phát hành không có hoặc không biết.
- Thương phiếu được lập có sự đồng lõa giữa người ký phát và người bị ký phát.
- Thương phiếu trống hỗ tương : là thương phiếu được lập trên cơ sở thỏa thuận giữa hai bên mà thực chất là sự giúp đỡ ngân quỹ cho người phát lệnh.
Để hạn chế rủi ro trong hoạt động chiết khấu cần
- Xem xét kỹ tính chất pháp lý của thương phiếu.
- Xem xét tính thương mại của thương phiếu.
- Đánh giá khả năng trả nợ của người ký phát
* Rủi ro tín dụng thuê mua
Tín dụng thuê mua là hình thức cho thuê tài sản chuyên dùng kèm theo lời hứa sẽ bán lại về sau, chậm nhất là sau khi kết thúc hợp đồng cho người thuê với giá thỏa thuận. Các thành viên tham gia tín dụng thuê mua gồm :
+ Người đi thuê ( Các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế )
+ Người cho thuê ( là ngân hàng )
Người đi thuê sẽ tìm và lựa chọn tài sản cần thuê ở người cho thuê, người cho thuê sẽ gửi đơn đặt hàng tới nhà cung cấp thiết bị và chịu trách nhiệm thanh toán sau đó giao tài sản cho người đi thuê.
Tín dụng thuê mua có độ an toàn cao vì trong quá trình thực hiện hợp đồng thuê mua, tài sản vẫn thuộc quyền sở hữu của ngân hàng. Tài sản cho thuê tồn tại dưới hình thái vật chất tương đối ổn định và dễ quản lý. Tuy nhiên, rủi ro vẫn có thể xảy ra khi người đi thuê bị thiên tai, hỏa hoạn gây ra thiệt hại cho tài sản thuê mua hay sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật khiến nó trở lên lỗi thời không phù hợp với thời đại dẫn tới khả năng sử dụng thiết bị giảm đi làm ảnh hưởng tới việc thu nợ.
Trên đây là các loại rủi ro tín dụng cơ bản nhất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên khả năng, mức độ xảy ra rủi ro ở mỗi loại là khác nhau tùy theo mức độ hoạt động của mỗi ngân hàng mà chúng ta phải đưa ra những biện pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro hợp lý nhất.

