Charlie Bone

Charlie và cuộc hành trình nguy hiểm






Ý định của Charlie là đi tới tiệm Ấm Đun cành nhanh càng tốt, nhưng có rất nhiều người trong thành phố muốn chặn đường nó. Dẫu thương tật và sứt sẹo đầy mình, Manfred Bloor vẫn có uy lực kinh khủng đối với những đứa trẻ được ban phép thuật khác. Joshua Tiplin là một trong vài đứa khâm phục hắn mê muội nhất và thằng này còn hơn cả sốt sắng giúp Manfred Bloor trả thù Charlie.

Manfred biết những con mèo lửa là thủ phạm gây ra những thương tích ghê hồn cho hắn, nhưng chúng làm thế là để bảo vệ Charlie, vì vậy Charlie phải bị trừng phạt. Ngoài ra, còn có vấn đề Asa nữa. Manfred vẫn chưa từ bỏ ý đồ "Sói Hoang", như tất cả mọi người gọi Asa. Thêm vài tuần nữa trong ngục tối thôi, Manfred tính toán, là Asa sẽ trở lại như xưa: một sinh vật hủy diệt hoang dã, sẵn sàng tuân thủ mọi mệnh lệnh của Manfred mà không đắn đo ... trừ phi Charlie Bone tìm ra cậu bé người sói và phóng thích nó.

Charlie nhận thức rõ là có những kẻ nguy hiểm đang ẩn núp trong thành phố, nhưng nó không biết chúng ẩn ở đâu, và phải mất mấy phút nó mới hay mình đã chạy về hướng ngược lại với hướng mình định đi. Nhưng đến lúc đó thì đã quá trễ cho nó xoay chuyển tình thế.

Charlie dừng chạy. Nó đang đi xuống một dãy cầu thang gỗ hẹp rí dẫn vô một ngõ hẻm tối đen như mực. "Mình đang làm gì ở đây thế này?" Nó tự hỏi. "Mình đang định tới tiệm Ấm Đun cơ mà. Sao lại có cảnh này?" Nó cố quay đầu leo trở lên để ra ánh sáng, nhưng hình như nó bị tắc kẹt ngay trên cầu thang. Lối duy nhất nó có thể đi được là đi xuống.

"Hừ, tao sẽ không đi đâu!" Charlie hét vô bóng tối. "Tao sẽ đứng tại chỗ suốt đêm nếu phải thế."

Cầu thang đánh võng. Charlie tì một tay bíu chặt vô tường vả hồn xiêu phách tán thấy nó tuột luốt dưới những ngón tay mình. Cầu thang đang dịch chuyển càng lúc càng xa nơi có ánh sáng. Khi cầu thang tăng tốc, Charlie bị quăng tới trước, đáp phịch xuống mặt đá cứng lạnh. Chân cẳng nó nặng như chì, cố cựa quậy nhưng vô ích. Charlie cảm thấy mọi hơi thở trong người bị tống ra hết, và nó không còn đủ sức để mà hét lên.

Nỗi khiếp đảm khiến Charlie nhắm mắt lại. Rồi nó từ từ mở mắt ra. Charlie thấy một quầng sáng đằng trước, cách đó vài mét, phát ra từ một cái đèn lồng lớn, trông cổ xưa đặt ở dưới đất. Phía trên quầng sáng đó hiện ra ba bộ mặt được chiếu tỏ - những bộ mặt không cười xếp chung với bóng tối mịt mùng. Joshua Tiplin và hai chị em sinh đôi nhà Branko.

Dù đang lóa mắt, Charlie không cần tới một giây để nhận ra, năng lượng từ tính của Joshua kết hợp với siêu năng của hai chị em sinh đôi đã kéo nó vô con hẻm hiểm ác này. Bây giờ sức mạnh của chúng đã mạnh hơn trước, lại cấu kết với nhau nên chúng tạo ra một trường lực hầu như không gì phá nổi.

Không hiểu bằng cách nào, Charlie xoay xở bật được tiếng nói ra khỏi cơ thể đau như dần của mình. "Tụi bay muốn gì?"

"Tụi tao không muốn mày," một trong hai chị em sinh đôi trả lời trong tiếng cười vỡ vụn.

"Mà mày phải hứa một lời," đứa kia trong hai chị em sinh đôi tiếp, giọng con này đục sâu và hiếu chiến hơn.

"Một lời hứa?" Charlie rên rẩm.

Đến lượt Joshua nói, giọng cứng rắn, không thương xót. "Mày phải từ bỏ ý định ngu ngốc đi tìm Asa Pike."

"Nếu tao không bỏ?" Charlie mấp máy qua kẽ răng.

"Không có nếu," hai chị em sinh đôi đồng thanh. "Mày phải từ bỏ."

Có tiếng lở đất rùng rùng phía trên Charlie. Nó quay đầu lại, đúng lúc thấy một tảng đá lớn bật văng ra khỏi vị trí của nó trong bức tường cao sát đấy. Charlie lùi bắn lại, giơ hai tay lên che đầu, chờ hứng một cú rơi không thể tránh vô giữa sọ.

Nhưng tảng đá đó không hề chạm đến nó. Một cơn gió bạo liệt quét xuống con hẻm; bị chụp cứng trên không trung, tảng đá trệch ra khỏi đường bay và bổ nhào xuống ngay bên cạnh Joshua Tiplin. Một tiếng thét chói óc vang lên khi Joshua bị nhấc hổng chân lên và bị xách đi mất. Hai chị em sinh đôi, bám dính vào nhau, cũng chịu chung số phận. Charlie có thể nghe thấy bàn chân chúng đạp những bức tường của ngõ hẻm trong khi chúng lộn tùng phèo trên không, gào rú tựa như những nừ thần báo tử.

Rồi một tiếng sấm đinh tai và một đám mây đen ngòm luộn cuộn trên đầu. Tiếng gào khóc của lũ trẻ trên không nhòa thành tiếng rú kinh hồn không ngừng mà dần bị nhấn chìm vô tiếng sấm và tiếng mưa rơi lộp độp xuống mặt đất.

Charlie cuộn mình thu lu thật thảm thương và chờ cơn bão đi qua.

Phải cần tới một nguồn năng lượng vô biên mới có thể tạo ra thời tiết hung hãn đến vậy, và chủ nhân gây ra nó khi xong việc thể nào cũng mệt nhừ tử cho mà xem. Anh ta nên để cơn bão tan chầm chậm hơn là bắt nó kết thúc đột ngột như thế.

Mãi cuối cùng, khi Charlie triệu hồi đủ can đảm mà ngóc đầu lên, nó nhận thấy cây đèn lồng, dù bị phủ trùm trong bão cát, vẫn còn sáng. Ai đó đã xịch cây đèn lại gần Charlie. Nó trông thấy hai cái cẳng dài bọc trong hai ống quần jean ướt nhẹp màu xanh dương. Hoảng sợ một trận tấn công khác, còn tàn khốc hơn trận nó vừa mới chịu đựng, mắt Charlie hãi hùng lướt dần lên trên. Nó thấy một cái áo khoác thủy thủ, một chiếc khăn quàng cổ màu xám, và trên chiếc khăn quàng, một gương mặt mỉm cười có mái tóc vàng dựng tua tủa tên đỉnh.

"Charlie!" Tancred gọi.

"Tancred," Charlie thở dốc. "Là anh thật không?"

"Chứ còn ai. Em ổn chứ, Charlie?"

"Ừm, em chưa chết." Charlie cố gượng đứng dậy nhưng cần có cánh tay của Tancred đỡ mới xong.

"Sao anh biết em ở đây?"

"Đi theo con bướm của em. Anh đã nhận ra nó ngay lập tức. Nó cuống quít bay vòng vòng quanh đầu anh, đâm húc vô má anh, nó còn cắn cằm anh khi nó nghĩ anh chạy chưa đủ nhanh. Ngay khi thấy khoảng không chơi vơi ở chỗ lẽ ra là cái cầu thang, anh biết có cái gì đó vô cùng khủng khiếp đang diễn ra."

Charlie ngoái nhìn lại. Những bậc thang nằm thành một đống đổ nát, xa tít bên dưới so với mặt đường.

"Anh đã phải nhảy xuống." Tancred săm soi một cái dằm đâm vô ngón tay cái của mình. "Tụi mình không thể ra khỏi đây bằng đường ấy được."

"Hai chị em sinh đôi," Charlie láp báp. "Bây giờ chúng quá... quá mạnh và máu lạnh. Còn Joshua thì ..."

"Chúng sẽ mất sức mạnh trong một thời gian." Tancred cười ngoác. "Đi, Charlie. Tụi mình về nhà em nào."

Cuối cùng cây nến trong lồng đèn đã cháy hết và hai thằng bé phải lò mò nhích tới trước, trong khi con bướm trắng chờn vờn ở trên đầu, soi đường cho chúng. Charlie cứ nơm nớp lo mình sẽ vấp phải một cái xác, nhưng chẳng thấy tăm hơi Joshua hay hai chị em sinh đôi đâu cả.

"Chúng đang nằm dưới một cánh đồng ở đâu đó," Tancred nói. "Anh cố ý cho gió đủ mạnh để bốc chúng ra khỏi thành phố."

Charlie kinh ngạc trước tài phép lạ thường của Tancred. "Em ước gì mình có thể làm được điều gì đó hữu ích," nó lầm thầm.

Tancred vỗ lưng nó. "Em vẫn luôn làm điều có ích đấy thôi, Charlie. Anh cảm thấy xấu hổ phải thú thật với em là Kẹo Ngọt đã thổi cho anh lầm đường lạc lối một thời gian." Anh nhìn con bướm sáng chóa lượn lờ như chờ chúng nhảy lên chụp bắt, rồi cười phá ra. "Em biết không, con bướm đó đã chỉ cho anh thấy ánh sáng."

"Như thế nào?"

"Tracy thảy cho anh một tối hậu thư: â��Đi theo con bướm dớ dẩn đó thì anh sẽ bị bỏ, Tancred Torsson' - cô ta nói vậy đó. Vậy là không hay nhỉ? Anh đã thấy đúng con người cô ta, Charlie. Một cái đầu rỗng hấp dẫn."

"Chị ấy rất đẹp," Charlie nói, cố biện minh cho sự ly khai tạm thời của Tancred. "Vì vậy em có thể hiểu nỗi... nỗi..."

"Nỗi ám ảnh? Ờ, đúng, cô ta rất đẹp," Tancred chua chát.

Cuối cùng chúng cũng leo lên được con đường nhộn nhịp những cửa hàng và ánh đèn sầm uất, Charlie dần cảm thấy mình lại thuộc về thế giới thực một lần nữa.

"Làm sao tụi mình tới được đường Piminy từ đây?" nó nói.

Tancred ngỡ ngàng. "Sao em muốn đi tới đó?"

Vì bây giờ Tancred đã tỉnh ngộ, cho nên, trong khi băng qua thành phố, Charlie vẽ lại cho anh thấy bức tranh toàn cảnh. Cũng chính thanh gươm đã khiến Tancred lưu ý,hệt như đối với Lysander.

"Một thanh gươm?" đôi mắt xanh da trời của Tancred sáng lên. "Oa! Và em nghĩ Hiệp Sĩ Đỏ có thể là kẻ mạo danh vì ông ấy đã đánh cắp áo choàng của nhà vua?"

"Em không biết chắc, Tanc. Em chỉ cảm thấy là mình phải cảnh báo cho bà Kettle."

"Anh không thể đợi nổi để thấy tiệm bán ấm và gặp người thợ rèn này." Tancred bắn vọt đi và Charlie phải cố cắm chạy để theo kịp anh.

Cơn bão vừa rồi đã nhốt phần lớn dân cư thành phố ở rịt trong nhà của họ. Lũ trẻ ở quán Cà Phê Thú Kiểng đinh ninh là Charlie đã trở về đường Filbert rồi, tất nhiên, nên thu gom thú cưng lại và đi về nhà chúng. Benjamin cực nhọc vật vã mà không tách được Hạt Đậu ra khỏi Chattypatra, nhưng ông Onimous đã thuyết phục được hai con chó bằng một gói bít-tết của chó cho Hạt Đậu mang về nhà, và một tô kem cho Chattypatra ở đằng sau quầy.

Dư âm của cơn bão còn nhấn nhá trên đầu Charlie và Tancred khi chúng tất tưởi chạy trên đường Piminy. Tancred phân bua rằng anh không thể kiềm chế được. "Nhưng thời tiết là một vỏ bọc để bảo vệ chúng ta, Charlie, em không cảm thấy thế sao?"

Có, Charlie cảm thấy gì đó chứ. Nó linh cảm một sự xung đột dữ dội ở đường Piminy, cứ như vừa có những lằn chiến tuyến được dựng lên vậy. Bao nhiêu thầy pháp đã từng sống ở đây? Ai trong số họ xứng danh con cháu Vua Đỏ, và ai dùng phép thuật để chống lại hàng xóm láng giềng của mình.

Khi chúng đi tới tiệm Đá, Tancred ghé mắt dòm vô cửa sổ. Anh rùng mình rụt sâu vào chiếc áo khoác mùa đông của mình. "Thử nghĩ coi, Charlie. Một đội quân đá chuyển động. Ai có thể đánh bại đội quân đó?"

Charlie không trả lời.

Bên ngoài tiệm bán cá, Tancred lại chùng chình lần nữa. Anh ngước nhìn cửa sổ phía trên tấm biển bôi bác. Charlie đã kể cho anh nghe những gì Emma đã thấy, nhưng dù gì Tancred vẫn cứ dừng lại. Ở đây, anh cảm thấy một kẻ thù mà mình sinh ra để đối đầu với hắn. Anh không biết mình và Dagbert có chung một tổ tiên bão tố: Petrello, người tạo bão, sương mù, và những dòng thủy triều chết người.

Charlie nhìn tấm biển hú hít trong gió. Nó giật cánh tay Tancred. "Đi thôi. Em muốn tới nhà bà Kettle."

"Nó thậm chí không phải là một cái tiệm," Tancred nhận xét. "Chẳng có gì để bán, cho dù bọn họ là ai chăng nữa. Nhưng anh cũng ngửi thấy mùi cá rõ ràng." Anh lùi lại khỏi cửa sổ, tay bịt mũi.

Charlie không thể chậm trễ cuộc thăm viếng hơn nữa, nó vụt chạy tới tiệm Ấm Đun và gõ cửa rầm rầm. Tancred chạy tới với nó, chúng đợi vài giây rồi Charlie lại đập gõ tiếp, dộng hết sức bằng cái đập cửa hình chiếc ấm.

"Trời đất ơi, Charlie Bone, cái gì đưa cưng trở lại đây thế? Bà đang bận tay." Bà Kettle đứng ở ngưỡng cửa,tay khoanh trước ngực. Bà mặc áo liền quần lấm lem dầu mỡ và mặt bà dính đầy nhọ. Trông bà chẳng có ý muốn cho ai vô nhà cả.

"Xin lỗi, bà Kettle," Charlie hấp tấp nói, "Nhưng có chuyện đã xảy ra, môth chuyện mà bà nên biết."

Bà Kettle chồm tới trước và dòm dáo dác ngược xuôi con phố. "Cưng vô đây. Chúng ta không muốn cả lối phố biết chuyện của chúng ta. Ai đi cùng với cưng thế này?"

"Tên cháu là Tancred Torsson," Tamcred tự giới thiệu, bước vô cửa hàng. "Cháu đang gây ra một chút bão mà nó hiện đang thổi qua cửa nhà bà."

"Chút bão ư? Trận cuồng phong chết tiệt thì có. Chắc chắn cậu lợi hại đấy. Ta là Katya Kettle. Hân hạnh gặp cậu." Bà lắc cánh tay Tancred nồng nhiệt đến độ anh phải giữ lấy vai mình, tưởng như cánh tay rời khỏi khớp xương đến nơi.

Khi theo bà Kettle vô căn phòng sau của bà, chúng nhận thấy có tiếng lạch cạch và tiếng gì rơi tõm phát ra từ hai phía bên hông chúng. Nhìn quanh, chúng thấy nắp của một cái ấm màu xanh dương cứ nhấc lên không lại rớt cạch xuống. Điều tương tự cũng diễn ra với một cái ấm đồng, rồi một cái ấm nhỏ bằng sắt.

"Chuyện gì thế ạ, bà Kettle?" Charlie hỏi.

"Chứ cưng nghĩ là gì hả, Charlie? Khối năng lượng tích tụ trên đường này dư sức thổi bay mái nhà của bà đi." Bà Kettle ngồi xuống ghế, và thấm cái trán bóng lưỡng của mình bằng một miếng giẻ nhem nhuốc dầu.

"Bão tố của cháu thường không có tác động như thế," Tancred nói, ngồi xuống bên cạnh người thợ rèn to lớn.

"Bão tố của cưng!" Bà cười buồn rầu với Tancred. "Đó chỉ là một phần thôi. Cái ác đang len lỏi trong thành phố này, cưng à. Đang nở rộ như một bông hoa ăn thịt người khổng lồ, và tất cả nảy sinh từ anh chàng Manfred Bloor trẻ tuổi hiểm độc. Sự thù hằng của hắn ghê gớm đến mức nó sẽ trấn áp chúng ta, trừ phi chúng ta phải làm gì đó để chống lại nó."

