Chức năng của Đảng

thungan_dhqn

Thành viên thân thiết
Staff member
Thành viên thân thiết
Tham gia
14/1/2012
Bài viết
384
Các bạn trả lời giúp mình với nhé!
Câu hỏi: Chức năng của Đảng trong hệ thống chính trị Việt Nam.

Cảm ơn các bạn nhiều!
:KSV@03:
 
Hệ thống chính trị Việt Nam hình thành từ khi có Đảng

Suốt mấy nghìn năm trước đây, những trí tuệ ưu tú nhất của loài người đều cố gắng tìm kiếm con đường để các dân tộc được sống trong hòa bình, hữu nghị, thoát khỏi cảnh thống khổ lầm than, mâu thuẫn, chống đối lẫn nhau. Nhưng hầu như tất cả không tìm thấy hướng đi đúng và lực lượng thật sự để thực hiện ước mơ của mình. Chỉ đến thế kỷ XIX, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học mới là người mở đầu một con đường thật sự giải phóng những người lao động khỏi bất công, ngang trái. Bằng việc đưa ra quan điểm duy vật về lịch sử và phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư, C.Mác đã tìm được lực lượng và vũ khí để giải phóng người lao động, và cũng từ đó, chủ nghĩa cộng sản mới trở thành một trong những khoa học giải phóng loài người. C.Mác và Ph.Ăng-ghen đi từ giải phóng các tầng lớp lao động mà thấy sự cần thiết phải giải phóng dân tộc, bởi vì các ông quan niệm “xóa bỏ nạn người bóc lột người thì nạn dân tộc này áp bức dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ. Khi mà sự đối kháng giữa giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa, thì đồng thời quan hệ thù địch giữa các dân tộc cũng mất theo”(1). Chính vì thế, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăng-ghen viết: “Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự mình xây dựng thành giai cấp dân tộc”.

Vận dụng và phát triển lý luận của C.Mác về giải phóng giai cấp vô sản vào nước Nga, trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, V.I.Lê-nin thấy rõ hơn mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, giữa cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp vô sản và cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức. V.I.Lê-nin đề ra khẩu hiệu: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!”. Và, với cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga, mở đầu cho việc thủ tiêu chế độ người bóc lột người, thủ tiêu nạn áp bức dân tộc, và bằng chính sách dân tộc đúng đắn, V.I.Lê-nin đã đưa nước Nga từ “nhà tù đối với các dân tộc” thành “Tổ quốc của nhiều dân tộc”.

Ở Việt Nam, từ thiên tài trí tuệ của mình, vượt lên những tầm nhìn hạn chế của các nhà yêu nước đương thời, Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tìm thấy ở học thuyết này con đường cứu dân, cứu nước. Bác khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”(2). Người nói: “Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ không phải là chủ nghĩa cộng sản đưa tôi tin theo Lê-nin, tin theo Quốc tế III. Từng bước một trong cuộc đấu tranh, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Chính lòng yêu nước thiết tha và thương dân sâu sắc, muốn giải phóng dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa cộng sản, đem khát vọng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa cộng sản. Từ nhận thức tầm quan trọng của lý luận cách mạng, tìm được con đường cứu dân, cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt tay xây dựng lực lượng cách mạng, xây dựng các tổ chức cách mạng. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Công hội Đỏ, các tổ chức đảng lần lượt ra đời. Đến ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức được thành lập. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, chấm dứt thời kỳ bế tắc, khủng hoảng về đường lối cứu nước hơn hai phần ba thế kỷ, kể từ khi nước ta bị đế quốc Pháp xâm lược. Đảng ta ra đời là sản phẩm của sự kết hợp phong trào yêu nước, phong trào công nhân với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, là bước nhảy vọt của phong trào yêu nước, đồng thời cũng là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác – Lê-nin ở một nước nông nghiệp sản xuất nhỏ, chưa qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Đảng ra đời, đánh dấu một bước ngoặt quyết định trong phong trào cách mạng và đời sống chính trị của nhân dân ta. Giai cấp công nhân Việt Nam từ đó thông qua đảng tiên phong của mình, đứng ra gánh vác sứ mệnh lịch sử lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội khỏi mọi áp bức, bất công. Dưới ngọn cờ của Đảng, dân tộc Việt Nam vốn giàu lòng yêu nước, chí tự cường và bấy lâu khao khát độc lập, tự do đã gặp tư tưởng cách mạng triệt để là chủ nghĩa Mác- Lê-nin, một trong những trí tuệ cao nhất của loài người. Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng do Bác Hồ khởi thảo chỉ ra đường lối, nhiệm vụ, mục tiêu cách mạng, cách thức tổ chức lực lượng cách mạng ở Việt Nam. Với đường lối, chủ trương, chính sách của các văn kiện ấy, Đảng ta đã thổi bùng ngọn lửa của phong trào cách mạng Việt Nam. Trải qua 15 năm đấu tranh đầy máu lửa, đầy hy sinh, những người cộng sản Việt Nam, những người yêu nước tự nguyện đi dưới ngọn cờ của Đảng, chứ không phải ai hết, là người trực tiếp đương đầu với lưỡi lê, máy chém, nhà tù của đế quốc, mà thể hiện lòng trung thành, xả thân cho sự nghiệp của toàn dân tộc. Bằng sự lãnh đạo của Đảng, bằng sự tập hợp lực lượng của các tổ chức quần chúng, cách mạng nước ta đã trải qua ba cao trào: Cao trào Xô-viết Nghệ Tĩnh (1930-1931), cao trào Dân chủ (1936-1939), cao trào cứu nước (1939-1945). Ngày 19-8-1945, cả dân tộc ta đã vùng dậy giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám. Cách mạng Tháng Tám là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, xóa bỏ chính quyền nhà nước của thực dân và phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử của nước ta. Nhà nước Việt Nam là nhà nước độc lập, dân chủ thật sự của dân, do dân, vì dân. Chính vì vậy, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thành công rực rỡ của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc vô cùng anh dũng suốt gần một trăm năm của nhân dân ta. Đó là thắng lợi của đường lối cách mạng dân tộc dân chủ đúng đắn do Đảng ta vạch ra và lãnh đạo nhân dân cả nước ta thực hiện.