2.3 Các nhân tố ảnh hưởng,chỉ tiêu
2.3.1 Nguyên nhân khách quan

A Nguyên nhân bất khả kháng
Các thiệt hại đôi khi nảy sinh từ nguyên nhân thiên tai bão lụt, hạn hán, hỏa hoạn và động đất.
Những thay đổi về nhu cầu của người tiêu dùng hoặc về kỹ thuật một ngành công nghiệp có thể làm sụp đổ cả cơ đồ của hãng kinh doanh và đặt người đi vay từng làm ăn có lãi vào thế thua lỗ
Một cuộc đình công kéo dài, việc giảm giá cạnh tranh hoặc việc mất người quản lý giỏi có thể làm thiệt hại nghiêm trọng đến khả năng chi trả tiền vay của người đi vay.
B Môi trường kinh tế
Sự hưng thịnh hay suy thoái của chu kỳ kinh doanh cũng ảnh hưởng tới lợi nhuận của người vay do vậy tạo nên niềm vui hay gây lên nỗi lo lắng cho người đi vay tiền. Trong giai đoạn kinh tế hưng thịnh, người vay hoạt động tốt do lợi nhuận thu được tương đối cao, nhưng giai đoạn khủng hoảng mà việc ảnh hưởng lên các cá nhân và các doanh nghiệp sản xuất lưu thông cũng như lên khả năng thanh toán các khoản nợ của họ ở mức khác nhau: Mức độ khủng hoảng càng cao, sức mua của người tiêu dùng càng giảm sút gây ra hiện tượng hàng hóa bán ra và lợi nhuận của doanh nghiệp lưu thông cũng giảm theo, đồng thời lượng tồn kho của các doanh nghiệp sản xuất vì thế mà tăng lên một cách miễn cưỡng gây ảnh hưởng tới lợi nhuận của ho.
Lạm phát cũng ảnh hưởng bất lợi đến công việc kinh doanh: Giá cả nguyên vật liệu, năng lượng, lao động… tăng làm cho các cá nhân và doanh nghiệp khó khăn về tài chính dẫn tới nhu cầu về tài chính tăng. Và không giống như lợi tức, nợ không giảm trong các giai đoạn suy thoái. Nó cố định về số lượng, nợ không thay đổi tương ứng với sức mua của đồng tiền vì vậy đã trở nên gánh nặng đối với người đi vay, kết quả là khó có khả năng trả nợ được.
Thiểu phát cũng có ảnh hưởng bất lợi đến công việc kinh doanh : chỉ số tăng giá thấp hơn so với lãi suất cho vay làm cho các doanh nghiệp cầm chừng trong vay vốn phát triển sản xuất điều đó dẫn tới tốc độ tăng trưởng tín dụng chậm, hoạt động ngân hàng chững lại, thâm hụt cán cân vãng lai, giá trị sản xuất công nghiệp, thu ngân sách, đầu tư xây dựng cơ bản giảm, nền kinh tế trì trệ, các doanh nghiệp không có cơ hội để hoạt động sản xuất kinh doanh thu nhiều lợi nhuận, trong khi đó vẫn phải duy trì các chi phí cố định và cuối cùng là không trả nợ được.
C Môi trường pháp lý
Trong kinh doanh các yếu tố pháp lý có tác động đến hoạt động kinh doanh gồm hệ thống luật, hệ thống các biện pháp bảo đảm cho luật pháp được thực thi và sự chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh và các ngành có liên quan.
Hoạt động kinh doanh luôn chịu sự tác động của 3 yếu tố tạo thành môi trường pháp lý nói trên. Các yếu tố này có quan hệ đan xen và tác động đến hoạt động kinh doanh của các tổng hợp chứ không riêng rẽ, hay nói một cách khác chúng mang tính đồng bộ cao. Ví dụ : nếu thiếu yếu tố chấp hành pháp luật thì hệ thống pháp luật và các văn bản hướng dẫn trở nên một hành lang pháp lý vắng vẻ thuần túy không có tác dụng.
Với điều kiện kinh tế xã hội nhất định có một hệ thống pháp luật tương ứng. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi các yếu tố pháp lý phải rất rõ ràng và chặt chẽ, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh, đặc biệt là hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, đi theo một quỹ đạo nhất định nhằm hạn chế rủi ro.
Cùng với môi trường kinh tế, môi trường pháp lý tạo nên môi trường cho vay của các ngân hàng thương mại. Môi trường cho vay có thể ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực, có thể hạn chế hay làm tăng thêm rủi ro đối với hoạt động kinh doanh tín dụng NHTM
Qua phân tích trên cho ta thấy ngân hàng – trong sự phát triển nội tại của mình, trong các mối quan hệ với ngân hàng khác, trong quan hệ với khách hàng cho dù đóng vai trò là chủ nợ hay người nhận nợ thì đều bị chi phối, điều tiết của cơ chế thị trường.