"Có ai biết vầ thanh gươm bà đang rèn không?" Tancred hỏi, liếc nhìn cái ấm lớn đang run rầy mà Charlie quan sát nãy giờ.

Bà Kettle nhún vai thật rõ. "Ai biết được? Chúng biết những gì ta làm. Ai mà không nhận ra những tia lửa và tiếng quai búa vọng ra từ sau cái tiệm nhỏ của ta, nhưng chẳng bao lâu nữa hiệp sĩ sẽ có thanh gươm của ngài, và chúng ta sẽ thấy ..."

Charlie quay phắt lại. "Bà Kettle! Cháu không nghĩ bà nên đưa thanh gươm cho Hiệp Sĩ Đỏ."

"Điều gì khiến cưng nghĩ vậy?" trông bà Kettle ngạc nhiên thực tình.

Charlie chật vật chuyển mối nghi ngờ của mình thành lời. "Hiệp sĩ trên cầu mặc áo choàng đỏ và ... và Gabriel Silk, gia đình anh ấy giữ áo khoác của Vua Đỏ, à, anh ấy nói có ai đó đã đánh cắp chiếc áo rồi; chiếc áo của nhà vua ấy."

"Charlie Bone!" Người thợ rèn nhìn nó phẫn nộ đến nỗi nó lùi lại dựa vô cái bàn để la liệt ấm. "Bị đánh cắp ư! Mượn, hay có lẽ đòi lại, nhưng không bao giờ ăn cắp. Điều gì khiến cưng nói như vậy?"

"Cháu không biết," Charlie lảng tránh ánh mắt nghiêm khắc màu đồng của bà. "Nhưng một thanh gươm như thế, bà Kettle, sẽ bất khả chiến bại phải không? Rủi nó rơi vào bàn tay không thích hợp, thì nó sẽ nguy hiểm vô cùng."

"Nó cần phải nguy hiểm, thằng bé khờ à. Những lời của Feromel ở trong đầu bà khi bà rèn thanh gươm. Chính pháp thuật của ngài tạo hình cho khối thép bân dưới tay búa của bà. Ngài đi cùng bà trong từng bước của quá trình này."

"Nhưng giả sử hiệp sĩ đó là kẻ mạo danh thì sao?"

Người phụ nữ mở mắt nhìn nó trân trối, không tin nổi. "Cưng nghĩ là ta không biết ư?"

"Không phải," Charlie nói yếu ớt. "Cháu chỉ giả sử thôi."

Bà Kettle đứng lên và lại lau mặt lần nữa. "Hừ, nếu đó là điều cưng đến để nói với ta thì cưng phung phí thời giờ của ta rồi. Ta có việc cần làm, như mấy cưng thấy rõ rồi đấy."

Đằng sau Charlie, cái ấm sắt khổng lồ rú lên những tiếng u u, phả hơi nước. Cái nắp ấm nặng nề bắn vọt lên không, rồi rơi oạch xuống đất một cái choang váng óc. Charlie định nhặt nó lên thì nhận thấy mặt trăng chiếu trong mặt nước đen trong lòng ấm. Nó nhìn kĩ hơn thì mặt trăng lướt khỏi khung cảnh, để rồi được thay thế bằng một vòng tròn lửa nhấp nhô.

"Đừng nhìn!" một giọng ra lệnh, nhưng ánh mắt của Charlie bị những hình ảnh thay đổi trong ấm giữ chặt lại. Bây giờ nó có thể thấy một người đàn ông bên bếp lửa, đang cho thêm cành khô vào ngọn lửa. Mình đang chu du, Charlie nghĩ, nhưng đây không phải lúc. Nó tuyệt đối không được... chu du vô trong đó!

Nó nghe thấy tiếng người luống cuống cảnh báo nó. Những bước chân đằng xa, một bàn tay chìa ra, nhưng những ngón tay bấu chặt vai nó lại nhẹ tênh như bụi.

Bây giờ bắt đầu chuyến lộn nhào, trôi lướt, chuệch choạc qua không gian mà Charlie vừa thích thú vừa kinh hoảng. Những giây đầu tiên của cuộc hành trình luôn luôn đáng sợ nhất, khi chân nó bị hổng khỏi thế giới nó đã biết để trôi tuột vô thế giới nó không biết.

Nó đáp xuống đông rơm chất chù ụ ở phía sau một căn phòng. Một cửa sổ nhỏ, cao trên tường, bao trọn vầng trăng tròn. Ánh mắt Charlie rê từ mặt trăng tròn đến người đàn ông đang nuôi ngọn lửa. Nó chưa bao giờ thấy người nào cao lớn và vai rộng đến thế. Ở ông toát lên sức mạnh vô song, và Charlie hi vọng ông ấy không thù địch, bởi vì rõ ràng ông có thể bóp một người như nó dễ như bóp một con rệp không được chào đón.

Ánh sáng duy nhất trong phòng tỏa ra từ ngọn lửa nhưng khi mắt Charlie quen với bóng tối, nó có thể thấy sàn nhà trống trơn, những bức tường gạch xám xịt, kít bồ hóng. Bên cạnh ngọn lửa là một cái ấm sắt to đùng, có lẽ đúng là cái ấm mà Charlie đã rơi vào.

Khi người đàn ông cời ngọn lửa, một đám tro bay tung mù khắp phòng và Charlie hắt xì.

"Lòng trung thành!" người đàn ông thét, quay khỏi đống lửa. Ông trố mắt nhòn Charlie, chột dạ. "Mi là cái gì? Phải là kẻ bọn chúng phái tới dò la ta?"

Charlie đứng run lẩy bẩy và, hắng giọng nói, "Ừm, không phải, thưa ngài. Cháu đến từ... từ, cháu là người chu du."

"Người chu du?" Người đàn ông thả cây cời lửa xuống và đi về phaid Charlie, nheo mắt nhìn xuống nó một cách nghi ngại. "Một người chu du?" Ông lặp lại. "Giống như bà Amoret?"

"Bà Amoret?" Trí óc bấn loạn của Charlie quay mòng. "Con gái út của Vua Đỏ? Phải, cháu nghĩ cháu là hậu duệ của bà."

"Quà tặng cho số mệnh của ta." Người đàn ông vạm vỡ chộp lấy vai Charlie. "Hãy biết rằng ta là Feromel, và đây có lẽ là ngày cuối cùng của ta trên đời."

"Ngày cuối cùng của ông? Tại sao?" Charlie hốt hoảng hỏi. "Sao lại vậy?"

"Chúng muốn một vật, nhưng không đời nào chúng sẽ có nó đâu. Hãy coi đây!" Từ một cái bàn ở góc phòng, Feromel nhặt lên một cái gói bọc vải đỏ. Giở miếng vải ra, ông để lộ một cái gươm sáng loáng. Tay cầm bằng vàng chạm khắc nhiều hình chim mắt cẩn đá ruby trên một bố cục hình viên kim cương. Thanh chặn ngang mang hình hai con báo có cánh với những đốm sáng bằng saphia.

Nước vàng cổ xưa ánh ngời và vẻ đẹp của cán gươm trên nền vải đỏ khiến Charlie thở hốc lên. "Cái này của Vua Đỏ phải không ạ?" nó thì thào.

Feromel mỉm cười. "Ta tin cháu là một trong những người đáng tin cậy."

"Cháu hi vọng mình được như vậy," Charlie nhiệt thành.

"Thế thì hãy biết rằng chính tay nhà vua đã trang trí cán gươm phép thuật này. Thanh gươm đã biến mất, ta hi vọng sẽ rèn một thanh khác, nhưng giờ thì quá trễ rồi."

Một tiếng ầm vang như tiếng sấm dộng vô cánh cửa và Feromel thét. "Lẹ lên, chúng ta phải giấu nó đi." Ông băng qua phòng, nhặt cây cời lửa lên và trao cho Charlie. "Hãy gạt ngọn lửa qua bên, cậu bé, trong khi ta làm phần còn lại."

Cố hết sức để không run rẩy, Charlie cầm lấy cây cời lửa và đấy những cành khô đang cháy qua một bên.

Ông Feromel đeo đôi bao tay dài bằng da vào, rồi một tay nhặt cán gươm bọc trong gói vải lên, cầm chắc, tay kia ông thọc thẳng ra sau ngọn lửa và xê dịch một viên gạch ống khói.

Lại một đợt dộng thình thình xóc tai nữa khiến cánh cửa dày của người thợ rèn võng oằn vô trong. Hơi nóng hầm hập từ ngọn lửa táp vào làm nước mắt Charlie chảy dàn giụa, nhưng nó thấy rõ lỗ hổng đen trong bức tường gạch, và nó nhìn bàn tay đeo găng của ông Feromel, bị lửa cháy xém, đẩy gói vải đỏ vô cái hốc rồi kê một viên gạch đóng lại.

"Xong rồi, cậu bé. Cảm ơn cậu!" ông Feromel tháo đôi găng tay cháy sém ra và đấm thụp vô lưng Charlie.

Cánh cửa không còn chịu nổi sức đập từ bên ngoài nữa. Nó đổ ập vào phòng và ba khối hình khệnh khạng bước qua đống gỗ vụn: một người đàn ông đá, một phụ nứ đá lăm lăm dùi cui, cùng bức tượng thần lùn mà dựng bên ngoài ngôi nhà của bà cô Vernetia.

Dù vận hết sức lực phi thường của mình, ông Feromel cũng không tung nổi một cú đòn. Nắm đấm to xụ của ông nảy tưng khỏi những thân hình đá bạo tàn, đôi chân dài của ông ngã nhào dưới cái đầu bổ tới của thần lùn.

â��Đi đi, cậu bé! Hãy tự cứu mình!" ông Feromel kêu lên.

Bủn rủn tứ chi, Charlie cuống quít không biết phải đi đâu. Nó bị bỏ lại đằng sau vật duy nhất có thể đưa nó trở về - con bướm trắng của nó.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Cán gươm bị giấu






Charlie giơ nắm tay lem luốc bồ hóng lên dụi mắt. Nó ngước nhìn những thanh xà rực sáng ánh lửa lò, mong ngóng thấy đốm sáng nhỏ xíu là con bướm của mình. Khẩn thiết hy vọng nó đã theo mình tới đây.

Lũ người đá hình như không thấy nó. Chúng đang bận hủy diệt ông Feromel quả cảm. Bị áp đảo về số lượng và sức mạnh, người thợ rèn quyết không đầu hàng cho tới lúc mọi tia lửa của sự sống trong ông tắt lịm. Chứng kiến cảnh trừng phạt man rợ mà ông Feromel phải chịu, Charlie phi thân vào gã đàn ông đá, gã chỉ huơ một cánh tay bành ki là gạt Charlie văng bay qua căn phòng. Nó lụi hụi đứng dậy và húc vào chân con mụ đá, nhưng vô ích, khác nào cố húc đổ một thân cây.

Bức tượng thần lùn chĩa ánh mắt trơ đá, hung tợn vào Charlie. Hắn xoay người một phát, ngáng cẳng Charlie từ phía dưới. Charlie hổng giò ngã ụp xuống đất lần nữa, và, khi nó nhắm mắt lại đau đớn, một luồng sáng phụt qua tầm mắt nó. Khoảng khắc tiếp theo, nó trôi lềnh bềnh.

"Charlie! Charlie!" những tiếng gọi từ xa trôi dần đến.

"Nó đang chu du phải không? Đáng lẽ nó không nên nhìn vô cái ấm đó." Giọng này om xòm và cáu kỉnh.

"Cháu nghĩ nó đang ra khỏi đó kìa."

Charlie thấy mình nhìn xuống một vòng nước đen như mực. Từ từ, nó ngóc cái đầu đau như búa bổ lên. Khắp xung quanh nó, hàng hà ấp đun nước nhấp nha nhấp nháy. Ánh sáng từ chúng tỏa ra chói đến độ Charlie phải nhắm tịt mắt lại để tránh bị lóa.

"Ngồi xuống, cậu bé."

Charlie được dìu tới một cái ghế, và nó vô cùng cảm kích đặt thân mình nhức nhối của mình xuống. Một gương mặt to, bong nhẫy mồ hôi, dí sát vào mặt nó.

"Cưng làm thế để làm gì, hả?" bà Kettle hỏi. "Làm chúng tôi sợ một mẻ bạt vía."

"Xin lỗi," Charlie lung búng. "Nó tự nhiên xảy ra. Ông ấy cần cháu, nhưng vô ích rồi. Cháu không thể giúp được gì."

Tancred trao cho Charlie một ly nước. "Em đi lâu đến mấy thế kỷ luôn đó, Charlie. Đông cứng tại chỗ. Không dấu hiệu sự sống. Anh với bà Kettle không sao dịch chuyển em được."

Charlie hớp mấy ngụm lớn thứ nước lạnh dễ chịu. "Ở trong đó nóng dễ sợ," nó láp ngáp.

"Ở đâu, cưng? Cưng đã đi đâu?" Gương mặt lớn của bà Kettle dời đi khi bà ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh ghế của Charlie.

Hít một hơi thật sâu, Charlie nói, "Thật ra, cháu nghĩ mình đã ở ngay tại đây, có cả ông Feromel nữa."

"Feromel?" bà Kettle bất giác chắp tay vào nhau. "Cưng đã gặp ngài?"

Charlie liếc nhìn gương mặt hoan hỉ của bà. "Xin lỗi, bà Kettle. Cháu đã cố, nhưng vô ích. Cháu không thể giúp được ông ấy. Cháu đã chứng kiến cảnh ông ấy chết. Gã đàn ông đá đã giết ông ấy. Sự thực mà chúng ta biết là như vậy."

"Chao!" Tancred lẳng lặng thốt lên.

Một quãng im lặng kéo dài trong khi Charlie đấu tranh tự vấn lương tâm, không chắc có nên kể cho bà Kettle nghe về cái cán gươm vàng đó hay không. Bà là hậu duệ của ông Feromel, đường đường chính chính, bà phải biết về sự tồn tại của nó, nhưng Charlie vẫn lấn cấn nghĩ Hiệp Sĩ Đỏ chưa chắn đã là bạn.

"Đừng lộ mặt thoái chí thế, cưng." Bà Kettle cầm bàn tay Charlie, vỗ vỗ. "Chắc chắn cưng không thể xoay chuyển được đâu. Hột xúc xắc đã đổ ra. Bọn đê tiện đã ra tay khi đầu óc cưng chìm vô trong cái ấm kia. Bà vốn luôn thắc mắc về nó mãi." Charlie nhìn theo ánh mắt bà tới cái ấm to đùng, đặt trên bàn. "Đôi khi bà nghe thấy có tiếng lục đục, rồi có những khi bà thề là bà thấy ánh lửa nháng lên khỏi mặt nước đen của nó. Bà luôn tin rằng cái ấm cổ đó phản chiếu kết cục bi thảm của tổ tiên mình. Nhưng tại sao? Bà thường tự hỏi. Mục đích của việc ngài lưu lại ngày cuối cùng của mình trên đời này là gì?"

Charlie không thể giấu diếm sự thật lâu hơn được nữa. "Bởi vì ông ấy giấu một vật, bà Kettle ạ, và có lẽ ông ấy hy vọng, một người chu du nào đó, giống như cháu sẽ trở lại và thấy chỗ ông ấy giấu nó."

"Giấu cái gì, Charlie?" Tancred hỏi.

Charlie nhìn từ Tancred qua bà Kettle. "Một cán gươm. Ông ấy bảo nó do chính tay Vua Đỏ trang trí."

"Cái gì!" bà Kettle nhảy bắn khỏi ghế. "Nó ở đâu, Charlie? Ông Feromel đã giấu nó ở đâu?"

"Trong ống khói."

"Ống khói?" người thợ rèn hét lên, chạy tới cánh cửa kim loại. "Thế thì ở trong lò sưởi. Bà phải dập tắt lửa đi mới được."

"Không, không," Charlie nói. "Không phải trong lò sưởi. Nó chỉ có một chút lửa ông ấy nhóm trong căn phòng."

"Có một ống khói kìa," Tancred chỉ mảng tường bao ống khói ở đằng sau một lò sưởi lớn bằng sắt.

Charlie lắc đầu. "Nó ở gần mặt đất, vì vậy nó phải thấp hơn nóc lò sưởi."

Tancred nghi hoặc nhìn cái lò sưởi trông kiên cố. "Nó phải nặng đến cả tấn."

Bà Kettle không hề bác bỏ điều đó. "Đi nào, mấy cưng, giúp bà một tay." Bà bước tới lò sưởi và bắt đầu giật nó ra khỏi bức tường.