Nếu không có hai cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhân dân ta đã bắt tay vào xây dựng đất nước phồn vinh từ sau ngày 2-9-1945, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng, các thế lực đế quốc không từ bỏ dã tâm xâm lược nước ta. Chấp nhận cuộc đụng đầu lịch sử với hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, nhân dân ta, cả dân tộc ta đã phải trải qua 30 năm chiến tranh ròng rã, chịu đựng những hy sinh mất mát vô cùng to lớn, mới bảo vệ được nền độc lập dân tộc, bảo vệ chế độ mới và sự thống nhất đất nước để đưa cả nước thống nhất đi lên con đường xã hội chủ nghĩa, con đường đem đến hạnh phúc, ấm no cho toàn dân tộc. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đổi mới toàn diện đất nước, do Đảng ta lãnh đạo đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Nhìn lại những bước đường phấn đấu đầy gian khổ hy sinh đã qua và những thắng lợi, thành tựu vẻ vang đã giành được của toàn dân ta, chúng ta có thể tự hào về vai trò lịch sử của Đảng ta, người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sức mạnh vô địch của Đảng chính là ở chỗ Đảng ta tuyệt đối trung thành với lợi ích tối cao của nhân dân, đứng vững trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phát huy được sức mạnh lòng yêu nước của toàn dân tộc.

Vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị

Trước đây, trong cuốn Sự khốn cùng của triết học, C.Mác đã từng đặt câu hỏi: “Phải chăng như vậy có nghĩa là, sau khi xã hội cũ sụp đổ sẽ có một sự thống trị giai cấp mới, biểu hiện tập trung ở một chính quyền mới?”. Và chính C.Mác đã giải thích: “Không phải. Điều kiện giải phóng của giai cấp lao động, đó là xóa bỏ mọi giai cấp”. Mục đích của những người cộng sản, của Đảng Cộng sản giành chính quyền không phải giành quyền thống trị cho riêng mình. Những lời vu khống, áp đặt của một số người cho rằng Đảng Cộng sản “độc tôn”, “độc quyền” là hoàn toàn không đúng. Mục đích cách mạng của Đảng Cộng sản, của những người cộng sản giành chính quyền là để giải phóng toàn xã hội, là để đưa người lao động, đưa nhân dân lên địa vị làm chủ. Khi giành được chính quyền, xây dựng nhà nước kiểu mới, nhân dân muốn làm chủ phải có sự lãnh đạo của Đảng, được thực hiện chủ yếu bằng nhà nước, bằng các tổ chức quần chúng, thông qua đại diện của mình và trực tiếp của chính mình. Để xây dựng và bảo vệ cuộc sống mới của mình, nhân dân cần có một hệ thống chính trị vững mạnh. Đó không phải là đảng trị, đảng đứng trên dân tộc. Đảng lãnh đạo để dân làm chủ là mục đích tối cao, mục đích cuối cùng của Đảng. Ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác. Để thực hiện mục đích ấy, khi chưa có chính quyền, Đảng lãnh đạo thành lập các tổ chức quần chúng, tập hợp lực lượng cách mạng, xây dựng mặt trận đại đoàn kết toàn dân tộc để giành chính quyền. Khi có chính quyền, trở thành đảng cầm quyền, cùng với các tổ chức quần chúng, Đảng sử dụng chính quyền chăm lo cho lợi ích cho nhân dân, cho lợi ích toàn xã hội.