2.3.2 Nguyên nhân chủ quan
A Nguyên nhân từ phía ngân hàng
- Chính sách tín dụng không hợp lý, thể lệ cho vay có những sơ hở để khách hàng lợi dụng chiếm đoạt vốn của ngân hàng.
- Cán bộ ngân hàng không chấp hành đúng quy định cho vay như : không thẩm định đầy đủ chính xác về khách hàng trước khi cho vay, cho vay không có dự án khả thi, cho vay khống, thiếu tài sản đảm bảo, cho vay vượt tỷ lệ an toàn, quyết định cho vay thiếu thông tin xác thực.
- Quá chú trọng về lợi tức, đặt mong ước về lợi tức cao hơn các khoản cho vay lành mạnh.
Cán bộ tín dụng vi phạm đạo đức kinh doanh, như thông đồng với khách hàng lập hồ sơ giả để vay vốn ….
B Nguyên nhân từ phía khách hàng
- Người vay vốn gặp phải những bất trắc trong kinh doanh như: sự biến động về thị trường cung cấp, thị trường tiêu thụ.
- Người vay sử dụng vốn sai mục đích và không có hiệu quả.
- Người vay vốn lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính do yếu tố khách quan hoặc chủ quan, dẫn đến thiếu hoặc không có khả năng thanh toán.
- Người vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ : chết, mất tích, hoặc cố ý chây ì không trả nợ…
- Các tài sản đảm bảo tín dụng bị mất, giảm giá, khó phát mại hoặc không tương đương với mức vốn thu hồi.
C Nguyên nhân khác
Ngoài các nguyên nhân như trên đã nêu đưa đến rủi ro cho hoạt động của ngân hàng còn có những nguyên nhân khác như : chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ, các biến động về kinh tế chính trị trên thế giới và những nguyên nhân do trộm cắp tham nhũng.
Như chúng ta đã biết chính phủ dùng các chính sách kinh tế vĩ mô: Chính sách tài khóa tiền tệ, thu nhập, kinh tế đối ngoại….Cùng các công cụ của hệ thống chính sách này tác động vào GDP, việc làm, lạm phát, tỷ giá hối đoái…. Nhằm giảm bớt những dao động của chu kỳ kinh doanh trong mỗi thời kỳ. Và bất kỳ sự thay đổi nào trong chính sách kinh tế vĩ mô đều dẫn tới sự thay đổi của lãi suất, tỷ giá hối đoái, điều kiện mở rộng hay thu hẹp tín dụng… Đây là những nhân tố gây lên tính bấp bệnh trong kinh doanh tiền tệ, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của NHTM. Các chính sách này giải quyết trên nguyên tắc bảo đảm lợi ích cho toàn bộ nền kinh tế, song có lúc không tránh khỏi là đưa các NHTM vào tình trạng bị động. Và rủi ro, tổn thất đối với các NHTM là điều không thể tránh khỏi.
Trong điều kiện kinh tế mở cửa ( Việt Nam gia nhập WTO ) dưới nhiều hình thức và phương diện, những biến động về kinh tế chính trị trên thế giới có ảnh hưởng tới các quan hệ kinh tế đối ngoại của một nước mà biểu hiện là cán cân thanh toán, tỷ giá hối đoái…. Đây là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của NHTM, gây nên rủi ro, đe dọa sự an toàn trong hoạt động của các NHTM nợ thiếu sòng phẳng.

Phần III : Nhận xét, đánh giá và đưa ra một số biện pháp nhằm hoàn thiện đề tài
3.1 Nhận xét chung
Sự cần thiết phải phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong ngân hàng thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh không cho phép các ngân hàng sảy ra rủi ro vì rủi ro là tổn thất, là mất mát nó làm cho tính thời hạn, tính hoàn trả của quan hệ tín dụng không được đảm bảo, hoạt động tín dụng không còn là hoạt động kinh doanh nữa. Loại bỏ rủi ro là điều không thể có, nhưng phòng ngừa và hạn chế rủi ro thì ngân hàng có thể làm được. Việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro sẽ giúp cho các NHTM bảo toàn được vốn, tăng nguồn vốn, mở rộng được quy mô kinh doanh và tăng thu nhập. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng có hiệu quả sẽ nâng cao được uy tín của ngân hàng đối với khách hàng nhờ đó ngân hàng có thể đa dạng hóa được các hình thức kinh doanh và đảm bảo phát huy vai trò đối với sự nghiệp phát triển kinh tế.
Bởi vậy phòng ngừa và hạn chế rủi ro là một trong những đòi hỏi bức xúc cần được quan tâm giải quyết trong kinh doanh tín dụng đối với NHTM hiện nay và mai sau.

