Hoàn Đảo Giấu Vàng

Totoro

Thành viên thân thiết
Thành viên thân thiết
Tham gia
17/12/2011
Bài viết
5.437
Đảo Giấu Vàng
Tác Giả: R. L. Stevenson

Ngày ấy cha tôi còn đứng chủ quán cơm "Đô đốc Bin-bâu". Quán cơm dựng ở một nơi hẻo lánh trên cửa biển. Hàng ế ẩm, khách thưa thớt, cảnh nhà túng quẫn. Cha tôi phần lo buồn, phần ốm yếu khật khừ. Cha tôi có thể còn sống lâu nữa nếu không gặp phải cái tên thủy thủ già ấy đến trọ. Tôi còn nhớ rõ như mới gặp hắn hôm qua. Hắn nặng nề đi đến cửa, chiếc hòm đặt trên xe theo sau. Người hắn to lớn, vạm vỡ, nước da lưng sạm như gạch nung, cái đuôi tóc trên đầu bết lại như keo lòng thòng trên cổ áo xanh đã hoen nhiều vết; tay hắn sần sùi; trên má có một vết sẹo chém dọc xuống, trắng bệch trông đến bẩn. Tôi còn nhớ, hắn đứng đưa mắt nhìn quanh cửa biển, miệng huýt sáo rồi cất tiếng hát bài hát cổ của bọn thủy thủ, bài hát ấy về sau hắn hát luôn. Mười lăm thằng trên hòm người chết ỳ a, ỳ a... Be rượu "rum" say bét say be! Hắn hát to, giọng ồ ồ cũ kỹ. Hát xong hắn cầm gậy gõ cửa. Cha tôi ra, hắn bảo đem một cốc rượu "rum", giọng rất cộc cằn. Hắn nhấm nháp rượu ra vẻ một tay sành. Hắn chăm chú nhìn ra bờ biển dốc ngược, nhìn vào cái biển cửa hàng rồi nói:
-Cái quán này thật là nơi thuận lợi. Đông khách không bác? Cha tôi trả lời:
-Thưa khách lắm.
-Cũng chỉ cần thế. Nói xong hắn gọi người phu khuân hòm vào nhà. Lát sau, hắn lại nói:
-Tôi nghỉ đây ít lâu. Tính tôi rất dễ dãi. Chỉ cần một ít rượu "rum", ít trứng và mỡ là đủ; với lại thỉnh thoảng ra đứng ngoài kia xem tàu chạy. Mà bác sẽ gọi tôi như thế nào nhỉ? Thôi cứ gọi là ông chúa tàu vậy. à thôi! Tôi biết cái điều bác đang lưỡng lự rồi! Này đây! Nói thế, hắn quẳng ngay ba bốn đồng tiền vàng ra:
-Khi nào hết, bác cứ bảo tôi!
-Hắn nói một cách thô lỗ và rất hách dịch. Tuy ăn vận lôi thôi, nói năng cục cằn, nhưng coi bộ hắn không phải một thủy thủ thường. Hắn ra dáng một viên thuyền trưởng hay phó thuyền trưởng quen lối tác oai tác quái với kẻ dưới. Bình thường, tính hắn rất trầm mặc. Suốt ngày hắn thơ thẩn ven bờ biển cao, tay cầm cái ống nhòm bằng đồng. Chiều tối, hắn về ngồi thu lu ở xó buồng bên cạnh đống lửa, uống rất nhiều rượu "rum" pha nước. Mỗi lần đi chơi về, hắn lại hỏi: có người thủy thủ nào đi qua đây không?
Mới đầu, chúng tôi tưởng hắn muốn tìm người thân thuộc, nhưng sau mới biết hắn muốn tránh mặt bọn thủy thủ. Một hôm, hắn gọi tôi ra một nơi và dặn hễ nhìn thấy tên thủy thủ cụt một chân thì nhớ bảo ngay cho hắn biết; rồi hắn hẹn cứ mồng một đầu tháng hắn sẽ cho bốn xu. Thường đầu tháng, tôi phải đến nhắc hắn cho tiền, và mỗi bận như thế hắn thở phì phì, giương mắt nhìn tôi làm tôi phải cúi mặt. Nhưng sau đấy, hắn lại đưa tiền cho tôi và nhắc lại phải để ý tìm người thủy thủ cụt chân. Không nói thì các bạn cũng biết cái hình ảnh anh lính thủy cụt chân này đến ám ảnh tôi luôn. Trong những đêm bão tố, gió lay bốn góc nhà, sóng gầm ven bến quanh bờ, tôi mơ thấy anh ta hiện ra thiên hình vạn trạng. Lúc thấy chân anh cụt tới gối, lúc cụt đến bẹn, lúc chỉ còn một chân mọc ở giữa ngực. Có đêm thấy anh ta nhảy qua rào qua hố đuổi tôi, làm tôi sợ toát mồ hôi. Chỉ vì bốn xu mà phải chịu những cơn sợ như vậy, kể ra bốn xu cũng to quá. Tên chúa tàu uống nhiều rượu "rum" đến nỗi nhiều đêm hắn như lên cơn loạn óc. Hắn ngồi hát những bài ca cổ man rợ. Có khi hắn gọi rượu, ép mọi người phải uống để nghe hắn kể chuyện hay hát theo cùng hắn. Mọi người run sợ phải cố hát theo. Nhiều lúc cả nhà ầm lên những câu hát: ỳ a, ỳ a... Be rượu "rum" say bét say be! Khi thì hắn đập bàn bắt mọi người ngồi im lặng. Lúc ấy hễ ai hỏi động đến hắn là hắn nổi cơn thịnh nộ. Chỉ đến khi say khướt, chân tay mềm rủn, hắn mới để khách ra về. Chuyện hắn kể rặt là những chuyện khủng khiếp: nào thắt cổ nhục hình, nào bão biển, đảo Rùa, nào những chuyện kỳ quặc trên đất hoang thuộc xứ Tây Ban Nha. Cha tôi lo buồn sợ mất khách vì hắn. Nhưng điều nguy hơn cả là hắn cứ ở lần lữa ngày này qua ngày nọ đến nỗi tiền hắn đưa trả đã hết từ lâu mà cha tôi cũng không có can đảm để hỏi hắn. Hễ đả động đến là mắt hắn long lên, mũi hắn gầm gừ thở phì phò làm cha tôi phải vội vã rút lui. Và mỗi bận như thế cha tôi lại vặn tay uất ức. Những lo phiền sợ hãi ấy đã làm bệnh tình cha tôi thêm trầm trọng. Trong khi hắn ở trọ quán chúng tôi, hắn vẫn đội cái mũ ba vành nhàu nát và cái áo xanh lem luốc vá víu trăm mảnh. Hắn chẳng bắt chuyện với ai sau lúc hắn tỉnh dậy. Cả đến cái hòm to của hắn cũng chẳng bao giờ thấy hắn mở. Có một lần hắn gặp tay đối thủ. Lúc ấy cha tôi đang ốm nặng. Buổi trưa ấy, bác sĩ Ly-vơ-xây đến thăm bệnh cha tôi. Bác sĩ là người nhân từ có tiếng. Gặp những người nghèo khổ, ông hay giúp đỡ và có lúc chữa bệnh cho họ không hề lấy một xu nhỏ. Riêng đối với gia đình tôi, ông là một vị ân nhân. Xem xong bệnh cho cha tôi, ông sang phòng bên hút thuốc. Anh chúa tàu đang ê a bài hát cũ: Mười lăm thằng trên hòm người chết, ỳ a, ỳ a... Be rượu "rum" say bét say be! Ngoài bác sĩ ra, bài hát này chẳng ai lạ tai hết. Hát xong, quen lệ hắn đập tay xuống bàn quát mọi người im.
Mọi người đều nín thít. Riêng bác sĩ vẫn hút thuốc và vẫn ôn tồn giảng cho một ông lão nghe cách trị bệnh tê thấp. Anh chúa tàu trừng trừng nhìn bác sĩ, lại vỗ bàn, rồi quát lên bằng giọng tục tĩu:
-Đằng ấy có câm mồm không? Bác sĩ nói:
-ông bảo tôi phải không? Khi anh chàng tục tằn kia bảo "phải", bác sĩ nói:
-Tôi nói với anh điều này: nếu anh cứ uống rượu "rum" mãi, thì đến phải tống anh đi nơi khác. Cơn tức của tên giặc già thật đến ghê. Hắn đứng phắt dậy rút soạt dao ra, lăm lăm chực đâm bác sĩ. Tôi lo cho bác sĩ quá. Nhưng ông vẫn vững chãi, giọng vừa dõng dạc vừa bình tĩnh mà quả quyết:
-Nếu anh không cất dao vào, tôi quyết sẽ làm anh bị treo cổ trong phiên tòa đại hình sắp tới. Tôi còn nhớ trông bác sĩ lúc này với gã kia thật khác nhau một trời một vực. Một đằng thì đức độ khoan dung, hiền từ mà nghiêm nghị. Một đằng thì nanh ác, hung hăng như con thú dữ nhốt chuồng. Hai người đưa mắt gườm nhau. Rốt cục tên chúa tàu gằm mặt xuống, tra dao vào, ngồi xuống, làu bàu trong cổ họng. Bác sĩ nói:
-Bây giờ tôi mới biết trong quận này có một người như anh. Tôi không chỉ làm thầy thuốc, tôi còn xử án nữa. Nếu bận sau còn xảy ra việc gì, tôi sẽ ra lệnh bắt và đuổi anh ra khỏi đất này. Một lát sau, bác sĩ lên ngựa. Từ đêm ấy và những đêm sau, tên chúa tàu im như thóc.

Hắc cẩu

Mùa đông năm ấy rất lạnh, tuyết to, bão lớn. Bệnh tình cha tôi không còn hy vọng qua khỏi mùa đông. Tất cả công việc nhà đều đổ vào vai hai mẹ con tôi, nên chúng tôi cũng không còn đâu thì giờ rỗi để gặp ông khách khả ố ấy nữa. Tháng giêng, một buổi sáng rét buốt, tuyết phủ trắng bến tàu, sóng vỗ nhẹ trên đá, mặt trời vừa nhô lên đầu núi, chiếu sáng mặt biển xa. Viên chúa tàu dậy sớm hơn thường lệ. Hắn đi ra biển, con dao dài lủng lẳng, ống nhòm dưới nách, mũ hất ngược ra sau. Tôi nhớ khi hắn đi khuất sau tảng đá, tôi còn nghe tiếng hắn thở phì phò gầm gừ như đương cơn tức. Lúc bấy giờ tôi đương lúi húi dọn cơm sáng sẵn để hắn về ăn. Chợt cửa mở, một người lạ mặt bước vào. Mặt hắn xanh sạm, bàn tay trái cụt hai ngón. Hắn không giống người đi biển nhưng có vẻ làm cho người ta phải nhớ đến biển. Hắn bảo hắn muốn dùng "rum". Tôi sắp đi lấy thì hắn ra hiệu bảo tôi đến gần. Tôi dừng lại. Hắn gọi:
-Lại đây chú bé! Lại gần đây! Rồi hắn hỏi:
-Bàn ăn này có phải của ông bạn Bin không? Tôi bảo không biết ai tên là Bin, mà đây là bàn của người khách trọ thường gọi là ông chúa tàu.
-Phải, phải! Chúa tàu cũng đúng! ông ta có cái sẹo ở má trái, tính ông ta vui đáo để, nhất là khi ông ấy say, phải không nào? Đúng đứt đi chứ lị! Thế ông Bin có nhà không?
-Đi vắng rồi.
-Đi đâu? Đi về lối nào? Nhìn lối tôi chỉ xong, người khách lạ ngồi lại, mắt hau háu nhìn ra bến như mèo rình chuột. Vừa lúc tôi chạy ra đường, hắn gọi giật ngay; tôi chưa kịp vào, hắn rủa một tiếng làm tôi mất hồn. Khi tôi vào rồi, hắn trở lại nhã nhặn, vỗ vai tôi, khen tôi là đứa trẻ ngoan và bảo hắn thích tôi lắm:
-Tao cũng có đứa con trai giống mày như đúc. Nhưng đã là con trai thì phải biết nghe lời, nghe không con? à đây rồi, ông Bin đã về kia. Tao với mày hãy vào buồng nấp sau cửa này để cho ông ta một mẻ hết vía chơi. Nói thế rồi hắn lôi tôi vào buồng nấp sau cánh cửa bỏ ngỏ; hắn để tôi đứng sau lưng, tay hắn sờ vào chuôi dao sau áo. Một chốc, tên chúa tàu bước vào, đóng sầm cửa rồi bước thẳng lại bàn ăn.
-Bin!
-Người lạ lên tiếng gọi, cố lấy giọng cho to, cho dõng dạc. Viên chúa tàu quay lại. Mặt hắn biến sắc tái mét. Mắt hắn thất thần, người hắn bỗng chốc trở nên già sọm. Người lạ lại nói:
-Anh Bin, anh còn nhận ra người bạn cũ này chứ? Viên chúa tàu hổn hển thở phào một tiếng:
-Hắc Cẩu!
-Không Hắc Cẩu thì còn ai vào đây nữa. Chao! Anh Bin ơi! Từ khi tôi mất hai ngón tay này, hai chúng ta đã gặp bao chuyện trên đời! Hắn vừa nói vừa giơ bàn tay trái cụt ngón ra. Viên chúa tàu nói:
-Thôi! Anh đã tìm được tôi... Muốn gì nói đi!
-Bin, anh nói đúng! Để tôi bảo cậu bé đáng yêu này lấy cốc "rum", rồi chúng ta sẽ nói chuyện với nhau như những người bạn cũ. Khi tôi mang rượu vào, Hắc Cẩu bảo tôi ra và không được đứng nghe ở cửa. Tôi ra ngoài quầy, cố lắng tai nhưng chỉ nghe tiếng rì rầm, một vài tiếng chửi rủa của viên chúa tàu. Thốt nhiên có tiếng bàn ghế đổ, tiếp theo là tiếng dao loảng xoảng rồi tiếng kêu thất thanh. Một chốc, tôi thấy Hắc Cẩu chạy ra, tên chúa tàu đuổi sát sau, vai Hắc Cẩu máu đổ ròng ròng. Đến cửa ngoài, viên chúa tàu giơ dao chém bổ xuống nhưng lưỡi dao vướng vào tấm biển hàng. Hắc Cẩu thoát ra ngoài, chạy biến mất sau gò. Còn viên chúa tàu giụi mắt đứng ngơ ngác rồi vào nhà. Hắn gọi tôi:
-Dim! Đem "rum" đây!
Hắn vừa nói vừa lảo đảo, tay dựa vào tường. Tôi bàng hoàng chạy đi lấy rượu. Bỗng nghe tiếng đánh thịch trong phòng. Tôi vào thì đã thấy tên chúa tàu nằm dài sóng sượt, bất tỉnh nhân sự. Lúc ấy mẹ tôi nghe tiếng chạy xuống. Chúng tôi nâng cao đầu hắn lên. Mẹ tôi kêu:
-ối giời! Khổ ơi là khổ! Lại còn bố mày ốm nằm liệt trên kia! Giữa lúc chúng tôi đang bối rối thì cánh cửa mở, bác sĩ Ly bước vào. Trông thấy bác sĩ, chúng tôi mừng khôn xiết. Tôi vội nói:
-Thưa bác sĩ, không hiểu lão bị thương ở đâu mà chết cứng thế này. Bác sĩ điềm nhiên bảo:
-Bị thương gì! Hắn lên chứng động kinh đấy.
-Giọng ông trở nên ân cần ấm cúng.
-Còn bà, thôi hãy lên với ông nhà; đừng để ông nhà biết chuyện này. Tôi sẽ cố chạy chữa cho hắn. Nào cậu Dim! Đi lấy cái thau đây. Khi tôi đem thau lại thì bác sĩ đã xắn cánh tay áo hắn lên. Trên cánh tay lực lưỡng có trổ nhiều dòng chữ:
“Thuận buồm xuôi gió", "Tai qua nạn khỏi", "Bin-bôn cóc cần". Bác sĩ bảo:
-Cậu cầm lấy chậu thau. Nào thử xem máu anh này ra sao. Nói thế rồi bác sĩ cầm dao chích vào mạch máu hắn. Khi máu chảy ra nhiều, hắn mới tỉnh dần và kêu lên:
-Hắc Cẩu đâu rồi?
-Chẳng có Hắc Cẩu đâu. Hắc Cẩu chỉ ở trong lương tâm của anh thôi!
-Bác sĩ đáp.
-Anh uống quá nhiều "rum" nên mắc phải chứng kinh phong đấy. Và bây giờ, ông Bin-bôn...
-Tên ấy không phải tên tôi
-Hắn vội nói. Bác sĩ bảo:
-Muốn tên gì cũng được. Tên ấy là tên một thằng cướp biển mà tôi từng biết! Tôi chỉ khuyên anh một điều: một cốc rượu "rum" chưa can gì, nhưng nếu cứ chén trong kéo chén ngoài thì có ngày anh đi đứt. Hiểu chưa? Thôi bây giờ anh cố gượng, tôi đưa anh lên buồng ngủ. Khó nhọc lắm, chúng tôi mới vực được hắn lên gi.ường. Hắn nằm thiêm thiếp. Bác sĩ kéo tôi ra:
-Không hề gì đâu, tôi đã lấy khá nhiều máu ở cánh tay hắn để hắn phải nằm yên ít lâu. Như thế cũng yên cho hắn mà cũng yên cho gia đình cậu. Chỉ lên cơn một lần nữa là hắn đi đời.
 