Hai thằng bé không còn cách nào khác, phải xấn tới giúp bà. Hên là lò sưởi chưa đỏ lửa, trong khi Charlie lôi từ phía mặt sàn, Tancred giật ở bên trên Charlie, và bà Kettle kéo ở trên đỉnh. Từ từ một bên lò sưởi dềnh dàng bắt đầu dịch chuyển khỏi tường. khi nó tách ra một lỗ hổng chừng nửa mét, bà Kettle la lớn. "Dừng lại, mấy cưng. Bà có thể nhìn vô trong ống khói được rồi."

Charlie ghé mắt dòm vô trong lò sưởi. "Một cái lỗ rất nhỏ," nó nhận xét.

"Thế thì chúng ta sẽ cho nó to hơn." Bà Kettle đi huỳnh huỵch qua cánh cửa sắt vô xưởng rèn và quay trở lại hầu như ngay tức khắc, lấy ra một cái búa thật lớn. Ép mình vô giữa bức tường và lò sưởi, bà đẩy một phát cực mạnh bằng cặp mông to lớn của mình. Lò sưởi lùi lại ít nhất một mét nữa, cho bà thợ rèn đủ chỗ để quai búa vào bức tường đáy ống khói.

Rắc! Chỉ một búa là đủ đập vỡ những viên gạch trên ống khói. Bị bao bọc trong đám bụi đen, bà Kettle dộng thêm một nhát nữa. Với nhát thứ ba, một đống gạch văng khỏi đáy ống khói, vùi bà Kettle tới tận đầu gối.

"Aa-ha!" người thợ rèn reo lên chiến thắng. "Charlie, đến lượt cưng đó. Cưng coi ngài Feromel đã cất vật báu đó ở đâu."

Dùng chân hất đống gạch vỡ ra để lấy đường đi, bà dịch tới phía sau lò sưởi và chỉ cái lỗ lớn mình vừa đập ra. "Cưng nghĩ sao?"

Charlie không biết phải nghĩ gì. Nó cố tưởng tượng căn phòng tối nơi nó đã giúp ông Feromel giấu cán gươm. Liệu cái này có đúng là ống khói đó?

"Tìm đi, Charlie!" Sự nhiệt tình của Tancred thổi tung những đám bụi lên không, khiến Charlie bật ho.

"Bình tĩnh, Tancred!" bà Kettle trách cứ. "Này, Charlie đeo cái này vô." Bà trao cho nó một đôi bao tay quá khổ.

Charlie cẩn thận đeo chúng vào. Chuyển động của nó chậm chạp và lưỡng lự, bởi vì đầu óc nó đầy ắp mối hồ nghi. Có lẽ một vật quý như vậy không bao giờ được tìm thấy, nhất là bởi một đứa như nó, cái thằng không bao giờ tỏ ra xứng đáng được chạm vào vật sở hữu của nhà vua vĩ đại.

"Cái gì níu cưng lại vậy, Charlie?" bà Kettle dịu dàng hỏi.

"Bao tay này quá rộng," nó giả vờ.

"Thế thì tháo nó ra. Hôm nay không có lửa trong ống khói." Bà Kettle bật cười, Tancred cũng cười theo. Tiếng cười của họ dường như lạc điệu với tình huống tôn nghiêm này.

Charlie tháo chiếc găng tay phải ra và đặt xuống nóc lò sưởi. Nó dạng chân gạt vài mẩu gạch qua bên, rồi quỳ gối xuống trước cái lỗ rộng trong đáy ống khói. Nó có thể thấy gạch ở đằng sau, trét dính lại bằng nhựa đường và bồ hóng. Nó chồm tới trước và rà bàn tay đeo găng khắp bề mặt bức tường. Có một viên gạch hơi lục sục bên dưới ngón tay nó. Charlie nghĩ bụng mình đã không nhìn thấy. Nó đang nghĩ về tấm áo choàng bị mất cắp. Nếu Hiệp Sĩ Đỏ là kẻ trộm, thì liệu ông ta có xứng được trao cho thanh gươm thần?

"Cháu không chắc phòng này đúng hay không," nó nói.

"Chắc chắn mà. Ngài Feromel đã sống ở đây. Ngôi nhà này hầu như không thay đổi." Bà Kettle nhìn Charlie thật lâu, thật xoáy. "Cưng có chắc không, cưng? Thử lần nữa coi."

Một lần nữa Charlie rà bàn tay quanh tường. Viên gạch lỏng tao ra một tiếng lích nhẹ, gai người, nhưng Charlie không nghe thấy.

"Cái gì đó?" Tancred la lớn. "Anh nghe có tiếng gì." Cậu quỳ gối xuống bên cạnh Charlie. "Nghe như cái gì đang lỏng ra."

"Chỉ là vôi vữa thôi," Charlie phản đối.

Tancred không chịu. Thò hẳn đầu và vai vô bên trong ống khói, anh sờ soạng mảng tường bằng cả hai tay. "Đây rồi!" Anh nhấc viên gạch lỏng và đem nó ra ngoài ánh sáng.

"Chà!" bà Kettle ập hai bàn tay to lớn vào má mình. "Bà không tin nổi. Có gì trong đó, Charlie? Đằng sau viên gạch có gì? Mau lên, MÒ xem sao, cưng."

Charlie thò tay phải vô trong cái hốc. Những ngón tay nó rờ trúng mặt trên của một vật cứng bọc vải. Mất một tích tắc chần chừ, nó chầm chậm lôi cái bọc ra khỏi bức tường. Bên dưới lớp bụi dày, miếng vải đỏ phai màu lộ ra. Charlie thấy mình không thể thở nổi. Âm thanh duy nhất trong căn phòng hình như là tiếng tim nó đập hối hả. Nó trao cái bọc cho bà Kettle.

"Ôi, Charlie!" bà thở dốc. "Bà có nên nhận?"

"Dĩ nhiên," Tancred nôn nao. "Mở tấm vải ra. Chúng ta hãy xem đi."

Phải một lúc, bà Kettle xúc động đến nỗi không nhúc nhích được. Bà nhìn một cách tôn kính cái bọc vải đầy bụi, rồi thận trọng mở nó ra.

Trong ánh sáng của phòng đựng ấm, cái cán gươm trông thậm chí còn lộng lẫy hơn Charlie nhớ. Choáng sốc đến không thốt nên lời, cả ba người nhìn ánh vàng rực rỡ, những con chim tinh xảo và những con báo cẩn saphia.

"Đó là vật đẹp nhất cháu thấy trong đời mình," Tancred trầm trồ.

"Không chỉ đẹp, mà còn bất khả chiến bại," bà Kettle nói. Hạ thấp giọng đến nỗi hầu như bọn trẻ không nghe được, bà thêm, "và có phép màu."

"Nhỡ nó không khớp với thanh gươm của bà thì sao?" Tancred hỏi, đôi khi cậu lại thực tế một cách đáng ngạc nhiên.

Bà Kettle quay ngoắt đôi vai rộng của bà và ra lệnh. "Theo bà!"

Hai thằng bám sát gót bà qua cánh cửa kim loại, vô căn phòng mà bà gọi là xưởng rèn. Có một hộp kim loại dài nằm dài trên cái bàn thô. Bà Kettle mở nắp hộp lên và họ ngắm nhìn thanh gươm sáng chói. Ngay cả khi chưa hoàn tất, nó cũng khiến một cơn rùng mình chạy dọc sống lưng Charlie - trông nó thật nguy hiểm.

Mũi gươm thon dần thành một đầu nhọn phản trắc, nhưng phần chuôi gươm thừa ra một dải kim loại dài chừng mười lăm xăng-ti-mét.

"Không có tay cầm," Tancred nhận xét. "Ý cháu nói là nó không có cán."

Một lần nữa, bà Kettle mở cái gói bụi bặm ra. Bà kính cẩn nhìn cán gươm hoàn mỹ và rồi, rất thận trọng, nâng nó lên sát mặt. Ngó xuống phía dưới hai con báo có cánh, bà vui mừng thốt lên, "Đây rồi!" và quay phần đầu cán gươm về phía bọn con trai.

Chúng thấy một khoảng đen ở giữa - một rãnh hẹp được làm để tra cái gì như là phần đuôi của một thanh gươm vào.

"Charlie," bà Kettle nói, "nhấc thanh gươm lên."

Charlie chùi hai bàn tay dính bồ hóng vô quần và nhẹ nhàng nâng dải kim loại mỏng ở chuôi thanh gươm lên.

"Tốt, giữ chắc lấy," bà Kettle ra lệnh.

Bà mỉm cười với chúng, nhưng Charlie có thể thấy là bà rất hồi hộp, không dám tin chắc cán gươm có thể tra vừa thanh gươm. "Cao lên, Charlie," bà nói, giọng bà hơi run.

Charlie nâng thanh gươm lên thêm vài xăng-ti-mét nữa, và bà Kettle từ từ tra cán gươm dải kim loại. Nó lách vô khe êm đến nỗi dường như có một lực hấp dẫn kéo cánh của những con báo trôi xuống lưỡi gươm sáng loáng.

"Được làm để khớp nhau," Tancred thở hắt ra.

Hầu như đồng thời với lời cậu nói, một cơn gió mạnh lùa qua sàn xưởng rèn cùng với một tiếng thở phào phụt ra từ đâu đó sâu trong những bức tường cổ xưa.

Charlie nhìn Tancred.

"Không phải anh," Tancred nói, lo lắng nhìn quanh phòng.

"Đó là ngài Feromel," bà Kettle bảo, một dòng nước mắt ngấn ướt mắt bà. "Cảm ơn, Charlie. Ngài đã yên lòng rồi." Bà đặt thanh gươm giờ đã hoàn chỉnh vô hộp của nó và đóng nắp lại.

"Cháu có làm gì đâu, thật mà" Charlie nói, hơi bối rối. "Nó cứ thế xảy ra thôi."

"Cưng đã làm nhiều lắm rồi, giờ cưng phải co giò chạy thôi," bà liếc nhìn ra cửa sổ. "Trời tối rồi kìa, có lẽ chúng đã đến rồi."

"Ai cơ?" Tancred hỏi, thấp thỏm nhấc vai lên.

"Manfred và đồng bọn, dù chúng là cái gì hay là bất cứ ai." Mặt bà Kettle nghiêm lại khi bà dẫn hai thằng trở lại biển ấm đun nước. Và khi Tancred và Charlie bước ra ngoài trời xẩm tối, một tiếng thì thào trầm trầm rót vào tai chúng qua cánh cửa đang đóng lại. "Đừng làm gì ngu ngốc cho đến chừng nào Hiệp Sĩ Đỏ có thanh gươm của ngài."

"Làm sao tụi mình biết được điều đó?" Tancred hỏi khi chúng chạy hối hả trên con đường thắp sáng qua loa.

"Có lẽ bà ấy sẽ có thông điệp nhắn cho tụi mình biết."

Cả hai tăng tốc. Chúng cảm thấy nhiều con mắt đang dòm mình qua những khe cửa sổ tối hù. Nhưng khi chúng đi qua tiệm bán cá, Tancred lại dừng bước và ngước nhìn cửa sổ phía trên tấm biển. "Dagbert không có ở đó," cậu nói. "Anh không ngửi thấy mùi cá."

Charlie bước tiếp tới tiệm Đá. Nó nheo mắt nhìn vô những bóng người bên kia cửa sổ. Người đàn ông đá ở đó: đúng y cái gã đã hùng hổ xông vô nhà ông Feromel và nghiền sự sống ra khỏi ông. Charlie lùi sựng lại trước ánh nhìn trơ tráo của những con mắt đá thồi lồi. "Tụi mình ra khỏi đây lẹ lên," nó nói khàn khàn.

"Đi mau," Tancred nói, chạy tới Charlie và rồi vượt qua nó.

Khi chúng đi hết đường Piminy, Charlie quyết định ghé tiệm sách cô Ingledew. Nơi này gần hơn đường Filbert và, nếu may mắn, sẽ gặp Ông cậu Paton ở đó.

Tancred lẩn vô bóng tối, gọi to. "Gặp em ngày mai, Charlie."

Charlie cười một mình. Nó vui vẻ phóng quẹo vô ngõ Nhà Thờ Lớn. Có đèn còn sáng bên trong tiệm. Charlie gõ cửa và hai giây sau, Emma mở cửa.

"Bồ đã ở đâu vậy?" con nhỏ hỏi. "Ông cậu của bồ ở đây."

Charlie lao vù vô tiệm. Thật dễ chịu khi được bao quanh bởi ánh sáng dịu và những quyển sách màu nhẹ, được đắm mình vào bầu không khí đầm ấm, và được thấy Ông cậu Paton trầm ngâm ngó ra phía trên cặp kính nửa vầng trăng.

"Con có rất nhiều chuyện để kể cho ông nghe," Charlie nói.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Tấm vải liệm teo rút






Billy hối hận về quyết định nghỉ cuối tuần trong trường của mình ngay sau khi những đứa trẻ khác ra về hết. Nhìn lão Weedon đóng rồi cài then cánh cửa nặng nề ,nó liền bị nỗi cô đơn xâm lấn. Giờ nó thậm chí còn không có Rembrandt bầu bạn nữa.Có lẽ bà bếp trưởng đã tìm cách cho con chuột vô trường. Nghĩ vậy khiến Billy tươi lên tí chút và nó tức tốc đi tìm bà bếp trưởng.

Billy ngó vô mọi căng-tin và nhà bếp,kể cả nhà bếp xanh lá cây của mụ Weedon-mụ ta đang úp xoong nồi loảng xoảng xuống chỗ phơi bát đĩa cho ráo nước.

"Bà có thấy bà bếp trưởng đâu không?"Billy rụt rè hỏi.

"Không!"người đàn bà bị thịt quát.

Vào những ngày khác,lời đáp như thế có thể đuổi Billy lút cút chạy đi một nước.Mụ Weedon luôn khiến nó sợ hãi,nhưng hôm nay nó vẫn đứng chôn chân tại chỗ. "Bà có biết bà ấy ở đâu không?"

"Không biết. Hôm nay tao trực".

Billy ho một tiếng thắc thỏm. "Ừm. Cháu sẽ đến đây ăn tối nhé?"

"Một trái trứng",mụ ta hậm hực. "Ở đây.6 giờ đúng duýt. Tao không phải hầu mày. Không ai bảo tao cả".

"Cháu xin lỗi", Billy lùi ra.

Còn hơn một tiếng nữa mới tới bữa tối. Và sau đó là gì? Lên gi.ường,nó nghĩ. Billy đi lên phòng ngủ chung và bắt đầu đọc lần thứ năm quyển Những đứa trẻ của khu rừng mới. Nó đang đọc tới đoạn ngôi nhà của bọn trẻ bị cháy rụi,thì chợt nghe có tiếng cào cửa.

"May Phúc!" Billy vùng ngay dậy và chạy ra mở cửa. Nó mừng húm khi thấy con chó già đến nỗi quỳ thụp xuống mà ôm chầm lấy con chó.

"Bà bếp trưởng đâu?" Billy hỏi,bằng tiếng ụt ịt trầm trầm.

"Sợ!"May Phúc sủa.

"Tao biết. Bà ấy sợ thằng người cá. Nhưng bà ấy đâu?"

Đầu May Phúc gục rũ.

"Bà ấy ở trong phòng của bà ở cánh Đông hả?"

Con chó già thở khò khè-hay là nó thở dài?Billy không chắc. "Đi,tụi mình đi tìm nào".

Billy không bao giờ biết cửa nào,trong bao nhiêu cửa ở tầng bốn,là phòng của bà bếp trưởng,nhưng nó biết chắc May Phúc sẽ dẫn mình đến đúng cửa. Sau khi leo lên hai dãy cầu thang và đi lò mò qua mấy cái hành lang tối,dội âm,cuối cùng chúng tới một cánh cửa không sơn phết,có một đôi giày đi bộ nhỏ đặt bên ngoài.

Billy gõ cửa. Không lời đáp. Nó mở cửa kêu một cái két và ngó vô. Một chiếc tạp dề sạch sẽ nằm trên một cái gi.ường ngăn nắp. Trong phòng có ghế,tủ ngăn kéo,và tủ đựng chén đĩa. Một tấm thảm mòn xơ xác bên cạnh gi.ường là thứ duy nhất làm êm bàn chân trần dưới sàn lót ván nứt nẻ. Một đôi dép lê đặt ở cuối gi.ường. Trông còn mới.

Billy nhìn May Phúc. "Tao không tin bà bếp trưởng sống trong căn phòng này",nó nói bằng một tràng sủa nhẹ mà nó biết May Phúc hiểu.

Phản ứng duy nhất của May Phúc là nghiêng đầu.

"Gì đó? Trông mày lo lắng vậy,May Phúc. Có gì mày chưa nói với tao. Hay là tụi mình không còn là bạn nữa?"

"Bạn!Bạn!Đúng",May Phúc sủa. "Trốn tìm".

"Được. Tụi mình sẽ chơi sau".

Trốn tìm là trò chơi May Phúc ưa thích nhất,bởi vì nó chơi trò này cực giỏi. Mũi nó luôn dẫn thẳng tới chỗ Billy núp. Mặc dù,thỉnh thoảng, để thêm phấn khích,nó giả bộ khứu giác của nó tạm thời không theo ý nó.