3.2 Các biện pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro
Với sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thị trường tiền tệ ngày càng sôi động và đan xen với thị trường hàng hóa. Một trong những nhiệm vụ đặt ra đối với quản lý ngân hàng là phải có một cơ cấu quản lý rủi ro hữu hiệu đề ra biện pháp theo dõi và các quy trình nghiệp vụ cụ thể để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro. Trong nền kinh tế thị trường công tác phòng ngừa rủi ro đối với hoạt động tín dụng ngân hàng là điều không thể thiếu được, kinh doanh tín dụng chứa đựng những rủi ro lớn. Có thể nói rủi ro luôn diễn biến ở mọi lúc mọi nơi, mọi khía cạnh mà nguyên nhân cả về phía khách quan và chủ quan. Như vậy nghiên cứu về rủi ro trong kinh doanh tín dụng là bước khởi đầu trong công tác ngăn ngừa và hạn chế rủi ro. Từ đó đề ra các biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh của NHTM.
3.3.1 Phân tích đánh giá khách hàng
Trước khi giải ngân, ngân hàng cần hiểu rõ về khách hàng vì khách hàng là người chịu trách nhiệm sử dụng và hoàn trả vay vốn là người quyết định cuối cùng về hiệu quả của khoản tiền vay, vì vậy đánh giá khách hàng là một biện pháp vô cùng quan trọng nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng.
Nếu ngân hàng không tiến hành đánh giá khách hàng hoặc đánh giá không chính xác sẽ dẫn tới hiện tượng cho khách hàng không đủ điều kiện sử dụng và trả nợ vốn vay, gây nợ quá hạn. Qua đánh giá khách hàng, ngân hàng thấy được khả năng tài chính hiện tại tiềm năng trong tương lai, khả năng hoàn trả vốn vay của khách hàng, có thể nói việc phân tích , nghiên cứu có một ý nghĩa hết sức quan trọng vì nó tạo ra cơ sở ban đầu cho ngân hàng đưa ra những căn cứ, quyết định trong kinh doanh. Khi thu thập thông tin phục vụ cho công tác đánh giá phân tích về khách hàng thì quan tâm đến nội dung sau:
3.3.1.1 Tư cách pháp nhân của đơn vị vay vốn( đơn vị : tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân )
Theo luật pháp quy định một đơn vị có tư cách pháp nhân mới có quyền ký kết các hợp đồng kinh tế. Đối với hợp đồng tín dụng cũng vậy, ngân hàng cũng chỉ quan hệ với các đơn vị có đủ tư cách pháp nhân.
Một đơn vị có đủ tư cách pháp nhân phải được cấp có thẩm quyền cấp đầy đủ các loại giấy tờ sau:
- Quyết định thành lập
- Quyết định tổ chức.
- Giấy phép kinh doanh.
Quyết định thành lập của đơn vị cho phép ngân hàng khẳng định được tư cách của đơn vị và hoạt động kinh doanh phù hợp với luật định. Đây là cơ sở đầu tiên để ngân hàng lựa chọn khách hàng vay vốn. Đơn vị hoạt động theo đúng luật định thì vốn ngân hàng tỏ ra sẽ an toàn hơn.
Quyết định tổ chức đơn vị cho ta biết người lãnh đạo của đơn vị . Một doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ thì vai trò của người lãnh đạo cũng rất quan trọng. Có thể nói người lãnh đạo đóng vai trò to lớn tới sự thành bại của đơn vị. Chính vì vậy, khi đánh giá khách hàng ngân hàng cần quan tâm xem xét người lãnh đạo với trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức như vậy có đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ kinh doanh của mình đảm bảo hoàn trả khoản vay đầy đủ, đúng hạn.
Giấy phép kinh doanh của đơn vị chứng minh đơn vị đang hoạt động theo đúng lĩnh vực mà pháp luật cho phép.

