Biểu tượng Thất truyền ( The Lost Symbol )

heokool

Cà rốt, trứng hay hạt cà phê?
Thành viên thân thiết
Tham gia
22/9/2011
Bài viết
14.934
Bieu-tuong-that-truyen.jpg








In liền 6 triệu bản ngay trong lần ấn hành thứ nhất tại Mỹ…
Bán hết veo 1 triệu chỉ trong buổi phát hành đầu tiên…


Robert Langdon cùng chuyến phiêu lưu vào những bí mật xa xưa lại lập đỉnh mới về kỷ lục xuất bản, tiếp tục tạo sóng thần làm nghiêng ngả thị trường sách thế giới. Không chỉ là nguồn cảm hứng dồi dào cho muôn lời tán tụng, Biểu tượng Thất truyền còn khẳng định sức thu hút, độ thành công bằng những thành tích ngoạn mục hơn nhiều, chẳng hạn liên tục dẫn đầu bảng xếp hạng best seller của New York Times từ lúc sách chưa phát hành cho đến tận hôm nay, luôn được săn đón ráo riết trên Amazon, chưa kể bản quyền điện ảnh chuyển cho Columbia Pictures từ lúc sách mới ráo mực in đang thách thức mọi cuộc vượt rào về doanh thu phòng vé...


Được Dan Brown thai nghén suốt 5 năm, Biểu tượng Thất truyền là sự phối kết hoàn hảo giữa hư cấu và thực tế, khoa học và đức tin, mật mã và giải mã. Sau Vatican, Illuminati trong Thiên thần và Ác quỷ, sau hành trình theo Chén Thánh trong Mật mã Da Vinci, lần này Dan Brown thả sức sáng tạo vô tận vào chiều sâu bí ẩn của Hội Tam điểm, một hội kín có lịch sử lâu đời. Theo đó, hành trang phiêu lưu của Robert Langdon sẽ mở rộng từ khoa Ký tượng học sang Lý trí học, sang những khám phá mới nhất về sức mạnh tinh thần của loài người, thứ sức mạnh có thể biến đổi toàn bộ cấu trúc vật chất chỉ bằng vài ba ý nghĩ.


Hễ chạm tới Biểu tượng Thất truyền, người ta sẽ bị cuốn phăng vào trường hấp dẫn của nó, để rồi quên hết thời gian, không gian quanh mình, để rồi quên luôn New York Times từng cảnh báo: “Đã cầm quyển sách trên tay thì không còn cách gì thả nó xuống”. Và bây giờ, chính bạn hãy thử cảm nhận ma lực ấy…





Tên truyện: Biểu tượng thất truyền
Tác giả: Dan Brown
Dịch giả: Nguyễn Xuân Hồng


Nội dung chính

Toàn bộ câu chuyện xảy ra trong khoảng thời gian 12 tiếng tại Washington, D.C., và tập trung vào Hội Tam điểm.[6] Robert Langdon được triệu tập để thuyết giảng tại National Statuary Hall thuộc United States Capitol, với một giấy mời từ thầy giáo của mình, một thành viênĐẳng cấp 33 trong hội Mason tên là Peter Solomon, đông thời cũng là trưởng Hiệp hội Smithsonian. Solomon đã yêu cầu Langdon mang theo một gói nhỏ mà ông ta đã nhờ Langdon lưu giữ vài năm trước đó. Tuy nhiên, khi đến khán phòng, thay vì gặp khán giả, Langdon nhận được một cú điện thoại từ người mà ông ta cho là thuộc văn phòng của Solomon và sau đó nghe thấy tiếng hét ở Capitol Rotunda. Khi chạy tới nơi, Langdon nhìn thấy tay phải của Peter Solomon đã bị chặt đứt ở giữa phòng. Bàn tay có các vết xăm trên các ngón và Langdon nhận ra đấy là biểu tượng của 'Mật thủ', dường như ngón tay chỉ thẳng lên bức họa The Apotheosis of Washington trên vòm mái của nhà Capitol. Langdon nhận ra rằng bạn mình đã bị bắt cóc và chặt đứt tay và kẻ bắt cóc muốn Langdon tìm ra Kim tự tháp Mason và theo tín ngưỡng của những người Mason, kim tự tháp này được cất giấu ở đâu đó tại Washington D.C và tìm ra từ bị thất lạc mà kẻ bắt cóc đã quyết định tìm kiếm.