Cái vết đen


Một buổi trưa, tôi đến buồng viên chúa tàu, đem cho hắn ít thức ăn và thuốc
-sắc mặt hắn trông xanh xao và ngớ ngẩn. Hắn bảo tôi:
-Cậu Dim, bây giờ tôi chỉ còn mình cậu. Người ta khinh khi tôi, chẳng ai thèm ngó đến tôi nữa. Cậu cũng biết tôi đối xử với cậu thế nào. Tháng nào tôi cũng cho cậu bốn xu đấy... à này, cậu cho tôi xin một cốc rượu "rum" nào.
-Thầy thuốc đã dặn... Tôi chưa nói hết câu, hắn đã chửi rầm lên:
-Bọn thầy thuốc thì biết cóc khô gì! Lão lang ấy hiểu thế nào được bọn thủy thủ chúng tôi. Tôi đã từng vào những chốn nước sôi lửa bỏng, đất nóng như lửa than và động như sóng cồn mà tôi sống được cũng chỉ nhờ uống "rum". Không có rượu "rum", tôi còn thua cái giẻ rách. Mẹ kiếp, cái lão lang đểu cáng! Giọng hắn lại trở thành van lơn:
-Cậu Dim, cậu thử nhìn ngón tay tôi run bắn thế này, chỉ vì không có một giọt rượu. Nếu cậu không cho tôi hớp rượu, tôi điên lên bây giờ. Tôi đã thấy lão Phơ-linh đứng ở xó kia. Tôi đã nóng mắt lên rồi đây. Nào, cậu lấy cho tôi một cốc, nhanh lên, tôi sẽ cho cậu một đồng tiền vàng nước Ghi-nê. Thấy hắn đưa tiền ra dử, tôi tức lộn ruột. Nhưng nghĩ đến cha đương bệnh nặng, cần yên tĩnh thuốc thang, sợ hắn làm ầm lên, tôi bảo:
-Tôi chỉ cần ông trả tiền cơm cho đủ, ngoài ra tôi không thèm ngửa tay lấy một xu nào của ông cả. Tôi chỉ rót cho ông một cốc rượu thôi, không được vòi thêm đấy! Cốc rượu tôi đưa, hắn ực một hơi cạn ráo. Hắn bảo:
-Hà, đã thấy hơi dễ chịu! Cậu có biết thầy thuốc bảo tôi còn phải nằm bao lâu không?
-ít ra cũng một tuần lễ. Hắn kêu to:
-Chết mẹ! Một tuần lễ là không được rồi. Chẳng mấy chốc mà bọn nó sẽ gửi cái vết đen đến rồi! Hắn cố chống tay ngồi dậy rồi lại ngã giụi xuống gi.ường. Tôi hỏi:
-Vết đen là cái gì?
-Đó là dấu hiệu báo trước. Bọn chúng mà gửi vết đen đến là muốn đoạt lấy chiếc hòm của tôi đó. Bọn chúng toàn đồ chó má, chỉ muốn ăn cướp của người. Nếu chúng gửi vết đen đến, cậu cứ mượn ngựa... mượn ngựa đến cái lão thầy thuốc... Cậu báo cho cái ông ấy biết là cứ rình ở đây, sẽ tóm được hết cả lũ thủ hạ của lão Phơ-linh. Khi xưa tôi là phó thuyền của lão ấy. Khi chết, lão đã chỉ cho một mình tôi biết cái chỗ ấy. Hắn còn nói huyên thiên, tiếng nói cứ yếu dần, rồi hắn ngủ thiếp đi. Tôi đã định đi kể chuyện cho bác sĩ Ly nghe nhưng thốt nhiên cha tôi mất, mọi việc đành xếp lại. Lòng thương cha, việc tang bận rộn làm tôi gần như quên bẵng tên chúa tàu và cũng không sợ hắn như trước nữa. Có điều lạ là sáng hôm sau, hắn đã xuống nhà ăn cơm và uống nhiều rượu "rum" hơn mọi bận. Sức hắn mỗi ngày mỗi lụn dần, nhưng tính hung hãn vẫn như xưa.
Ngay sau hôm đưa đám cha tôi, tôi ra đứng trước cửa. Trời chiều, khí lạnh mịt mù, tình thương cha bùi ngùi trong dạ. Tôi chợt thấy trên đường cái một người đi lại. Tôi đoán chắc là người mù, vì hắn cầm gậy khua phía trước. Hắn đeo một miếng the xanh che kín mắt mũi, tuổi hắn già, hắn mặc cái áo đi biển cũ rích. Hắn dừng trước cửa quán, lên tiếng hỏi:
-ông bà nào làm phúc bảo cho kẻ mù lòa này biết nơi này là đâu? Lòng thương nhớ cha tôi còn bổi hổi nên trông thấy kẻ tàn tật, tôi bỗng chạnh lòng. Tôi vội bảo:
-Này ông già, đây là quán "Đô đốc Bin-bâu".
-Tôi nghe tiếng ai như tiếng một cậu bé... Cậu ơi! Cậu dắt hộ lão với... Không ngần ngại, tôi đưa tay cho hắn cầm. Tên mù có giọng nói ngọt xớt ấy liền bóp chặt tay tôi như kìm sắt. Tôi hoảng sợ cố gỡ ra nhưng hắn kéo tôi lại gần bảo nhỏ:
-Đưa tao đến gặp viên chúa tàu!
-Thưa ông, tôi quả không dám. Hắn cười khanh khách, vẻ chế giễu:
-Đưa tao vào ngay, không tao bẻ gãy tay bây giờ. Tôi định phân trần, hắn đã cướp lời:
-Không nói nữa, đi vào ngay! Tôi không thấy tiếng ai độc ác, lạnh lùng và gớm ghiếc như tiếng tên mù ấy. Tôi đau thì ít mà sợ thì nhiều nên phải nghe lời hắn. Tay tên mù nắm chặt lấy tôi như bàn tay sắt. Tôi đưa hắn vào chỗ tên giặc già đương say rượu lừ đừ. Tên chúa tàu thoạt thấy tên mù, hơi rượu "rum" bỗng bay mất. Hắn tỉnh hẳn, trố mắt lên nhìn. Hắn cố đứng dậy nhưng không còn sức. Tên mù nói:
-Này anh Bin, hãy ngồi yên đấy. Việc đâu có đó. Cậu bé này cầm lấy cổ tay trái ông Bin đưa lại gần tay phải tôi... Tôi và cả viên chúa tàu đều tuân theo. Hắn trao cho viên chúa tàu một vật gì giấu trong tay hắn. Xong hắn buông tay ra; thoắt một cái, hắn đã ra ngoài và đến đường cái. Tôi nghe tiếng gậy lộc cộc xa dần. Một lúc sau, tên chúa tàu mới hoàn hồn và nhìn xuống tay. Hắn kêu to:
-Kỳ hạn chúng cho đến mười giờ! Chúng ta còn sáu tiếng nữa... để lo liệu. Nói xong, hắn đứng dậy. Ngay lúc ấy người hắn chới với, hắn đưa tay lên kêu rú một tiếng rồi ngã vật xuống. Tôi chạy lại và gọi mẹ tôi. Nhưng không kịp! Hắn đã chết rồi.
 
Cái hòm của viên chúa tàu

Bấy giờ tôi mới nói những điều tôi biết cho mẹ tôi nghe. Hai mẹ con tôi đương lâm vào cảnh ngộ rất khó khăn. Phần nợ của viên chúa tàu đã làm chúng tôi sạt nghiệp, phần giặc cướp rình mò quanh nhà. Trong lúc nguy khốn này, tôi chỉ biết nghĩ đến bác sĩ Ly. Tôi muốn đến báo với ông nhưng lại sợ để mẹ ở nhà một mình, ngộ xảy ra việc gì, lòng tôi không nỡ. Cuối cùng mẹ con tôi quyết định chạy lên xóm bên cầu cứu. Chúng tôi ra đi trong lúc nhá nhem tối, sương mù lạnh buốt; cái xóm chỉ cách nhà tôi dăm trăm mét, vậy mà mịt mù không thấy đâu cả! Đi được một đoạn, hai mẹ con dừng lại lắng nghe... Nhưng ngoài tiếng nước vỗ, tiếng quạ kêu trong rừng, chẳng nghe thấy tiếng gì khác. Đến xóm thì vừa lúc lên đèn. Tôi không quên được phút vui mừng khi trông thấy ánh đèn. Chúng tôi cầm chắc đến đây là có người cứu giúp. Nhưng khi nghe đến tên tướng cướp Phơ-linh và đồng đảng của hắn là mọi người rụt cổ. Rút cục chỉ có người chịu đi báo với ông Ly, nhưng không ai chịu đến giữ quán cơm với chúng tôi cả. Người ta nói, bệnh sợ là bệnh hay lây. Nhưng sợ quá cũng hóa liều, thành đánh bạo. Mẹ tôi bảo không muốn để đứa con vừa mồ côi cha phải mất một số tiền nợ. Mẹ tôi mượn một cái túi đựng tiền, rồi hai mẹ con dắt díu nhau trở về. Mặt trăng mới mọc chiếu hồng lớp sương mù. Chúng tôi đi nhanh chân để khi trở lại, trăng chưa sáng. Đến nhà, đóng cửa xong mới thấy yên tâm. Mẹ tôi lấy nến đốt lên rồi hai mẹ con dắt nhau vào phòng. Xác tên chúa tàu vẫn nằm ngửa như cũ. Mẹ tôi bảo nhỏ:
-Kéo cửa gỗ xuống con! Kẻo ở ngoài trông thấy. Xong, mẹ tôi bảo phải lấy cái chìa khóa trong mình hắn. Tôi đánh bạo quỳ xuống... Cạnh tay hắn có một mảnh giấy tròn nhỏ, một mặt bôi đen. Tôi đoán ngay là cái vết đen. Mặt bên kia viết mấy chữ:
“Kỳ hạn cho anh đến 10 giờ đêm nay là hết". Tôi nhìn lên cái đồng hồ cổ treo trên vách. Mới có 6 giờ. Mẹ tôi giục:
-Dim! Tìm chìa khóa đi con! Tôi lần túi hắn, hết túi này sang túi nọ, nhưng tôi thất vọng. Mẹ tôi bảo:
-Có khi hắn treo ở cổ.
Tôi mò lên thì thấy cái chìa khóa buộc vào một đoạn dây, treo ngay ở cổ. Chúng tôi vội vã lên gác, vào thẳng gian phòng hắn ngủ, nơi hắn để chiếc hòm đồ khi mới đến. Chiếc hòm này cũng giống như trăm ngàn chiếc hòm khác của bọn thủy thủ. Trên mặt hòm có khắc một chữ "B" bằng sắt nung. Vừa mở nắp lên, thấy sặc mùi thuốc lá và hơi nhựa. ở ngăn trên thấy có một bộ quần áo còn mới nguyên. ở dưới, các thứ để lộn xộn: một cái thước đo đường biển, vài cuộn thuốc lá, hai khẩu súng lục thật đẹp, một thoi bạc, một đồng hồ quả quít cổ, một ít đồ lặt vặt, phần nhiều là đồ nước ngoài, một cái com-pa, một đôi địa bàn vỏ đồng và năm sáu cái vỏ ốc. Nói chung chẳng có vật gì quý giá. ở dưới nữa, thấy có một cái áo tơi đi biển đã bạc màu. Mẹ tôi sốt ruột, lôi cái áo ấy lên. Trong hòm chỉ còn một gói bọc vải sơn dầu hình như ở trong có gói giấy má gì và một cái túi vải; chạm đến túi nghe tiếng loảng xoảng. Mẹ tôi nói:
-Tao sẽ cho bọn bất lương thấy rằng tao là người lương thiện. Tao chỉ lấy đủ số tiền nợ, không thèm lấy thêm một xu nhỏ... Này, cầm lấy cái túi...
Mẹ tôi vốc tiền trong túi của hắn, vừa đếm vừa bỏ vào cái túi tôi cầm. Trong túi hắn có đủ cả tiền các nước: Tiền vàng Tây Ban Nha, tiền vàng Pháp, tiền Ghi-nê Anh, và còn nhiều thứ tiền khác nữa. Tiền Ghi-nê có ít, nhưng chỉ có thứ tiền ấy mới tính nợ được, vì thế đếm tiền vừa lâu vừa khó. Đang đếm tôi bỗng nghe tiếng gậy của thằng mù khua trên đường cái lạnh. Hắn đang đi lại gần. Hắn gõ cửa quán mấy cái. Chúng tôi nghe tiếng vặn quả đấm, tiếng then cửa lạch cạch rồi phút chốc trong ngoài yên lặng... Lại nghe tiếng gậy lộc cộc trên đường xa dần rồi mất hẳn. Tôi nói:
-Mẹ ơi! Ta đem cả đi thôi. Tuy sợ, nhưng mẹ tôi vẫn khí khái, nhất định không chịu lấy hơn số tiền nợ, mà cũng không chịu thiếu. Mẹ con đương giằng co nhau thì thốt nghe có tiếng còi rúc ở phía đồi. Tôi vội vàng đứng dậy, vừa nhặt cái gói vải sơn dầu vừa nói:
-Con lấy cái này cho đủ số tiền nợ. Chúng tôi lần xuống, bỏ lại cây nến rồi mở cửa chạy ra ngoài. Sương mù tan nhanh, mặt trăng lồ lộ chiếu sáng trên dãy gò. Chúng tôi bước nhanh. Chưa được nửa đường, chúng tôi đã nghe thấy tiếng chân nhiều người đi lại; phía trước có một ngọn đèn lắc lư. Chúng tôi biết ngay trong bọn nó có người xách đèn. Thốt nhiên mẹ tôi quỵ xuống nói như giối giăng:
-Con ơi! Cầm lấy tiền mà chạy đi thôi... Mẹ đuối sức rồi, không bước được nữa. May sao đã đến gần cầu. Trong gian nguy, sức tôi khỏe lên gấp bội. Tôi xốc nách, dìu mẹ tôi men theo bờ lạch, đến mãi dưới gầm cầu. Mẹ tôi thở hắt một tiếng rồi nằm vật ra. Chúng tôi chỉ cách hàng cơm một quãng ngắn.
 
Hết kiếp thằng mù


Tuy tôi sợ nhưng tính tò mò của tôi lại mạnh hơn. Tôi bò lại nấp sau bụi, nhìn lên con đường trước cửa nhà. Tôi vừa ngồi xuống thì bảy tám tên giặc ồ ạt chạy đến, tên cầm đèn đi đầu. Tuy trời sương mù, tôi cũng nhận ra tên mù đi giữa. Một lát, nghe tiếng hắn quát to:
-Phá cửa đi! Cả bọn kéo ùa vào nhà, lão mù đứng ngoài, luôn mồm đốc thúc và chửi rủa. Thốt nhiên một tiếng kinh ngạc vọng ra:
-Lão Bin chết rồi! Nhưng tên mù quát:
-Đồ ngốc, cứ lục túi nó xem! Rồi những tiếng kêu kinh ngạc ầm nhà. Từ gác trên một đứa thò đầu ra bảo:
-Piu ơi! Có kẻ đến trước lục tung cả rồi! Lão mù gầm lên:
-Có thấy cái ấy không?
-Có thấy tiền. Lão Piu rống lên:
-Tiền thì làm cái đếch gì! Tao hỏi giấy tờ của lão Phơ-linh kia!
-Chẳng có giấy tờ nào cả. Lão mù lại kêu to lên:
-Thôi, chính mấy đứa ở quán cơm lấy rồi! Chính thằng nhãi con! Biết thế ông móc mắt nó cho sớm. Thôi chúng bay tản đi các ngả, tìm chúng ngay. Một tên đứng gần cửa sổ bảo:
-Phải rồi! Đèn nó còn để đây. Ngay lúc ấy, tiếng còi lúc nãy lại rúc lên hai lần. Tôi hiểu ngay là tiếng còi hiệu báo nguy của đồng đảng chúng. Tôi nghe lão Piu hét lớn:
-Còi mặc còi! Chúng bay chỉ là đồ ăn hại, đồ chó má! Cứ sục tìm chúng nó đi. Nhưng bọn chúng vẫn ngần ngại. Lão mù lại chửi rầm lên:
-Lũ bay là đồ khốn kiếp! Của để trước miệng mà còn chần chừ! Chuyến này mà hỏng việc là tại chúng mày cả. Một đứa trong bọn lên tiếng:
-Piu ơi! Đừng rống lên nữa! Cứ cầm lấy một ít tiền vàng đây mà xài!
Nghe thế, lão mù bỗng hằm hằm tức giận, vung gậy đập chan chát vào bọn kia. Bọn chúng cũng chửi rủa lại. Nhờ trận ẩu đả ấy, chúng tôi thoát nạn. Giữa khi ấy có tiếng ngựa phi dồn dập ở đỉnh gò, rồi tiếp theo một tiếng súng nổ cạnh đấy. Có lẽ đó là tiếng báo hiệu nguy nhất, vì tôi thấy bọn giặc vụt chạy tán loạn, bỏ trơ lão mù lại một mình. Lão ta vung gậy quờ quạng, vừa chạy vừa kêu gọi bọn kia. Nhưng tiếng vó ngựa đã nện trên đỉnh gò và phi xuống dưới ánh trăng. Lão mù bỗng như điên dại, chạy đâm thẳng ngay vào chân con ngựa đầu đàn đang phi tới. Lão chỉ kịp kêu lên một tiếng. Bốn vó ngựa xéo lên mình lão, hất lão nằm úp sấp mặt xuống đất. Tôi nhảy ra và nhận ra ngay những nhân viên thuế quan đương kéo đến. Nhưng tất cả bọn giặc đã cao chạy xa bay. Thằng Piu thì đã chết thẳng cẳng. Mẹ tôi cũng đã tỉnh lại. Viên thanh tra hỏi tôi bọn chúng định cướp gì trong nhà. Tôi thuật lại câu chuyện và nói:
-Tôi chắc không phải chúng kiếm tiền mà chính là chúng muốn tìm cái vật tôi đang giữ đây. Bây giờ tôi muốn trao cái này lại cho bác sĩ Ly...
Viên thanh tra gật đầu tán thành ngay và chúng tôi cùng lên ngựa, đi nước kiệu về thẳng nhà bác sĩ Ly.
 