3.3.1.2 Tính cách và uy tín của khách hàng :
Uy tín của khách hàng bao gồm những uy tín giữa họ với ngân hàng trong các giao dịch trước đó, uy tín với bạn hàng, uy tín với các cơ quan chức năng của nhà nước… Đối với khách hàng là một cá nhân, cách sống của anh ta, mối quan hệ, thái độ đối với những người xung quanh: gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, việc thực hiện các nghĩa vụ…

3.3.1.3 Năng lực tài chính.
Khả năng tài chính của khách hàng là một trong những yếu tố quan trọng quyết định khả năng trả nợ cho ngân hàng. Đối với khách hàng là cá nhân, khả năng tài chính thường được đánh giá qua tình trạng thu nhập của họ ( mức và sự ổn định thu nhập ), qua các giá trị tài sản thuộc sở hữu riêng của khách hàng. Đối với khách hàng là doanh nghiệp, khả năng về tài chính về cơ bản được đánh giá qua việc phân tích các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Một trong các phương pháp đó là phân tích các chỉ tiêu tài chính. Phân tích tỉ lệ tài chính là một trong những phương pháp có thể được sử dụng hỗ trợ cho công tác phân tích và tìm hiểu các báo cáo tài chính của khách hàng trong quá trình đánh giá tín dụng. Tỷ lệ là một chỉ số toán học so sánh một yếu tố này với một yếu tố khác. Tỷ lệ được lập bởi việc tập hợp hai số liệu hoặc nhóm số liệu, tạo ra mối quan hệ nào đó. Sự tăng hay giảm của các con số tỷ lệ được tạo ra từ các số liệu mà ta thấy từ bảng tổng kết tài sản, từ các tài liệu kế toán khác, trong một vài năm ta sẽ thấy được các xu hướng. Xu hướng nghịch không thuận lợi sẽ giúp cho việc tìm hiểu, kiểm tra phải được thực hiện theo phương hướng nào để rồi khuyến nghị khách hàng tiến hành các biện pháp điều chỉnh đảm bảo cho việc kinh doanh liên tục có lãi và đảm bảo khả năng trả nợ của khách hàng, việc phân tích xu hướng của tỷ lệ tài chính chủ yếu sẽ giúp ngân hàng nắm bắt sâu sắc tình hình nội tại của khách hàng.

3.3.1.4 Phân tích phương án sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng.
Trên cơ sơ báo cáo tài chính của đơn vị lập tại thời điểm gần nhất, ngân hàng phải tiến hành phân tích tình hình tài chính của đơn vị để từ đó có thể đánh giá ảnh hưởng của nó đến mức độ rủi ro của khoản vay sau này. Phân tích tài chính giúp ngân hàng thấy được đơn vị thừa vốn hay thiếu vốn, vốn của đơn vị được sử dụng như thế nào, khả năng tiềm ẩn nằm ở đâu, từ đó có những quyết định đúng đắn với khoản tín dụng cho vay.
Phân tích tình hình của đơn vị Ngân hàng nên sử dụng các chỉ tiêu sau đây :
- Tỷ số giữa vốn tự có / vốn sử dụng : hạn chế cho vay những khách hàng có tỷ trọng trong vốn tự có thấp.
- Chênh lệch các khoản phải trả phải thu: Cho biết tỷ lệ vốn đi chiếm dụng và vốn bị chiếm dụng vốn của đơn vị, xem xét phân tích chỉ tiêu này ngân hàng có thể đánh gía ảnh hưởng của nó đến khả năng hoàn trả vay đúng hạn của khách hàng.
- Khả năng thanh toán của đơn vị :
Có ảnh hưởng rất lớn tới mức rủi ro trong một khoản vay.
Hay nói cách khác, trước khi quyết định cho vay vốn, bao giờ ngân hàng cũng nghiên cứu kỹ phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để tự trả lời phương án kinh doanh đó có thực tế không? Có những yếu tố ngoại nào tác động đến quá trình thực hiện nó không? Hiệu quả thực tiễn của phương án như thế nào….