Billy và May Phúc chơi trong những hành lang vắng lặng và những phòng ngủ chung cho tới gần 6 giờ,khi Billy vội vã xuống căng-tin xanh lá cây.

Quả trứng đang đợi nó-một quả trứng luộc lại,chỏng chơ trên đĩa,bên cạnh một lát bánh mì mỏng dính. Một mẩu giấy trên bàn nhắc: "Ăn xong rửa đĩa".

Billy bóc quả trứng lạnh ngắt mà nghĩ đến những quả trứng lòng đào nóng hổi ngoại Maisie dọn cho nó khi nó ở nhà Charlie. May Phúc rầu rĩ chầu chực nhìn Billy ăn quả trứng nguội và miếng bánh mỏng.

"Ngon?"con chó già nua hỏi.

"Kinh tởm" ,Billy nói. Nó đi vô bếp,rửa đĩa xong rồi đặt lên chỗ úp bát.

"Gì tiếp?" Billy hỏi May Phúc.

"Trốn tìm",May Phúc đáp

Thế vẫn hơn ngồi chóc ngóc một mình trong phòng ngủ chung.

May Phúc xí đi trốn trước. Chúng bắt đầu ở tiền sảnh. Billy nhắm mắt lại, đếm đến một trăm. Nó có thể nghe tiếng móng chân May Phúc lạch cạch đi lên cầu thang chính. Tới chiếu nghỉ Billy chắc chắn tiếng móng ấy quẹo trái,sau đó chúng hoà tan vào bầu tĩnh mịch bao trùm khắp toà nhà.

"Một trăm",Billy nói trong lồng ngực,và nó bắt đầu đi lên cầu thang.

May Phúc không thể nào mở được cửa và nó cũng hiếm khi mất công đóng cửa lại, thế cho nên Billy bỏ qua những cánh cửa đóng im ỉm ở lầu hai và lầu ba. Chỉ có các buồng tắm là May Phúc có thể vô được, nhưng không buồng tắm nào có nó cả.

Trong khi ì ạch leo lên một trong rất nhiều cầu thang, Billy chợt nhận ra mình đang hướng lên gác mái, và lập tức tim nó thót lại. Lão Ezekiel đã từng hay cho nó sô-cô-la trong một căn phòng thắp đèn khí ở trên gác mái. Lão dùng sô-cô-la để phỉnh phờ Billy và hứa chẳng lâu nữa cha mẹ tử tế,tốt bụng sẽ đến nhận nó làm con nuôi. Có điều họ không bao giờ đến. Và sô-cô-la và những lời hứa cũng hết khi Billy kết bạn với Charlie Bone.

Billy lên tới đỉnh cầu thang và hít ngửi không khí. Mùi ô thiu và ẩm mốc. Những bóng đèn khí đặt trong lồng sắt toả ánh sáng lù mù,run rẩy xuống hành lang hẹp.

"Mình sẽ không tới đó đâu",Billy tự nhủ. Nhưng rồi nó thấy một cái bóng vụt qua một cánh cửa khép hờ. Tao sẽ cho mày thêm một cơ hội nữa, May Phúc, nó nghĩ,và nó kiễng gót,rón rén hết sức,vô căn phòng tối thui đằng sau cánh cửa.

Thật ngạc nhiên, Billy nhận thấy sàn nhà của căn phòng được thắp sáng bằng những hàng ánh sáng mỏng mảnh. Thì ra là những khe nứt dưới ván sàn cũ đã để cho ánh sáng từ căn phòng phía dưới rọi lên. Tò mò muốn biết cái gì dưới ấy, Billy cẩn thận nằm sấp xuống sàn và hé một mắt vô một lỗ hổng lớn. Cảnh tượng trông thấy khiến nó thở hốc lên kinh hãi.

Thẳng ngay bên dưới nó,Manfred Bloor đang nằm trên ghế xô pha bọc nhung đỏ. Đầu hắn gối lên một cái gối lụa và mắt hắn phủ kín trong bầy bọ màu cam. Cố nén tiếng thở hốc nữa,Billy chong mắt ngó những sinh vật nhỏ li ti đang bò lúc nhúc. Bên dưới chuyển động oằn oại của chúng, bộ mặt tái mét cảu Manfred đang biến đổi. Nếu Billy có thể tin vào mắt mình, thì những vết sẹo của Manfred đang mờ đi.

"Bọ phép thuật", Billy thì thầm một mình.

Lờ đờ, run lẩy bẩy,Billy ngóc đầu lên, nhưng trước khi nó kịp đứng dậy, có tiếng quát tháo ở cửa. "Chúng ta có gì ở đây thế này?"

"Một thằng do thám", vẫn cái giọng lạnh buốt đó.

Bất thình lình một tấm vải liệm màu xám ma quái bay về phía Billy, đốt xém nó trong những nếp gấp xì khói, bóp nghẹt nó cho tới khi nó cảm thấy mình không bao giờ thở lại được nữa, dìm nó vô bóng tối không gì xuyên thủng, làm nó điếc bởi hàng ngàn bầu thinh lặng, ghim chặt nó xuống sàn trong một mạng lưới thép.

Một lát sau, khi Billy không chắc mình có, nó còn sống không, nó ngửi thấy, qua cái lồng xịt khói, một mùi chó không thể sai được.

"May Phúc", Billy khọt khẹt, "Mày đó hả?"

Đáp lại chỉ là tiếng tru tuyệt vọng, chẳng có nghĩa gì đối với Billy. Tiếp theo là một tràng gừ, sủa và rống. Billy không hiểu lấy một từ nào.

"Cứu tao với,May Phúc",nó nói khản đặc. "Kéo cái khủng khiếp này ra khỏi người tao".

Nó chờ, không còn tiếng sủa, không tiếng tru, không tiếng ư ử luôn, và Billy biết con chó già khụ đã bỏ rơi mình.

Nó không thể hiểu mình, Billy nghĩ, và mình không thể hiểu nó. Bọn chúng đánh cắp tài phép của mình rồi, thứ duy nhất mình có, thứ duy nhất khiến cuộc đời mình đáng sống.

Trong căn phòng bí mật của mình bên dưới khu nhà bếp, bà bếp trưởng bừng tỉnh sau một giấc ngủ chập chờn. bà láng máng nghe thấy tiếng chó rên rỉ đằng xa. Bà liền ra khỏi gi.ường, xỏ dép lê vô và mở cửa phòng ngủ ra. Tiếng rên rỉ vẫn tiếp diễn, gằn và khẩn cấp.

Bà bếp trưởng nhấn công tắc và ánh đèn dìu dịu soi rõ một phòng khách ấm cúng. Những chiếc ghế bành thoải mái có gối căng phồng quây quanh lò sưởi nhỏ. Các bức tường treo đầy những hình ảnh sinh động, và đồ gốm sứ viền vàng lấp la lấp lánh như an ủi từ trên các kệ của chiếc tủ li cố xưa bằng gỗ sồi.

Bà bếp trưởng băng qua phòng khách và mở cánh cửa nhỏ trong góc phòng. Một buồng tối hiện ra. Bà mở một cánh cửa nữa ở cuối buồng, thì thấy may Phúc ngồi dưới chân cầu thang. Quả là căn phòng của bà bếp trưởng cực kì bí mật.

"Ừm,gì đó?" bà bếp trưởng ngáp. "Chắc là mi đánh thức ta dậy chẳng vì cái gì hết".

May Phúc sủa. Bà bếp trưởng không thể nói được ngôn ngữ của nó, nhưng bà nhận ra vẻ cấp bách trong tiếng sủa.

"Thế thì vô mau đi, đồ chó được ban phúc".

May Phúc không muốn vô. Nó quay lưng lại và bắt đầu núng nính đi lên cầu thang.

"Ta không đi theo mi vào giờ này đêm hôm đâu", bà bếp trưởng thì thào, hơi bực mình.

Con chó già ngoái lại nhìn bà và tru lên một tiếng nỉ non, bà bếp trưởng linh cảm có gì không ổn rồi.

"Thế thì chờ một phút", bà trở lại phòng lấy áo choàng. Mặc áo xong, bà đút cây đèn pin vô túi và đi theo May Phúc qua hai cánh cửa, cẩn thận đóng lại từng cánh sau lưng. Khi leo lên cầu thang bà tự trách mình sao ngớ ngẩn quá. Chắc chắn có gì mờ ám đang diễn ra trong học viện Bloor. Bà đã thấy thằng người cá và Dorcas Loom băng qua chiếu nghỉ, vào lúc tất cả bọn trẻ đã về nhà từ lâu.

Có hai lối đi vô căn phòng bí mật của bà bếp trưởng. Một bắt đầu ở buồng để chổi trong nhà bếp, nhưng May Phúc tìm một lộ trình dễ lọt qua hơn. Lên tới đầu cầu thang, bà bếp trưởng đi theo nó qua một hành lang, dẫn vòng vèo, tới tận một cánh cửa cực nhỏ. Bên cánh cửa có một ô ván ốp tường bị bong bằng đúng kích thước một con chó để cho May Phúc chui ra chui vào. Bà bếp trưởng nhướn một bên mày. Bà đã lên kí kể từ giáng sinh và nhất định sẽ không để bị kẹt trong bất cứ ô cửa dành cho chó nào. Bà mở cánh cửa nhỏ ra và đẩy khẽ một cái tủ chẹn ngay trước nó. Ép mình lách qua giữa cái tủ và cánh cửa, bà bếp trưởng vô một hành lang trải thảm. May Phúc đang chờ bà sẵn.

"Giờ sao?" bà bếp trưởng hỏi con chó già.

May Phúc phóng vọt đi, ở tuổi tác và kích thước của nó thì không thể phi nhanh như thế được. Bà bếp trưởng vội vã theo sau. Khi May Phúc tới khu vực gác mái rợn người, bà bếp trưởng đi chậm lại. Bà bắt đầu cảm thấy lo sợ. Bất cứ phút nào, bà nghĩ, Lord Grimwald cũng sẽ xồ ra vồ lấy mình với những sải chân kinh hoàng trong đôi ủng không thấm nước của hắn. "May Phúc",bà rón rén gọi, "Không đi nữa".

Nhưng con chó già lại tăng tốc, vậy là bà bếp trưởng chắc chắn có một đứa trẻ đang gặp nguy, bà liền nhớ lại lời tự hứa của mình-giữ cân bằng giữa ánh sáng và bóng tối, giữa lũ trẻ nghiêng về quỷ sứ và những đứa trẻ luôn ao ước điều tốt đẹp cho nhau. Tài phép của bà bếp trưởng là gìn giữ sự yên bình.

Cuối cùng họ tới hành lang thắp đèn khí. Gừ khẽ một tiếng, May Phúc đi vô căn phòng tối mò. Bà bếp trưởng đi vài bước vô phòng thì va trúng một cái đống nằm dưới sàn. Chiếu cây đèn pin của mình xuống sàn, bà bếp trưởng thấy cái đầu trắng của Billy Raven bên dưới một chiếc khăn quàng trông như tấm lưới xám.

"Billy!" bà bếp trưởng vội quỳ xuống và hối hả tháo tấm vải mềm bó sát thân ra.

Một giọng nói từ hành lang nổi lên. "Tôi sẽ không làm thế nếu tôi là bà".

Bà bếp trưởng bật phắt dậy và quay ra. Ánh sáng từ câu đèn pin của bà chiếu rõ hai khuôn mặt quen thuộc
4.gif
agbert Endless và Dorcas Loom.

"Tụi bay làm gì ở đây?" bà bếp trưởng nạt. "Tụi bay đã làm gì thằng nhỏ tội nghiệp này?"

"Cho đáng đời nó" Dorcas nói.

"Đáng đời? Đáng đời cái gì? Con bé độc ác", bà bếp trưởng thét lên. Bà cảm nhận con mắt của Dagbert đang xoáy vô mình và thấy chân mình mủn ra như thạch. Bà hi vọng đèn khí leo lét, không đủ cho thằng đó thấy rõ gương mặt mình, nhưng rủi thay, chính điều đó khiến cho bà thêm trẻ hơn, và nó bắt đầu nhận ra những đặc điểm của bà.

"Tôi biết bà thì phải?" Dagbert rề rà.

"Tất nhiên, ta là bà bếp trưởng", bà quát.

"Không, ý tôi là cách đây lâu lắm kia. Tôi đã nhìn thấy hình của bà ở đâu đó". Nó cười. "Cha tôi có nó".

"Đừng nói nhảm", bà bếp trưởng la nó, rồi thêm, "Cha của mi đang làm gì?"

"Ông ấy đã trở về phương Bắc. Ông ấy không thích nơi này lắm".

Bà bếp trưởng không tin nó. "Đi nhủ đi", bà bảo nó, "trong khi ta chăm sóc thằng bé tội nghiệp này".

"Cấm bà làm thế", Dorcas nói một cách cay nghiệt.

"Đúng,bà bếp trưởng. Để mặc nó đó". Dagbert xấn xổ tiến một bước về phía bà.

"Đi ngủ ngay lập tức", bà ra lệnh.

"Đi ngủ", bọn chúng giễu cợt. "KHÔNG. KHÔNG ĐI".

Bất chợt, bà bếp trưởng thấy một bóng người lù lù đằng sau đám trẻ. Suýt nữa thì bà đánh rơi cây đèn pin vì sợ hãi. Chắc mẩm Lord Grimwald đang phăm phăm đi tới. Nhưng không phải.

"BỌN BAY HÃY LÀM NHƯ ĐƯỢC BẲO!" giọng người đó gầm vang.

Đồng thời hai đứa trẻ bị túm cổ áo và giật mạnh ra sau.

Bà bếp trưởng nhấc cây đèn pin lên một chút. Bà mỉm cười vừa ngạc nhiên vừa nhẹ nhõm cả người. "Giáo sư Saltweather!"

"Chào bà bếp trưởng!" giáo sư Saltweather giữ hai đứa trẻ quẫy đạp chỉ bằng một nắm tay vững chắc. "Đám trẻ này quấy rầy bà phải không?"

"Đúng thế. Bọn chúng đã làm cái gì khủng khiếp lắm với Billy Raven đáng thương này".

"Thằng đó ớn xương", Dagbert rống gào. "Ông không biết ông dây vào cái gì đâu, đồ ngốc già". Nó co giờ đạp một phát thẳng cánh vô ống quyển giáo sư Saltweather.

"Thôi ngay!" ông thầy dạy nhạc gầm.

"Tôi sẽ làm điều tôi thích", Dagbert the thé. "Chúng tôi được phép rồi".

"Không phải với ta", giáo sư Saltweather nói. "Nào,hãy trở lại cái gi.ường khốn khổ của chúng mày đi".

Thả Dagbert và Dorcas ra, ông đẩy cả hai đứa một phát về phía cầu thang.

Dagbert đứng lì lợm tại chỗ. Nó trừng đôi mắt thủy quái ra nhìn giáo sư Saltweather. Một làn mây luộn cuộn bao quanh vị giáo sư và bắt đầu tràn lấp hành lang. Thậm chí cả Dorcas cũng lảo đảo lùi lại,ho dữ dội.

Bà bếp trưởng thấy mình không thể thở nổi. Mây khói xộc xuống lấp đầy phổi bà và, nếu bà có thể tin vô mắt mình, có cá bơi xuyên qua tường và tảo biển lều phều trong dòng nước xanh lục khắp xung quanh bà. Lẽ nào nước dâng lên tận gác mái? bà tự hỏi.

"THÔI NGAY!" tiếng quát như sấm rền.

Giáo sư Saltweather xem ra không hề suy suyển trước làn mây ngạt thở và những hình ảnh nước.

Dagbert phọt ra cười ghê rợn. "Ông sẽ chết đuối".

"Ta không thể chết đuối!"

Bà bếp trưởng không chắc những gì mình đã nghe. Những lời trầm sâu đó quay quay trong đầu bà. Không thể chết đuối. Không thể chết đuối. Không thể chết đuối. Bà nhận thấy những con cá đang mờ đi, tảo biển héo quắt lại và làn mây tan loãng.

Dagbert đứng ở hành lang, trông hoang mang. Một con Dorcas khiếp đảm quặp chặt tay nó.

"Đi ngủ", giáo sư Saltweather ra lệnh, lần này với giọng điềm tĩnh, rành rõ.

Hai đứa trẻ cung cúc quay đầu và chạy biến xuống cầu thang.

"Làm sao thầy làm thế được", bà bếp trưởng ngờ vực hỏi.

"Không phải tự dưng mà tên tôi là Saltweather", vị giáo sư cười đáp.

"Ờm", bà bếp trưởng hít thật sâu và nhìn đăm đăm vô gương mặt phong trần và mái tóc trắng lọp phọp như bọt sóng của giáo sư. "Ông là một...một người trong chúng tôi?"

Giáo sư Saltweather mím miệng lại và đặt một ngón tay lên môi. "Tôi thích không ai biết hơn. Chính xác, tôi không phải là người được ban phép thuật, nhưng tôi có quyền năng ở những lĩnh vực nhất định". Ông xoa hai tay vào nhau. "Nào,chúng ta hãy giải phóng chú bé này khỏi tình thế khó chịu của nó nào".