Giấy tờ của viên chúa tàu

Lúc chúng tôi đến nơi thì người đầy tớ gái cho biết bác sĩ đã xuống chơi với nhà quý tộc Chi-lô-nây và ngủ đêm ở đấy. Bác sĩ và ông Chi là hai người bạn thân tình. Theo lời bác sĩ thì ông Chi là một người hào hiệp, giàu lòng bác ái, hay cứu khốn phò nguy. ông ta chỉ thích đi săn và làm việc nghĩa. Đã có lần ông cho gọi tôi đến, hỏi han về sự học hành và xoa đầu tôi, bảo:
-Cháu là đứa trẻ thông minh. Cháu nên gắng học để sau này thành người có ích cho nước nhà.
Tôi còn nhớ lần ấy ông bảo mang lên cho tôi một đĩa thịt chim và bắt tôi ăn cho kỳ hết mới nghe. Tuy đối với ông, tôi không thân bằng bác sĩ Ly, nhưng lòng tôi vẫn kính phục ông hết sức. Khi chúng tôi đến thì thấy hai ông đang ngồi hút thuốc lá cạnh lò sưởi. Lần này tôi mới nhìn được ông Chi rõ hơn. ông người cao lớn, nét mặt hiền từ nhưng cương nghị, lông mày đen sẫm, khi giương lên, khi cau lại, tỏ ra người nhanh trí và hơi kiêu kỳ. ông ngồi nghe viên thanh tra thương chính thuật chuyện một cách thích thú. Thỉnh thoảng ông lại nhìn tôi, nửa như khen ngợi, nửa như khuyến khích. Khi viên thanh tra ra về, bác sĩ Ly đứng dậy hỏi tôi:
-Cậu Dim, cái vật chúng muốn tìm là cái gì?
-Thưa ông, đây... Tôi vừa nói vừa đưa cái gói bọc vải sơn dầu cho bác sĩ. Bác sĩ ngắm nghía, hình như muốn mở nhưng lại thôi. ông Chi hỏi tôi:
-Chắc cậu đói lắm, phải không? Không đợi tôi trả lời, ông đã gọi mang thức ăn ra. Lần này cũng lại một đĩa thịt chim ướp. Tôi đang đói bụng, ăn rất ngon lành.
Bác sĩ Ly đương ngồi trầm ngâm, tay mân mê cái gói vải sơn dầu, bỗng ông hỏi ông Chi:
-Này, chắc ngài đã nghe nói đến tên Phơ-linh? ông Chi đáp thực to:
-Lão Phơ-linh là tay trùm cướp khét tiếng, ai mà không biết! Bác sĩ Ly lại hỏi:
-Thế lão ấy có nhiều tiền của không? ông Chi lại nói to:
-Làm giặc, chả giết người kiếm tiền thì còn kiếm gì? Số tiền lão kiếm được suốt một đời làm giặc cũng đủ cất một kho của lớn. Dừng một lát, bác sĩ Ly lại hỏi:
-Giá thử trong cái gói này đây có đủ giấy má để tìm nơi lão Phơ-linh giấu của, thì ngài định liệu thế nào?
-Thì chúng ta sẽ sửa soạn một chiếc tàu, đi lấy về thôi. Bác sĩ nói:
-Thôi được! Xin mời cậu Dim lại đây! Khi tôi đến gần, bác sĩ đặt cái gói lên bàn rồi trịnh trọng nói:
-Cậu là người có công lấy được vật này. Nếu cậu ưng thuận, chúng ta sẽ cùng mở ra xem. Không nói thì các bạn cũng biết, tôi đã vui vẻ gật đầu. Trong gói có hai thứ: một quyển sổ của tên Piu ghi tiền cướp được, và một phong bì niêm kín, có dấu đóng. Thấy quyển sổ không có gì quan trọng, bác sĩ Ly liền mở đến phong bì. Trong đó có bản đồ một cái đảo, có chia cả kinh tuyến, vĩ tuyến, các chỗ sâu, chỗ nông, tên núi, tên bến, tên lạch và nơi đỗ tàu chắc chắn. Cái đảo chiều dài chín dặm, ngang năm dặm, trông hình dáng như con rồng uốn. Đảo có hai bến rất kín, ở giữa có cái gò tên là Vọng Viễn, có ghi nhiều dấu, có dấu mới ghi thêm. Tính ra thì có ba dấu chữ thập đỏ, hai ở phía bắc đảo và một về phía tây nam. Gần dấu này có mấy chữ viết mực đỏ rất rõ:
“Phần chính kho của là ở nơi này". Đằng sau, có chú thêm, chữ cùng do một người viết:
“Cây to. Đồi con, gò Vọng Viễn, mũi đất về phía B.B.Đ. "Đảo Hình Người Đ.Đ.N. "Mười mét..." Rồi một số dòng chữ chú thích nữa, dưới ký:“P."
Tuy vắn tắt và khó hiểu như vậy, nhưng trông mặt hai ông rạng rỡ vui mừng. Bác sĩ kêu lên:
-Một kho của lớn sắp về tay chúng ta. Từ lúc xem xong bản đồ, nét mặt ông Chi vốn trầm lặng bỗng giờ đây mắt sáng long lanh, ông đứng lên nói một cách say sưa:
-Tôi thì tôi nghĩ một kho của phi nghĩa sắp trở thành một kho của có ý nghĩa. Một kho vàng nằm im vô dụng, giờ đây sắp được đem lên để làm sáng bao nhiêu khuôn mặt khổ nghèo. Bác sĩ Ly gật gật đầu ra vẻ đồng tình, rồi vừa cười vừa nói:
-Thôi tha hồ ngài được toại nguyện bình sinh. Ngài có thể cứu tế cho trẻ mồ côi ba quận, chứ đừng nói một quận nhỏ bé này. ông Chi tiếp lời ngay:
-Còn ông, ông cũng tha hồ mở nhiều nhà thương làm phúc... Chợt bác sĩ quay lại phía tôi:
-Còn cậu Dim! Cậu là người có công đầu trong việc này, ý cậu thế nào? Cậu có đi với chúng tôi không? Tôi lúng túng một lúc lâu rồi ấp úng trả lời:
-Tôi xin đi theo... Bác sĩ Ly lại quay sang nói với ông Chi:
-Việc này rất hệ trọng, có thể nguy hiểm đến tính mạng như chơi, vì giấy tờ này không phải chỉ riêng chúng ta biết... ông Chi khảng khái đáp:
-Dù có phải nguy hiểm đến tính mạng tôi cũng không ân hận gì vì chúng ta đang làm một việc nghĩa... Bác sĩ ngắt lời:
-Vì thế, tôi chỉ lo một người có thể làm lộ công việc. ông Chi nói to:
-Kẻ ấy là ai, ông thử nói tên nó ra? Bác sĩ đáp:
-Chính ngài chứ ai nữa! Vì ngài hay bộp chộp. ông Chi im lặng rồi nói khẽ:
-Ngài nói chí lý. Tôi xin giữ kín việc này.
 
Tên bếp tàu

Cuộc chuẩn bị vẫn kéo dài. Bác sĩ Ly và ông Chi đều đi lo công việc. Chỉ còn tôi ở lại nhà với lão Ri-đrus. Suốt ngày, tôi ngồi tưởng tượng đến tương lai với lòng chứa chan những ước mơ đẹp đẽ. Khi thì tôi nghĩ đến những nhà thương đồ sộ mà bất kể nghèo giàu, hễ ai vào đấy là đều được săn sóc chu đáo, không phải trả một đồng xu nhỏ. Cái cảnh vì thiếu tiền thuốc mà phải chết dần chết mòn như cha tôi sẽ không còn nữa. Khi thì tôi tưởng tượng đến sự mừng rỡ của những đứa trẻ mồ côi nghèo đói được nuôi dưỡng ăn học như con nhà giàu. Có những cảnh làm tôi xúc động đến rớm nước mắt. Có lúc tôi lại say sưa mơ tưởng về biển: nào phong cảnh tuyệt vời của đảo, nào những thứ hoa thơm cỏ lạ, nào những chuyện phiêu lưu thần kỳ. Tôi ngồi hình dung lại bản đồ, nhớ các chỗ từng ly từng tí. Rồi một hôm, có phong thư của ông Chi gửi về báo tin công việc đã sắp đặt xong, bảo lão Ri và tôi thu xếp đến ngay và nhắn cả bác sĩ Ly tới gấp. Trong thư có nói rõ là ông đã tìm được một viên thuyền trưởng rất thạo nghề, chỉ phải cái hay bẳn tính, và một thủy thủ cụt một chân tên là Xin-ve rất vừa ý. Người thủy thủ cụt chân này sẽ giữ chân đầu bếp dưới tàu. Sáng hôm sau, lão Ri và tôi lên đường đi Brít-tôn. Tôi ghé lại nhà, từ biệt mẹ tôi. Nhà cửa đã được ông Chi cho sửa sang lại và thuê cho một người phụ việc, nên ra đi, tôi cũng yên lòng. Chiều hôm ấy chúng tôi lên xe ngựa. Sáng hôm sau, khi choàng mắt dậy đã thấy đến Brít-tôn. Chúng tôi phải đi bộ đến quán trọ đầu bến tàu, nơi ông Chi ở tạm. Khi đi qua bến, tôi được nhìn tận mắt rất nhiều tàu, đủ các cỡ, đủ các kiểu, thuộc đủ các nước. Trên tàu, thủy thủ vừa làm vừa hát. Trên một chiếc khác, nhiều người đánh đu trên ngọn cột buồm cao tít, bám vào sợi dây trông nhỏ như mạng nhện. Tôi sống suốt đời gần biển mà chưa bao giờ có cái cảm giác được gần biển như lần này. Tôi thấy nhiều tay thủy thủ già đeo khuyên ở tai, râu mép xoắn tít, đuôi tóc sơn thõng xuống như đuôi cá. Tất cả đối với tôi đều mới lạ, cả đến cái mùi nước mặn và mùi hắc ín. Thế mà tôi lại sắp sửa được đánh bạn với họ, đi tìm một kho của ở một hòn đảo xa lạ, đem về giúp đỡ cho bà con nghèo. Đương nghĩ lan man thì tôi đã thấy ông Chi đứng ở cửa. Trông thấy tôi, ông bảo:
-Kìa cậu! Bác sĩ Ly cũng đã tới rồi. Thế là đủ mặt. Ngày mai ta nhổ neo.
Nói xong, ông bảo tôi đưa thư đến cho Xin-ve ở quán rượu của hắn. Khi tôi đến nơi thì cửa hàng đương đông nghịt khách, phần nhiều là thủy thủ. Tôi còn đứng phân vân thì một người ở nhà trong đi ra. Thọat trông, tôi cũng biết ngay là Xin-ve. Chân trái hắn cụt đến gần háng, hắn phải cặp nạng mà đi lại, nhanh thoăn thoắt như con thoi. Hắn to lớn, lực lưỡng, nước da xám xịt, mặt mũi xấu xí nhưng trông tươi và linh lợi. Hắn tỏ ra vui tính. Hắn đi hết bàn nọ đến bàn kia, miệng huýt sáo, thỉnh thoảng lại vỗ vai và bông đùa vài câu với những người khách thân. Thú thực với các bạn, từ lúc đọc bức thư của ông Chi, tôi vẫn chột dạ, chỉ lo tên cụt chân ấy lại chính là tên thủy thủ tôi đã rình ở quán cơm nhà. Nhưng nhìn qua anh chủ quán đứng đắn và dễ có cảm tình này, tôi đủ yên bụng. Khi thấy tôi chìa bức thư của ông Chi ra, hình như hắn hơi giật mình.
-Chao ôi! Cậu là bạn đi tàu của tôi mà. Được biết cậu thật là mừng. Nói xong, hắn bắt chặt tay tôi. Ngay lúc ấy, một người khách ngồi ở góc phòng thốt đứng dậy, bỏ ra. Thoáng nhìn, tôi đã nhận ra tên giặc cụt hai ngón tay. Tôi vội kêu to:
-Hắc Cẩu! Bắt lấy nó! Xin-ve cũng quát to:
-Hắn chưa giả tiền... Ha-ri, tóm lấy nó! Một người ngồi gần cửa đứng phắt dậy đuổi theo. Xin-ve lại nói:
-Ngay đến ông hoàng vào đây uống rượu cũng phải giả tiền! Hắn là ai thế cậu?
-Thưa ông, hắn là một tên giặc biển.
-Thế à? Mo-gan! Lại đây, anh vừa chén với nó phải không! Một tên thủy thủ già, tóc hoa râm, ngượng ngập bước đến. Xin-ve hỏi tiếp, giọng khắc nghiệt:
-Này Mo-gan! Trước kia, anh chưa gặp hắn lần nào đấy chứ?
-Thưa ông, không! Xin-ve nói to:
-Phúc đời nhà anh đó! Nếu anh đã chơi với hạng người như thế thì anh đừng vác mặt đến quán tôi nữa!
-Xong hắn quay lại nói riêng với tôi, bộ thân mật, làm tôi đến thích:
-Lão này thật thà như đếm. Chỉ phải cái tội hơi ngốc.
-Rồi hắn lại nói to:
-Hắc Cẩu! Chịu! ờ, ờ! Hình như tôi có gặp đâu một lần, hắn đi với một lão mù thì phải? Tôi nói:
-Chính phải rồi, lão mù tên là Piu...
-Phải, phải, Piu!
-hắn nói coi bộ hớn hở.
-ờ! Bộ nó trông rõ ra thằng đại bợm! Được! Lần này tóm được là tôi sẽ dìm nó xuống bến cho nó cạch đến già!
Vừa nói hắn vừa đấm bàn, nét mặt giận dữ, làm ai cũng phải tin là thật. Lúc đầu thấy thằng Hắc Cẩu ở đây, tôi đã đâm nghi Xin-ve, nhưng khi thấy tên đuổi theo hổn hển trở về tay không, hắn chửi mắng vung lên, tôi lại cho hắn là người ngay thẳng. Hắn nói với tôi:
-Cậu xem đó, việc này tôi thật là bứt rứt. Rồi đây tôi biết ăn nói thế nào với ông Chi? Thôi, nhờ cậu nói rõ cho ông ấy biết... Cậu ít tuổi, nhưng cậu là người thông minh, tất cậu đã hiểu cho tôi. Giá không vướng cái nạng này, tôi đã chạy bay tóm cổ nó về. Bây giờ thì... Nói đến đây, mắt hắn rầu rầu.
-Nhưng thôi, chúng ta cứ đến ông Chi trình cho ông biết. Nói xong, hắn kéo tôi đi. Vừa đi, hắn vừa vui vẻ giảng giải cho tôi nghe về tàu bè, về đồ phụ tùng, về trọng tải, về tàu nước nọ nước kia. Thấy thế tôi cho hắn là một người bạn đi biển rất tốt. Khi chúng tôi đến nhà thì thấy bác sĩ Ly và ông Chi đương ngồi uống bia. Hắn kể lại chuyện vừa xảy ra từ đầu đến cuối, không thêm bớt một chút nào. Thỉnh thoảng hắn lại hỏi:
“Có phải thế không, cậu Dim?". Tôi cũng chỉ đành gật đầu. Nói xong hắn xin phép ra về. ông Ly nhìn theo hắn, bảo:
-Tôi rất thích tên đầu bếp này. ông Chi bảo:
-Tôi được một người giúp việc tận tâm như thế kể cũng may phúc. Chính hắn đã mộ cho tôi gần hết những thủy thủ trên tàu. Nói xong, ông rủ bác sĩ và tôi cùng đi xuống xem tàu.
 
Vấn đề khí giới và thuốc súng

Khi ba chúng tôi đến nơi thì viên phó thuyền ra đón. Xem ý ông Chi thì hình như ông đối với hắn thân hơn với viên thuyền trưởng. ông này trông tướng người nghiêm khắc. Hình như trước mọi việc xếp đặt trên, ông đều nhăn nhó không hài lòng. Khi chúng tôi vừa bước vào phòng, ông nói ngay:
-Thưa ngài, dù có mếch lòng ngài, tôi nghĩ cũng nên nói thẳng là hơn. Tôi không yên tâm đối với cuộc đi này, tôi không ưa bọn thủy thủ ở đây, cả viên phó thuyền nữa. ông Chi đáp lại ra vẻ phật ý:
-Sao ông không nói không ưa luôn cả chiếc tàu này và cả chủ nó? Đến đây, bác sĩ Ly nói chen vào:
-ấy khoan! Đừng nói thế, chẳng ích gì đâu! Bây giờ tôi xin ông thuyền trưởng hãy nói rõ lý do vì sao ông không ưa cuộc đi này?
-Tôi đã nhận lời một cách bí mật, đảm nhiệm đưa chiếc tàu này đến nơi ngài định. Nhưng bây giờ tôi xét thấy mọi người trên tàu đều biết rõ ch.uyện ấy hơn tôi. Theo ý tôi, như thế là không xong!
-ý tôi cũng vậy, như thế là không ổn.
-Bác sĩ nói.
-Sau nữa, tôi nghe người ta nói chúng ta đi tìm của. Mà ai nói? Chính miệng những người trên tàu nói! Đi tìm của là một việc rất nguy hiểm. Đó là một vấn đề sinh tử.
-Điều ông nói, tôi xin nhận là đúng. Còn việc ông bảo ông không ưa bọn họ tí nào...
-Giá để tôi chọn, có lẽ lại hơn.
-ông nói có lý. Nhưng vì lẽ gì ông không ưa cả viên phó thuyền?
-Vì hắn ta tính lè nhè, hay đánh chén với bọn thủy thủ. Hắn không thể làm một viên phó thuyền đứng đắn được.
-Thế ông muốn thế nào, ông cứ nói thẳng đi.
-Bây giờ tôi muốn các ông xét lại việc này. Họ để khí giới và thuốc súng ở đầu mũi. Các ông có phòng kín đáo ở trong tàu, sao không để vào đấy? Đó là việc thứ nhất. Các ông có đem theo bốn gia nhân thân tín, sao họ sắp xếp ở đằng mũi xa tít mà không để ở cạnh các ông? Đó là việc thứ hai. Còn một việc này: họ nói rằng các ông có một bản đồ chỉ nơi giấu của. Rồi ông nói về những dấu chữ thập trên bản đồ, cả các đường kinh tuyến, vĩ tuyến... Bác sĩ Ly mỉm cười bảo:
-Cũng nên lo! Nhưng đừng nên lo quá xa. Đừng để con chuột đẻ ra quả núi. Có nguy hiểm một tí cũng không sao, phải cứng rắn lên mới hay. Lúc này ông Chi mới lên tiếng một cách miễn cưỡng:
-Thôi được, chúng tôi xin chiều theo ý ông, tùy ông bố trí xếp đặt lại trên tàu. Khi viên thuyền trưởng cáo từ lui ra, bác sĩ bảo:
-ông Chi này! Bây giờ tôi đã thấy là ông có được hai người giúp việc trung thành: lão này và gã Xin-ve đấy.
-Xin-ve thì được chứ thằng cha này thì chưa chắc! Bác sĩ nói:
-Để xem rồi mới biết. Khi chúng tôi lên boong thì các thủy thủ đương khuân khí giới và thuốc súng theo sự chỉ dẫn của thuyền trưởng. Thật là một sự thay đổi lớn trên tàu. Cách xếp đặt lại này rất hợp ý tôi. Giữa lúc ấy, gã Xin-ve đáp thuyền đến. Hắn trèo lên tàu nhanh nhẹn như vượn. Khi hắn thấy khuân dọn, hắn kêu to:
-ạ kìa! Làm gì thế người anh em? Một người nói:
-Chúng tôi phải khuân cả vũ khí đi nơi khác đây. Hắn lại kêu to:
-Rõ khổ! Đến nhỡ mất con nước buổi sáng thôi. Viên thuyền trưởng lạnh lùng bảo:
-Đó là lệnh của tôi. Anh cứ xuống bếp mà làm việc.
-Vâng, vâng! Tôi đi đây! Tên đầu bếp vừa nói vừa chào qua loa rồi biến mất vào trong.
 