3.3.1.5 Bảo đảm tiền vay .
Việc thực hiện bảo đảm tín dụng nhằm thiết lập các cơ sở kinh tế và pháp lý nhằm bảo vệ quyền lợi cho chủ nợ, giúp ngân hàng có nguồn thu nợ thứ hai khi người vay không thực hiện trả nợ theo quy định. Tuy nhiên để đảm bảo tín dụng thực sự trở thành một nguồn thu dự phòng thì đòi hỏi ngân hàng phải đánh giá kĩ lưỡng về tài sản trước khi chấp nhận nó.

3.3.2 Thực hiện phân tán rủi ro
Ngân hàng thương mại là người đi vay để cho vay cho nên việc phân tán rủi ro là một trong những giải pháp hữu hiệu để hạn chế và phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh tín dụng của NHTM đó là :
Không tập trung vốn vay cho một khách hàng trong một số ngành có liên quan vượt qua lượng vốn quy định (Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng)
Tuy nhiên phải nhìn rằng nếu chỉ cho vay trong lĩnh vực ngành kinh tế có liên quan mật thiết với nhau thì khi rủi ro với ngành kinh tế này cũng có thể ảnh hưởng xấu đến ngành kinh tế kia và do đó tăng rủi ro tín dung.
Vì vậy tín dụng cấp cho nhiều khách hàng, nhiều ngành, nhiều lĩnh vự thì có thể hạn chế được rủi ro có thể xảy ra chính từ yếu tố này. Ngân hàng thực hiện kinh doanh đa năng là biện pháp phân tán rủi ro có hiệu quả.

3.3.3 Kiểm tra trong khi cho vay.
Trong quá trình cho vay, ngân hàng phải kiểm tra và phúc tra những nội dung sau :
- Kiểm tra mục đích, đối tượng vay vốn, kiểm tra mức vay và thời hạn xin vay dựa trên cơ sở phúc tra về tính hiện thực và hiệu quả của phương án xin vay.
- Kiểm tra tính hợp pháp, hợp lý của hồ sơ vay vốn của lần vay đó, gồm : hợp đồng mua bán, giá cả, phương thức và chứng từ thanh toán, hồ sơ và giá trị tài sản thé chấp cầm cố hay bảo lãnh….