Tấm vải liệm xám không dễ dàng bị gỡ đi. Nó cứ bám lấy những ngón tay của bà bếp trưởng và quấn quanh ống tay áo của giáo sư Saltweather. Nhiều lần họ bóc lớp sợi khỏi đầu Bily, để rồi lại thấy một lớp khác bò lên, lấp vùi thằng bé xuống nữa. Nhưng mãi giáo sư cũng gom được những lọn chỉ sau cùng và nắm chặt cái thứ xám ngoét kinh hoàng trong tay mình.

"Cái này, tôi tin là thứ mà người ta gọi là tấm vải liệm teo rút", ông nói chắc như đinh đóng cột. "Nó teo rút ý nghĩ hơn là teo rút vật rắn".

"Nó được dệt mà thành", bà bếp trưởng quan sát. "Bằng kim loại rất lớn".

"Một tài phép mà Dorcas thừa hưởng từ một trong những tổ tiên hiểm ác của nó, không nghi ngờ". Giáo sư Saltweather vo tròn tấm vải lại như quả banh và đút vô túi quần. "Tôi sẽ tính sổ nó sau".

Bà bếp trưởng quỳ xuống bên cạnh Billy. "Nó tỉnh rồi,con chuột con này".

"Chuyện gì thế?" Billy rên rỉ. "Con đang tìm May Phúc thì...rồi thì..."

"Tốt nhất không nghĩ về nó nữa, Billy", bà bếp trưởng dịu dàng.

Không một lời, giáo sư Saltweather cúi xuống và bồng Billy lên. "Chúng ta có thể mang nó đi đâu, bà bếp trưởng? Không nên để thằng bé một mình đêm nay".

"Theo tôi", bà bếp trưởng nói, "nhưng ông không bao giờ được nói với ai về nơi tôi sẽ dẫn ông tới".

"Suốt đời, không bao giờ!" giáo sư nói.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Cuộc Giải Cứu Bắt Đầu







Rạng sáng thứ Hai, trời xám và lạnh buốt. Trời tối đến nỗi ngoại Maisie phải thắp tất cả đèn trong nhà lên.

Nội Bone thức dậy sớm hơn thường lệ. "Bà thừa biết chuyện gị xảy ra khi thằng em ta xuất hiện mà," mụ hạnh họe từ chiếc ghế xích đu bên lò sưởi. " Tất cả bóng đèn sẽ nổ tung."

" Tôi sẽ lo liệu hết khi nó xảy ra," ngoại Maisie nói, "nhưng tôi không thể nấu cháo trong bóng tối."

Charlie còn nghe thấy họ lời qua tiếng lại trong khi nó đang đánh răng trong buồng tắm. Lúc nó trở lại phòng mình, ông cậu Paton gọi khẽ qua cửa phòng ông, "Vô đây, Charlie. Chúng ta nói chuyện."

Charlie nhìn vô phòng của ông cậu. Ông đang ngồi bên bàn viết. Ngọn nến đặt bên cạnh ông sắp cháy hết. Charlie có cảm giác là hình như ông cậu chưa hề ngủ chút nào. gi.ường của ông chất toàn giấy là giấy.

" Con phải nhanh lên," Charlie thấp thỏm, "kẻo không con trễ xe buýt trường mất."

"Việc này không lâu đâu. Vô đây rồi khóa cửa lại."

Charlie làm như ông cậu bảo và đến đứng cạnh ông. "Ông có ngủ không vậy, Ông cậu Paton?" nó hỏi.

"Quá bận" Ông cậu Paton phẩy tay. "Nhưng xong tất cả rồi, Charlie. Ta rất hài lòng về mình. Ta đã xoay xở liên lạc được với ông Bartholomew Bloor và..."

"Naren?" Charlie kêu lên. "Họ ở đâu?"

"Suỵt!" Ông cậu Paton ra lệnh. " Bé bé cái miệng lại. Họ ở đâu không quan trọng. Ta biết vài chỗ hồi xưa ông Bartholomew hay lui tới và ta yêu cầu gia đình Brown giúp ta tìm ông ấy. Họ là những thám tử tư kiên trì vô cùng, và chẳng mấy chốc họ đã dò tìm được. Barth là người rất kín kẽ, nhưng ông ấy đồng ý trợ giúp. Chiếc xe thùng của ông ấy sẽ chờ bên cầu- cây cầu đá, không phải cái thanh sắt tạm bợ chết người ấy đâu. Ông ấy sẽ chờ cho tới khi bình minh nếu có thể."

"Gần cây cầu," Charlie lặp lại, cố kìm ngáp.

"Bên mạn Bắc. Dưới hàng cây." Ông cậu Paton nhìn sát vô mặt Charlie. " Con có nghe kỹ không? Con định phóng thích cậu bé người sói vào đêm nay chứ gì?"

"Đúng. Đúng ạ."

"Julia và ta đã nghiên cứu kỹ càng, và đúng như lời ông Onimous đã nói với con. Có một lối ngầm từ học viện dẫn tới dòng sông. Nó trổ ra một bãi cây nhỏ phía trên triền sông. Ta chắc chắn gia đình Bloor cũng biết nó, cho nên con phải cẩn thận, Charlie. Con đi một mình hả?"

"Không ạ. Có Tancred và Lysander đi cùng. Cả Billy nữa, bởi vì nó biết nói chuyện với thú."

Ông cậu Paton nhìn xuống đống giấy tờ trên bàn mình. Mặt ông thật khắc khổ. "Ta cảm thấy ta không nên cho phép con tham gia việc này, Charlie. Cực kỳ nguy hiểm. Nếu có gì xảy đến với con...ta không thể tưởng tượng nổi mình sẽ ăn nói thế nào với ba mẹ con. Nhưng..."

"Nhưng đằng nào con cũng làm," Charlie nói.

"Ta biết vậy," Ông cậu Paton thở dài, " Cho nên ta đã cố hết sức mình khả dĩ giúp cho con dễ dàng hơn phần nào. Ta ước gì mình có mặt ở đó, nhưng ta quá lộ liễu, với lại tài phép của ta..." ông mỉm cười phiền muộn.

"Những vụ nổ bóng đèn đường sẽ làm tiêu tan cuộc chơi," Charlie vui vẻ nói.

Ông cậu Paton gật đầu buồn bã. "Nên nhớ, ông Bartholomew sẽ chờ ở mạn Bắc cây cầu. Mẹ của Asa cũng ở đó... và một người nữa."

"Ai thế ạ?"

"Ừm. Cũng hơi phức tạp, nhưng không thể tránh được. Chồng của bà cô Venetia, ông Shellhorn, đã liên lạc với ta đêm qua. Ông ấy biết tên ta thông qua ông Onimous."Ông cậu Paton gãi cằm trong khi Charlie nóng lòng lắng nghe.

"Ông Shellhorn quyết định phải trốn khỏi bà cô của con - đó là ý nguyện dứt khoát của ông ta, vì lợi ích của con gái ông ấy. Con bé không an toàn trong ngôi nhà kinh khủng đó. Vì vậy, họ cùng nhau tìm đường tới quán Cà Phê Thú Kiểng và ông Bartholomew sẽ đón họ."

"Còn Eric?" Charlie hỏi.

Ông cậu Paton lắc đầu. "Ông Shellhorn bất đắc dĩ phải để lại con trai. Thằng bé đã thay đổi hoàn toàn. Xem ra nó thán phục bà cô Venetia, để nó can dự vào cuộc đào tẩu bí mật này là quá nguy hiểm."

"Bức tượng thần lùn!" Charlie la lên. "Họ sẽ không bao giờ qua được hắn đâu."

"Bức tượng thần lùn biến rồi, cưng."

Charlie thở hốc. "Sao được? Nó nặng cả tấn mà."

"Bà thợ rèn bạn của con là một phụ nữ mạnh phi thường." Ông cậu Paton nói. "Bức tượng thần lùn đã bị khóa lại rồi, và nếu Eric không biết chìa khóa ở đâu thì nó không thể làm cho bức tượng chuyển động."

"Phù ù! Ông Bartholomew Bloor sẽ chở tất cả họ đi đâu?"

"Đi rất xa, tới nơi mà họ có thể an toàn. Mà con biết đấy, ông Bartholomew Bloor là người giỏi nhất trên đời về việc này."

Bất chợt có tiếng gõ cửa rầm rầm. "Mày ở trong đó hả, Charlie?" nội Bone la quang quác, lay cành cạnh tay nắm cửa. "Mày trễ xe buýt bây giờ."

Ông cậu Paton tròn mắt và đẩy nhẹ Charlie ra phía cửa. "À này," ông thì thào. "Con phải cần đến Olivia nữa."

"Tại sao?" Charlie nói to.

"Để đánh lạc hướng." giọng ông cậu Paton khẽ đến nỗi Charlie gần như không nghe thấy. "Ẳo giác. Những chiếc xe thùng trắng."

Từ dưới lầu trệt, nội Bone thét om sòm. "Sao tao phải mất công lo cho mày trễ xe buýt chứ, thằng ngu kia?"

Charlie cười toe toét, mở cửa phòng ông cậu Paton và nhảy xuống chiếu nghỉ. "Xong ngay đây," nó hét váng nhà.

Charlie không nhận ra sự thay đổi ở Billy cho tới khi giờ nghỉ giải lao đầu tiên. Thằng bé đang ngồi trong phòng để áo khoác, đọc sách, khi Charlie thấy nó.

"Tối nay anh muốn nói chuyện với em, "Charlie nói.

"Sao vậy?" Billy hỏi.

"Chúng ta sẽ giải cứu Asa và điều quan trọng là phải tính toán thời gian."

"Vậy à?"

"Billy, em có khỏe không?" Charlie cúi xuống thằng bé bạch tạng.

"Em không biết. Em vừa trải qua một kỳ cuối tuần lạ lắm. Em đang chơi trốn tìm với May Phúc thi...rồi thì..."

"Thì sao?"

"Em không biết. Khi em tỉnh dậy trong phòng ngủ chung sáng nay, em không còn nhớ lấy một điều gì đã xảy ra."

Charlie ngồi xuống bên thằng bé. "Em cảm thấy ổn chứ."

"Em ổn. Ngoại trừ một điều là em không còn hiểu May Phúc nữa, và nó cũng không hiểu em." Billy đóng quyển sách lại. "Charlie, anh nghĩ coi có trục trặc gị với muông thú? Hay là em đã mất tài phép của mình rồi?"

"Không đâu Billy. Anh cần em nói chuyện với Asa."

"Ố," Billy bối rối. "Để em cố. Anh sẽ đánh thức em dậy khi tới lúc chứ?"

"Dĩ nhiên."

Phòng để áo khoác xanh da trời bắt đầu đầy bọn trẻ và Charlie kết thúc câu chuyện. Nó đi ra sân, ở đó nó thấy Tancred và Lysander sóng bước đi loanh quanh. Các anh dừng lại khi thấy Charlie, và Lysander hạ thấp giọng hỏi. "Em đã quyết định đêm nay à, Charlie?"

"Phải là đêm nay thôi," Charlie bảo, " bởi vì có người sẽ chờ đón Asa."

"Hay," Tancred nói. "Càng sớm càng tốt. Nhưng hãy nhớ, anh nghĩ chúng ta nên chờ tới quá nửa đêm. Anh thường thấy đèn trong khu gia đình Bloor sáng tới 1 giờ sáng."

"Vậy thì 2 giờ," Charlie nói.

"Em có thức dậy nổi không?" Lysander hỏi.

"Ba em cho em một chiếc đồng hồ đeo tay khi ba đi nghỉ. Nó có báo thức." Charlie tự hào khoe chiếc đồng hồ mặt đen có vòng số sáng choang.

"Oa!" Tancred ân cần nói. "Quá ấn tượng. Anh hy vọng nó không dựng cả phòng ngủ chung dậy."

"Em có chắc là muốn làm việc này không, Charlie?" Lysander bất chợt nghiêm sắc mặt. "Anh không trách em nếu em hoãn tất cả lại. Ở dưới đó trong bóng tối không dễ đâu."

"Và Asa có thể cắn chết em," Tancred nói khẽ.

Charlie cười toe toét, mặc dù lúc đó, ấy là điều cuối cùng nó muốn làm. "Hai anh sẽ ở đâu?"

"Anh sẽ canh chừng Manfred, còn nó sẽ đối phó với Dagbert." Lysander hất đầu về phía cậu bạn tóc vàng.

"Vậy em sẽ không còn phải lo gì nữa, hẹn gặp lại đêm nay."

Khi Charlie bước trở vô trường nó thấy một tốp trẻ xúm quanh Joshua và hai chị em sinh đôi. Joshua bị bầm đen quanh mắt, cái mũi của một đứa trong hai chị em sinh đôi chuyển màu xanh dương, và đứa kia quấn một cuộn băng thun tổ bố trên trán. Joshua chỉ Charlie, và đám trẻ quay lại, nhìn nó trân trân.

Charlie vẫy tụi nó một cái vui vẻ.

Trong bữa trưa Charlie thấy chộn chạo trong bụng; nó gần như không ăn được gì. Suốt thời gian còn lại trong ngày, tim nó đập dồn dập, tay lạnh toát và nhớp nháp mồ hôi; đến tiết học cuối cùng, môn tiếng Pháp, nó thấy thật phiền hà, hai đầu gối cứ đập vào nhau. Mình không sợ,nó tự nhủ.

Fidelio nhoài về phía nó. "Sao vậy,Charlie?"

"Im lặng!" cô Tessier mắng.

"Để sau sẽ nói," Charlie thầm thì.

"IM LẶNG!" cô Tessier rống lên.

Charlie loay hoay mãi mới gặp được một mình Fidelio trong phòng ngủ chung trước bữa tối. Nó kể tất tật cho bạn nghe.

Fidelio cau mày lo lắng. "Anh đi với em nhé, Charlie? Anh không yên tâm vì em với Billy có một mình dưới đó với con thú hoang..."

"Asa chưa thành thú hoang," Charlie nói.

" Làm sao em biết? Anh ta là thú ít nhất hai tuần nay rồi. Anh ta rất hung dữ. Sao em không bỏ cuộc đi, Charlie?"

"Asa đã liều tất cả mọi thứ để cứu em," Charlie nói rành rõ. "Em không thể để anh ấy... chết mòn."

Fidelio nhún vai. "Thôi được. Anh sẽ để mắt tới Dagbert nếu nó thức giấc."

"Ố, thể nào nó cũng thức," Charlie nói.

Vẫn còn một người nữa Charlie phải móc nối. Olivia. Fidelio khăng khăng đòi đi đến phòng ngủ chung của nữ với Charlie, kẻo " coi chừng em đâm sầm vô bà giám thị ở đó".

Đúng vậy thật. Bà ta đang đứng ngay bên ngoài phòng ngủ chung của Olivia, trên tay ôm đống khăn trải gi.ường. "Tụi bay cấm được vô đây".

"Cháu chỉ mượn một quyển sách thôi," Charlie nói.

"Đi đi, không mượn miếc gì hết," đôi mắt đen hí của bà cô Lucretia khóa chặt vô mắt Charlie. "Ta đã nghe rất nhiều chuyện phiền phức về mày đó, Charlie Bone. Chúng tao ai nấy đều kinh tởm vì mày ra nông nỗi này. Hừ, với một thằng cha như cha mày thì ai dám mong..."

"Ý bà là sao?" Charlie hét tướng lên, nắm chặt tay lại. "Cha tôi đáng giá hàng trăm người Yewbeam."

"Hắn là một Yewbeam, đồ ngu. Ít ra đó là một điều vớt vát." Bà ta mỉm cười cay độc khi Charlie giơ nắm tay lên.

"Charlie!" Fidelio chộp cánh tay của nó. "Tụi mình ra khỏ đây đi."

Chúng vừa định quay ra thì cánh cửa đằng sau bà giám thị xịch mở và Olivia thò đầu ra. "Chào, Charlie. Tớ có quyển sách đằng ấy mượn rồi nè," con nhỏ nói, huơ huơ quyển sách dạy chia động từ tiếng Pháp.

Bà cô Lucretia bước khỏi cánh cửa. " Nghe trộm là thói quen xấu xa," bà ta nạt nộ. "Xuống lầu mau, lũ tụi bay."

Bọn chúng sướng quá đến tưởng như không tuân lệnh được.

Trong phòng vẽ rộng mênh mông, Charlie vạch kế hoạch của nó cho Olivia biết.

"Tớ thích đi với đằng ấy hơn." Mắt con nhỏ ánh lên tia dữ dằn. "Tớ muốn biết dưới đó thế nào. Không chừng có kho báu...đó. Đằng ấy định mặc Pyjamas à. Có cần ủng cao su không, tớ nghĩ có thể lối đi ấy dẫn tới sông."

"Liv, im nghe đi đã," Fidelio nhắc nhở. "Em có việc để làm."

"À, cái gì?" Olivia bực dọc. Nó khoanh tay lại chờ đợi.