Đi biển

Cả đêm bận rộn thu dọn, tôi mệt lả. Nhưng khi gần sáng, lúc sắp nhổ neo, tôi vẫn cố đứng trên boong. Điều gì với tôi cũng mới lạ: từ tiếng còi rúc, tiếng lệnh truyền, đến những chấm đèn ló chạy đi chạy lại. Một thủy thủ bảo:
-Bác bếp hát cho nghe một bài nào! Một tên khác nhắc:
-Bài hát cổ ấy!
-Được, được! Không phải nhắc! Gã Xin-ve nói xong, cất giọng hát cái bài hát man rợ mà tôi nghe đã chán ngấy: Mười lăm thằng trên hòm người chết, ỳ a, ỳ a... Đến tiếng "ỳ a" cuối cùng, cả bọn đều xô nhau đẩy trục. Trước cảnh ấy, tôi bồi hồi nhớ đến quán cơm nhà. Tôi tưởng như viên chúa tàu khi xưa đang hét vang. Khi chiếc neo ướt đẫm đã treo lủng lẳng đằng trước mũi, tàu bắt đầu giương buồm. Hai bên bến lùi dần, tàu bắt đầu ra khơi đi tìm hòn đảo giấu vàng. Chuyến đi bình yên vô sự. Tàu tốt, thủy thủ thạo nghề, viên thuyền trưởng tỏ ra một tay cừ. Nhưng trước khi đến đảo, đã xảy ra vài chuyện đáng kể. Trước tiên là viên phó thuyền tỏ ra rất bậy bạ. ông ta không có một chút uy tín trong đám thủy thủ. Tàu chạy được vài ngày, ông trèo lên boong, rượu say bí tỉ. Chúng tôi 45 46 không hiểu ông mò đâu ra rượu. Đó là điều bí mật. Và đã xảy ra việc này... Một đêm sóng to gió lớn, ông ta đã biến mất xuống biển. Chẳng ai lạ mà cũng chẳng ai thương tiếc. Trên tàu thành ra thiếu một viên phó thuyền. Phải thăng chức phó thuyền cho một thủy thủ giỏi hơn cả tên là An-đe-sơn. Thêm có ông Chi đã từng đi biển nên cũng phụ vào. Lại còn một lão thủy thủ già tên là Han, một người mưu trí mà lịch lãm, có thể trông cậy được. Han là bạn thân của gã Xin-ve. Còn gã Xin-ve thì vẫn chống đầu nạng vào nách, theo nhịp tàu lắc lư, đứng nấu ăn như đứng trên đất bằng. Hắn chỉ dùng cái băng choàng qua cổ, đưa nạng qua lại đi thoăn thoắt như người thường. Tất cả thủy thủ đều kính trọng hắn. Hắn đối xử với mỗi người một cách và tỏ ra rất tốt bụng. Hắn giữ bếp rất sạch, đĩa treo bóng nhoáng. Con vẹt trong lồng để vào một xó. Đối với tôi, hắn hết sức tử tế. Thấy mặt tôi, hắn đã đon đả:
-Cậu Dim, lại đây! Chuyện gẫu với nhau một chút nào. Ngồi xuống đây. Tôi gọi con vẹt của tôi là Phơ-linh, tên cái lão hải tặc lừng tiếng ấy. Cậu xem Phơ-linh sắp nói chuyện với ta đấy! Gã vừa dứt lời, con vẹt liền nói liến thoắng:
-Đồng ăn tám! Đồng ăn tám!
-Thôi im đi!
-Gã vừa nói vừa lấy đường trong túi cho chim ăn.
-Cậu ạ, con chim này nó thấy vô khối chuyện lạ. Nó học được câu ấy trong lúc người ta chia tiền. Con vẹt vừa ăn đường vừa mổ vào lồng, vừa thề vừa rủa rất đanh ác. Gã lại bảo:
-Con chim già vô tội này cứ nguyền rủa như người vô đạo. Lạy Chúa! Nói xong, gã đưa tay ra như làm dấu, khiến tôi tưởng gã là một người đạo đức không ai bằng. Trong khi đi đường, viên thuyền trưởng và ông Chi vẫn không ưa nhau ra mặt. ông Chi rất chiều chuộng thủy thủ. Hễ có cuộc vui gì là cả bọn đều được uống nước chanh pha rượu mạnh. Có khi ông cho họ uống cả "rum". Biết được ngày sinh nhật một người nào đó, ông liền mở ngay một thùng trái lê ở hầm tàu, ai ăn bao nhiêu tùy thích. Thấy thế, viên thuyền trưởng bảo bác sĩ:
-Làm như vậy chẳng hay ho gì, chỉ tổ làm cho họ hư!
Nhưng cái thùng lê này rất được việc cho chúng tôi. Các bạn sẽ thấy có lẽ nhờ nó mà chúng tôi thoát chết. Số là ngày ấy tàu đã gần tới đích. Chậm lắm là sáng hôm sau đã trông thấy được đảo. Chiều hôm ấy, làm xong việc, tôi bỗng thấy thèm ăn lê. Tôi chạy lên boong. Mọi người đều đứng đằng mũi ngóng về phía đảo. Chung quanh không một tiếng động ngoài tiếng sóng vỗ mạn tàu và tiếng anh chàng bẻ lái đương huýt sáo. Tôi chui tọt vào thùng lê, nhưng sờ mãi không còn một quả. Ngồi trong thùng tối om, tàu đưa lúc lắc, tôi thấy thu thú. Chợt có người ngồi phịch xuống cạnh thùng. Chiếc thùng lay chuyển, hình như có người tựa vào. Tôi định bò ra thì liền nghe tiếng hắn nói với một người nào đó. Tôi nhận ngay ra tiếng của gã Xin-ve. Mới nghe vài ba câu đầu, tôi đã nhận thấy ngay không phải câu chuyện thường... Tôi nằm thu mình trong thùng lắng nghe, phần sợ chúng biết, phần tò mò kích thích. Vì chỉ qua vài ba câu đầu ấy tôi đã hiểu rằng giờ đây tất cả số phận của những người lương thiện trên tàu, tất cả hoài bão của chúng tôi đều trông vào tôi cả.
 
Những điều tôi nghe được khi nấp trong thùng lê

Tiếng gã Xin-ve nói:
-Tôi mất cái chân này là khi tôi làm đầu mục cho lão Phơ-linh. Người cưa chân cho tôi là một tay mổ xẻ rất giỏi. Hắn học rộng, biết nhiều chữ la-tinh. Nhưng rút cục rồi cũng phải phơi thây hắn ra ngoài nắng. Trước kia tôi đi với Phơ-linh, bây giờ thì tôi đi riêng cho tôi. Thủ hạ cũ của Phơ-linh phần nhiều hiện ở trên tàu này. Làm nghề này được tiền nhiều nhưng phải biết dành dụm. Cứ trông cái gương lão Piu. Hắn ăn tiêu như phá đến nỗi phải đi ăn xin rồi phải chết dưới gầm cầu.
-Phải! Tiền ấy rút cục cũng chẳng dùng được việc gì. Một tiếng nói khác, nghe ra tiếng gã thủy thủ trẻ nhất trên tàu. Tiếng Xin-ve nói to:
-Chỉ thằng ngốc mới không được việc gì. Anh còn trẻ người nhưng anh rất thông minh, tôi vẫn coi anh như người già dặn nên mới ngỏ lời với anh... Các bạn thừa biết khi tôi nghe cái thằng giặc già đểu cáng ấy nói với kẻ khác cũng dùng những giọng lưỡi như đã nói với tôi thì tôi tức giận đến thế nào. Hắn lại nói tiếp:
-Anh xem đó, bọn giang hồ mình phải gian nan nhiều, nhưng tiền cũng lắm. Khắp các nhà "băng" tôi đều có tiền gửi. Bây giờ tôi cũng đã năm mươi tuổi đầu rồi chớ ít ỏi gì. Tôi định đi chuyến này về là tìm nơi an cư lạc nghiệp, tận hưởng giàu sang. Nhưng lúc đầu thì tôi cũng chỉ là tên thủy thủ thường như anh thôi! Giọng tên kia có vẻ thán phục:
-Anh thật là một tay cừ khôi. Thế xong việc thì làm thế nào anh về được Brít-tôn? Gã Xin-ve cười khà khà:
-Đợi anh phải hỏi! Hiện giờ thì vợ tôi đã lấy tiền ở nhà băng, đã bán sạch nhà cửa và đương trên đường đi theo tôi. Rồi giọng gã nói có vẻ mơn trớn, ân cần:
-Chỗ bạn giang hồ với nhau, tôi nói thật! Khi tôi còn làm đầu mục dưới trướng lão Phơ-linh, thì trong bọn với nhau cũng chẳng tốt lành gì. Bây giờ dưới trướng tôi, anh có thể vững bụng được. Tên thủy thủ trẻ nói:
-Tôi cũng thú thật, trước khi gặp anh, tôi chẳng ưa gì việc này, nhưng bây giờ anh có thể tin ở tôi được.
-Anh rõ là một gã thông minh có tâm huyết. Trong bọn tôi ít có người như anh. Xin-ve vừa nói vừa siết chặt tay tên kia làm rung chuyển cả thùng lê. Bây giờ tôi mới hiểu là hắn đương quyến rũ một người thủy thủ lương thiện. Hắn huýt khẽ một tiếng. Một người khác bước vào. Hắn lên tiếng:
-Đích khi nào cũng đúng hẹn. Lại thêm một tiếng nói nữa, tôi nghe rõ giọng lão Han:
-Anh Xin-ve, tôi chán ngấy cái lão thuyền trưởng rồi. Lão không cho tôi lấy một hớp rượu. Anh còn đợi đến bao giờ mới hành sự? Xin-ve đáp:
-Đừng nóng mắt! Cứ làm theo lời tôi dặn. Bao giờ được thì tôi bảo. Lão Han vừa khạc nhổ vừa càu nhàu:
-Bao giờ mới được chứ? Xin-ve nói to:
-Han! Cứ bao giờ, bao giờ mãi! Anh cũng thấy chứ? Lão quý tộc với lão thầy thuốc cất giấu giấy tờ kho vàng ở đâu, có ma nào biết! Còn thằng thuyền trưởng là tay đi biển thạo. Phải để cho bọn hắn lấy được của, tải hộ ta xuống tàu rồi mới khử chúng. Đích hỏi:
-Dễ chừng chỉ có tên thuyền trưởng là đi biển thạo à? Xin-ve vội đáp:
-ừ, các bố thạo cho tàu chạy, nhưng chạy về đường nào? Trong bọn ta ai là người thuộc đường? Các bố chắc chịu? Nếu làm theo ý tôi thì đợi lúc quay về, có gió nồm thì ta mới hạ thủ lão ấy. Tôi biết các bố bây giờ chỉ háu ăn. Chính mắt tôi trông thấy nhiều tay cừ khôi mà chết uổng mạng chỉ vì nóng ăn đấy. Đích hỏi:
-Anh định khử họ như thế nào? Lão Han buột mồm:
-Chỉ có hai lối: một là bỏ họ lên đảo, hai là chặt họ ra từng khúc. Tên bếp tàu nói:
-Tôi ấy à? Tôi chỉ muốn tóm lấy lão Chi, vặn trái cổ lão ấy ra sau.
-Rồi hắn quay sang chuyện khác:
-Đích! Đi lại lấy một quả lê ăn cho đỡ khát. Lúc ấy tôi chỉ muốn nhảy phóc một cái chạy nhoáng nhoàng ra ngoài, nhưng may sao lão Han đã gạt đi:
-Thôi! Ăn lê làm quái gì! Lấy cốc "rum" cho nó đỡ nhạt mồm. Tên Xin-ve bảo:
-Đích! Cái chìa khóa đây. Anh đến chỗ thùng rượu mà lấy. Nhớ đừng quên khóa. Tuy run sợ, nhưng tôi vẫn nhớ ngay đến viên thuyền phó. ông ta đã bỏ mạng vì cái thìa khóa hầm rượu này. Khi tên Đích mang rượu đến thì một tia sáng rọi vào thùng chỗ tôi ngồi. Tôi ngẩng lên: trăng đã mọc lấp loáng trên đầu cột buồm sau và chiếu trắng cánh buồm. Ngay lúc ấy, nguời gác chòi kêu to:
-Đất liền kia rồi!
 
Hội đồng quân sự

Mọi người rầm rập chạy lên boong. Tôi vội chui ra khỏi thùng lê, lẩn sau cột buồm rồi đi vòng lại. Một dải sương mù đã lên cao. Vừa lúc ấy vầng trăng cũng nhô lên. Xa xa về phía tây nam, hai cái gò thấp cách nhau chừng hai dặm; đằng sau một cái nữa cao hơn, đỉnh gò 53 54 còn khuất trong sương mù. Cả ba đều nhọn như hình chóp nón. Tôi nhìn cảnh ấy như trong một giấc chiêm bao. Tiếng ông thuyền trưởng hỏi:
-Có anh nào biết đảo này không? Gã Xin-ve lên tiếng ngay:
-Có, tôi đã đến đó khi tôi còn làm bếp cho một chiếc tàu buôn.
-Chỗ bỏ neo ở phía nam, sau cái đảo con phải không?
-Thưa ông phải. Người ta vẫn gọi đảo ấy là đảo Hình Người. Cái gò phía bắc gọi là gò Cột Cái. Còn cái gò lớn có mây phủ kia là gò Vọng Viễn. Người ta gọi thế, vì ở trên ấy có thể trông xa trong khi thả neo để rửa tàu.
-Có bản đồ đây, anh xem thử có đúng không? Khi cầm bản đồ, mắt Xin-ve long lanh, nhưng kịp trông màu giấy còn mới, gã phải thất vọng vì đó chỉ là bản sao lại. Tuy thất vọng, nhưng gã tinh khôn, không để lộ ra mặt. Gã bảo:
-Thưa ông! Chính phải! Vẽ khéo lắm! Tôi rất lấy làm lạ về cử chỉ bình tĩnh của gã khi gã nhận có biết khu đảo. Thú thật lúc thấy gã lại gần tôi, tôi hơi rợn. Dĩ nhiên là gã không biết tôi ngồi nấp trong thùng lê, nhưng tôi ghê sợ cái tính ác độc và cái sức mạnh đen tối của gã. Vì thế khi gã chạm đến tay tôi, tôi rùng mình như chạm phải miệng rắn độc. Gã nói với tôi:
-Chà! Cái đảo này tuyệt đẹp! Trẻ tuổi như cậu mà lên chơi đó thì thật sướng. Tha hồ mà trèo nhảy, thung thăng như con thỏ rừng. Tôi được đến những chỗ này cũng thấy mình như trẻ ra. Khi nào có lên chơi thì bảo tôi, tôi có ít đồ ăn lót dạ cho cậu dùng. Nói xong, hắn vỗ vai tôi rồi chống nạng đi xuống. Tôi thấy ông thuyền trưởng đứng nói chuyện với bác sĩ và ông Chi ở đằng lái. Tôi không dám cắt đứt câu chuyện của ba ông. May sao bác sĩ vừa thấy tôi đã vẫy lại, bảo tôi đi lấy cái tẩu thuốc. Đến gần, tôi nói ngay:
-Tôi có nhiều chuyện cấp bách muốn báo với ba ông. Nét mặt bác sĩ hơi khác, sau trở lại như thường. ông nói to lên một cách tự nhiên:
-Cám ơn cậu Dim! Chỉ có thế! Xong ông quay lại, chuyện trò với hai ông kia. Một chốc sau thuyền trưởng cho thổi còi tập hợp. ông nói:
-Hỡi các bạn, chúng ta đã tới đích. Tất cả anh em đều làm tròn việc. ông Chi có lòng tốt đem rượu cho anh em uống để mừng. Chúng tôi cũng sắp xuống phòng dưới uống với nhau vài cốc. Nếu các anh đồng ý, chúng ta nên hoan hô cảm ơn ông Chi. Mọi người đều hò reo vui vẻ. Ba ông xuống phòng. Lúc tôi bước vào thì ba người đương ngồi quanh bàn, trên có chai rượu và vài chùm nho. Trông thấy tôi, ông Chi bảo ngay:
-Cậu Dim muốn nói gì, nói đi! Tôi vội vàng thụât lại những lời của Xin-ve. Trong khi tôi nói, mọi người ngồi im phăng phắc, mắt dán vào tôi. Tôi nói xong, bác sĩ rót cho tôi một cốc rượu và giúi vào tay tôi rất nhiều nho. Cả ba cùng nâng cốc uống mừng về sự quả cảm và nhanh trí của tôi. Uống xong, ông Chi nói trước:
-ông thuyền trưởng, trước nay tôi đối với ông rất không phải. Bây giờ tôi mới biết tôi lầm. Tôi quả là đồ ngốc.
-Tôi đây mới ngốc chứ! Cả một vụ âm mưu cướp tàu ở ngay dưới mắt tôi mà tôi không hề biết! Bây giờ thì tôi có mấy ý kiến xin phép tỏ bày...
-Vâng, ông cứ nói.
-Điều thứ nhất là chúng ta phải tiếp tục đi, vì nếu quay về là lập tức chúng sẽ khởi loạn! Điều thứ hai là từ nay cho đến khi tìm thấy của, ta còn có thời giờ chuẩn bị. Điều thứ ba là ta còn có những người trung thành. Bây giờ ta sẽ đợi cơ hội bất ngờ là hành động. Nếu ông thuận, tôi cứ việc cho tàu chạy nhưng sẽ bố trí đề phòng! Bác sĩ Ly nói:
-Cậu Dim có thể giúp ta được nhiều việc. Chúng không nghi cậu mà cậu lại có óc nhận xét. Từ nay trở đi cậu nhớ luôn luôn theo sát lão Xin-ve. ông Chi nói thêm:
-Cậu Dim, cậu là một cậu bé rất gan dạ, chúng tôi hy vọng ở cậu nhiều. Tôi nghe nói thế cũng thấy tự hào. Tôi mong có cơ hội là cố gắng làm theo lời dặn của bác sĩ Ly. Nhưng tự xét tôi cũng chẳng tài cán gì, mà hiện nay, trong số bảy người của chúng tôi thì tôi lại là một đứa trẻ! Như thế là chỉ có sáu người mà phải chống chọi với mười chín tên lực lưỡng trong bọn chúng.
 