3.3.4 Kiểm tra sau khi cho vay.
Công việc kiểm tra này được tiến hành từ khi ngân hàng phát tiền vay cho đến khi thu hết nợ. Nội dung kiểm tra chủ yếu là :
- Sau khi cho vay ra, trong một thời gian nhất định ( từ 5 đến 10 ngày ) cán bộ tín dụng kiểm tra việc sử dụng vốn vay trực tiếp tại trụ sở kinh doanh của khách hàng theo các nội dung đã thỏa thuận giữa khách hàng - ngân hàng đã được cam kết và ghi vào đơn xin vay và hợp đồng tín dụng vay tiền như mục đích sử dụng tiền vay, kết quả thực hiện kế hoạch hoặc phương án sản xuất kinh doanh cũng như kế hoạch vay vốn – trả nợ ngân hàng. Ngân hàng theo dõi các hợp đồng tín dụng còn dư nợ, đôn đốc khách hàng trả nợ đúng hạn.
- Theo định kỳ cán bộ tín dụng phải kiểm tra và phân tích nợ luân chuyển bình thường, nợ quá hạn và khó đòi để đề nghị các biện pháp xử lý thích hợp nhằm luôn đảm bảo sự lành mạnh hóa trong quan hệ tín dụng.
- Ngân hàng nên đặc biệt chú ý kiểm tra các bảo đảm tiền vay trong đó :
+ Đối với bảo đảm bằng tài sản, ngân hàng kiểm tra hiện trạng tài sản ( với những tài sản do người vay trực tiếp sử dụng, quản lý ) và đánh giá lại tài sản đảm bảo theo giá hiện hành, nếu thấy cần thiết yêu cầu khách hàng thực hiện bổ xung.
+ Đối với bảo đảm bằng bảo lãnh ngân hàng cần thu thập các thông tin có liên quan đến người bảo lãnh, đặc biệt là uy tín của họ, mặt khác kiểm tra tài sản đảm bảo của người bảo lãnh ( bảo lãnh bằng tài sản )
+ Đối với tài sản hình thành từ vay vốn ngân hàng : căn cứ vào số liệu kế toán của khách hàng và các tài liệu liên quan như : bảng kê vật tư hàng hóa mà ngân hàng kiểm tra đảm bảo nợ hàng tháng, hàng quý hoặc đột xuất.
Giá trị vật tư hàng hóa nhận làm đảm bảo tiền vay là những giá trị của các đối tượng vay vốn, sử dụng và luân chuyển được bình thường, thuộc quyền sở hữu của khách hàng hiện đang có trong kho, trên dây truyền sản xuất, vật tư hàng hóa đã trả tiền đang trên đường về, vật tư đã xuất ra bên ngoài thuê gia công chế biến, vật tư đã xuất kho cho bên mua nhung chưa thu được tiền đang còn trong thời hạn thanh toán trừ đi vật tư hàng hóa nhập kho nhưng chưa trả tiền, tiền nhận ứng trước của người mua, vốn tự có coi như vốn tự có và tự huy động , khấu hao tài sản cố định.
Giá trị vật tư hàng hóa, chi phí nhận làm đảm bảo nợ vay này được đối chiếu với tổng dư nợ ngân hàng. Nếu xảy ra tình trạng vật tư làm đảm bảo nhỏ hơn số dư nợ ngân hàng ( đây là trường hợp thiếu đảm bảo ) thì ngân hàng sẽ xử lý hoặc thu hồi nợ thiếu đảm bảo từ tài khoản tiền gửi hoặc chuyển sang nợ quá hạn.
Nếu có tình hình giá trị vật tư làm đảm bảo lớn hơn số dư nợ ( đây là trường hợp thừa đảm bảo ) ngân hàng có thể xét cho vay thêm vốn theo yêu cầu của khách hàng nếu ngân hàng có nguồn vốn nhưng phải trong phạm vi đã thỏa thuận.

3.3.5 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý và nhân viên làm công tác tín dụng.
Hạn chế phát sinh nợ quá hạn mới là biện pháp phòng ngừa từ xa. Muốn thực hiện điều này phải nâng cao chất lượng thẩm định dự án, phương án cho vay. Muốn vậy cần phải có một đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi thể hiện : được đào tạo có hệ thống, am hiểu và có kiến thức phong phú về thị trường đặc biệt trong lĩnh vực tham gia đầu tư vốn, nắm vững những văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động tín dụng. Ngoài ra còn phải có đủ tư chất đạo đức .

Kết luận:
Hoạt động tín dụng của NHTM trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay còn gặp rất nhiều khó khăn và rủi ro.Tình trạng này là do sự tổng hợp của rất nhiều nguyên nhân khác nhau.
Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản của ngân hàng, rủi ro tín dụng là vấn đề tiềm ẩn.Việc tìm ra phương pháp thực hiện các nghĩa vụ đó có thể hoàn toàn loại trừ được rủi ro và có thể đảm bảo trước một kết quả tài chính nhất định là một việc không thể thực hiện.Chúng ta chỉ có thể đưa ra các “biện pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro”1 cách thấp nhất mà thôi.
Bằng sự tìm hiểu nghiên cứu lý luận qua các tài liệu và sự giúp đỡ của của cô Đặng Thị Hải lý em đã hoàn thành đề án môn học này với nội dung “Các biện pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng ở các ngân hàng”. Em hi vọng những biện pháp nêu ra có thể góp phần hoàn thiện hoạt động tài chính ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
Tuy nhiên đây là vấn đề rộng lớn, phức tạp mà điều kiện khả năng nghiên cứu có hạn, vì vậy những nội dung trong bài viết này không tránh khỏi những thiếu xót. Nên bản thân Em rất mong muốn nhận được sự đóng góp quý báu của các thầy cô giáo và của bạn bè quan tâm đến lĩnh vực này.
Em xin chân thành cảm ơn !