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, được sửa đổi, bổ sung năm 2001 ghi rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.

Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.

Điều 4 này trong Hiến pháp, hiện nay đang là mục tiêu chống phá, muốn triệt tiêu của một số người không thiện chí, thậm chí có những mưu đồ. Tại sao họ tự cho mình là trí tuệ mà không thừa nhận một thực tế đã được chứng minh? Đây không phải là một sự đòi hỏi hay áp đặt của Đảng, mà chính là sự thừa nhận của đại đa số nhân dân Việt Nam.

Về bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại hội IX của Đảng được mở rộng hơn về khái niệm, chính xác hơn. Đảng không chỉ là “đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam”, mà hơn thế nữa, Đảng “đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam”. Đó không phải là ý muốn chủ quan của một ai, càng không phải là sự áp đặt, mà là thực tiễn chứng minh, nhân dân thừa nhận. Bởi vì Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, luôn luôn trung thành với mục tiêu lý tưởng, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trung thành với lợi ích của giai cấp và dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế của thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Chánh cương vắn tắt, Cương lĩnh năm 1930 và Cương lĩnh năm 1991 của Đảng đã soi sáng cho quá trình cách mạng Việt Nam và bước đường tiến lên của dân tộc ta.

Thực tiễn gần 80 năm qua, bằng cả hệ thống chính trị, Đảng ta lãnh đạo nhân dân ta không quản hy sinh, không nề gian khổ, trải qua biết bao gian nan thử thách đã đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, viết tiếp những trang sử vàng chói lọi của dân tộc. Trong mỗi thời kỳ cách mạng, nhất là trước các bước ngoặt lịch sử, Đảng ta luôn luôn thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành và sáng tạo, nêu cao tính độc lập tự chủ, trước hết ở việc xác định và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn và có hiệu quả.

Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng

Sự nghiệp lãnh đạo của Đảng suốt gần 80 năm, đặc biệt từ khi Đảng cầm quyền và gần đây qua hơn hai mươi năm đổi mới toàn diện đất nước, mở rộng giao lưu, hội nhập, đã tạo ra sự đổi thay cực kỳ to lớn trong đời sống chính trị của dân tộc Việt Nam:

Cách mạng Tháng Tám đưa nhân dân ta từ thân phận người mất nước, sống lầm than trong đêm dài nô lệ thành người làm chủ sáng tạo ra những trang sử mới; đưa dân tộc ta vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.

Thắng lợi của các cuộc chiến tranh cách mạng suốt 30 năm đã chấm dứt ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc hơn một thế kỷ trên đất nước ta, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa.

Thắng lợi của 10 năm sau chiến tranh, trong thế bị bao vây cấm vận, thù trong giặc ngoài, nhân dân ta đã giữ vững được độc lập, xây dựng được những cơ sở ban đầu của chủ nghĩa xã hội ở cả nước.

Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước hơn 20 năm qua, tạo thế và lực mới cho đất nước ta chủ động và tích cực đi vào xu thế chung giao lưu, hội nhập quốc tế.

Những đổi thay, những chiến công và những kỳ tích đó khẳng định vị thế của Đảng ta trong lòng dân tộc. Thành tựu của cách mạng Việt Nam không chỉ thể hiện vai trò lãnh đạo, vai trò cầm quyền của Đảng mà còn khẳng định sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị của đất nước ta. Lịch sử cách mạng Việt Nam gần 80 năm qua khẳng định không thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị. Không có hệ thống chính trị nào mà không có sự lãnh đạo, không có một chính đảng, một lực lượng chính trị chi phối. Hiện nay, trên thế giới có hơn ba mươi đảng duy nhất cầm quyền, chi phối, dẫn dắt hệ thống chính trị của từng nước.

“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” năm 1991 ghi rõ: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”. Thực chất của công cuộc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị nước ta hiện nay là nhằm xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Hệ thống chính trị của nước ta vận hành theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đảng lãnh đạo để nhân dân làm chủ. Nhân dân làm chủ chủ yếu bằng Nhà nước và thông qua các tổ chức chính trị-xã hội, vừa làm chủ qua đại diện, vừa làm chủ trực tiếp. Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân, vì dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, có chức năng thể chế hóa và tổ chức thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng và quản lý đất nước. Bằng công tác quản lý và điều hành xã hội thông qua Hiến pháp, pháp luật, các chủ trương, chính sách, Nhà nước thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Như vậy, Đảng vừa là bộ phận của hệ thống chính trị, vừa là hạt nhân lãnh đạo hệ thống ấy, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Mặt trận Tổ quốc, có vai trò đặc biệt trong cách mạng dân tộc dân chủ, khi Đảng chưa giành được chính quyền, càng giữ vai trò quan trọng khi Đảng cầm quyền. Đó là liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân và cá nhân tiêu biểu của các giai cấp và các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; hoạt động theo phương thức hiệp thương dân chủ; có vai trò quan trọng trong việc thực hiện giám sát, phản biện xã hội, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Trong cách mạng XHCN, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện cho quyền lợi hợp pháp và nguyện vọng chính đáng của nhân dân; động viên toàn dân tộc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.

Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phải xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả các quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước phải tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động của Quốc hội, của Chính phủ, của các cơ quan tư pháp, đẩy mạnh cải cách hành chính và cải cách tư pháp, tăng cường hiệu lực và hiệu quả các hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp.

Để phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, vấn đề có tính chất quyết định là phải tiếp tục thực hiện đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy truyền thống cách mạng, bản chất giai cấp và tính tiên phong của Đảng; xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đoàn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo khoa học, có đội ngũ cán bộ đảng viên đủ phẩm chất và năng lực. Đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.

Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, vấn đề cấp bách hiện nay là phải nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng; kiện toàn và đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên; thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; tăng cường quan hệ gắn bó giữa Đảng và nhân dân; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát.

Nhằm mục đích nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, vấn đề cực kỳ quan trọng là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân.

Để giữ vững vai trò cầm quyền, trước hết Đảng phải hoạch định được đường lối cách mạng đúng đắn, bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xây dựng đất nước giàu mạnh, nhân dân thật sự được hưởng hạnh phúc, tự do. Đảng phải xây dựng được một Nhà nước pháp quyền XHCN thật sự của dân, do dân, vì dân. Phải thật sự xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn để Đảng luôn luôn ngang tầm nhiệm vụ, Đảng sống mãi trong lòng dân tộc.

ĐỨC LƯỢNG​

(1) C.Mác – Ph.Ăng-ghen, Tuyển tập, TI, NXB Sự thật, HN, 1970, tr.48.

(2) Hồ Chí Minh, toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, HN, 1995, T.1, tr.461.

pác có thể tham khảo :D
 
pác có thể tham khảo thêm ở đây nữa :D

Hệ thống chính trị ở nước ta

Qua hơn 17 năm đổi mới, với sự nỗ lực phấn đấu cao độ của toàn Đảng, toàn dân, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế- xã hội và đang đứng trước yêu cầu mới của sự phát triển ở tầm cao hơn trước. Trong thời kỳ phát triển mới, bên cạnh những cơ hội, thuận lợi, đất nước ta còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức to lớn, Tình hình đó đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực cao độ nắm bắt thời cơ, đẩy lùi nguy cơ đưa sự nghiệp cách mạng tiếp tục vững bước tiến lên.
Để đáp ứng với yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, đòi hỏi toàn bộ hệ thống chính trị ở nước ta phải được kiện toàn, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động.
Tuy nhiên, hệ thống chính trị là vấn đề rộng lớn, có nhiều nội dung cần đề cập, vì vậy, trong bài này chỉ nêu một số vấn đề cơ bản, cần thiết, phù hợp với yêu cầu giáo dục lý luận chính trị của thanh niên.

Câu hỏi 1: Hệ thống chính trị là gì? Hệ thống chính trị ở Việt Nam bao gồm những tổ chức nào?
Trả lời:
Trong mọi xã hội có giai cấp, quyền lực của chủ thể cầm quyền được thực hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định. Đó là hệ thống chính trị.
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao gồm các đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã hội, để củng cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời phù hợp với lợi ích của chủ thể giai cấp cầm quyền.
Hệ thống chính trị xuất hiện cùng với sự thống trị của giai cấp, Nhà nước và thực hiện đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền, do đó hệ thống chính trị mang bản chất giai cấp của giai cấp cầm quyền.
- Trong chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể thực sự của quyền lực, tự mình tổ chức và quản lý xã hội, quyết định nội dung hoạt động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
ở nước ta, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể chân chính của quyền lực. Bởi vậy, hệ thống chính trị ở nước ta là cơ chế, là công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội hợp pháp khác của nhân dân được thành lập, hoạt động trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.