Bước chân lên đảo

Sáng hôm sau, đứng trên boong nhìn ra, tôi thấy cảnh tượng khu đảo khác hẳn. Những dãy núi phơn phớt màu xám chiếm gần hết khu đảo. Lác đác có những dải cát vàng và những khóm thông cao. Tất cả một màu ảm đạm. Núi gò nhô hẳn lên phơi những tảng đá trơ trụi. Cái nào cũng hình thù cổ quái. Gò Vọng Viễn là gò cao nhất trong đảo. Hình dáng nó cũng kỳ khôi, bốn bề dốc ngược, trên đỉnh như bị tiện ngang, trông giống cái đế một pho tượng. Tàu phải đi ngoắt ngoéo men theo đảo để đến cái lạch sau đảo Hình Người. Neo vừa bỏ, một đàn chim đã bay vù lên, rồi cảnh vật trở lại yên tĩnh. Chung quanh, rừng cây mọc um tùm. Bờ biển thấp, những gò cao đằng xa trông từng bậc như bậc thang. Hai con sông vẩn bùn chảy vào vũng ấy. Không một rẻo gió. Ngoài tiếng sóng vỗ bờ cách xa nửa dặm, chẳng nghe tiếng gì khác nữa. Mùi thân cây ruỗng thối và lá cây mục xông lên nồng nặc. Tôi thấy bác sĩ Ly cứ khìn khịt mũi như người ngửi phải trứng thối...
Lúc ấy mặt trời nóng bức. Không khí trên tàu cũng bừng bừng. Trong đám thủy thủ đã có nhiều dấu hiệu đáng lo ngại. Họ túm tụm với nhau từng đám, thầm thì to nhỏ. Mắt họ gườm gườm, mặt họ đầy sát khí. Việc nổi loạn đã rõ rệt. Nó bao phủ chúng tôi như cơn dông sắp đến. Tên Xin-ve có lẽ cũng nhận thấy thế nên hắn chạy lăng xăng cố lấy lời phải chăng khuyên nhủ mọi người. Lệnh vừa truyền, hắn đã xung phong làm trước. Có lúc hắn cố hát to và bông đùa để làm khuây lãng nỗi uất ức của đồng bọn. ông thuyền trưởng gặp riêng chúng tôi và bảo:
-Chúng ta bây giờ như ở vào cái thế của người cưỡi hổ. Nếu tôi bắt họ tuân lệnh thì họ nổi xung ngay. Nếu im lặng, thì Xin-ve tất sinh nghi. Bây giờ tôi định cho họ lên bờ nghỉ. Nếu họ đi, ta giữ lấy tàu. Nhược bằng không đi, ta giữ lấy mấy gian phòng mà chống cự. Nhưng muốn cho công việc được ổn thỏa, ta có thể trông cậy vào một người. ông Chi hỏi ngay:
-Ai? Thuyền trưởng đáp:
-Thưa ông, Xin-ve! Chính hắn cũng muốn êm chuyện. Như lời cậu Dim, hắn muốn đợi khi ta tìm xong của mới ra tay, nên hắn có thể dàn xếp yên được.
Thế là kế hoạch bắt đầu được thực hiện. Những súng lục nạp đạn đều phân phối trong bọn chúng tôi. Những người thân tín như Hun-tơ, Do-sơ, lão Ri đều được biết chuyện. Họ chẳng hề ngạc nhiên hay sợ sệt. Trái lại, họ tỏ ra rất bình tĩnh và gan dạ. Thật là một sự khích lệ. ông thuyền trưởng lên boong tuyên bố cho phép thủy thủ lên bộ chơi. Trước khi mặt trời lặn sẽ bắn đại bác báo hiệu về. Nói xong, ông bỏ đi xuống để cho Xin-ve tự nhiên trở thành người đứng ra chỉ huy công việc. Kết quả là có người ở lại và mười sáu người xuống thuyền đi chơi, trong đó có Xin-ve. Nhớ lời bác sĩ Ly căn dặn là luôn luôn phải theo sát Xin-ve, tôi bỗng nảy ra ý định xuống thuyền đi theo dõi Xin-ve. Tôi nghĩ rằng Xin-ve chỉ để lại sáu người thì không thể chiếm tàu mà đi được. Tôi ở lại tàu cũng bằng thừa. Cứ đi theo chúng xem sao. Thế là trong nháy mắt tôi lần xuống thuyền, ngồi thụp xuống. Kịp khi Xin-ve biết thì thuyền tôi đi trước đã cập bờ. Tôi nhảy tót lên lẩn vào bụi rậm, còn nghe tiếng Xin-ve gọi với đằng sau:
“Dim, Dim!" Lánh được Xin-ve, tôi khoan khoái lạ lùng. Cảnh lạ làm tôi vui mắt. Rừng ở đây liễu mọc chen chúc, lau sậy um tùm. Có những cây sên lùn tịt thấp lè tè như bụi rậm, cành xoắn lại, lá rậm sin sít như mạ xanh. Rắn bò lúc nhúc. Lần đầu trong đời, tôi được nếm cái thú vị của người thám hiểm khi đặt bước lên miếng đất hoang vu chưa có dấu chân người. Thốt nhiên, có tiếng động trong khóm lau. Một con le, rồi cả đàn le bỗng bay vù lên, tiếng kêu inh ỏi. Tiếp đó, tôi nghe rõ tiếng người. Tiếng ấy làm tôi hoảng sợ vì tôi biết ngay là tiếng nói của gã Xin-ve. Tôi đã định bỏ chạy, nhưng sau tôi nghĩ lại. Mình chưa làm tròn nhiệm vụ. Đã có gan đi theo chúng, sao lại không có gan lại gần chúng để xem chúng làm gì? Thế là tôi bò lại chỗ có tiếng người, bò thật cẩn thận. Tôi thấy rõ Xin-ve và một người nữa trong bọn đang ngồi đối diện trên bãi cỏ xanh. ánh nắng chiếu thẳng vào mặt hai người. Tiếng Xin-ve đương nói:
-Có tin cậy anh lắm thì tôi mới cất công đến đây bảo với anh. Giá phải người khác... anh thử nghĩ đối với họ tôi sẽ xử trí như thế nào? Người kia đáp lại, mặt đỏ gay, giọng khàn khàn, run run:
-Anh Xin-ve! Tôi không ngờ anh lại đi theo bọn khốn nạn kia! Chẳng thà tôi chịu chặt tay còn hơn phải làm ch.uyện ấy. Xin-ve bỗng chống nạng vụt đứng lên, đôi mắt ti hí sáng chói như mắt rắn độc rình mồi, hỏi gặng:
-Thế là anh nhất quyết không nhập bọn với tôi phải không? Người kia bỗng tức giận quát to:
-Xin-ve! Khi xưa anh là bạn của tôi. Từ nay tôi xin từ mặt anh ra. Nếu có giỏi, anh cứ giết tôi. Tôi thách anh đấy! Nói xong, người kia bỏ đi. Xin-ve hét to một tiếng, nhấc cái nạng ở nách, nhặt một cành cây lao theo. Đầu cành cây trúng ngay giữa lưng người kia. ông ta giơ hai tay lên, lảo đảo rồi ngã gục. Người đó chưa kịp nhỏm lên thì Xin-ve đã chạy lại, cưỡi lên, rút dao hạ thủ. Xong, con quỷ dữ ấy lại bình tĩnh đội mũ lên, chống nạng đi lững thững. Cảnh tượng xung quanh vẫn không thay đổi. Mặt trời vẫn thản nhiên chiếu xuống mặt hồ đương bốc hơi. Nhìn phong cảnh ấy, khó lòng mà tin rằng có một việc giết người rất tàn ác vừa xảy ra. Tôi đưa tay xoa mắt, bàng hoàng cả người. Tôi bỗng muốn rời ngay, rời tức khắc cái nơi giết người gớm ghiếc này. Tôi bò nhanh ra rừng rồi cắm đầu cắm cổ chạy.
 
Người trong đảo

Đến gần một cái đầm, tôi đứng dừng lại. Tôi bỗng thoáng thấy sau một gốc thông, có một vật gì nhảy nhanh lạ thường. Tôi chỉ biết hình thù nó đen và lông lá. Sợ quá, tôi quay gót lui về phía tàu đỗ. Thoáng cái, cái bóng lúc nãy lại hiện ra, nó đi một vòng dài rồi đến chặn ngang trước mặt tôi. Con quái vật ấy nhảy từ gốc cây nọ qua gốc kia như một con nai. Hắn chạy hai chân như người. Mà quả là người thật. Tôi chợt nhớ có lần tôi đã nghe nói đến giống người ăn thịt người. Tôi định kêu cứu. Nhưng đã là người, thì chắc cũng không đến nỗi như tên Xin-ve gớm ghiếc kia. Nghĩ thế tôi trở lại bình tĩnh. Vụt nhớ đến khẩu súng lục trong mình, tôi đâm vững dạ. Tôi quay về hắn, mạnh bạo tiến lại. Hắn cũng nhô ra, bước lại phía tôi. Nhưng hắn hơi ngần ngại, lùi lại một lúc mới tiến lên. Rồi hắn bỗng quỳ xuống, giơ hai tay ra như van xin, làm tôi vừa lạ lùng vừa bối rối. Tôi hỏi:
-Anh là ai?
-Tôi là Ben-gun. Tôi là kẻ khốn nạn đã ba năm nay chưa được gặp một người.
Tiếng hắn rè đặc như tiếng khóa gỉ. Mặt hắn trông cũng dễ coi. Da hắn phơi nắng nên chỗ nào cũng cháy sém. Đôi mắt xanh trên khuôn mặt đen mò. Hắn ăn mặc rách rưới lổ đổ như tổ ong. Hắn đính vào người đủ các thứ mảnh buồm cũ, vải sơn, khuy đồng, dây rợ. Hắn đeo quanh mình một chiếc thắt lưng bằng da đã cũ. Xem ra, trong bộ quần áo của hắn, thứ này còn lành lặn hơn cả. Tôi hỏi hắn:
-Anh ở đây đã ba năm rồi ư? Anh bị đắm tàu giạt vào đây phỏng?
-Không! Tôi bị đày. Người ta đày đọa tôi ở đây, tôi phải săn dê, tìm quả, mò ốc hến để ăn. Này ông bạn ơi! ông có miếng phó-mát nào đấy không? Chắc không rồi! Lâu nay tôi chỉ mơ tưởng được ăn miếng phó-mát. à quên! Tên anh là gì nhỉ?
-Dim!
-Dim, Dim!
-Hắn nhắc lại, ra vẻ bằng lòng lắm.
-Anh Dim ạ! Nói ra thật xấu hổ. Anh trông tôi thế này, tất không đoán được tôi còn có mẹ già. Mẹ tôi là người ngoan đạo. Mà trước kia tôi cũng là đứa trẻ rất ngoan đạo. Tôi đọc kinh làu làu. Vậy mà bây giờ ra thế này. Thôi! Chính Chúa Trời đã phạt tôi ở đây. ở trên hoang đảo này, tôi có thì giờ nghĩ kỹ rồi. Tôi sẽ tu tỉnh làm ăn... Bỗng mặt hắn sa sầm, rồi hắn chỉ vào tôi và hỏi:
-Anh phải nói thật cho tôi biết, anh có phải là người của Phơ-linh không? Tôi bỗng nảy ra một ý hay. Tôi chắc hắn có thể là một tay cộng tác tốt với chúng tôi. Tôi đáp:
-Tôi nói thật cho anh rõ: Phơ-linh chết rồi. Hiện chỉ còn mấy tên thủ hạ khốn nạn của lão ấy trên tàu chúng tôi thôi. Hắn ấp úng hỏi:
-Thế có đứa nào cụt chân không? Tôi bảo:
-Xin-ve phải không? Hắn nói như đuối hơi:
-Nếu Xin-ve sai anh lại đây thì tôi nguy mất. Tôi thuật lại tất cả chuyện của chúng tôi cho hắn nghe. Mặt hắn tươi dần, rồi sau cùng hắn niềm nở vỗ vào vai tôi:
-Các anh đừng sợ. Xin các anh cứ tin cậy ở Ben này. Ben này có thể giúp các anh gỡ chỗ bí. Nhưng không biết cái ông quý tộc nhà anh có rộng lượng với kẻ này không? Tôi bảo ông Chi là người rất hào hiệp và tôi cam đoan đảm bảo cho hắn. Hắn lại hỏi một cách láu lỉnh:
-Thế còn chuyến về? Tôi đáp:
-Anh nên nhớ ông ta là người lớn. Vả lại nếu trừ xong bọn kia, chúng tôi cũng phải cần đến anh để cho tàu vào bến.
-à ra thế! Nói xong, hắn có vẻ yên tâm hơn trước. Câu chuyện giữa Ben và tôi dần dà làm tôi vỡ lẽ vì sao Ben lại sống ngoài đảo hoang vu này. Chuyện đó như sau: Xưa kia Ben làm việc dưới tàu của lão Phơ-linh. Một hôm Phơ-linh cho tàu chạy đến đảo này. Khi cập bến, lão bắt sáu tên thủ hạ đi chôn kho vàng của lão. Khi chôn xong lão sợ bị tiết lộ, bèn giết hết sáu tên thủ hạ đó. Lúc đó Ben ở dưới tàu với Piu và Xin-ve. Piu lúc đó làm phó thuyền và Xin-ve làm đội trưởng. Ba năm sau, nhớ đến kho vàng, Ben cùng một số thủ hạ thuê tàu vượt đến đảo này. Họ mưu cùng nhau tìm kho vàng của lão Phơ-linh để về làm giàu, nhưng tìm không ra. Bọn thủ hạ tức giận bỏ Ben lại đảo với một khẩu súng tay và một cái thuổng. Ben nói:
-Anh cứ nói với nhà quý tộc rằng ba năm tôi ở đảo... cũng làm... ra trò đấy. Nói đến đây, hắn béo tôi một cái ra ý thân mật. Tôi sốt ruột bảo:
-Bây giờ làm thế nào anh giúp tôi xuống được tàu đây! Hắn nói:
-Kể cũng khó! à, tôi có một chiếc xuồng do tay tôi đóng lấy. Tôi giấu nó dưới hốc đá trắng đầu kia... Kìa! Cái gì thế?
Thốt nhiên hắn kêu to lên, vì lúc ấy mặt trời còn cao mà tiếng đại bác dưới tàu đã nổ vang làm rung động cả khu đảo.
-Đánh nhau rồi! Tôi cũng kêu to lên, rồi hấp tấp chạy về phía tàu đỗ. Bên cạnh tôi, Ben-gun khoác áo da dê bước nhanh thoăn thoắt. Một tiếng đại bác nữa. Một lúc lâu, có tiếng súng tay nổ liên hồi. Trước mặt tôi, lá quốc kỳ phất phới trên một khu rừng. Ben-gun bỗng ngồi thụp xuống:
-Kìa! Bọn anh đã thắng rồi. Họ đã lên bờ chiếm cái khu đồn cũ của lão Phơ-linh kìa! Tôi bảo:
-Thế thì phải đến ngay đấy mới được! Hắn nói:
-Không! Anh Dim ạ, anh tốt bụng nhưng anh còn ít tuổi. Trước khi chưa gặp nhà quý tộc, tôi chưa đi với anh đến đó đâu. Anh về nhớ nói cho người đến, mà phải mang theo cái gì làm tin. Tôi hỏi:
-Nhưng gặp anh ở chỗ nào và vào lúc nào mới được chứ? Hắn đáp:
-Cứ đến chỗ cũ anh vừa gặp tôi, từ lúc mặt trời đứng bóng cho đến khi lặn, mà nhớ phải có cái gì làm tin đấy. Hắn lại tiếp:
-Nếu bọn chúng mà lên đóng trên đảo thì thế nào tôi cũng tìm cách giết một vài tên để giúp bọn các anh và để các anh biết lòng dạ ngay thật của tôi. Hắn vừa nói đến đấy thì có một tiếng nổ dữ dội, rồi một viên đạn đại bác nổ oàng gần chỗ chúng tôi đứng. Hai chúng tôi mỗi người chạy một ngả
 