"Tạo ảo ảnh. Liv. Đó là tất cả những gì tớ cần ở bồ. Tớ không cần bồ chui xuống đất."

"Ối." Olivia thất vọng thấy rõ. "Đằng ấy muốn có ảo ảnh ở đâu?"

"Toàn thành phố. Tớ biết Manfred đang chờ điều gì đó sắp xảy ra. Hắn biết tớ sẽ cố cứu Asa, nhưng hắn không biết là khi nào. Hắn thậm chí còn không biết là tớ đã biết chỗ Asa bị nhốt." Charlie liếc nhìn vẻ mặt mất kiên nhẫn của Olivia, chợt trong đầu nó bật ra ý nghĩ muốn thoái lui. "Thật ra tớ không biết chắc. Tớ chỉ đoán dựa vào lời của ông Onimous thôi."

"Cộng với linh cảm của em nữa," Fidelio động viên. "Linh cảm mách bảo em, đúng không?"

"Phải, linh cảm." Nhưng linh cảm cũng mách bảo Charlie rằng nó không biết Asa ở đâu đó sâu bên dưới học viện hay là ở sâu tuốt trong bóng tối đen kịt, xa khỏi phòng phục trang.Chỉ là đoán hú họa thôi.

"Vậy đằng ấy muốn ảo ảnh gì?"

Giọng réo rắt của Olivia kéo Charlie trở về trái đất. "Xe thùng, Liv. Những chiếc xe thùng nhỏ màu trắng, hơi xập xệ." Nó ráng hết sức mô tả chiếc xe thùng cũ móp mép của ông Bartholomew. "Những ảo ảnh của bồ sẽ tung hỏa mù, che giấu chiếc xe thật, đề phòng trường hợp có kẻ theo dõi. Cần khoảng chừng năm hay sáu chiếc, đậu quanh thành phố, và tớ cần vào khoảng giữa 2 giờ đúng, rạng sáng."

"Đằng ấy giỡn hả?" Olivia kêu lên.

"Không," Charlie nghiêm trang.

"Ừ thì đằng ấy không giỡn." Olivia cười khì. "Emama sẽ giúp đánh thức tớ dậy. Tớ nghĩ mình sẽ khoái mê vụ này."

Chúng rời phòng vẽ, chợt thấy một dáng hình cao, hơi gù hiện ra ở cuối hành lang. Cái hình hài ấy bắt đầu khập khiễng về phía chúng, và Charlie cứng người lại. Manfred lại ló mặt ra và tung hoành nữa rồi. Charlie chờ cho cái người đeo mặt nạ tới gần.

Fidelio và Olivia đứng hai bên Charlie, nhìn thân hình cao nhòng lọt vô luồng ánh sáng duy nhất trong hành lang.

Miệng Charlie há xệ ra. Không hề đeo mặt nạ. Không hề còn sẹo. Mặt Manfred láng o và tai tái như từ xưa vẫn thế.

"Ngạc nhiên chưa, Charlie Bone? Sốc à?" Manfred tập tệch tiến sát đến Charlie, đứng khựng ngay trước mặt nó. "Chẳng phải tao may phước có lũ bạn tài giỏi là gì?" gã thanh niên vuốt vuốt gò má láng của mình. "Tao cá là mày không bao giờ nghĩ tao trở lại được như thế này, đúng không?"

Không thể tìm ra lời đáp, Charlie ho khục khục.

"Chúng tôi luôn hy vọng cho những điều tốt đẹp nhất," Olivia phọt miệng. "Rất mừng khi thấy anh.. anh đẹp trai như vậy, Manfred."

Fidelio chỉ còn biết ú ớ đằng sau bàn tay bịt miệng.

"NGÀI chứ," Manfred sủa ông ổng. "Tụi bay phải gọi tao là ngài."

"Vâng, thưa ngài," Olivia nhu mì.

Chúng vội lỉnh đi khỏi Manfred, không dám nhìn nhau, nhưng khi chạy tới cuối hành lang, Manfred gọi với theo."Tao sẽ canh chừng mày, Charlie Bone, cho nên đừng giở trò ngu dại đấy."

"Vâng, thưa ngài," Charlie lầu bầu.

Có một bầu không khí căng thẳng bứt thần kinh trong phòng Nhà Vua tối hôm ấy. Joshua Tilpin ăn mặc lôi thôi lếch thếch chưa từng thấy. Tóc nó biết bệt mẩu giấy, bụi, mạng nhện, vỏ bút chì. Những miếng plastisc dùng để bao tập rách lua tua, teo dính trong ống tay áo nó, bàn tay nó phủ kín vụn bánh mì.

Hai chị em sinh đôi nhận thức rõ Tancred là thủ phạm gây ra những vết bầm dập cho mình, nên cứ nhắm sách và hộp đựng viết về hướng cậu ấy, nhưng sức mạnh của chúng hình như đã bị rút hết và Tancred dễ dàng đẩy lui chúng chỉ bằng vài hơi gió thoảng.

Dagbert nhìn mọi diễn biến với vẻ thản nhiên, có mưu mô gì đấy. Chốc chốc nó lại tóm lấy ánh mắt Charlie và mặt nó nói cho Charlie biết tất cả mọi điều: Dagbert sẵn sàng làm bất cứ điều gì Manfred sai khiến.

Trong hai giờ làm bài tập về nhà, Emma là đứa duy nhất mỉm cười. Tancred đã mời con nhỏ ngồi bên cạnh mình và, đỏ nhừ mặt mũi lên, Emma nhận lời. Tiếp đến là cười mãi không thôi. Đó chỉ là nụ cười phảng phất, nhưng cứ tủm tỉm và nâng cao tinh thần Charlie đáng kể.

Sau giờ bài tập về nhà, bọn trẻ giải tán trong im lặng. Charlie thậm chí không liếc nhìn Lysander và Tancred. Nó biết mình không được để lộ bóng gió nào về phi vụ bí mật đêm nay.

Trong phòng ngủ chung, Fidelio cư xử như không có gì bất thường sắp xảy ra, mặc dù Billy cứ nhúm nhó mặt mày và nghễnh ngãng tận đâu đâu.

Đến lúc Charlie nằm xuống gi.ường, nó cảm thấy như trong người mình có một cuộn lò xo cuộn chắc, có thể bung ra bất thình lình. Làm sao có thể nằm im đến tận 2 giờ sáng? Nó muốn đi cứu Asa ngay lập tức, trước khi nó đứt dây thần kinh mất.

Đâu khoảng giữa 11 giờ và nửa đêm, Charlie lăn ra ngủ, mệt phờ vì những tưởng tượng của chính mình. Nó đã hình dung rất nhiều khả năng khác nhau của cuộc giải cứu Asa, nên đầu óc nó cuối cùng kêu đòi được nghỉ.

Charlie tỉnh giấc và thấy ai đó nhẹ nhàng lắc cánh tay mình.

" Charlie. 2 giờ rồi," Fidelio thì thầm.

Charlie ngồi dậy, dụi mắt. "Em thậm chí còn không nghe thấy đồng hồ mình reng."

"Anh cũng nghĩ vậy. Charlie, Dagbert không có ở trên gi.ường nó. Anh không biết nó rời phòng khi nào."

Charlie lăn khỏi gi.ường. "Giờ không thể lo lắng chuyện đó," nó lào xào. "Em đánh thức Billy dậy đây." Nó khoác tấm áo chùng xanh da trời, trong khi chân lò mò kiếm đôi giày.

Một cái vỗ nhẹ vào đầu khiến Billly ngọ nguậy bên dưới tấm vải trải gi.ường. "Gì đó?" thằng bé ngơ ngác.

"Suỵt!" Charlie xòe tay bịt mồm Billy lại.

"Không! Không!" giọng Billy nghẹt lại. "Đừng."

"Suỵt! Billy, anh đây, Charlie nè. Tới giờ đi rồi."

"Đi đâu?"

"Suỵt! Đi cứu Asa."

"Em không muốn đi," Billy đẩy tay Charlie ra.

Ở đầu kia phòng ngủ chung, vài đứa cựa mình ú ớ trong giấc ngủ. Chờ để chắc chắn không đứa nào tỉnh dậy, Charlie thì thào. "Đi mà, bọn anh cần em."

Một thoáng im lặng thật lâu, và rồi Billy với tay tìm mắt kính của nó. Thòng chân xuống sàn, nó chật vật chui vô áo chùng và mang giày. Charlie nắm cánh tay nó và, không một lời, chúng chạy băng qua phòng ngủ chung.

"Chúc may mắn!" Fidelio thì thầm thật khẽ, Charlie không nghe thấy.

Trong hành lang thắp sáng tù mù, Charlie có thể thấy đôi mắt mở lớn, kinh hoảng của Billy, chợt cảm thấy tội lỗi. "Xin lỗi, Billy. Làm ơn đừng sợ. Đáng ra anh không nên bảo em làm điều này, nhưg em là người duy nhất có thể nói chuyện với Asa."

"Không phải Asa - mà là Sói Hoang," Billy nói. "Và em sợ là mình không thể làm được điều cần làm."

"Em sẽ làm được mà. Đi thôi." Charlie bắt đầu đi mau trong hành lang.

Âm thanh duy nhất trong tòa nhà rộng lớn, đang ngủ say này là tiếng bước chân nó lẹp xẹp trên ván lát sàn bằng gỗ sồi. Bầu tĩnh mịch vô biên khiến Charlie cảm nhận như mình và Billy là những sinh vật sống duy nhất. Nhưng nó cũng biết, ở đâu đó trong bóng tối, Dagbert Endless và Manfred Bloor vẫn thức, đang rình chờ nó.

Nhưng không ai hiện ra khi chúng cập rập đi ngược hành lang, không ai theo chúng trên hành lang hẹp tới nhà hát, và không ai chặn chúng trên sân khấu. Bóng tối trong nhà hát đen kìn kịt, Charlie phải lôi cây đèn pin của nó ra.

"Tụi mình đi đâu giờ?" Billly thì thầm.

Charlie huơ cây đèn pin ra cuối sân khấu cho tới khi trông thấy ô cửa sập. "Đó!" nó nói.

"Tối kinh quá," Billy sợ sệt..

"Ừ," Charlie tán đồng. " Nhưng cây đèn pin này rất tốt." Nó rua cây đèn pin dọc theo dưới gấu của tấm màn nhung, nơm nớp sợ Manfred ẩn đâu đó trong những nếp gấp nặng, sâu kia. Nhưng chẳng có ai ở đó. Nó nhón chân đi tới cửa sập và, lén lút ngó qua vai, cầm cái vòng sắt , nhấc cánh cửa lên.

"Nó không khóa," Billy nhận xét.

"Không bao giờ."

"Nhưng biết đâu. Có ổ khóa trên khoen cửa này. Ai đó có thể đóng cửa và bấm khóa nhốt tụi mình bên trong."

Charlie liếc nhìn cái ổ khóa gỉ sét. "Nó cũ mèm rồi, Billly. Đã nhiều năm không ai dùng tới. Có khi không còn chìa khóa mở nó nữa đâu. Nhìn nè, nó bấm vô rồi. Không ai có thể mưor nó ra.Đi."

Hạ cánh cửa sập xuống sàn, Charlie bắt đầu xuống cầu thang gỗ.

Billy ái ngại nhìn cái ổ khóa. "Em đóng cửa sập lại sau khi em xuống nhé?"

"Cũng được," Charlie nói nhóng lên. Nó xuống tới chân cầu thang và bật đèn lên.

Billy leo xuống và kéo cửa sập lại phía trên đầu nó. "Em chưa bao giờ xuống đây," nó nói khi đứng trong căn phòng đầy ắp tủ với rương , hòm.

"Đây là khu phục trang." Một ý nghĩ vụt đến với Charlie. "Tụi mình nên tìm một ít đồ cho Asa, để khi trở lại thành người anh ấy mặc."

"Nếu anh ấy có thể trở lại thành người," Billy làm bàm.

Charlie mở cái rương đầu tiên. Nó lôi ra một chiếc áo khoác dày bằng vải tuýt và mặc vào bên dưới áo chùng của nó. Billy chọn một cái mũ nồi xanh da trời trong một cái tủ và một cái quần nhung kẻ trong một cái rương khác. Nó đội mũ lên đầu và cột cái quần quanh cổ. Charlie vồ lấy đôi giày bốt màu nâu đế dày cui, trông thích mắt, nghĩ bụng liệu sau đó mình có đổi cho Asa được không. Nó cột dây giày lại với nhau và quàng vào cổ.

"Tụi mình tắt đèn đi nha?" Billy hỏi, khi Charlie tới chỗ hốc tối đằng sau hàng cột.

Charlie lần chần. "Không. Tụi mình phải quay lại lối này sau khi đã đưa Asa ra tới bờ sông."

"Nếu tụi mình tìm được Asa," Billy lẳng lặng nói.

Khi đã đi qua hàng cột, Charlie lia cây đèn pin lên bức tường rêu mốc, đen sì. Ở đằng cuối bức tường, một lối đi hình vòm, thấp lộ ra. Trong khoảnh khắc đó, Charlie muốn đánh đổi tất cả mọi thứ để được quay trở lại. Nhưng nó biết là không thể. "Đi, " nó nói và nhẹ cả người khi nghe tiếng bước chân của Billy lẹp kẹp đằng sau.

Cẩn thận tuôn qua mái vòm, chúng thấy mình vô một đường hầm hẹp. Mái trần thấp, tường và sàn được xây dựng toàn bằng gạch đỏ quạch, bể lỗ chỗ và lóng lánh đá vôi.Sau vài mét, đường hầm dốc sâu xuống, dốc đến nỗi tụi nhỏ bắt đầu trượt tuột luốt trên gạch ẩm ướt.

"Cứu!" Billy thét rùm.

Charlie mất đà ngã oạch xuống đất, nó quính quíu chộp đại bức tường. Cây đèn pin văng khỏi tay nó. Nó nghe tiếng cây đèn lăn lông lốc dưới đất rồi ngưng. Giây sau từ xa vộng lại tiếng thịch,khô khốc.

"Âm thanh nghe như nó lọt xuống một cái hố," giọng Billy run rẩy.

"Có thể tụi mình đã lọt cái hố đó," Charlie lầm bầm. "Cây đèn của anh tiêu là cái chắc."

Nhưng vào lúc này, chúng không bị rơi vào bóng tối đen đặc - một vầng sáng bạc tỏa nhẹ đường hầm và, trên đâu Charlie, một đốm sáng nhỏ lập lờ.

"Claerwen!" Charlie ngước lên nhìn con bướm trắng. "Sáng quá. Anh đã hy vọng nó sẽ tới mà."

"Charlie, tụi mình có lạc đường không?" Billy năn nỉ. "Em không muốn bị rơi xuống hố đó."

"Có thể có cầu thang." Quỳ thọp xuống, Charlie thận trọng bò tới trước. Tới miệng hố, nó có thể thấy một cái thang xếp bằng sắt dựa vô tường. Ngay cả trong ánh sáng tinh khôi của Claerwen, nó cũng không thể thấy cái thang kết thúc ở đâu.

Billy bò lại chỗ Charlie và ngó xuống. "Đó là vực thẳm," nó thét. "Tụi mình không bao giờ xuống tới đáy đâu. Có lẽ nó đi vào lòng trái đất."

"Làm gì có." Charlie cố ra vẻ điềm tĩnh, nhưng nó không thể giữ cho giọng đừng run.

Bỗng rồi nó nghe thấy: tiếng con thú rên rỉ đằng xa. Tiếng rên thảm não, đứt ruột đến nỗi thúc Charlie quăng chân thòng xuống thang mà không suy nghĩ một giây.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Hiệp Sĩ Đỏ






Nếu con bướm trắng không đi với chúng, Charlie không nghi ngờ gì, chắc hẳn mình và Billy đã té xuống hố chết queo rồi. Những thanh ngang của cái thang mục tơi tả. Có chỗ mất mấy thanh liên tục. Không có ánh sáng dẫn đường thì bảo đảm chúng sẽ trượt chân, mà đường rơi xuống sẽ rất xa, xa thật là xa.

Nhưng cuối cùng chúng cũng lại được đứng trên mặt đất cứng. Ở đáy hố, những bức tường lát đá tảng và đá phiến khổng lồ, và đó kìa, lùm lùm trong bóng tối, có một sinh vật xám gầy giơ xương.

"Asa?" Charlie khẽ hỏi.

Sinh vật đó quay phắt đầu lại. Con mắt vàng nhoé lên kinh hãi trước ánh sáng xa lạ, và nó hộc lên một tiếng rền đục.

"Nó nói gì đó, Billy?" Charlie hỏi.

Billy bóp trán. "Em không biết."

"Em phải biết."

"Không biết. Em đã nói với anh hoài mà. Em không còn hiểu được ngôn ngữ của thú nữa.

Cuối cùng giờ mới vỡ lẽ ra. Trước đó Charlie không hỏi chuyện Billy đến nơi đến chốn, bởi vì nó không dám để chính mình tin là Billy bị mất tài phép thuật. "Điều đó có nghĩa là em cũng không thể nói chuyện được với anh ấy?" nó hồi hộp hỏi.