Câu hỏi 2: Bản chất và đặc điểm của hệ thống chính trị ở nước ta là gì?
Trả lời:
a. Bản chất:
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, nhân dân ta đã đứng lên làm cách mạng, giành lấy quyền lực và tổ chức ra hệ thống chính trị của mình. Vì vậy, hệ thống chính trị ở nước ta có những bản chất sau:
Một là, hệ thống chính trị ở nước ta mang bản chất của giai cấp công nhân, nghĩa là các tổ chức trong hệ thống chính trị đều đứng vững trên lập trường quan điểm của giai cấp công nhân. Từ đó đã quy định chức năng, nhiệm vụ, phương hướng hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị, đảm bảo quyền làm chủ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Hai là, bản chất dân chủ của hệ thống chính trị ở nước ta thể hiện trước hết ở chỗ: Quyền lực thuộc về nhân dân với việc Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, thiết lập sự thống trị của đa số nhân dân với thiểu số bóc lột.
Ba là, bản chất thống nhất không đối kháng của hệ thống chính trị ở nước ta. Bản chất đó dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, về sự thống nhất giữa những lợi ích căn bản của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc.
b. Đặc điểm của hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay:
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay có những đặc điểm cơ bản sau:
Một là, các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta đều lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Các quan điểm và nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đều được tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta vận dụng, ghi rõ trong hoạt động của từng tổ chức.
Hai là, hệ thống chính trị ở nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng là một tổ chức trong hệ thống chính trị nhưng có vai trò lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị. Trong điều kiện cụ thể ở nước ta, do những phẩm chất của mình - Đảng là đại biểu cho ý chí và lợi ích thống nhất của các dân tộc; do truyền thống lịch sử mang lại và do những thành tựu rất to lớn đạt được trong hoạt động thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng... làm cho Đảng ta trở thành Đảng chính trị duy nhất có khả năng tập hợp quần chúng lao động đông đảo để thực hiện lý tưởng của Đảng, nhân dân tự nguyện đi theo Đảng, thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong thực tế. Đây là đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị ở nước ta.
Ba là, hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc này được tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta thực hiện.
Việc quán triệt và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ là nhân tố cơ bản đảm bảo cho hệ thống chính trị có được sự thống nhất về tổ chức và hành động nhằm phát huy sức mạnh đồng bộ của toàn hệ thống cũng như của mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị.
Bốn là, hệ thống chính trị bảo đảm sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân và tính nhân dân, tính dân tộc rộng rãi.
Đây là đặc điểm khác biệt căn bản của hệ thống chính trị ở nước ta với hệ thống chính trị của các nước tư bản chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, sự thống nhất lợi ích giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động cũng như cả dân tộc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Câu hỏi 3: Vị trí, vai trò, nhiệm vụ của các tổ chức chính trị trong hệ thống chính trị ở nước ta như thế nào?
Trả lời:
ở nước ta hiện nay, giai cấp công nhân và nhân dân lao động đang là chủ thể chân chính của quyền lực. Vì vậy, hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng là công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động. Hệ thống chính trị của nước ta gồm nhiều tổ chức, mỗi tổ chức có vị trí, vai trò khác nhau do chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, nhưng cùng tác động vào các quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm đảm bảo quyền lực của nhân dân.
a. Đảng Cộng sản Việt Nam:
Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị nhưng lại là hạt nhân lãnh đạo của toàn bộ hệ thống chính trị. Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:
Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, những quan điểm, chủ trương phát triển kinh tế-xã hội; đồng thời Đảng là người lãnh đạo và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng.
Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và các đoàn thể quần chúng. Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp nhận, thể chế hoá cụ thể bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế hoạch, chương trình cụ thể. Vì vậy, Đảng luôn quan tâm đến việc xây dựng Nhà nước và bộ máy của Nhà nước, đồng thời kiểm tra việc Nhà nước thực hiện các Nghị quyết của Đảng.
Đảng lãnh đạo xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ bằng việc xác định đường lối, chính sách cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán bộ có đủ tiêu chuẩn vào các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và các đoàn thể quần chúng và các tổ chức chính trị - xã hội.
Ngoài ra, Đảng lãnh đạo bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục và nêu gương, làm công tác vận động quần chúng, lãnh đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ...
b. Nhà nước:
Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị ở nước ta, là công cụ tổ chức thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân để quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Đó chính là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mặt khác, Nhà nước chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
Như vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy chính trị, hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội của nhân dân. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội do nhân dân trực tiếp bầu ra, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập ra Hiến pháp và luật pháp (lập hiến và lập pháp). Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Với ý nghĩa đó, Quốc hội được gọi là cơ quan lập pháp. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của Nhà nước. Chính phủ là cơ quan chấp hành, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và phải báo cáo công tác với Quốc hội. Trên ý nghĩa đó, Chính phủ được gọi là cơ quan hành pháp.
Cơ quan tư pháp gồm: Toà án, Viện kiểm sát và các cơ quan điều tra. Đây là những cơ quan được lập ra trong hệ thống tổ chức Nhà nước để xử lý những tổ chức và cá nhân vi phạm pháp luật, đảm bảo việc thực thi pháp luật một cách nghiêm minh, chính xác.
Toà án các cấp là cơ quan nhân danh Nhà nước, thể hiện thái độ và ý chí của Nhà nước trước các vụ án thông qua hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Toà án là cơ quan duy nhất có quyền áp dụng chế tài hình sự, không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Để đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, đảm bảo việc xét xử đúng người đúng tội, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức thành hệ thống, tập trung thống nhất và độc lập thực hiện thẩm quyền của mình đối với các cơ quan khác của Nhà nước. Thực hiện các quyền khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra, truy tố...Với ý nghĩa đó, các tổ chức Toà án, Viện kiểm sát được gọi là cơ quan tư pháp.
Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Vì vậy, cần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
c. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội...
Đây là những tổ chức chính trị-xã hội hợp pháp được tổ chức để tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản đại diện cho lợi ích của nhân dân, tham gia vào hệ thống chính trị, tuỳ theo tính chất, tôn chỉ, mục đích của mình nhằm bảo vệ quyền lợi dân chủ của nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước; phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của các hội viên, đoàn viên, giữ gìn kỷ cương phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng; phát huy khả năng tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân; tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; thực hiện giám sát của nhân dân với cán bộ, công chức và giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.
Các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân có nhiệm vụ giáo dục chính trị tư tưởng, động viên và phát huy tính tích cực xã hội của các tầng lớp nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị; chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của nhân dân; tham gia vào công việc quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần thực hiện và thúc đẩy quá trình dân chủ hoá và đổi mới xã hội, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức theo một hệ thống từ Trung ương đến cơ sở. Cơ sở phân cấp theo quản lý hành chính gồm có xã, phường, thị trấn. Hệ thống chính trị ở cơ sở bao gồm: Tổ chức cơ sở Đảng, Hội đồng Nhân dân xã, phường; Uỷ ban Nhân dân xã, phường; Mặt trận Tổ quốc xã, phường và các tổ chức chính trị-xã hội khác như: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh xã, phường, thị trấn… Tất cả các tổ chức trên đều có vị trí, vai trò và nhiệm vụ được quy định trong Luật Tổ chức của hệ thống chính trị ở nước ta.
Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế-xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.