Cố thủ trên đảo


Kể từ lúc tôi đặt chân lên đảo, ở dưới tàu đã xảy ra nhiều chuyện. Sau đây là lời bác sĩ Ly thuật lại cho tôi nghe... Được tin tôi đi lên đảo, bác sĩ Ly và đồng đội rất lo ngại cho số phận của tôi. Bác sĩ liền rủ Hun-tơ xuống một chiếc xuồng rồi vào bờ để dò la tình hình bọn cướp. Trong bờ có một dãy thuyền đỗ; có hai đứa ngồi trên hai chiếc thuyền hình như để canh giữ. Khi vào bờ, bác sĩ chạy rón rén lại gần chỗ chúng buộc thuyền. Vừa đi chưa được trăm mét đã gặp ngay chiếc lô cốt sừng sững trên một đỉnh gò. Một dòng suối trong xanh chảy từ trên đỉnh xuống. Chiếc lô cốt này làm bằng gỗ rất kiên cố, có thể chứa được bốn mươi người. Bốn mặt đều có nhiều lỗ châu mai. Chung quanh lô cốt đã phát quang một khu rộng. Ngoài ra lại có một hàng rào cao ngót hai mét. Nếu đóng cố thủ trong lô cốt thì rất yên trí: có thể bắn tỉa vào kẻ địch đến vây h.ãm như bắn gà rừng. Bác sĩ rất chú ý đến con suối, vì ở trên tàu nước ngọt cũng đang thiếu. Thế là chỉ cần có đủ lương thực, khí giới là có thể cố thủ ở đây lâu được. Nghĩ thế, bác sĩ lập tức trở về tàu. ông Chi đương ngồi ủ rũ trong phòng, tự trách vì sự sơ suất của bản thân mà để cả bọn phải gặp bước nguy nan. Nhưng sau khi nghe bác sĩ trình bày kế hoạch, ông phấn chấn hẳn lên. Theo nhận định của bác sĩ thì cần lên lô-cốt để cố thủ vì ở dưới tàu cũng đã hết nước uống. Nếu ở dưới tàu mà ta ra mặt chống lại thì thật không lợi vì bọn chúng có đặt hai tên canh giữ trên bờ. Chúng có thể ra hiệu tập hợp nhanh chóng để bắn xuống tàu.
Hơn nữa nếu chiếc tàu này bị bọn giặc chiếm thì trong một thời gian nữa sẽ có một chiếc tàu khác đến đón về theo như kế hoạch đã dự định. Kế hoạch này bác sĩ đã giao cho một người thân tín ở nhà. Trước khi ra đi, bác sĩ bảo lão Ri nấp trong đường hầm đằng mũi, cấp cho lão ba bốn khẩu súng để đứng trấn thủ. Hun-tơ thì kéo chiếc xuồng con đến dưới cửa sổ tàu. Còn Do-sơ và bác sĩ thì khuân đạn, súng, mấy túi bánh quy, dăm thùng thịt lợn ướp, một thùng rượu và hòm thuốc quý của bác sĩ xuống thuyền. Thuyền trưởng và ông Chi trấn trên boong tàu. Thuyền trưởng gọi lão Han, tên cầm đầu sáu đứa còn lại, bảo:
-Này anh Han! Hai chúng tôi đây đều có súng nạp sẵn đạn. Nếu trong bọn anh, người nào xông lại đây, lập tức tôi bắn vỡ óc.
Cả bọn có vẻ hoang mang, một đứa trong bọn có vẻ ủ dột hẳn. Cuối cùng bọn chúng bàn bạc rồi nhảy lên sàn tàu, định bọc lối sau đánh úp lại. Nhưng khi thấy lão Ri đứng trấn ở đường hầm, chúng vội vã rút lui. Trong lúc ấy, khuân xong mọi vật xuống thuyền, bác sĩ cùng Do-sơ chui qua cửa sổ trèo xuống. Lần đi này làm cho hai tên giặc canh trên bờ chú ý. Một đứa nhảy lên và biến mất. Tải xong các thứ vào lô-cốt, bác sĩ để Do-sơ ở lại canh giữ. Trước khi đi về tải chuyến cuối cùng, bác sĩ để thêm Hun-tơ ở lại giữ lô-cốt. Bác sĩ vẫn đi bừa vì nghĩ rằng bọn chúng tuy đông nhưng ở trên tàu không một đứa nào có súng trường cả. Trước khi chúng tiến đến gần để dùng súng lục, thì người của ông có thể đã bắn chết hàng tá. Trước khi xuống thuyền để đi chuyến cuối cùng, mỗi người chỉ giữ một khẩu súng trường và một con dao. Còn lại khí giới và thuốc súng đều ném cả xuống biển. Trong lúc ở trên tàu, ông thuyền trưởng đã thấy rõ một đứa trong bọn hình như còn bỡ ngỡ và miễn cưỡng đi theo chúng. Khi sắp xuống thuyền, thuyền trưởng gọi to:
-Anh Grây, tôi bỏ tàu đây, tôi ra lệnh cho anh phải theo tôi ngay. Tôi biết anh vốn là người lương thiện. Đừng để lỡ cơ hội, tôi hạn cho anh trong nửa phút nữa.
Bên kia vẫn im lặng. Nhưng lời kêu gọi cuối cùng ấy đã có kết quả. Vì bên kia bỗng có tiếng đấm đá, rồi Grây chạy ra, về với bọn ông Ly. Nhưng chuyến đi cuối cùng này thật gian truân. Đồ nhiều, người đông mà xuồng thì nhỏ. Về phía lái, mép thuyền đã mấp mé mặt nước. Nước thủy triều lại đang dâng lên. Dòng nước chảy rất mạnh cứ kéo phăng con thuyền ra khỏi con đường đã định và trôi về phía dãy thuyền đỗ trên bờ của bọn giặc. Thuyền trưởng bảo cứ cho xuôi theo dòng rồi đi ngược lại. Thốt nhiên thuyền trưởng kêu lên:
-Khẩu đại bác! Lúc này mấy ông mới chợt nhớ đã quên khuấy khẩu đại bác đặt bên hông chiếc tàu. Khi nhìn lại sau thì thấy năm thằng giặc kia đang xúm xít quanh khẩu súng lớn. Chúng đã cởi áo súng ra. Grây bảo, giọng lo ngại:
-Thằng Han trước kia là tay bắn đại bác cho Phơ-linh. Lúc này thuyền đã đi ngược men bờ nên quay mình về phía sau và trở thành một tấm bia rất tốt cho bọn chúng. Thằng Han đứng lắp đạn. Thuyền trưởng hỏi:
-Đây ai bắn giỏi? Bác sĩ đáp:
-ông Chi đây chứ còn ai. Thuyền trưởng bảo:
-ông Chi! ông hạ cho một đứa. Nếu hạ được thằng Han thì tốt nhất. Nhưng bắn cho khéo, kẻo thuyền tròng trành, đắm bây giờ. Ai nấy ngồi cho cân đi. ông Chi lạnh lùng nhìn cái bùi nhùi rồi giương súng bắn. Nhưng thật không may. Khi ông Chi bắn thằng Han vừa cúi xuống. Viên đạn bay qua đầu hắn, trúng vào một đứa đứng sau. Một tiếng kêu rống lên rồi tiếp theo trên bờ cũng có nhiều tiếng kêu khác. Nhìn về phía bờ, bác sĩ thấy bọn giặc đã nhảy cả từ trong bụi ra. Trong khi ấy thuyền đã gần đến doi cát dài trên bờ. Nhưng đại bác của chúng lại sắp bắn. Thuyền trưởng chỉ kịp ra lệnh:
“Ngồi cho vững!" là tiếng súng nổ. Đó là tiếng đại bác tôi nghe nổ lần đầu khi tôi ở trên đảo. Quả đại bác không trúng thuyền, nhưng hơi gió tạt đã làm thuyền chìm xuống. Thuyền đắm đằng lái nhưng may chỗ này ở gần bờ nên nước đã cạn. Mọi người không ai can gì. Chỉ tai hại là lương thực chìm cả với ba khẩu súng bị ướt. Chỉ còn hai khẩu súng của bác sĩ và của thuyền trưởng là còn dùng được. Cả bọn lóp ngóp lội vào bờ, bỏ lại chiếc thuyền cùng với một nửa số lương thực và thuốc súng. Đi được một lúc, đã nghe rõ tiếng nói của bọn giặc và tiếng chân chúng giẫm gãy cành khô khi chúng lách qua bụi rậm. Bác sĩ liền nghĩ đến chuyện sắp phải đánh nhau nên vội bảo ông thuyền trưởng:
-Trong bọn ta, ông Chi bắn cừ nhất. ông đưa súng của ông cho ông ấy. Súng ông ấy không dùng được nữa rồi.
Hai người trao súng cho nhau. Từ lúc bắt đầu giao chiến, ông Chi vẫn lạnh lùng như băng. Thấy Grây tay không, bác sĩ liền rút dao đưa cho hắn. Hắn nhổ nước bọt vào tay, cau mày, múa con dao vù vù làm mọi người thêm yên bụng. Đi thêm vài chục bước, đã thấy khu vực lô-cốt ở ngay trước mặt. Tốp của bác sĩ vừa đến hàng rào thì đã thấy bảy tên giặc, đi đầu là An-đe-sơn, hò reo ầm ầm, kéo lại. Không ai bảo ai, súng ở ngoài và súng ở trong lô-cốt cùng một lúc nổ vào bọn giặc. Tuy bốn phát súng bắn rời rạc nhưng cũng có một phát trúng, làm một tên giặc ngã quay lơ. Số còn lại quay đầu chạy lẩn vào bụi. Cả tốp đi vòng hàng rào, đến xem tên giặc bị ngã. Hắn đã chết thẳng cẳng, viên đạn trúng ngay vào tim. Đương vui mừng thắng lợi, thì bỗng nghe tiếng đạn súng lục nổ trong lùm cây. Viên đạn bay vèo qua tai bác sĩ rồi thấy lão Ri lảo đảo ngã xoài trên đất. ông Chi và bác sĩ nhanh nhẹn bắn trả ngay nhưng bọn chúng đã chạy mất. Bác sĩ đi lại nhìn vết thương thì biết ngay là khó lòng cứu chữa. Khi khiêng được lão Ri vào lô-cốt thì lão đã tắt thở. Từ lúc xảy ra chuyện biến trên tàu cho đến khi chết, lão vẫn tỏ ra điềm tĩnh, gan lì. Lão đã đứng trấn ở đường hầm trên tàu, hăng hái và dũng cảm như một người lính cảm tử. Lão đã lặng lẽ tuân lệnh một cách trung thành, không do dự. Trong bọn, lão là người lớn tuổi nhất và cũng lại là người hy sinh trước nhất. ông Chi quỳ ôm xác lão, khóc nức nở như một đứa trẻ. Trong khi ấy, ông thuyền trưởng người cứ dày cộm lên, đương lôi trong ngực và túi ra những đồ vật lủng củng: một lá quốc kỳ, một quyển kinh thánh, một cuộn thừng, một cái bút lông, một lọ mực, một quyển sổ và mấy gói thuốc lá. ông đã tìm thấy ở quanh lô-cốt một cây thông dài bị trốc gốc. ông cùng Hun-tơ dựng gốc thông trụi ấy lên ở góc lô-cốt để làm thang. ông trèo lên cắm cao lá cờ tổ quốc trên nóc lô-cốt. Hình như làm xong việc ấy, ông thấy trong người thoải mái và yên tâm hơn; ông bước vào nhà, bình tĩnh soát lại lương thực. ông bảo:
-Đây là mối lo nhất của chúng ta. Chúng ta mất mọi thứ trong chuyến sau, thật đáng tiếc! Khí giới, vật dụng thì đủ. Nhưng lương thực thì ít ỏi quá!
Giữa lúc ấy, một viên đạn đại bác bay vù qua nóc lô-cốt rồi nổ ở trong rừng. Phát sau, chúng chỉnh lại trúng vào khu vực lô-cốt, làm cát bụi bay mù, nhưng không thiệt hại gì cả. ông Chi nói:
-ông thuyền trưởng! Dưới tàu, chúng không thể thấy nóc lô-cốt này. Có lẽ chỉ vì lá cờ đấy! Vậy ta nên hạ lá cờ đi thì hơn. ông thuyền trưởng kêu to:
-Hạ lá cờ đi à? Không! Thưa ông, không thể được! ông thuyền trưởng nói xong, mọi người xem ra đều đồng ý. Vì lá cờ ấy không chỉ tiêu biểu cho chính nghĩa mà còn tỏ rõ cho bọn cướp biết thái độ cương quyết của những người cố thủ trong lô-cốt là xem thường những phát đại bác của chúng...
Cả buổi chiều, chúng cứ bắn đì đụp vào khu vực lô-cốt nhưng không đâu vào đâu cả. Thuyền trưởng bảo Grây và Hun-tơ đi lấy lương thực ở trên chiếc thuyền chìm, vì lúc bấy giờ nước triều đã xuống từ lâu. Nhưng vô ích. Bọn giặc liều lĩnh đã xuống lấy trước. Tên Xin-ve đương đứng sau chỉ bảo, mỗi đứa có một súng trường. Chắc hẳn bọn chúng đã cất giấu đâu từ trước. ông thuyền trưởng thì đương ngồi ghi vào một quyển sổ. Bác sĩ Ly nhìn vào, thấy ở trang đầu mấy dòng chữ sau đây:
“Tôi, thuyền trưởng; Ly-vơ-xây, thầy thuốc trên tàu; Grây, lính thủy đóng đồ mộc trên tàu, Chi-lô-nây, chủ tàu; Hun-tơ và Do-sơ, thủ hạ thân tín của chủ tàu... Những người này đều đã tận tâm giữ tàu; lương thực chỉ còn dè xẻn được mười ngày; đã cắm quốc kỳ trên nóc lô-cốt; Ri-đrus, người ở của ông chủ tàu, không phải thủy thủ, đã bị giặc giết; Dim, cậu bé thủy thủ tập sự..."
Đọc đến đây, bác sĩ sực nhớ đến tôi, và nỗi lo âu lại kéo đến. Thốt nhiên có tiếng người gọi trong rừng. Hun-tơ đang đứng cạnh nói:
-Có người gọi kìa! Cả bọn ùa ra, nhìn thấy tôi đang leo qua rào. Mọi người đều đứng im cảm động không nói nên lời.
 
Trong lô-cốt

Không nói thì chắc các bạn cũng biết nỗi vui sướng của tôi khi gặp lại bác sĩ Ly và đồng đội. Tôi thuật lại những việc đã xảy ra cho tôi rồi nhìn quanh nhà. Chiếc lô-cốt này làm toàn bằng thân cây thông ngòng ngoèo; cả mái nhà và tường vách đều bằng thân cây cả. Lối đi vào có một cái cổng; dưới cổng, một dòng suối con chảy vào một cái bể, trông cũng hơi lạ mắt. Ngoài cái sườn nhà ra chẳng còn một thứ gì khác. ở một góc nhà còn một tảng đá dùng làm bếp và một cái rổ sắt đã han gỉ để đựng than hồng. Hai bên sườn đồi và phía trong đồn, người ta đã phát quang các cây cối để lấy gỗ làm nhà. Cứ nhìn những gốc cây bị chặt còn lại cũng đủ biết những thân cây ấy to lớn dường nào. Mưa gió đã cạo sạch lớp đất trên. Chỉ chỗ dòng suối là còn thấy rêu và những bụi cây cằn cỗi mọc. Gió đêm thổi qua các khe vách và phả bụi cát rắc đầy cả sàn nhà. Cát bay vào mắt mũi, mồm miệng và thức ăn. Một cái lỗ vuông khoét trên mái nhà là cái ống thông khói duy nhất của chúng tôi. Chỉ có một ít khói thoát ra lối ấy. Còn phần lớn khói bay cuộn trong nhà làm người nào cũng ho sù sụ và mắt mũi cay sè. Đã thế lại thêm anh chàng Grây mặt mũi quấn băng vì bị thương trong lúc giao chiến; lại xác lão Ri vẫn chưa chôn còn nằm bên góc tường. Nếu cứ ngồi khoanh tay thì có lẽ chúng tôi sinh quẩn mất. Nhưng ông thuyền trưởng là người giàu kinh nghiệm. ông gọi mọi người đến trước mặt, rồi ông phân đôi ra để canh gác.
Bác sĩ, Grây và tôi vào một tốp; ông Chi, Hun-tơ và Do-sơ vào một tốp khác. Tuy mọi người mệt lử nhưng chúng tôi phải chia nhau kẻ đi kiếm củi, người đi đào hố chôn lão Ri. Bác sĩ được phân công nấu bếp. Còn tôi thì đứng canh ở cửa. Riêng ông thuyền trưởng là đi xem xét đó đây, động viên tinh thần mọi người. Thỉnh thoảng ông làm giúp cho chúng tôi nữa. Tôi thấy bác sĩ chốc chốc lại chạy ra ngoài cửa hít ít khí trời và cho mắt mũi đỡ khói hun. Mỗi bận ra đứng nghỉ, ông lại chuyện trò với tôi dăm ba câu. ông nói:
-Thuyền trưởng quả là một tay có tài. Khi tôi nói như thế không phải chỉ là một câu khen suông đâu, cậu Dim ạ! Một lần khác, ông ra đứng tựa cửa, không nói gì, như mải suy nghĩ. Một chốc ông nghiêng đầu nhìn tôi như đắn đo rồi hỏi:
-Cậu Dim, thằng Ben-gun ấy là người thế nào?
-Thưa ông, tôi không rõ, nhưng trông nó cũng không được bình thường lắm. Bác sĩ đáp:
-Điều ấy thì chẳng cần phải nói. Cậu tính ba năm ở trên đảo này, tất không loạn óc cũng đâm ra ngớ ngẩn. Cậu bảo nó thèm ăn phó-mát phải không?
-Vâng. Nó bảo nó chỉ thèm có phó-mát. Bác sĩ lại nói:
-Chắc cậu đã trông thấy cái túi đựng thuốc lá của tôi. Lâu nay tôi không ăn thuốc chỉ vì trong túi, tôi có để một miếng phó-mát làm tại ý, ăn rất bổ. Tôi để dành cho Ben-gun đấy!
Trước lúc ăn cơm tối, chúng tôi đi chôn cất lão Ri. Khi hạ huyệt, chúng tôi đứng đầu trần trước gió, quanh thi hài của lão để vĩnh biệt. Chúng tôi đem được nhiều củi về nhưng ông thuyền trưởng lắc đầu, vẫn chưa cho là đủ. ông bảo ngày mai phải làm một chuyến cật lực hơn nữa. Khi chúng tôi ăn xong và mỗi người đã uống một cốc lớn rượu mạnh pha loãng, ba vị chỉ huy ngồi vào một góc, thảo luận kế hoạch sắp đến. Cuộc thảo luận hình như đi đến chỗ bế tắc. Lương thực ít ỏi quá, nếu cầm cự lâu thì có lẽ phải đầu hàng. Nhưng chúng tôi quyết tâm tiêu diệt cho kỳ hết bọn chúng, làm cho chúng phải hạ gối quy hàng, hoặc chúng phải rút chạy xuống dưới tàu. Trước kia tất cả chúng nó là mười chín tên, nhưng bây giờ chúng chỉ còn mười lăm thôi. Hai đứa bị thương. Thằng đứng gần khẩu đại bác đã bị ông Chi bắn, nếu nó không chết tất bị thương nặng... Bây giờ chỉ cần lợi dụng mọi cơ hội thuận tiện để tiêu hao dần chúng và bảo vệ mình. Chúng tôi lại được hai bạn đồng minh quý viện trợ. Một là rượu "rum", hai là khí hậu. Về rượu "rum" thì tuy chúng tôi ở xa chỗ giặc đóng non nửa dặm, ban đêm chúng tôi vẫn nghe thấy tiếng chúng say lè nhè, gào thét hát hỏng đến khuya. Còn về khí hậu thì bác sĩ Ly cam đoan rằng ở vào chỗ bùn lầy ấy, thiếu thuốc men, chỉ trong vòng một tuần là phần nửa bọn chúng sẽ ốm bẹp. Tôi bị mệt lả nhưng vơ vẩn mãi vẫn chưa ngủ được. Đến lúc ngủ thì ngủ say như chết. Sáng ra khi nghe thấy tiếng nhộn nhịp ồn ào, tôi mới bừng tỉnh dậy. Lúc ấy mọi người đều đã ăn sáng cả rồi và đã vác được đến nửa đống củi. Tôi nghe có tiếng người nói to:
-Kìa, lá cờ trắng! Rồi tiếp theo là những tiếng ngạc nhiên:
-Lạ kìa! Chính Xin-ve đích thân đến! Nghe câu này, tôi nhảy choàng xuống đất, giụi mắt và chạy lại dòm vào lỗ châu mai.
 