"Đừng nghĩ vậy," Billy nói, dán tịt mắt vào sinh vật xám.

Bất thần một tiếng rống vang, và, răng nhe ra, con thú đâm xổ vào chúng.

"Asa!" Charlie hét. "Anh không nhận ra em sao?"

Tiếng rống hạ xuống đục rồ rồ. Charlie và Billy dựa chết dí vô tường.

"Cố lên, Billy, cố lên," Charlie nhắm mắt trong hồn xiêu phách lạc.

Phản ứng của Billy là quăng chiếc mũ nồi ra giữa sàn. Sinh vật gừ và xồ tới gần hơn. Billy quăng tiếp cái quần theo sau chiếc mũ. Sinh vật hít ngửi chúng, nhỏng đầu lên và tru.

"Em nghĩ điều đó có nghĩa là anh ấy không thích chúng," Billy nói.

"Anh mày còn kén chọn," Charlie lầu bầu. "Nếu anh mà không thích đôi giày bốt này thì anh sẽ ăn cái mũ trùm đầu của anh luôn." Chú ý để không làm sinh vật nổi giận, nó quẳng đôi giày bốt nhẹ hều qua một bên.

Sinh vật đi long tong tới đó. Khi nó cào đôi giày bóng loáng, Charlie nhận thấy con vật mới hốc hác tàn tạ làm sao. Từng cái xương sườn trơ lòi ra dưới lớp lông xám thô cứng. Hầu như khắp cơ thể không có lấy một gờ-ram thịt nào.

"Tội nghiệp," Charlie nói khẽ.

"Em nhớ âm thanh chỉ giày bốt rồi," Billy thì thào phấn khích, đoạn gừ lên một tiếng nhẹ.

Sinh vật ngước lên. Gừ một tiếng cộc lốc.

"Tốt," Billy bảo. "Nó nói là â��tốt'."

"Em còn nhớ thêm âm thanh nào nữa không?" Charlie hỏi.

"Như cái gì?"

"Ừm, em coi có thể nói với anh ấy tụi mình tới cứu anh ấy, và anh ấy phải mặc đồ vào nhanh nhanh lên, trước khi tụi mình tìm đường hầm ra sông."

"Charlie, anh ấy không thể mặc đồ được, anh ấy là sói. Mà sói làm sao đi giày?"

Charlie thấy mình khờ hết sức. "Ờ nhỉ," nó ỉu xìu. "Anh ấy cần nhiều ánh sáng hơn để biến thành người."

Billy thở hốc lên. "Em quên mất. Em chúa hay quên, nhưng mà, đây!" Billy thọc tay vô túi quần pyjamas và rút ra một cây đèn cầy. Ngọn nến lập tức bùng sáng. "Nến phép thuật của người giám hộ em," Billy sung sướng. "Em luôn giữ nó bên mình."

"Dĩ nhiên!" Charlie toét miệng cười. "Anh cũng quên phéng nó luôn. Anh nghĩ nó được việc đấy. Giơ cao lên, Billy."

Kết hợp ánh sáng từ con bướm trắng và cây nến, trong hố bừng sáng hệt như ban ngày. Con bướm nãy giờ đậu trên đỉnh tảng đá cao nhất, giờ bắt đầu bay lại gần con thú. Lờn vờn giữa hai tai con vật. Thấy một tia sáng mỏng loe loé trên mái đầu xơ xác của mình, con vật táp con bướm. Nhanh như chớp, con bướm thụt xuống đậu trên lưng con vật, tỏa một vệt sáng gắt khắp xương sống nó. Con vật quay mòng lại, rú và tru lên gầm gừ. Không nao núng, con bướm nhỏ lòn vuột qua cái đuôi teo quắt và rồi, không thể tin nổi, nó bay đan xen giữa những cẳng chân của con thú cho tới khi mỗi chân trở thành một cột ánh sáng rực rỡ. Con thú lọng cọng nhấc chân lên, nhưng tiếng gừ lịm đi chỉ còn là tiếng rên phập phều.

"Anh ấy đang biến đổi," Billy thì thào. "Coi kìa!"

Quả đúng vậy, con thú đang biến hình - một vệt tóc đỏ lưa thưa xuất hiện giữa đôi tai rách tướp. Những đặc điểm dài của sói mờ dần đi, hiện ra một cái trán nhợt nhạt, đôi má người vàng bủng hình thành quanh cái mõm nhọn, rồi tới đôi vai xương xẩu qua lớp lông xám lơ thơ. Cùng với một tiếng thét đột ngột - có thể là tiếng tru kháng cự hay niềm vui sướng - con thú quay lưng lại và nằm bẹp xuống đất.

Vài giây sau, Charlie nhận ra mình đang nhìn trân tráo vào cái lưng của một cậu bé hẳn hoi. Nó liền bước tới, cởi tấm áo khoác dưới áo chùng của mình ra và nhẹ nhàng đắp cho cậu bé.

Một tiếng nấc phụt vang trong hố. Charlie quỳ xuống bên cạnh Asa, vỗ về. "Được rồi, Asa. Tụi em đến giúp anh đây."

Billy mang cái quần xanh lá cây và đôi giày bốt lại gần. Con bướm trở về chỗ cũ của nó nơi tảng đá. Hình như nó có ý đợi.

Từ từ, Asa đứng lên. Quay lưng về phía chúng, mặc quần và đi giày vào. Khi đã rùng mình tròng chiếc áo khoác xong, anh ta quay mặt lại nhìn Charlie và Billy với nụ cười tươi rói.

"Asa! Anh lại là anh rồi," Charlie reo mừng.

"Đúng," Asa nói khàn khàn. Bật ho. "Xin lỗi, cổ họng khô nghét. Chưa hề nói chuyện suốt mấy tuần."

"Tụi em sẽ đưa anh ra khỏi đây, nhưng tụi mình phải lẹ lên. Có một đường hầm dẫn ra bờ sông. Có người đang đợi để cứu anh. Mẹ anh sẽ ở đó." Charlie nói nhanh đến nỗi Asa thộn người ra, bối rối.

Charlie nói chậm lại. "Suy đoán của em là đường hầm bắt đầu đằng sau một trong những tảng đá kia."

"Mẹ tôi khỏe chứ?" Asa lầm bầm.

"Khỏe." Charlie ngần ngừ rồi vụng về nói, "Em rất tiếc về ba của anh."

Mặt Asa chợt nhúm nhó lại, thấy vậy Billy vội nói, "Em cá đường hầm ở đằng sau tảng đá cao kia, chỗ con bướm của anh đậu í, Charlie. Em chắc chắn luôn đó."

"Tụi mình lại coi xem sao." Charlie đi tới tảng đá và cô dịch dời nó. "Cần phải ba tụi mình mới nổi. Phụ với nào, hai vị."

Billy tắt nến của nó đi và đút trở vô túi quần. Sau vài phút đẩy và lôi, thở phì phà phì phò, chúng loay hoay dời được tảng đá vài phân khỏi bức tường. Billy nói đúng. Có một lối ra bí mật. Như được tiếp thêm sức, ba thằng đẩy tảng đá thêm vài phân nữa. Giờ thì đủ chỗ cho chúng ép mình chui qua cửa hầm.

Bọn chúng lẳng lặng mà đi. Billy trước, rồi tới Asa. Charlie bước sau cùng, phòng trường hợp anh ta lại mất đi dạng người. Nhưng con bướm trắng dập dềnh bay sát thằng người thú, nhằm bảo đảm ánh sáng cho anh ta giữ nguyên hình hài con người.

Đường hầm này tối đen và bốc mùi mốc hơn đường hầm đầu tiên nhiều. Tất nhiên là nó lạnh lẽo hơn. Charlie và Billy trùm mũ áo chùng lên, còn Asa, hơi lần chần, đội mũ nồi vào. Charlie là đứa đầu tiên nhận ra nước, khi chân Asa bắt đầu lội lóe tóe, bắn những tia nước lạnh toát vào chân Charlie.

"Anh có nghĩ nước sông sẽ tràn vô đường hầm không?" Billy hốt hoảng hỏi.

"Không thể nào," Charlie đáp. "Đường này ở phía trên dòng sông rất xa,vả lại, tụi mình đang đi lên chứ không phải đi xuống."

"Nhỡ sông làm lụt hang thì sao?" Billy cố chấp.

"Trời dạo này đâu có mưa," Charlie nói. Dẫu nói vậy nhưng nó đồng thời nhớ lại cảnh nước sông dâng cuồn cuộn suýt quét chúng khỏi cây cầu. "Dagbert," nó lầm bầm.

Vài phút sau, nước dâng sấp đầu gối. "Tụi mình phải quay lại thôi," Billy hét.

Charlie ngoái dòm lại. Đằng sau nó, một dòng nước bùn sình đang tràn vô đường hầm. "Không được rồi. Đằng sau tụi mình nước còn ngập sâu hơn. Lẹ lên, Billy."

Billy dợm chân chạy, nhưng thoáng cái, nước đã cao hơn đầu gối nó. Sức nước mạnh đến nỗi nó gần như không tiến lên được. "Tụi mình sẽ chết đuối mất," nó mếu máo.

Asa xuội dựa vô tường. "Tại tôi," anh van vỉ. "Manfred không bao giờ buông tha tôi. Hắn thà thấy tôi chết còn hơn."

"Là Dagbert Endless đó," Charlie cay đắng. " Tụi mình quyết không để nó đánh bại. Phải chạy tiếp thôi." Nó vượt qua Asa và chộp lấy tay Billy. "Chúng ta phải giúp nhau. Nào, Asa, nắm lấy tay kia của Billy."

Chúng lại bắt đầu di chuyển, chậm một cách đau đớn, trong khi con bướm trắng lượn lờ trên đầu, phát ra những tia sáng sống động có tác dụng khích lệ tinh thần bọn chúng. Thế nhưng nó không thể ngăn nước ngừng dâng, và chẳng bao lâu dòng nước xoáy mấp mé eo bọn chúng. Charlie không biết mình còn cách sông bao xa nữa. Có lẽ triền sông đã chìm dưới nước rồi cũng nên. Để rồi ngay khi ló ra, chúng sẽ bị cuốn vô dòng nước lũ.

Khi nước tới vai, Charlie bắt đầu từ bỏ hy vọng.

Xa tuốt bên trên đường hầm, Tancred Torsson đang băng qua sân chơi của học viện Bloor. Cậu vốn rất nhạy cảm với nước trong tất cả mọi trạng thái của nó. Cậu có khả năng bắt mạch thủy triều, nhận biết mưa đang trên đường tới, thậm chí cậu còn biết chắc khi nào nước trút khỏi đám mây nặng nề. Lúc này đây, Tancred biết đích xác là sâu dưới lòng đất, có nước đang tràn lấp một đường hầm cổ xưa. Cậu nghe thấy tiếng nước rùng rùng dưới chân mình, và đoán ra Charlie đang gặp nguy hiểm. Chẳng khó cho Tancred biết dòng nước chết người đó bắt nguồn từ đâu. Ở rìa khu rừng bao quanh lâu đài Vua Đỏ có ánh sáng lân tinh chiếu phừng phực lên khỏi những ngọn cây. Khi tiến tới gần hơn, Tancred bắt gặp Dagbert Endless đang dựa vô một thân cây. Đầu nó ngỏng lên, mắt nhắm tịt, miệng cười cợt.

Tancred xăm xăm tiếp cận thằng bé. "Dừng lại ngay," cậu ra lệnh.

Dagbert choàng mắt ra. "Ố, là mày."

"Tao nghe tiếng nước. Mày đang dìm chết tụi chúng. Dẹp ngay."

"Sao phải dẹp?" Dagbert sừng sộ. "Tao đang thưởng thức thời huy hoàng của cuộc đời tao."

"Không còn nữa." Tancred tung áo chùng của mình thành một hình vòng cung rộng màu xanh lá cây.

"Mày định làm gì?" Dagbert ngờ vực hỏi.

Một luồng khí băng giá cuốn nó xoay tít rời xa cái cây. "Thôi!" nó thét gào đúng lúc một cơn gió mạnh hất hai chân nó hổng khỏi mặt đất. Tức thì dòng sinh vật nhỏ vàng óng tuột khỏi túi nó khi nó bị úp ngược xuống, quơ quào không khí.

Dấn người tới trước, Tancred chụp lấy những sinh vật nhỏ tí.

"Không!" Dagbert hét.

Tancred lùi lại và để cho thằng bé đâm sầm xuống đất. Dagbert nằm cứng đờ một hồi, sau đó bắt đầu run như giẽ. Mặt nó bắt đầu nhóa lên thứ ánh sáng xanh lá cây bệnh hoạn, hai bàn tay nó phát sáng và một quầng sáng dạ quang chiếu xuyên qua quần áo nó. Cơn run không sao kiểm soát được.

"Trả... sinh... vật... biển... cho... tao," Dagbert láp ngáp.

"Cái này á?" Tancred bốc chuyển chúng từ tay này qua tay kia. "Tao không nghĩ thế."

"Tàn ác!" Dagbert rống lên.

"Dừng nước lại!"

"K-h-ô-n-g!"

Tancred giơ cao bàn tay nắm chặt lên và Dagbert bay vút qua khu rừng. Những cành sắc đâm rách áo quần nó, cào toạc mặt nó, gai mắc vào tóc nó và những cành trụi lột sạch giày nó. Lúc nó rơi tòm xuống đất lần thứ hai, cơn run trở nên dữ dội đến mức người nó giãy đành đạch dưới đất. "Trả tao..." nó khều khào.

Tancred bước tới bên thằng bé phát sáng. "Tao sẽ chẳng trả mày cái gì đến chừng nào mày ngưng nước lại."

Im lặng thật lâu, sau đó, tiếng thở dài, Dagbert nhắm mắt lại và vấn tay xuống đất.

Tancred bắt đầu cảm thấy một sự thay đổi nơi mặt đất dưới chân mình. Cậu nhìn Dagbert và chờ đợi. Vẫn run cầm cập, Dagbert cắm những ngón tay xuống sâu nữa, sâu nữa xuống mặt đất. Cuối cùng bằng giọng run bắn, nó vọt ra lời "Xong!"

"Hừm, tao sẽ không cảm ơn mày đâu." Tancred quay ngoắt đi.

"Làm ơ-n," Dagbert rên rỉ.

"Những sinh vật vàng óng của mày? Đến mà lấy chúng đi này." Tancred rải những con cá bé xíu và những con cua vàng xuống bãi cỏ cao làm lằn ranh của khu rừng. Nhưng cậu đút con nhím biển vô túi quần. Dành cho những cuộc đối đầu sau này, cậu nhủ thầm. Hòa mình vào bóng tối đen đặc, cậu lần đường trở lại trường. Trước đó cậu phát hiện thấy một luồng sáng ở trên lầu trên cùng của tòa nhà và không muốn làm gì liều lĩnh cả.

Lão Ezekiel đã chứng kiến toàn cảnh đó từ trên cửa sổ gác mái cao vọi của lão. Có điều, vì không biết là Dagbert không ở một mình trong rừng, lão ấn tượng quá trời trước những màu sắc chói rực bốc cuồn cuộn lên khỏi ngọn cây.

"Bắc cực quang của riêng chúng ta," lão cười khục khục. "Giỏi lắm, Dagbert Endless."

Trong đường hầm, sâu bên dưới cánh rừng, Charlie cảm thấy dòng nước bắt đầu yếu đi.

"Nó đang rút," Asa hổn hển.

Chẳng mấy chốc bọn chúng thấy bùn sình trở lại dưới chân mình. Vài phút sau chúng đã bước đi trên nền gạch ướt lấp xấp. Dòng lũ chỉ còn là những gợn nước lăn tăn.

"Làm sao lại có chuyện này được?" Billy nói.

"Anh nghĩ Tancred đã ra tay đấy." Charlie cười toe ngước nhìn mái trần rêu phủ.

Bây giờ chúng đang đi lên một con dốc nghiêng. Xa tít bên trên, Charlie có thể thấy vầng trăng và, dẫu bị té ạch đụi mấy lần xuống nền gạch trơn trợt, mặt trăng tưới lên chúng một niềm hy vọng tươi mới và, phớt lờ quần áo ướt sũng và tay chân trầy trụa, chúng hăng hái bò lên, cho tới khi từng đứa một, lăn tòm vô một bãi cây nhỏ bên cạnh triền sông. Một làn gió mạnh đã thổi bạt mây khỏi bầu trời, để lại vạn vật tắm đẫm trong ánh trăng.

"Chúng ta tới rồi!" Charlie hét to, lăn xuống bờ dốc.

Bọn kia lăn theo. Asa thậm chí còn cười rúc rích. Trông bộ dạng anh ta thật quái với mái tóc đỏ thòi lòi dưới mũ nồi, và áo khoác dài tráng kín bùn.