Câu hỏi 4: Vì sao phải tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị?
Trả lời:
Trong những năm qua, hệ thống chính trị ở nước ta đã có những đổi mới đáng kể: Đảng đã được củng cố cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức; vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội ngày càng tăng; Nhà nước tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện theo hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân; Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội từng bước đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đem lại hiệu quả thiết thực; quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá, tư tưởng được phát huy... Bên cạnh đó, hệ thống chính trị ở nước ta còn bộc lộ nhiều nhược điểm: Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước, hiệu quả hoạt động của các đoàn thể chính trị-xã hội chưa nâng lên kịp với đòi hỏi của tình hình nhiệm vụ mới. Bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể chậm được sắp xếp lại cho tinh giản và nâng cao chất lượng, còn nhiều biểu hiện quan liêu, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân. Công tác tuyển chọn, bồi dưỡng, thay thế, trẻ hoá, chuẩn bị cán bộ kế cận còn lúng túng, chậm trễ. Năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị chưa tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ. Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hoá về phẩm chất đạo đức, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở Đảng chưa cao.
Hệ thống chính trị ở cơ sở hiện nay còn nhiều mặt yếu kém, bất cập trong công tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện và vận động quần chúng. Tình trạng tham nhũng, quan liêu, mất đoàn kết nội bộ, vừa vi phạm quyền làm chủ của dân, vừa không giữ đúng kỷ cương, phép nước xảy ra ở nhiều nơi, có những nơi nghiêm trọng. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống chính trị chưa được xác định rành mạch, tránh nhiệm không rõ; nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới, còn nhiều biểu hiện của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Đội ngũ cán bộ cơ sở ít được đào tạo, bồi dưỡng; chính sách đối với cán bộ cơ sở còn chắp vá.
Để tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở, từ nay đến năm 2005, cần tập trung giải quyết mấy vấn đề cơ bản và bức xúc sau đây:
Một là, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống chính trị, đồng thời xây dựng mối quan hệ đoàn kết, phối hợp giữa các tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, chi bộ cơ sở; đổi mới nội dung và phương thức hoạt động hướng vào phục vụ dân, sát với dân, được dân tin cậy.
Hai là, thực hành dân chủ thực sự trong nội bộ các tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở theo nguyên tắc tập trung dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên cơ sở thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, phát huy quyền làm chủ đại diện, quy định cụ thể việc thực hiện quyền của dân giám sát tổ chức và cán bộ ở cơ sở và kịp thời thay thế người không đủ tín nhiệm. Phát huy dân chủ phải đi liền với củng cố và nâng cao kỷ luật, kỷ cương theo pháp luật.
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tuỵ với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân; trẻ hoá đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở.
Trước yêu cầu mới ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cùng với đổi mới nền kinh tế, từng bước đổi mới kiện toàn hệ thống chính trị là đòi hỏi khách quan, yêu cầu cấp bách.