Xin-ve đi thương lượng

Nhìn ra, tôi thấy quả có hai người đứng sau phía hàng rào. Một người đương phất miếng vải trắng, còn một người chính là Xin-ve, đứng im như phỗng. Trời còn sớm lắm. Hôm ấy lại là cái hôm lạnh nhất từ lúc tôi bước chân lên đảo. Rét buốt thấu xương. Trời trong suốt, không gợn một tí mây. ánh nắng chiếu hồng trên các ngọn cây. Tuy vậy, chỗ Xin-ve đứng với tên đồng đảng vẫn còn trong bóng tối. Lớp sương ở đầm bốc lên ban đêm còn chưa tan, vẫn là là trên mặt đất và che lấp chân hai tên giặc đến đầu gối. Cứ xem khí lạnh và sương mù này cũng biết đây là nơi rừng thiêng nước độc. ông thuyền trưởng bảo:
-Tất cả cứ ở lại trông. Để xem chúng giở trò gì. Rồi ông gọi hai tên giặc:
-Ai đi đó? Đứng lại, không tôi bắn! Xin-ve nói to:
-Tôi đến thương lượng đây... ông thuyền trưởng nép mình cẩn thận vào cửa, hạ lệnh:
-Tổ bác sĩ Ly đứng vào vị trí. Bác sĩ phía bắc, cậu Dim phía đông, còn Grây phía tây. Tổ canh nạp đạn chuẩn bị. Nhanh lên và chú ý! Xong ông quay lại bọn giặc:
-Các anh đến đây thương lượng điều gì? Lần này, tên cùng đi với Xin-ve lên tiếng:
-Thuyền trưởng Xin-ve muốn đến thương thuyết.
-Thuyền trưởng Xin-ve hả? Đây không biết người ấy... Chúng tôi nghe thuyền trưởng nói thêm:
-Thuyền trưởng, thật lạ lùng! Ai thăng chức cho mà nhanh thế? Xin-ve đáp:
-Thưa ông, chúng tôi đó! Anh em đã bầu tôi làm thuyền trưởng sau khi ông đào ngũ. (Hắn nhấn mạnh chữ đào ngũ). Tất cả bọn tôi sẵn sàng phục tùng các ông nếu chúng ta đi đến một thỏa thuận. ông thuyền trưởng, trước hết xin ông nhận lời là sẽ để cho tôi ra khỏi đồn này được bình yên vô sự sau khi nói chuyện... ông thuyền trưởng nói:
-Này anh kia! Tôi chẳng muốn thương lượng với anh chút nào! Nhưng nếu anh muốn nói gì, cứ đến mà nói, có thế thôi. Còn nuốt lời hứa thì chỉ có bọn anh mới có thủ đoạn đê hèn ấy! Xin-ve reo to, hớn hở:
-Thế là đủ rồi! Một lời ông nói ra là đủ. Tôi tin ông là người đứng đắn. Chúng tôi thấy tên cầm cờ trắng cố giữ Xin-ve lại. Nhưng Xin-ve có vẻ chế giễu hắn. Xin-ve đến bên rào ném chiếc nạng vào trong trước rồi nhanh nhẹn leo qua. Lúc này, thú thật, mải nhìn quá nên tôi bỏ việc canh phòng. Tôi mò lại đứng sau lưng ông thuyền trưởng. ông ngồi trên bực cửa, tay chống cằm, mắt nhìn chăm chú vào dòng suối, miệng huýt sáo khe khẽ. Xin-ve trèo lên đồi một cách khó nhọc. Đồi dốc, cây cối nằm ngổn ngang, đất cát mềm lún, hắn chống nạng đi cứ lảo đảo. Nhưng hắn cố mãi rồi cũng đến được. Hắn ăn mặc rất chỉnh tề: áo lam dài khuy đồng, mũ đẹp có đính lon. Hắn nhã nhặn chào thuyền trưởng. Thuyền trưởng ngẩng lên:
-Ngồi xuống đây! Hắn ra ý kêu ca:
-Ai lại để tôi ngồi đây? Sáng sớm thế này mà ngồi trên đất cát thì lạnh chết! Thuyền trưởng đáp:
-Anh nói nghe mới chướng tai! Nếu anh lương thiện thì anh đã ngồi chễm chệ trong chỗ làm bếp của anh rồi, có đâu phải ngồi đây. Còn nếu anh lại muốn làm thuyền trưởng, làm một tên cướp thì có ngày người ta treo cổ anh.
-Thôi được, được!
-Xin-ve trả lời và ngồi bệt xuống.
-Các ông ở chỗ này vừa tiện vừa đẹp. Kìa cậu Dim! Kìa bác sĩ, xin có lời kính chào ngài. Các ông được sum họp đông đủ nơi đây như một gia đình có hạnh phúc. Thuyền trưởng ngắt lời:
-Nói gì cứ nói mau đi, mất thì giờ vô ích. Xin-ve đáp:
-ông nói phải. Vậy ông hãy nghe tôi nói. Đêm qua các ông giỏi đấy. Bọn ông đã dùng gậy đập chết một người trong chúng tôi.
Bọn tôi nhiều người hoang mang; ngay cả tôi cũng phải rung động, điều ấy tôi không chối. Có lẽ vì thế mà tôi đến đây thương lượng với ông cũng nên. Nhưng ông nên nhớ, việc ấy chỉ làm được một lần. Chúng tôi sẽ biết canh phòng, chúng tôi sẽ biết đề phòng rượu "rum". ông thuyền trưởng thản nhiên hỏi:
-Thế là sao? Đối với thuyền trưởng, những điều trên hoàn toàn là bí ẩn. Nhưng về phần tôi, tôi đã hiểu. Tôi sực nhớ đến những lời sau cùng của Ben-gun là hắn sẽ tìm cách giết bọn thủ hạ của Xin-ve để giúp chúng tôi. Chắc hắn có mò đến chỗ bọn giặc ngủ say? Nghĩ đến đây, tôi thấy trong bụng nở nang vì như thế bọn giặc chỉ còn mười bốn đứa. Xin-ve nói:
-Tôi xin nói thẳng. Bọn tôi muốn lấy kho của. Còn các ông chắc cũng muốn tính mạng vẹn toàn. Các ông có cái bản đồ phải không? Thôi tôi biết rồi, giấu cũng vô ích thôi! Bọn tôi muốn có cái bản đồ ấy. ông thuyền trưởng quát:
-Đừng đùa. Bọn anh muốn làm gì thì làm. Rồi tôi sẽ treo cổ bọn anh lên! Tôi thấy Xin-ve hình như nhụt đi. Còn ông thuyền trưởng thì lặng lẽ cho thuốc vào tẩu. Chốc sau Xin-ve bảo:
-ông hút thuốc, ông cho phép tôi cùng hút một thể cho vui. Nói thế rồi hắn châm lửa hút thuốc. Hai người cứ thế ngồi đối mặt nhau, lặng lẽ hút thuốc. Cảnh tượng ấy trông thật ngộ nghĩnh. Xin-ve lại nói:
-Thôi, ông biết điều nên giao cái bản đồ ấy cho tôi. Các ông đừng động đến bọn tôi, rồi tôi sẽ cho ông một trong hai điều kiện này. Một là, các ông cùng đi lấy của rồi xuống tàu với chúng tôi, chúng tôi sẽ đưa về tử tế. Hai là, nếu không có nghi ngại gì thì chúng ta sẽ chia lương thực ra, các ông cứ ở lại đây. Tôi hứa nếu gặp chiếc tàu nào, tôi sẽ bảo lại đây đón các ông. Như vậy chắc các ông bằng lòng chứ? (Đến đây hắn dằn giọng) Tôi mong rằng tôi nói điều này không phải chỉ riêng với ông mà với tất cả mọi người có mặt ở đây. Bọn ông nên cân nhắc kỹ. Thuyền trưởng đứng lên, xoa tàn thuốc lá dính tay rồi hỏi:
-Nói hết chưa? Xin-ve đáp:
-Hết rồi! Nếu các ông không nhận lời thì các ông chỉ nhận được những phát súng. ông thuyền trưởng nói:
-Được lắm! Bây giờ đến lượt tôi nói cho anh nghe. Nếu bọn anh biết điều đến đây từng người một bỏ khí giới quy hàng, khi về tôi đảm bảo với các anh, các anh chỉ bị phạt tù. Nhược bằng các anh còn ngoan cố, tôi thề sẽ làm cho các anh bị treo cổ tất. Các anh đừng hòng tìm của cải. Các anh đừng hòng cho tàu chạy được. Không có mặt nào trong bọn anh cầm lái nổi! Các anh đã bị h.ãm rồi. Tôi chỉ cần nói với anh từng ấy là đủ, mà đây là lần cuối cùng. Bận sau còn trông thấy mặt anh, tôi sẽ cho anh một phát súng vào xương sống. Thôi đứng dậy cút đi! Xin-ve giận đến xanh sạm cả mặt. Hắn rống lên:
-Lại đây cho tôi vịn để đứng dậy đi về. Chẳng ai nhúc nhích. Hắn lẩm bẩm chửi rủa rồi cố lết ra cổng, đánh đu vào cái cột, đứng lên. Hắn tức tối nhổ toẹt một bãi nước bọt vào dòng suối rồi đe dọa:
-Trước lúc một giờ, tôi sẽ làm cỏ cả cái lều này. Cười đi! Cứ cười đi! Trước lúc một giờ, các anh sẽ xuống chơi dưới âm phủ. Hắn rủa một câu rất độc rồi chống nạng đi ra, cút thẳng.
 
Trận đánh khu vực lô-cốt

Khi Xin-ve đi khuất, thuyền trưởng mới quay vào trong nhà. ông thấy chỉ có Grây là còn đứng canh tại chỗ. Lần này là lần đầu, chúng tôi thấy ông nổi giận lôi đình. ông hét lớn:
-Mọi người đứng vào vị trí! Khi ai nấy đã chạy về vị trí, ông mới nghiêm khắc lên tiếng:
-Grây, tôi sẽ ghi công anh vào sổ, anh thật là một người thủy thủ chân chính, biết làm trọn nhiệm vụ. ông Chi! ông làm tôi đến ngạc nhiên. Bác sĩ Ly! Tôi cứ ngỡ ông trước cũng là quân nhân... Nếu thế này, ông ở nhà còn hơn! Mọi người vội vã tuân lệnh, im lặng nạp đạn, nhưng mặt mũi người nào cũng bẽn lẽn đỏ gay. ông thuyền trưởng đứng nhìn một lúc rồi nói:
-Các anh! Tôi đã nói khích cố ý để làm cho thằng Xin-ve nổi tức. Thế là ta đã dử hắn đến đây, ta có thì giờ bố trí trước để đối phó. Chúng ta ít hơn bọn chúng, nhưng chúng ta ở trong lô-cốt, được lợi thế hơn. Nếu mọi người có kỷ luật, biết tuân lệnh, tôi dám chắc chúng ta sẽ nện cho chúng một trận thất điên bát đảo. Nói xong, ông đi xem xét xung quanh, quan sát lại vị trí và kiểm tra từng người. Hai sườn lô-cốt, ở phía đông và phía tây chỉ có hai lỗ châu mai; phía nam là phía cổng 89 90 có hai lỗ và phía bắc có năm lỗ. Chúng tôi bảy người nhưng có đến hai mươi khẩu súng. Chúng tôi xếp củi lại thành bốn đống, làm thành bốn cái bàn, mỗi cái ở ngay giữa mỗi phía. Trên mỗi bàn có để sẵn thuốc đạn và bốn khẩu súng trường, nếu cần, những người chiến đấu có thể với tay lấy được. ở giữa lô-cốt để một dãy dao găm. ông thuyền trưởng bảo:
-Tắt lửa đi! Trời cũng chả rét nữa. Đừng để khói xông vào mắt. Còn Dim, cậu chưa ăn sáng, đi lấy khẩu phần đi rồi đứng tại vị trí mà ăn. Trong khi mọi người răm rắp tuân lệnh, ông sắp đặt lại một lần nữa:
-Bác sĩ Ly hãy ra giữ cửa! Phải nhìn cho kỹ, đừng thò mình ra ngoài. Phải đứng trong mà bắn qua cổng... Hun-tơ ra đứng phía đông. Do-sơ đứng phía tây. Đó... đứng đó được rồi! ông Chi, ông bắn giỏi thì ra trấn góc bắc với Grây. ở góc ấy có đến năm lỗ châu mai và là nơi hiểm yếu nhất. Nếu bọn chúng chiếm được góc ấy, chĩa súng qua bắn vào thì hỏng bét... Còn tôi với cậu Dim bắn tồi, thì chúng ta đứng nạp đạn cho họ và họ cần việc gì thì giúp...
Quả nhiên như lời thuyền trưởng, chúng tôi thấy hết rét. Mặt trời nhô lên khỏi rặng cây, chiếu sáng chói chang trên bãi đất trống và làm tan đám sương mù trong nháy mắt. Chẳng mấy chốc, đất cát khô bỏng, nhựa trong các thân cây trong lô-cốt chảy ra nham nháp. Mọi người phải bỏ áo khoác, cởi cúc cổ áo sơ-mi và xắn tay áo lên. Một giờ qua. Phút chờ đợi vừa bực bội vừa căng thẳng. Mọi người đều "mở mắt mở tai", tay lăm lăm khẩu súng. Thuyền trưởng đứng giữa nhà, môi mím chặt, trán hằn lên những vết nhăn. Thốt nhiên, Do-sơ giương súng bắn. Tiếng súng đầu tiên vừa nổ thì chung quanh lô-cốt hàng loạt súng bắn vào dồn dập. Nhưng không có viên đạn nào lọt vào trong. Sau lúc khói tan, nhìn lại, các vách gỗ trong lô-cốt vẫn lành lặn y nguyên như cũ. Thuyền trưởng hỏi Do-sơ:
-Anh có bắn trúng tên giặc không? Do-sơ đáp:
-Thưa ông, chắc trúng! Thuyền trưởng truyền lệnh:
-Dim! Nạp đạn cho anh ấy. Còn bác sĩ, ở phía ông, ông ước chừng có mấy đứa? Bác sĩ đáp:
-Tôi biết chắc chắn là có ba phát súng bắn ở rừng vào. Tôi trông rõ ba tia lửa. Thuyền trưởng nhắc lại:
-Ba... Còn ở phía ông Chi, ông thấy mấy? ở phía này không biết rõ được như ở các phía kia. Nhưng phía này nhiều giặc hơn cả. ông Chi thì nói độ bảy tên, còn Grây thì bảo tám, chín đứa. Rõ ràng là lực lượng chính chúng dồn về phía này cả. Còn mấy phía kia chúng chỉ cốt làm phân tán, giữ chân chúng tôi thôi. Biết thế nhưng thuyền trưởng vẫn không thay đổi cách bố trí. Vì ông cho rằng nếu bọn địch vượt qua được hàng rào, chúng sẽ đến chiếm ngay những vị trí nào bỏ ngỏ và sẽ chĩa súng bắn vào người trong lô-cốt như bắn chuột. Nhưng lúc ấy, không ai còn kịp suy nghĩ. Thốt nhiên chúng tôi nghe cả loạt tiếng hò reo, rồi thấy một toán giặc chạy xổ trong rừng ra, ồ ạt tiến về phía lô-cốt. Ngay lúc ấy có hàng loạt đạn từ rừng bắn ra. Một phát bắn trúng vào khẩu súng của bác sĩ làm gãy tan từng mảnh. Bọn giặc leo lên hàng rào nhanh nhẹn như đàn khỉ. ông Chi và Grây bắn luôn tay, không ngớt. Ba đứa trong bọn chúng bị ngã: một đứa ngã lộn vào trong, hai đứa bật ra ngoài. Nhưng một đứa xem chừng sợ nên co giò chạy biến vào rừng... Còn bốn đứa leo qua được. Chúng chạy thẳng lại lô-cốt, hò hét vang ầm. Còn bảy tám đứa khác, có lẽ có nhiều súng dài nên đứng ngoài bắn yểm hộ và hò reo trợ lực. ở trong lô-cốt có bắn ra nhưng vì bắn vội nên không trúng. Trong chớp mắt, bốn đứa đã leo lên đỉnh đồi và nhảy xổ lại lô-cốt. Qua lỗ châu mai, thấy rõ thằng An-đe-sơn đương gào lớn:
-Tiến vào! Tất cả tiến vào! Giữa lúc ấy một tên giặc giật được súng của Hun-tơ, chĩa qua lỗ châu mai bắn một phát làm Hun-tơ ngã vật ra. Một tên nữa chạy khom khom đến ngay cửa, múa dao xông vào chém bác sĩ. Trong lô-cốt đầy khói, nhờ thế chúng tôi chống đỡ có lợi hơn. Tiếng thuyền trưởng oang oang:
-Ra ngoài, anh em! Dùng dao mà đánh! Tôi vớ một con dao trên đống củi. Một tên cướp cũng giật lấy một con dao và chém một nhát vào tay tôi. Tôi chỉ thấy tê tê ở tay rồi tôi vội nhảy ra ngoài. Trước mặt tôi, bác sĩ Ly đuổi theo một tên giặc và chém một nhát mạnh vào mặt hắn, làm hắn ngã vật xuống. Tiếng thuyền trưởng lại vang lên:
-Anh em ơi! Vòng quanh lô-cốt! Vòng quanh lô-cốt!
Nhưng tiếng ông nghe đã khang khác. Như cái máy, tôi theo lệnh chạy qua góc nhà. Được mấy bước, tôi gặp An-đe-sơn. Hắn giơ dao chém bổ xuống tôi. Tôi vội tránh nhưng trượt chân ngã lăn xuống dốc. Khi tôi ra khỏi lô-cốt là lúc tôi thấy một thằng đội mũ đỏ, miệng ngậm dao đương chân trong chân ngoài trên bờ rào. Nhưng trận đánh như đã kết thúc. Grây đã giết chết tên An-đe-sơn khi hắn giơ dao chém hụt tôi. Một tên nữa bị giết ở trước lỗ châu mai khi hắn đang chĩa súng vào lô-cốt. Còn một tên bị bác sĩ Ly chém chết. Số còn lại ném dao chạy vào rừng. Cả bọn rút chạy, bỏ lại năm xác chết. Lúc này chúng tôi mới kiểm điểm lại phía mình. Hun-tơ nằm thoi thóp. Do-sơ bị một phát súng vào đầu đã tắt thở. Còn thuyền trưởng thì bị thương. Thuyền trưởng hỏi:
-Chúng chạy cả rồi hả? Bác sĩ đáp:
-Thằng nào chạy được mới chạy. Còn năm đứa chết lăn kềnh ngoài kia. Thuyền trưởng kêu to:
-Năm đứa! Khá lắm! Bọn hắn mất năm, ta mất ba. Thế là chúng ta còn lại bốn chọi chín
-như vậy chúng ta vẫn có cơ thắng được. Nhưng thực ra, bọn giặc chỉ còn tám tên, vì tên bị ông Chi bắn trên tàu chiều hôm ấy đã tắt thở. Việc ấy mãi về sau này chúng tôi mới biết.
 