Tài liệu tham khảo
1- Giáo trình NHTM – chủ biên TS. Tô Ngọc Hưng nhà xuất bản thống kê – 2009.

2- Giáo trình Tài chính doanh nghiệp- PGS.TS Nguyễn Đình Kiệm, TS. Bạch Đức Hiển, nhà xuất bản tài chính – 2008.

3- Giáo trình Đại Cương Thị Trường Tài Chính –TS. Lê Hoàng Nga, ThS. Vũ Ngọc Khuê, nhà xuất bản thống kê – 2000

MỤC LỤC

Phần mở đầu. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu. 1
Phần I : Những vấn đề lý luận về rủi ro Tín Dụng. 3
1.1 : Ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại 3
1.1.1 Khái niệm,chức năng, vai trò của ngân hàng thương mại 3
1.1.2 Tín dụng và vai trò của Tín dụng ngân hàng trong hoạt động kinh doanh của NHTM 8
1.1.2.1 khái niệm, phân loại tín dụng : 8
1.1.2.2 Vai trò của Tín dụng Ngân Hàng. 11
1.2 Rủi ro tín dụng và sự cần thiết hạn chế rủi ro tin dụng ở các ngân hàng thương mại 13
1.2.1 Tổng quan về rủi ro tín dụng của NHTM.. 13
1.2.1.1 Khái niệm rủi ro. 13
1.2.2 Hậu quả, nguyên nhân rủi ro tín dụng và sự cần thiết ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng. 13
1.2.2.1 Hậu quả của rủi ro tín dụng. 13
1.2.2.2 Sự cần thiết phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng: 15
1.3 Kết luận. 15
Phần II : Các loại Rủi Ro Tín Dụng. 16
2.1 Các loại rủi ro chủ yếu mà NHTM thường gặp. 16
2.1.1 Rủi ro lãi suất 16
2.1.2 Rủi ro ngoại hối 17
2.1.3 Rủi ro thanh khoản. 19
2.1.4 Rủi ro công nghệ và hoạt động. 20
2.1.5 Rủi ro nguồn vốn. 20
2.2 Rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM.. 21
2.2.1 Hoạt động tín dụng. 21
2.2.2 Khái niệm về rủi ro Tín dụng. 22
2.2.3 Những dấu hiệu rủi ro tín dụng. 23
2.2.4 Các loại rủi ro tín dụng. 24
2.3 Các nhân tố ảnh hưởng,chỉ tiêu. 26
2.3.1 Nguyên nhân khách quan. 26
2.3.2 Nguyên nhân chủ quan. 28
Phần III : Nhận xét, đánh giá và đưa ra một số biện pháp nhằm hoàn thiện đề tài 31
3.1 Nhận xét chung. 31
3.2 Các biện pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro. 31
3.3.1 Phân tích đánh giá khách hàng. 32
3.3.1.1 Tư cách pháp nhân của đơn vị vay vốn( đơn vị : tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân ) 32
3.3.1.2 Tính cách và uy tín của khách hàng : 33
3.3.1.3 Năng lực tài chính. 33
3.3.1.4 Phân tích phương án sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng. 34
3.3.1.5 Bảo đảm tiền vay . 34
3.3.2 Thực hiện phân tán rủi ro. 35
3.3.3 Kiểm tra trong khi cho vay. 35
3.3.5 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý và nhân viên làm công tác tín dụng. 37
Kết luận: 38
Tài liệu tham khảo. 39
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
×
Quay lại
Top