Câu hỏi 5: Nội dung, phương hướng cơ bản nhằm đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị?
Trả lời:
Việc đổi mới hệ thống chính trị phải hướng vào việc thực hiện mục tiêu chủ yếu là nhằm thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
1. Đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của Đảng.
Để thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới, cần tập trung làm tốt những vấn đề sau:
Một là, nâng cao nhận thức và thực hiện đúng vai trò hạt nhân chính trị và trình độ lãnh đạo của tổ chức Đảng ở các cấp để phát huy tính chủ động, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị trong việc thực hiện đường lối của Đảng.
Hai là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cần nâng cao nhận thức và có quan niệm đúng đắn về sự lãnh đạo toàn diện của Đảng. Trước hết là việc đổi mới, việc ra Nghị quyết và chỉ đạo thực hiện các Nghị quyết của Đảng. Phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng, giữ vững đoàn kết thống nhất trong Đảng. Tăng cường công tác kiểm tra, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; tăng cường công tác giáo dục rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên của Đảng...
2. Đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước.
Để Nhà nước làm nhiệm vụ quản lý và lãnh đạo xã hội, cần làm tốt một số vấn đề sau:
- Phát huy mạnh mẽ vai trò của hệ thống chính quyền Nhà nước trong việc mở rộng và thực hiện dân chủ, hoàn thiện cơ chế dân chủ, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, cụ thể hoá phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.
- Chăm lo xây dựng, kiện toàn bộ máy của Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở, có cơ cấu gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả, đội ngũ cán bộ có phẩm chất và năng lực với tinh thần trách nhiệm cao. Hoạt động của cơ quan Nhà nước phải đặt nhiệm vụ phục vụ nhân dân lên trên hết, giải quyết đúng đắn và nhanh chóng các công việc có liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân. Giáo dục cán bộ, công chức Nhà nước xây dựng và thực hành phong cách "Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân", "Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin"...
- Xây dựng cơ chế và biện pháp để kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân; ngăn chặn và khắc phục tình trạng dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, đồng thời nghiêm trị những hoạt động phá hoại gây rối...
- Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và trong sinh hoạt của bộ máy Nhà nước.
3. Đổi mới và kiện toàn các đoàn thể chính trị-xã hội.
Những năm qua các tổ chức chính trị-xã hội, các đoàn thể quần chúng nhân dân đã phát huy vai trò của mình trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đáp ứng yêu cầu của thời kỳ phát triển mới, các tổ chức chính trị - xã hội cần được đổi mới toàn diện theo hướng sau đây:
- Nâng cao hơn nữa nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các đoàn thể quần chúng. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội nghề nghiệp... các tổ chức quần chúng.
- Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp quần chúng nhân dân, đáp ứng yêu cầu và chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng và hợp pháp của nhân dân.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân tập trung hướng mạnh về cơ sở. Lãnh đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân, ngăn chặn và chống mọi hành động vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đổi mới hình thức tuyên truyền, vận động nhân dân; gắn hoạt động của các tổ chức đoàn thể quần chúng trong việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, an ninh, quốc phòng... với việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Câu hỏi 6: Đoàn viên, thanh niên cần làm gì để xây dựng hệ thống chính trị?
Trả lời:
Thanh niên là lực lượng dự bị tin cậy, cánh tay đắc lực của Đảng và của hệ thống chính trị. Vì vậy, thanh niên cần nhận thức đầy đủ trách nhiệm, góp phần xây dựng hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh. Cụ thể:
- Tham gia tích cực vào cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh.
- Thực hiện một cách có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
- Tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng, mạnh dạn đấu tranh với những hành động sai trái, bảo vệ lợi ích thiết thực, hợp pháp và chính đáng của nhân dân.
- Tích cực tham gia và thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, hăng hái đi đầu trong mọi lĩnh vực học tập và công tác.
- Tích cực hưởng ứng và tham gia hoạt động trong phong trào của các tổ chức chính trị – xã hội phát động; trực tiếp là xây dựng tổ chức Đoàn và phong trào của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
 
cảm ơn bạn nhiều nhé!
:KSV@12:
 
Cảm ơn thi55cnsh nhiều. Hôm qua ngủ nhà bạn nên anh không online.
Em cũng cần lưu ý một số điểm của bài viết sau:


"Không lẫn lộn chức năng của Đảng và Nhà nước"​


"Đảng bao biện làm thay Nhà nước sẽ hạ thấp cả vai trò lãnh đạo của Đảng, cả hiệu quả quản lý của Nhà nước". Tư tưởng của cố TBT Lê Duẩn về công tác xây dựng Đảng được nhấn mạnh trong Hội thảo khoa học kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (7/4/1907-7/4/2007).