Lênh đênh trên biển

Từ phút ấy không thấy bóng một tên giặc nào lai vãng và cũng không thấy một phát đạn nào trong rừng bắn ra. Khu lô-cốt bây giờ thuộc về chúng tôi, chúng tôi yên trí săn sóc những người bị thương và nấu cơm sáng. Hun-tơ sau đấy đã tắt thở. Còn vết thương của thuyền trưởng tuy nặng nhưng không đến nỗi nguy hiểm đến tính mạng. Phát súng của tên An-đe-sơn làm gãy xương ngực nhưng không chạm đến phổi. Phát thứ hai chỉ xé thịt ở bắp chân. Theo lời bác sĩ thì ông thuyền trưởng sẽ khỏi, nhưng cần phải tĩnh dưỡng và tránh cử động trong dăm tuần lễ. Còn vết thương của tôi chỉ như muỗi đốt. Bác sĩ chỉ dán vào đấy một lá thuốc cao rồi béo tai tôi một cái. Cơm sáng xong xuôi, ông Chi và bác sĩ ngồi bên cạnh thuyền trưởng bàn bạc. Các ông thảo luận xong thì đã quá trưa. Bác sĩ Ly đội mũ, cầm súng, giắt dao, bỏ bức bản đồ vào túi rồi rảo bước đi ra khỏi đồn. Grây đang hút thuốc, thốt nhiên bỏ tẩu xuống, sững sờ nhìn theo bác sĩ. Hắn nói:
-Lạ kia! Bác sĩ điên rồi chắc? Tôi đáp:
-Điên à? Đời nào. Bác sĩ là người còn bình tĩnh và sáng suốt nhất trong bọn ta. Grây lại nói:
-Nếu ông ấy không điên, thì chính tôi điên mất. Tôi bảo:
-Tôi chắc bác sĩ có ý định gì đây. Chưa chừng bác sĩ đến gặp Ben-gun đấy.
Về sau này, tôi mới biết dự đoán của tôi là đúng. Lúc này trong lô-cốt nóng như thiêu như đốt... Bãi cát trên đồi bị nóng bỏng hắt hơi nồng vào mặt mọi người. Tôi lo quét dọn trong ngoài rồi đi rửa bát đĩa. Mồ hôi ướt đẫm, người như chín dừ. Nhìn thi thể của Hun-tơ và Do-sơ nằm ở góc nhà, tôi thấy bụng nóng ran lên. Tôi muốn làm một việc gì dù nguy hiểm đến đâu cũng không từ nan để giết hết bọn giặc và gỡ cho bọn tôi ra khỏi cảnh này. Khốn nỗi, tôi chỉ là đứa bé, đánh nhau cũng chẳng hơn ai. Tôi tự xét ở đây cũng không giúp ích được gì lắm. Một ý định táo tợn bỗng thoáng qua đầu, tôi hăm hở đứng lên. Dự định của tôi là sẽ xuống dưới bãi cát ở mé đông, tìm tảng đá trắng mà Ben-gun đã nói để xem hắn có giấu chiếc thuyền của hắn ở đó không. Có thuyền rồi, tôi sẽ làm cho bọn giặc một mẻ kinh hồn. Lừa lúc không ai để ý, nhân tiện lại đứng gần bị bánh quy, tôi liền thò tay vào bị, lấy bánh quy nhét đầy túi áo. Nếu gặp trở ngại gì, tôi sẽ không phải lo chết đói. Số bánh này có thể ăn hai hôm cũng chưa hết. Tôi mang theo hai khẩu súng lục; trong lưng tôi đã có bao thuốc súng và đạn rồi, như vậy là đủ khí giới để tự vệ. Nhưng làm sao để ra đi? Tôi chắc, nếu nói ra thì chẳng một ai cho tôi đi cả. Tôi đành phải dùng lối "đánh lén", thừa lúc mọi người vô ý tôi sẽ chuồn đi một mạch. Cái lối chuồn ấy thật là vô kỷ luật. Nhưng tôi chỉ là một đứa trẻ, hễ thích là làm, chẳng cần phải suy tính thiệt hơn gì cho lắm. Thế là thừa cơ hội lúc ông Chi và Grây đương lúi húi thay băng cho thuyền trưởng, tôi nhảy phóc ra ngoài. Tôi chạy một mạch thẳng vào lùm cây. Lúc này, ông Chi có biết cũng không gọi kịp. Tôi đi thẳng đến bờ biển phía đông. Tôi định men theo bãi cát ven biển để bọn chúng ở trên tàu khỏi trông thấy.
Trời đã về chiều. Nhưng mặt trời còn nóng gay gắt. Tôi đi len lỏi trong rừng; xa xa nghe tiếng sóng vỗ bờ, tiếng lá cây xao động và tiếng cành cây răng rắc. Những tiếng ấy cho tôi biết gió biển hôm nay thổi mạnh hơn mọi ngày. Chốc sau, những luồng gió lạnh thổi tới. Đi dăm bước nữa, tôi đã đến ven rừng. Trước mặt tôi là chân trời vời vợi, một dải biển xanh mênh mông, lấp lánh dưới nắng trời. ở ven bờ, sóng đánh sủi bọt trắng xóa. Tôi đi dọc theo bờ biển, lòng thấy vui vui. Tôi vui chân đi quá về phía nam, núp vào các bụi rậm, rồi bò thật cẩn thận đến dải đất cát. Trước mặt tôi là nơi tàu đỗ, sau lưng tôi là biển. Gió biển đã lắng xuống. Một làn gió nhẹ tiếp theo từ phía nam và phía đông nam thổi lại mang theo những dải sương mù. Chỗ tàu đậu, nhờ có hòn đảo Hình Người che kín, vẫn yên lặng và âm thầm như hôm chúng tôi mới đến. Mặt biển như tấm gương trong; chiếc tàu in bóng rõ rệt từ lườn tàu đến đầu cột buồm, có mang lá cờ đen của giặc. Trên một chiếc thuyền đỗ gần tàu, tôi nhận ra ngay Xin-ve ngồi ở phía sau, đang trò chuyện với hai tên khác lưng tựa vào mép tàu. Một tên là thằng đội mũ đỏ, cách đây vài giờ đã ngồi chân trong chân ngoài trên bờ rào lô-cốt. Hình như chúng đương nói cười hỉ hả. Thốt nhiên có mấy tiếng kêu khác thường và ghê rợn. Nhưng tôi đã nhận ra ngay là tiếng con vẹt Phơ-linh của Xin-ve. Nhờ có bộ lông bóng lộn của nó, tôi thấy nó đang đậu trên cổ tay chủ nó. Một lát sau chiếc thuyền kia đi thẳng vào bờ. Tên giặc mũ đỏ cùng tên bạn nó ở trên tàu cũng đã chui vào đằng lái. Mặt trời đã lặn sau gò Vọng Viễn. Sương mù chả mấy chốc đã dày đặc, bóng tối phủ dần. Tôi biết nếu muốn tìm được chiếc thuyền của Ben-gun thì không thể trì hoãn một phút. Tảng đá trắng lồ lộ sau bụi cây còn cách tôi đến hai trăm mét. Tôi phải mất một thời gian khá lâu mới bò được đến đấy. Khi tay tôi sờ được vào mép đá gồ ghề thì trời đã tối mịt. Ngay phía trước, có một cái hồ nhỏ, cỏ phủ đầy chung quanh, đất mấp mô và những lùm cây rậm che kín. Giữa hồ có dựng một cái lều con bằng da dê như lều của những kẻ giang hồ. Tôi nhảy xuống hồ, vén lều lên, thấy ngay chiếc thuyền của Ben-gun. Thuyền là khúc gỗ đục nham nhở, trông rất thô kệch; trên thuyền trải một tấm da dê. Thuyền bé quá, ngay đối với tôi mà nó cũng còn bé, huống chi đối với thân hình một người lớn. Trong lòng thuyền, có kê một cái ghế dài rất thấp, ở đằng mũi có hai mái chèo. Đây là một chiếc thuyền rất thô sơ, nhưng được cái rất nhẹ, mang đi đâu cũng tiện. Bây giờ có thuyền rồi, tôi mới nghĩ đến việc thực hiện kế hoạch của tôi. Tôi định nhân đêm tối, bơi thuyền ra tàu để dò xét. Tôi chắc rằng, sau trận thua liểng xiểng hôm nay, bọn giặc sẽ rút xuống tàu, giong ra biển. Tôi ngồi đợi cho trời tối hẳn. Tôi thọc tay vào túi, lấy bánh ăn ngon lành. Đêm tối như thế này, rất lợi cho tôi hành sự. Sương mù che kín bầu trời. Những tia sáng cuối cùng của ban ngày còn sót lại đã tắt hẳn. Cả hòn đảo chìm trong bóng tối mịt mù. Khi tôi vác thuyền lên vai, mò mẫm bước ra ngoài, tôi thấy ở nơi tàu đỗ chỉ còn hai chấm ánh sáng. Một chấm là đống lửa cạnh đầm ở trên bờ, nơi bọn giặc đương vây quanh chè chén. Chấm kia là nơi tàu đậu. Lúc này, theo chiều nước thủy triều, tàu đã quay lại, mũi tàu ngoảnh về phía tôi. Trên tàu, chỉ trong phòng là có ánh sáng. Cái điểm sáng tôi thấy chỉ là do ánh sáng lọt qua chiếc cửa sổ đằng lái, lờ mờ lên lớp sương mù đặc. Nước thủy triều đã xuống từ lâu. Trước khi tới bờ biển, tôi phải lội qua một dải cát dài ướt nhão nhớt, chân thụt đến mắt cá. Phải vất vả và khéo léo lắm, tôi mới đặt được thuyền lên mặt nước.
 
Khi nước triều xuống

Đối với một người tầm vóc như tôi, chiếc thuyền độc mộc của Ben-gun thật là vừa vặn. Nó vừa chắc chắn lại vừa nhẹ, có thể đi trên mặt biển được. Chỉ tội là rất khó chèo. Muốn làm thế nào thì làm, nó cũng cứ lệch đường và quay tít như chong chóng. Chính Ben-gun cũng đã nói thuyền này rất khó sử dụng nếu không biết được những cái tật của nó. Thật vậy, rõ ràng là tôi chưa biết gì về chiếc thuyền này. Nó quay tứ phía, nhưng cái phía tôi muốn đi nó lại không quay cho! Phần nhiều nó hay trôi ngang; tôi dám chắc nếu không gặp dòng nước cuốn không bao giờ tôi đi đến gần tàu được. May sao chiếc tàu nằm đúng ngay giữa dòng. Cho nên dù muốn chèo thế nào thì chèo, dòng nước vẫn cứ đưa chiếc thuyền của tôi về hướng ấy. Chiếc tàu bỗng hiện ra lù lù trước mặt như một đám đen trong đêm tối. Dần dần, tôi trông rõ thân tàu và các cột buồm. Càng đến gần, dòng nước càng chảy xiết. Chỉ thoáng cái, tôi đã đến nơi và tiện tay, tôi vớ phải cái dây neo. Dây neo căng thẳng như dây cung.
Tôi chợt nghĩ ra nên cắt phăng cái dây neo để mặc chiếc tàu của chúng trôi lênh đênh ngoài biển nước đang chảy cuồn cuộn reo vang như con suối đổ. Chỉ cần một nhát dao là con tàu trôi băng theo dòng nước. Mọi việc tưởng dễ như trở bàn tay, nhưng tôi sực nghĩ ra: một dây neo căng thẳng thế này mà thốt nhiên bị đứt thì nguy hiểm chẳng khác gì vó ngựa đá lồng. Nếu tôi cố liều lĩnh cắt phăng dây neo, chắc thế nào cũng bị hất văng xuống biển. Nghĩ thế, tôi chùn tay lại. May sao trời cũng chiều người. Ngọn gió trước kia hiu hiu thổi từ phía nam và phía đông nam lại, đến đêm lại thổi về phía đông nam. Ngọn gió đổi chiều bỗng đẩy lùi con tàu vào hẳn giữa dòng. Tôi như mở cờ trong bụng khi thấy sợi dây neo trong tay tôi bỗng chùng hẳn lại, bàn tay tôi nhúng xuống nước một hồi lâu. Thế là tôi quyết định hẳn. Tôi rút dao ra, dùng răng mở dao rồi từ từ cắt hết sợi nọ đến sợi kia. Khi dây neo chỉ còn hai sợi nữa, tôi dừng lại đợi con gió khác đến sẽ làm chùng lại. Lúc ấy tôi mới tiện phăng đi. Suốt từ lúc đến gần tàu, tôi vẫn nghe tiếng quát ầm ầm trong buồng tàu. Nhưng lúc đó tôi đang mải nghĩ đến chuyện khác nên không để ý mấy. Bây giờ ngồi rỗi, tôi mới bắt đầu lắng tai chăm chú nghe. Tôi nhận được tiếng lão Han, tên lính pháo thủ đại bác của Phơ-linh. Còn tên kia chắc là tên giặc mũ đỏ. Hai đứa đều có vẻ say bí tỉ. Tuy vậy chúng vẫn chén chú chén anh. Một đứa mở cửa sổ đằng sau tàu và ném vật gì xuống biển; tôi đoán là cái chai không. Nhưng không phải chúng chỉ có say mà thôi, chúng còn đang cãi vã nhau kịch liệt. Tiếng chửi rủa luôn mồm; thỉnh thoảng cơn giận dữ của chúng bốc lên làm tôi tưởng chừng đến phải đấm đá nhau. Nhưng về sau tiếng cãi cọ lắng xuống. Chỉ còn nghe thầm thì to nhỏ, rồi bỗng chốc, tiếng xô xát lại bốc cao lên và cứ thế diễn đi diễn lại mãi không thôi. Trên bờ đảo, lửa đốt sáng rực qua chòm lá cây. Văng vẳng đưa lại tiếng hát của một đứa trong bọn chúng đang hát một bài hát cổ của dân biển. Giọng hát buồn, ảo não, cứ đến cuối câu lại hạ xuống một giọng trầm não nùng, rồi kéo dài lê thê như không bao giờ dứt. Giọng hát chán nản buồn nhức xương này, tôi cho rất hợp tình hợp cảnh với bọn giặc vừa bị thất bại chua cay. Gió lại bắt đầu thổi. Chiếc tàu từ từ lùi lại. Sợi dây neo cứ chùng dần, chùng dần. Tôi cố sức giáng một nhát dao cuối cùng, tiện phăng sợi dây neo làm hai đoạn. Con tàu từ từ quay hết đầu nọ đến đầu kia trên dòng nước. Chiếc thuyền của tôi nhè nhẹ xô vào đầu mũi con tàu. Tôi cố quờ quạng chung quanh vì lúc nào chiếc thuyền độc mộc của tôi cũng như sắp chìm xuống đáy biển. Tôi không thể nào giữ cho thuyền khỏi sát vào thân tàu, nên tôi cứ đẩy nó đi lùi dần về đằng lái. Cuối cùng tôi đẩy được thuyền ra xa tàu. Khi đẩy ra, tay tôi sờ phải một cái dây lòng thòng đằng sau lái.
Tôi bám lấy sợi dây. Đến bây giờ tôi cũng không hiểu tại sao lúc ấy tôi lại vớ lấy đầu dây này. Có lẽ đó cũng là vì tình cờ mà thôi. Nhưng sau tôi thấy một đầu dây cột chặt vào tàu nên tôi nảy ra một ý khác. Tính tò mò thúc giục làm tôi muốn thử ghé mắt nhòm qua cửa sổ xem trong ấy ra sao. Tôi níu tay lần sợi dây, đưa thuyền đến sát bên tàu; tôi liền đánh đu rướn thẳng người lên; như vậy tôi có thể nhìn thấy nóc tàu và một phần gian phòng. Trong khi ấy con tàu cùng chiếc thuyền độc mộc của tôi cặp kè trôi phăng phăng theo dòng nước đến tận ngang chỗ đống lửa của bọn giặc trên bờ. Sóng vỗ vào mạn tàu dào dạt. Thế mà sao bọn canh trên tàu vẫn lặng lẽ thản nhiên. Thật là một điều lạ. Nhưng khi nhòm qua cửa sổ thì tôi đã vỡ lẽ. Tôi thấy lão Han và thằng mũ đỏ đã ôm nhau đấm đá chí tử, thằng nọ đương bóp cổ thằng kia. Nhìn xong tôi ngồi thụp xuống. Nhưng trong óc tôi vẫn ghi rõ hai bộ mặt hung ác, đỏ như gấc, lửa giận bốc phừng phừng, đương hầm hè ôm vật nhau dưới ngọn đèn dầu bốc khói. Tôi nhắm mắt lại để bớt quáng và cho quen với bóng tối. Tôi đương suy nghĩ, thốt nhiên chiếc thuyền của tôi bị chao hẳn đi. Ngay lúc ấy nó trôi hẳn về phía khác như muốn đổi hướng. Bây giờ nó trôi nhanh gấp mấy lúc trước. Tôi mở choàng mắt ra...
Chung quanh tôi biển cả ầm ĩ, trập trùng muôn ngàn lượn sóng lấp lánh lân tinh. Cách chỗ tôi vài sải, con tàu cũng đương có vẻ ngần ngừ, chao đảo. Nhìn kỹ lại, tôi thấy chiếc tàu cũng trôi về phía nam. Ngoảnh lại đằng sau, trống ngực tôi đánh thình thịch. Chính sau tôi là đống lửa của bọn giặc trên bờ. Dòng nước chảy theo hình thước thợ, kéo con tàu lẫn chiếc thuyền con của tôi lềnh bềnh ào ạt đi ra biển cả. Thốt nhiên, chiếc tàu trước mặt tôi chao nghiêng hẳn đi rồi quật sang hướng khác. Lúc ấy tôi mới nghe thấy tiếng kêu ầm ĩ trên tàu. Nghe thấy tiếng giày nện thình thịch trên chiếc thang đằng lái, tôi đoán hai thằng giặc đã thôi đánh nhau vì chúng đã nhận thấy sự nguy hiểm. Tôi nằm rạp xuống lòng thuyền, phó thác tấm thân cho sự rủi may. Tôi chắc rằng chỉ đi xa một chút nữa, những lượn sóng cả bạc đầu sẽ nuốt trửng lấy chiếc thuyền con và chôn vùi tôi xuống đáy biển. Nghĩ đến chết, tôi không sợ lắm, nhưng sao trong người tôi cứ xao xuyến. Tôi nằm như vậy lâu lắm, mặc thuyền lênh đênh trên ngọn sóng. Sương mù và nước biển làm áo quần tôi ướt đầm. Nhưng lúc ấy tôi chỉ nghĩ đến chết; tôi chỉ đợi một đợt sóng sắp đến đưa tôi về gặp cha tôi. Dần dần tôi mệt lả người. Sự lo sợ làm tâm hồn tôi mê mẩn. Về sau tôi ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Tôi mơ tưởng đến quê nhà, đến những người thân, đến cái quán cơm hẻo lánh trên cửa biển. Tôi thấy bác sĩ Ly, ông Chi đương nhìn tôi vui vẻ. Tôi thấy tiền bạc để đầy nhà và từng đoàn người nghèo khổ đang kéo đến. Họ đông, đông vô kể. Đầu họ nhấp nhô, trập trùng, cuồn cuộn như sóng.
 
×
Quay lại
Top