Ngay sau đó, trưởng cảnh sát của Capitol xuất hiện và ngay sau đó là giám đốc Văn phòng An ninh CIA Inoue Sato. Khi Langdon bắt đầu phân tích các hình xăm trên ngón tay, ông nói với Sato là nếu di chuyển các ngón đang khép lại, các vắt xăm mới có thể được phát hiện. Bà Sato mở ngón tay ra và phát hiện một dấu hiệu mới và họ nhận ra rằng cần phải xoay ngược tay xuống. Cả nhóm đi theo hướng dẫn trên tay tới một khu bỏ hoang tại hầm của nhà Capitol và tới một phòng nhỏ trong đó có phòng thờ Mason của Peter Solomon. Trong phòng thờ có một sọ người và nhiều đồ vật trang trí khác. Tuy vậy, khi thắp nến lên, nhóm phát hiện ra có một bức màn và sau khi vén sang một bên, họ phát hiện ra một kim tự tháp nhỏ không có chóp trên đó có khắc chữ cho phép Langdon có thể di tiếp tới bước tiếp theo để cứu bạn.


Trong khi đó, Sato đã yêu cầu cảnh sát tòa nhà Capitol xét lại hình chụp X-quang đồ vật của Langdon khi vào tòa nhà và hình X-quang cho thấy gói Langdon cầm theo chứa một kim tự tháp nhỏ. Bà yêu cầu Langdon giải thích về điều này nhưng Langdon vì không biết trong gói có gì nên nói là không hiểu ý Sato. Sato cho rằng Langdon cố tình che giấu và định bắt Langdon về trụ sở CIA để thẩm vấn. Tại thời điểm này Warren Bellamy, Giám đốc tòa nhà Capitol và cũng thuộc hiệp hội Freemason, xuất hiện ở phòng trong hầm, đánh gục cảnh sát trưởng và giám đốc CIA sau đó dẫn Langdon di theo lên phía trên tòa nhà Capitol.


Kẻ bắt cóc hóa ra là Mal'akh, một tên khá thông minh và xăm toàn thân mình với các hình xăm. Mục tiêu của hắn là có được nguồn sức mạnh cổ xưa. [7]. Hắn đòi Langdon giải mã các Bí ẩn cổ xưa để đổi lấy mạng Peter. Trong một vụ nổ khủng khiếp, hắn đã phá hủy phòng thí nghiệm do hiệp hội Smithson tài trợ của Tiến sĩ Katherine Solomon, em gái Peter vì với phòng thí nghiệm này, Katherine đã thử nghiệm thành công việc linh hồn người có khả năng ảnh hưởng tới vật chất. Thêm vào đó, CIA cũng đang ráo riết truy lùng Mal'akh vì An ninh quốc gia.


Trước khi xảy ra vụ nổ, Langdon đã phát hiện ra thủ phạm muốn giết Katherine và đã gọi điện cho bà, nhờ vậy mà Katherine đã may mắn thoát chết sau khi chui qua một cái lỗ nhỏ ở phòng thí nghiệm. Bà gọi cho 911 yêu cầu họ tới khám nhà Mal'akh mà bà đã từng tới đó khi bị hắn lừa là bác sĩ riêng của anh trai mình. Bà không hề biết rằng nhân viên 911 khi tới nhà đã bị Mal'akh bắt. Trước khi giết nhân viên này, hắn yêu cầu nhân viên gọi cho Katherine và đánh lừa Katherine là đã tìm thấy Peter trong nhà.


Khi Katherine gặp lại Langdon tại tòa nhà Capitol, cả hai đã cố gắng nỗ lực chạy trốn khỏi CIA nhưng sau đó đã bị bắt lại. Lúc đó Langdon đã giải mã được các bí ẩn trong kim tự tháp sử dụng các bảng giải mã cấp 4, Mal'alk đã giao hẹn gặp tại địa điểm chỉ ra sau khi đã giải mã. Sato đồng ý để Langdon, Katherine và một nhân viên CIA khác lái xe tới nhà Mal'alk để gặp Peter còn CIA tổ chức giăng bẫy bắt Mal'akh tại điểm hẹn. Tuy vậy, Mal'akh không bao giờ xuất hiện tại điểm hẹn mà thay vào đó giăng bẫy để giết nhân viên CIA và bắt Langdon và Katherine.


Mal'akh đặt Langdon vào một bình chứa nước có ô xy và Langdon tưởng mình sắp chết đuối, trong lúc đó sử dụng hết minh mẫn để giải phần cuối của mật mã bằng bảng giải mã cấp 8 của Franklin. Mal'akh sau khi có được lời giải cuối cùng đem theo Peter và để Katherine chảy máu tới chết còn Langdon vẫn chìm trong bình nước. Tuy vậy, CIA đã tới kịp thời và giải thoát cho 2 người. Langdon cũng đoán được địa điểm của Mal'akh và chỉ cho CIA.