Trong tham luận của mình, PGS, TS Đỗ Ngọc Ninh và ThS Đinh Ngọc Giang (Viện Xây dựng Đảng - Học viện Chính trị quốc gia HCM) khẳng định: "Những quan điểm của cố TBT Lê Duẩn về xây dựng Đảng có giá trị và ý nghĩa đối với đổi mới, chỉnh đốn Đảng ta trong giai đoạn hiện nay".

Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng gắn liền với nâng cao hiệu lực quản lý của NN

Các tác giả cho rằng, xây dựng Đảng trong khi chính quyền đã về tay nhân dân và đang xây dựng CNXH có nhiều nội dung mới so với khi chưa giành được chính quyền. TBT Lê Duẩn từng khẳng định một phương châm quan trọng: "Xây dựng Đảng trước hết phải thông qua và gắn liền với nhiệm vụ chính trị, với phong trào cách mạng của quần chúng".

Phát biểu tại Đại hội IV của Đảng, cố TBT nhấn mạnh tầm quan trọng về vai trò lãnh đạo của Đảng và mối quan hệ hữu cơ giữa nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước. Ông nói: "Bảo đảm tốt sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là một điều kiện quyết định để tăng cường Nhà nước, nâng cao hiệu lực của Nhà nước. Mặt khác, Đảng không thể lãnh đạo xã hội, lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp xây dựng CNXH nếu không có Nhà nước".

Với gần 60 năm hoạt động cách mạng kiên cường, cố TBT Lê Duẩn cho rằng, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trước hết và chủ yếu là năng lực lãnh đạo đối với Nhà nước thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

"Lẫn lộn chức năng lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý của Nhà nước, Đảng bao biện làm thay Nhà nước sẽ hạ thấp cả vai trò lãnh đạo của Đảng, cả hiệu lực quản lý của Nhà nước, và cuối cùng nhiệm vụ cách mạng không thể thực hiện".

Cách đây hơn 20 năm, cố TBT đã từng chỉ rõ: "Để nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, cần coi trọng việc xây dựng và thực hiện nghiêm chỉnh pháp chế xã hội chủ nghĩa...". "Mọi vi phạm pháp luật phải được xử lý nghiêm, không kể người đó là đảng viên hay không, không kể chức vụ cao hay thấp".

"Việc tẩy trừ những thói hư tật xấu, những biểu hiện tiêu cực trong cơ quan nhà nước phải gắn liền với việc xây dựng và củng cố pháp luật những kẻ lợi dụng chức quyền làm ăn phi pháp, không kể là đảng viên hay người ngoài Đảng; kịp thời thay đổi và thanh thải những cán bộ sa sút phẩm chất, nhu nhược, mất tín nhiệm trong quần chúng".

Theo cố TBT Lê Duẩn, trong điều kiện đảng cầm quyền, Đảng phải hết sức coi trọng việc giữ mối liên hệ mật thiết với quần chúng, kiên quyết đấu tranh chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh, độc đoán, chuyên quyền dễ khiến cho Đảng xa rời quần chúng và mất hết sức chiến đấu.

Làm trẻ lại cách suy nghĩ: yêu cầu cấp bách

PGS, TS Đỗ Ngọc Ninh và ThS Đinh Ngọc Giang nhấn mạnh: Trẻ hóa đội ngũ cán bộ, mạnh dạn đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ trẻ là điều ông Lê Duẩn luôn quan tâm và chỉ đạo các cơ quan tham mưu các cấp ủy đảng tích cực thực hiện. Cố TBT lưu ý: "Nói làm trẻ đội ngũ cán bộ không phải chỉ nói đến việc đưa thêm những lực lượng trẻ vào các cấp lãnh đạo, mà còn có nghĩa là phải làm trẻ lại, đổi mới lại cách suy nghĩ, cách làm ăn của một số cán bộ đã quen suy nghĩ và làm việc theo nếp cũ không còn thích hợp... Trẻ về con người, trẻ về nếp suy nghĩ, về cách làm ăn, đó là những yêu cầu cấp bách của công tác xây dựng Đảng".

Các tác giả chỉ rõ quan điểm của ông Lê Duẩn: "Muốn làm tốt công tác cán bộ, một nguyên tắc phải được tôn trọng và chấp hành nghiêm túc là công tác cán bộ phải được tiến hành dưới sự chỉ đạo tập trung của Đảng. Các cấp ủy Đảng cần trực tiếp xem xét và tập thể quyết định việc lựa chọn, đánh giá, cất nhắc, thay đổi những cán bộ giữ chức vụ quan trọng trong bộ máy Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân".

"Điều cần nhấn mạnh là trong việc quyết định cán bộ, nhất thiết phải thông qua một tổ chức tập thể, cá nhân quyết định thì dễ lệch lạc và có thể dẫn tới những hậu quả không tốt".


Theo: VietNamNet
 
×
Quay lại
Top