Giờ chúng đã tới đây, đủ cả ba đứa, run lập cập vì ướt và lạnh, và Charlie muốn chắc chắn Asa đến được chiếc xe thùng của ông Bartholomew. Chúng chạy dọc theo dải đất cho tới khi cây cầu hiện ra trong tầm mắt, và đó kìa, thấy nhô lên khỏi bức tường đá, là một chiếc xe thùng màu trắng.

"Asa," Charlie chỉ cây cầu, "Thấy chiếc xe thùng màu trắng đó không? Mẹ anh ở trong đó, đang chờ anh đó."

Nó chưa dứt lời, cả bọn bỗng cảm thấy mặt đất rung chuyển. Có tiếng rập cà rập từ xa dội đến tai chúng; lúc tiếng động lớn dần lên thì một con ngựa trắng phi xuống bờ dốc cạnh cây cầu. Trên lưng ngựa một hiệp sĩ mũ giáp bạc và áo chùng nhung trông xam xám dưới ánh trăng, tuy nhiên Charlie biết áo chùng phải là màu đỏ rực. Chúng thấy ánh thép nhóa lên khi hiệp sĩ tuốt gươm ra và lao vun vút tới chỗ bọn chúng.

Trong khoảng khắc đó, Charlie chỉ nghĩ một điều là bấy nay mình luôn đúng. Hiệp Sĩ Đỏ đó không phải là bạn. Ông ta đã được trao cho thanh gươm bất khả chiến bại mà ông ta luôn rắp tâm sử dụng để chống lại bọn chúng.

Chúng quay đầu chạy, nhưng biết chạy đi đâu bây giờ, do bởi ở đầu phía ấy, một con ngựa khác cũng đang phi hùng hục về phía chúng. Mặt đất rùng rình vì tiếng vó ngựa nện xuống triền sông. Chùm lông chim xám thẳng đơ trên đầu ngựa, và hiệp sĩ ngồi trên lưng con ngựa này lăm lăm một cây thương dài màu nhờn nhợt.

"Trông họ như đá," Billy kêu re ré.

"Họ là đá," Charlie thét ầm.

Bị kẹt giữa Hiệp Sĩ Đỏ và hiệp sĩ xám, dòng sông xem ra là nơi duy nhất để tẩu thoát. Charlie đứng sựng, run rẩy trên triền đất ngập ánh trăng, không thể cục cựa, trong khi Asa và Billy đã bò thụp xuống, giật giật áo chùng của Charlie và gào thét cái gì đó không hiểu được. Và rồi, khi cả hai con ngựa lao vào chúng đến nơi, thỉ Hiệp Sĩ Đỏ thét vang "NẰM XUỐNG!"

Charlie nhào xuống đất ngay trước lúc ngựa và người cưỡi lướt qua phía trên nó. Một luồng khí phụt ra từ tấm áo choàng bay phần phật là ấm tới xương nó, khiến nó thôi run tức thì.

Cây thương của hiệp sĩ đá xỉa thẳng vô ngực Hiệp Sĩ Đỏ nhưng, vào khoảng khắc cuối cùng, con ngựa trắng thình lình ngoặc hướng, nhanh hơn tia chớp, Hiệp Sĩ Đỏ phập thanh gươm của mình xuống. Một nhóe sáng đốt cháy theo chiều dài cây thương. Con ngựa đá khiếp vía quay đầu trên tiền sông. Cây thương bị kéo căng ra hết cỡ, rồi bất chợt bay chíu về phía lưng của Hiệp Sĩ Đỏ.

Charlie nghe thấy một tiếng kịch khi ngọn thương đâm trúng mục tiêu. Nhưng Hiệp Sĩ Đỏ không hề loạng choạng trên lưng ngựa. Cây thương nảy bật khỏi tấm áo choàng đỏ của ông, con ngựa trắng nhảy dựng qua bên và Hiệp Sĩ Đỏ chém mạnh cây thương bằng thanh gươm của mình, nhát nữa, nhát nữa, lại nhát nữa.

Một tiếng rắc long trời, và cây thương gãy làm đôi, một đoạn rớt thịch xuống đất. Hiệp sĩ đá thúc ngựa mình húc thẳng vào sườn con ngựa trắng; một tiếng hí đau đớn vang động thinh không khi con ngựa trắng lùi lại, nhưng trong lúc nó chuyển động thì lưỡi gươm của Hiệp Sĩ Đỏ đã phang trúng mũ giáp của hiệp sĩ đá. Đầu hắn đứt lìa, nhưng toàn thân hắn vẫn hoạt động, điên cuồng lia cây thương cụt. Thanh gươm lại xả xuống lần nữa, chẻ hiệp sĩ đá ra làm đôi, chặt cánh tay hắn và chém bay đoạn thương còn lại. Những mẩu đá rơi lịch thịch xuống đất; con ngựa đá lảo đảo vài cái rồi lăn tỏm xuống sông.

Ba thằng bé lồm cồm đứng dậy, vẫn run, mặc dù quần áo chúng đã khô lại, và chúng không còn cảm thấy lạnh nữa. Chúng ngước nhìn chối chết vào Hiệp Sĩ Đỏ và con ngựa của ngài, giờ đứng bất động dưới ánh trăng. Nếu không nhờ hơi bốc ra từ con ngựa trắng, thì cứ tưởng họ đã hóa thành bức tượng.

"Lúc này tôi có thể tự lo cho mình được rồi." Asa nở nụ cười quai quái trên mặt. "Tốt hơn hai cậu hãy trở về trường đi."

"Anh có chắc không?" Charlie hỏi.

"Chắc chứ," Asa nói, khi con ngựa trắng hướng về phía chúng.

Tụi con trai dạt qua bên để con ngựa cùng người cưỡi đi qua. Charlie nghe thấy tiếng da cọ quậy, tiếng áo giáp kêu lách cách, và tiếng thở hì hụi của con ngựa. Hiệp Sĩ Đỏ ngồi thẳng trên yên, thanh gươm của ngài đã được tra vô vỏ, treo lủng lẳng nơi thắt lưng, tấm áo choàng đỏ nằm im che lấy lưng ngài. Ngài dừng lại một thoáng và nhìn xuống bọn chúng. Mũ giáp che khuất mặt ngài, chi còn tia phản chiếu của đôi mắt là thấy được.

Khi con ngựa dấn tiếp, Asa bước đi bên cạnh nó. Charlie và Billy nhìn thân hình cao lêu nghêu của Asa trong chiếc áo choàng dài, và Charlie lầm bầm, "Giờ anh ấy an toàn rồi."

"Một người an toàn nhất trần đời," Billy thêm.

Khi chúng leo lên trở lại cửa hầm, Charlie nghĩ mình trông thấy hai bóng người đứng dưới bãi cây: một cao lớn và một bé xíu.

Cuộc hành trình trở lại trường dễ hơn và nhanh hơn bởi vì đường hầm giờ đã sạch trơn nước.

"Luôn nhanh hơn khi ta biết mình đang chờ cái gì," Charlie nói, khi hích người leo lên chiếc thang sắt, ra khỏi cái hố kinh hoàng. Thế nhưng chúng không hề chờ đợi để thấy điều mà chúng thấy khi ló lên căn phòng dưới lòng nhà hát.

Lúc nãy Charlie không hề trông thấy Manfred ở đâu trong nhà hát, đơn giản là vì hắn núp đằng sau hàng ghế đầu tiên ở khán phòng. Hắn nghe thấy tiếng cửa sập hạ xuống và chờ đợi, cười khẩy một mình, tưởng tượng cảnh Charlie và Billy tự dẫn xác xuống cái hố hắn nhốt thằng người thú. Hắn đặc biệt khoái chí thưởng thức bức tranh hắn tự vẽ trong đầu, khi nghĩ đến dòng nước lụt dìm chết người của Dagbert tuôn vô đường hầm.

Asa sẽ chết đuối, Manfred nói một mình, ta sẽ mất con thú hữu dụng, nhưng không còn cách nào khác. Với việc Billy Raven bị xóa sổ, thì ai thèm quan tâm Lyell Bone có tìm được bản di chúc của Maybell Raven hay không. Còn về Charlie Bone, thằng đó càng biến nhanh chừng nào tốt chừng nấy.

Nhưng Charlie luôn có cách thoát khỏi hiểm nghèo, nên Manfred muốn đảm bảo chắc chắn lần này Charlie đừng hòng sống sót. Rời khỏi chỗ núp, hắn leo lên sân khấu. Trong túi quần hắn có sẵn chiếc chìa khóa để mở ổ khóa cũ trên cửa sập. Hắn sắp sửa bấm ổ khóa lại thì bất chợt cơn tò mò xâm chiếm lấy hắn.

Manfred nâng cửa sập lên và đi xuống phòng phục trang. Dường như nó trống trơn. Tung tẩy ổ khóa trong tay và huýt sáo một mình, Manfred ló đầu qua một trong những cây cột và nheo mắt ngó vô màn đêm. Không có gì. Và rồi, từ xa, hắn nghe thấy tiếng hét kinh hồn của Billy lúc trượt chân ngã xuống đường hầm.

Manfred mỉm cười mãn nguyện. Hắn quay lưng đi và sững sờ chết điếng, mặt đối mặt với Lysander Sage.

"Mày làm gì ở đây?" Manfred quát đùng đùng.

"Đưa ổ khóa cho tôi," Lysander ra lệnh.

"Đừng hòng tao đưa mày cái gì," Manfred nhạo báng. "Cút khỏi đây trước khi tao gọi lão Weedon."

"Tôi chắc chắn là lão Weedon đang chạy lòng vòng thành phố đếm xe thùng màu trắng và tự hỏi cái nào cần theo dõi. Giờ thì, đưa tôi cái ổ khóa đó."

"Tới mà lấy coi!"

"Được." Giang hai tay ra, Lysander quay mòng mòng căn phòng, len lõi qua những cái rương bằng da và những giỏ bằng liễu gai. Những bức tường âm vang tiếng ngâm nga bí ẩn và, trong khi Manfred từ từ lùi lại cầu thang, tiếng trống bắt đầu hòa nhịp với giọng của Lysander. Những hình nhân tái xám bắt đầu tràn lấp không gian đen ngòm giữa các cây cột, rồi từ từ mỗi hình nhân ma quái biến thành một người đàn ông cao lớn, da đen. Nhưng cánh tay màu nâu của họ đều đeo vòng vàng, thân hình họ trùm trong áo thụng trắng, ai ai cũng cầm một ngọn giáo dài.

"Ẳo ảnh," Manfred lầm bầm.

"Anh biết thừa là không phải," Lysander nói. "Họ là tổ tiên của tôi và họ hữu hình như bất kỳ sinh vật nào trong thành phố này."

Một trong những chiến binh luồn ra sau Manfred, khóa chặt đường tới những bậc thang của hắn.

"Đưa ổ khóa cho tôi," Lysander chìa bàn tay ra.

Manfred lắc đầu tê liệt. Nắm chặt ổ khóa, hắn bỏ hướng tới cầu thang và nhắm tới lối đi giữa những tủ và rương.

"Thế thì hãy nhận lãnh hậu quả." Lysander hú lên một tràng dài và những chiến binh đen dồn về phía trước. Khi họ vây sát Manfred, hắn thét lên một tiếng khiếp đảm, đồng thời quăng bừa ổ khóa cho Lysander, rồi vội vàng mở nắp một cái hòm đan bằng liễu gai lên và nhảy tọt vô trong, đóng nắp lại trên đầu.

Lysander bước tới cái hòm và bấm ổ khóa lại. Sau đó, rút chìa khóa ra, anh ngồi trên nóc hòm và đợi.

Sửng sốt trước ánh sáng rực rỡ rọi về phía mình, Charlie và Billy chù chừ trước khi bước qua hàng cột. Và chúng thấy Lysander, bao quanh là những tổ tiên tâm linh cao lớn của anh.

"Cái..." Charlie lắp bắp.

"Suỵt!" Lysander chỉ cái hòm bên dưới mình. Không mở khóa ra, anh đứng dậy và đưa tụi nhỏ lên cầu thang.

Trước khi đóng cửa sập lại, anh khẽ gọi những tổ tiên tâm linh, và mặt anh nở ra một nụ cười tươi rói.

"Chuyện gì thế?" Charlie hỏi.

"Manfred đang định khóa các em lại," Lysander bảo. "Nhưng anh đã khóa nhốt hắn rồi. Tổ tiên của anh sẽ canh giữ hắn cho tới bình mình."

Billy nem nép ngó gương mặt điềm nhiên của Lysander. "Nhưng anh ta sẽ tức giận... sẽ... sẽ..."

"Hắn sẽ không làm gì đâu," Lysander trấn an thằng bé. "Em tưởng hắn muốn lu loa cho tất cả mọi người biết mình đã bị nhốt trong một chiếc hòm và không ngăn được các em trở lại sao? Tin anh đi, hắn quá kiêu ngạo để làm điều đó. Giờ, cho anh biết coi, các em có thành công không?:"

"Rất thành công," Charlie đáp.

Khi chúng kiễng chân về những phòng ngủ chung của mình, Billy thì thào bằng giọng buồn ngủ. "Sander, em đã thấy Hiệp Sĩ Đỏ và một con ngựa trắng. Và em nghĩ đó là hoàng hậu mà lão Ezekiel đã vô tình làm sống lại."

"Vậy chắc có lẽ Hiệp Sĩ Đỏ là nhà vua đó," Lysander bảo.

"Cũng có thể," Charlie nói.

Ở đầu kia thành phố, trên đường lái xe trở về nhà sau một điệp vụ tối quan trọng, chú Brown đếm thấy có không dưới mười bảy chiếc xe thùng móp méo màu trắng đậu ở những vị trí khác nhau trong thành phố. Chú ghi lại từng vị trí vào sổ tay của mình. "Có gì đó đang xảy ra," chú lầm bầm. "Trừ phi... đúng rồi. Ẳo ảnh." Chú liền xé bỏ tờ giấy đó đi.

Vừa lúc đó, chiếc xe thùng duy nhất chú không thấy đã phóng ra khỏi thành phố.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Charlie Nhận Được Một Tấm Bưu Ảnh





Vào sáng thứ Ba, có một tâm trạng tò mò bao trùm khắp học viện Bloor. Thậm chí cả bọn trẻ không dính líu gì đến cuộc đào thoát của Asa cũng cảm nhận về một sự thay đổi trong bầu không khí.

Dagbert Endless nằm mẹp trên gi.ường, mặt chi chít những vết cào. Chốc chốc lại rên rỉ về gió máy. Nắm tay nó áp chặt vào má, nhất định không cho ai thấy mình đang cầm cái gì, mặc dù, thỉnh thoảng giữa những ngón tay nó, lại để lộ ra những tia sáng vàng.

"Cứ mặc kệ nó," bà giám thị bảo. "Nó đang bị ác mộng đấy mà."

Thế là Dagbert được phép nằm lại gi.ường, một điều chưa từng có đối với đứa trẻ nào trong học viện Bloor

Trong phòng riêng của hắn ở chái phía Tây, Manfred Bloor cũng nằm bẹp dí trên gi.ường. Úp mặt vô tường, lảm nhảm về những chiến binh ma quái.

Lão Ezekiel đích thân lăn xe tới cửa phòng Manfred và gõ. Không có tiếng trả lời. Thấy cửa khóa, lão Ezekiel giật giật tay nắm cửa. "Mày có thành công không?" lão gọi. "Sứ mạng có hoàn thành? Asa đi đời? Charlie đi tong và oắt Billy tiêu ma?"

"Đi đi," Manfred gầm gừ.

"Thế thì thất bại rồi," ông cố nội hắn thở dài rồi thiểu não lăn xe đi.

Món trứng được phục vụ trong căng-tin xanh da trời. Charlie không bao giờ nhớ mình đã được chiêu đãi như thế này trong bữa sáng ở trường. Nó đứng ở cuối hàng, cố mở đôi mắt líu díu ra, ngáp rõ to.

Bà bếp trưởng trao phần ăn được thêm ê hề cho Charlie khi nó tiến tới quầy. "Ta đã ù ra ngoài mua trứng đó," bà nói. "Tại sao bọn trẻ các con không xứng đáng một bữa sáng thịnh soạn cho khác đi?"

"Bà bếp trưởng, trông bà không còn lo lắng nữa," Charlie nhận xét.

"Ta biết mình không đơn độc." Bà nhoẻn với nó một nụ cười bí mật, sau đó lôi một vật ra khỏi tạp dề. "Ta tình cờ gặp ngoại Maisie sáng nay. Thật hên ơi là hên. Bà ấy nhờ ta mang cái này cho con." Bà bếp trưởng nhoài qua quầy và trao cho Charlie một tấm bưu ảnh.

Mặt sau có một con tem nước ngoài và nét chữ viết tay của ba nó. Sau vài dòng về chuyến đi và thời tiết thì tới câu: "Một ngày nào đó ba mẹ sẽ đưa con đi cùng, Charlie, rồi con sẽ tận mắt thấy những sinh vật lộng lẫy đó."

Ở mặt trước tấm bưu ảnh, hình một cái đuôi cá voi lưng gù choán lấp bầu trời trên mặt biển mênh mông, lấp la lấp lánh.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
×
Quay lại
Top