Sử dụng các băng Video quay lén khi Mal'akh được kết nạp và từng bước leo lên cấp cao nhất của Mason, Mal'akh dọa sẽ công bố cho thế giới bằng cách email cho các phương tiện truyền thông qua điện thoại và máy tính xách tay và ép Peter phải nói ra từ bị thất lạc để xăm lên phần còn lại duy nhất ở trên đầu. Mal'akh lúc đó mới thể hiện chính mình là Zachary Solomon, con trai của Peter. Trước đó, mọi người đã tưởng Zachary chết trong một tù của Thổ Nhĩ Kỳ sau khi bị bắt vì buôn lậu ma túy.


Sau đó Zachary buộc Peter phải hiến mình vì hắn tin rằng đó là cách để có được quyền lực của Bóng tối. Peter mặc dù bị ép buộc nhưng vẫn không nỡ giết con. Lúc đó, máy bay trực thăng chở Sato sử dụng súng siêu âm để phá hủy máy tính trước khi truyền khi email được gửi xong đã vô tình văng cánh quạt vào kính và một mảnh kính đã đâm vào Zachary. Trước khi Zachary chết, Peter có nói là từ mà Zachary xăm không phải là từ đúng mà đó là cách hiểu sai.


Tuy vậy, Peter khẳng định với Langdon là từ bị thất lạc có tồn tại. Peter bịt mắt Langdon và dẫn tới một nơi mà Sato đã sắp xếp để cả hai có thể vào trong ít lâu. Khi mở mắt ra, Langdon nhìn thấy tòa nhà Capitol trước mặt và biết mình đang ở trên phòng trên đỉnh Đài tưởng niệm Washingon


Nhìn vào thành phố từ bốn cửa sổ tại đó, Langdon được biết là từ bị mất nằm dưới hàng trăm bậc thang dưới khối đá lớn dưới chân kim tự tháp. Langdon nhận ra rằng biểu tượng đó là chữ Laus Deo tiếng La tinh nghĩa là Ca ngợi Chúa. Các từ này, Langdon biết là được viết bằng chữ nhỏ ở trên chóp bằng nhôm của kim tự tháp trên đỉnh nhà tưởng niệm. Khi họ đi xuống các bậc thang, Solomon giải thích là phía dưới chính là một bản gốc của Kinh Thánh và bí mật được ẩn giấu trong những hình ảnh bình thường. Theo Kinh thánh, con người là một phần của chúa.
 
Chương 1

Chiếc thang máy hiệu Otis chất đầy du khách đang lừ lừ chạy lên trụ phía nam của Tháp Eiffel. Trong cái khoang chật cứng, một doanh nhân khắc khổ vận bộ đồ là phẳng phiu đăm đăm nhìn xuống cậu bé đứng bên cạnh.

- Trông con nhợt nhạt lắm, con trai ạ. Lẽ ra con nên ở lại bên dưới thì hơn.

- Con ổn mà… - cậu bé trả lời, cố gắng kiềm chế nỗi lo lắng của mình - Đến tầng tới, con sẽ ra.

Mình ngạt thở quá.

Người đàn ông cúi xuống gần hơn.

- Ba cứ nghĩ là con đã trị được cái chứng ấy rồi cơ đấy - ông ta âu yếm vuốt má con trai.

Mặc dù xấu hổ vì làm cha thất vọng, cậu bé vẫn không sao xua đi được tiếng ong ong trong tai.

Mình ngạt thở quá. Mình phải thoát ra khỏi cái bao diêm này.

Nhân viên điều khiển thang máy đang cam đoan gì đó về các van đẩy có khớp nối và kết cấu thép. Xa tít phía dưới họ, đường phố Paris toả ra mọi hướng.

Đến kia rồi, cậu bé tự nhủ, nghển cổ nhìn lên chỗ trả khách.

Gắng chịu đứng một chút nữa thôi.

Khi chiếc thang máy rẽ chếch lên khu vực ngắm cảnh phía trên, thân tháp bắt đầu thu hẹp, các thanh giằng đồ sộ của tháp co cụm lại thành một đường hầm thẳng đứng.

- Ba, con không nghĩ…

Đột nhiên, có tiếng ken két vang lên trên đầu họ. Khoang thang máy giật mạnh rồi nghiêng hẳn về một bên. Những sợi cáp sờn bắt đầu quấn lại quanh khoang và quẫy đùng đùng như những con rắn.

- Cậu bé vươn tay về phía cha.

- Ba ơi!

Mắt hai cha con gặp nhau trong một giây kinh hoàng.

Rồi đáy thang máy bung ra.

***

Robert Langdon vùng dậy trên chiếc ghế da mềm, choàng tỉnh khỏi giấc mơ chập chờn. Chỉ có mình anh trong khoang hành khách rộng rãi. Chiếc phản lực Falcon 2000EX đang xóc nảy do thời tiết xấu, dưới bụng nó, động cơ đôi Pratt & Whitney vẫn kêu đều đều.

- Thưa ông Langdon? - tiếng điện đàm vang lên loạt xoạt trên trần - Chúng ta đã đến chặng cuối.

Langdon ngồi thẳng dậy và nhét gọn tập bài giảng vào cặp da.

Anh đã rơi vào trạng thái mơ màng đúng lúc đang xem dở phần biểu tượng của Hội Tam điểm. Langdon ngờ rằng chính lời mời bất ngờ lúc sáng ngày của Peter Solomon đã khơi gợi giấc mơ ban nãy về người cha quá cố của anh.

Peter Solomon từng là thầy hướng dẫn của Langdon trong một thời gian dài. Là người thứ hai mình không bao giờ muốn làm thất vọng.

Nhà phúc thiện, sử gia kiêm khoa học gia 58 tuổi ấy đã che chở Langdon gần ba mươi năm về trước, và bằng nhiều cách đã lấp đầy khoảng trống do cái chết của cha anh để lại. Mặc dù giàu sang tột đỉnh và xuất thân từ một gia tộc nhiều thế lực. Solomon vẫn rất khiêm nhường và nồng hậu, như Langdon nhận thấy qua đôi mắt xám dịu dàng của ông.

Bên ngoài cửa sổ, mặt trời đã lặn, nhưng Langdon vẫn phân biệt được đường nét thanh mảnh của tháp tưởng niệm lớn nhất thế giới đang vươn lên phía chân trời như kim chỉ giờ của một chiếc đồng hồ mặt trời cổ xưa. Tháp tưởng niệm lát đá cẩm thạch cao 170 mét này là tiêu điểm ở trái tim của cả liên bang. Từ ngọn tháp ấy toả rộng ra các hướng là tấm hình hoạ chi tiết vô vàn đường phố và tượng đài.

Ở Washington D.C., chỉ không khí thôi đã toát ra một sức mạnh gần như huyền bí.

Langdon rất yêu thành phố này. Khi máy bay tiếp đất, niềm hưng phấn về những điều sắp tới bỗng trào dâng trong anh. Máy bay lướt đến một nhà ga riêng ở khu vực nào đó trong khuôn viên mênh mông của sân bay quốc tế Dulles rồi dừng hẳn lại.

Langdon thu thập hành lý, cảm ơn phi hành đoàn và rời khỏi chiếc máy bay sang trọng. Anh bước ra cầu thang gấp, cảm giác thật thoải mái trong làn không khí lạnh giá tháng Giêng.

Hít thở đi! Robert, Langdon nghĩ thầm và khoan khoái tận hưởng không gian thoáng đãng.

Sương trắng trải khắp đường băng. Langdon bước xuống nền nhựa mù sương mà tưởng như mình đang tiến vào một khu đầm lầy.

- Xin chào! Xin chào! - ai đó cất tiếng gọi từ bên kia đường băng, giọng Ăng-lê đơn điệu - Giáo sư Langdon phải không ạ?

Langdon trông lên. Một phụ nữ trung tuổi đeo phù hiệu và cầm cặp hồ sơ đang vội vã tiến lại phía anh, mái tóc vàng loăn quăn xòe ra dưới chiếc mũ len rất kiểu cách. Langdon tới gần, người phụ nữ hân hoan vẫy tay.

- Chào mừng ông tới Washington!

- Cảm ơn cô - Langdon mỉm cười.

- Tôi là Pam, thuộc tổ dịch vụ hành khách - Người phụ nữ nói với vẻ hồ hởi không giấu giếm - Mời ông đi theo tôi, xe của ông đang đợi sẵn.

Langdon băng qua đường, theo người phụ nữ đi về phía bãi chờ xe, quanh đấy la liệt những chiếc phi cơ riêng bóng lộn. Chỗ đậu taxi của đám người giàu có và nổi tiếng.

- Tôi thật không muốn làm phiền ông, thưa Giáo sư, - người phụ nữ nói, nghe có phần bẽn lẽn - nhưng ông chính là Robert Langdon, từng viết nhiều cuốn sách về các biểu tượng và tôn giáo, phải không ạ?

Langdon lưỡng lự đôi chút rồi gật đầu.

- Tôi đoán chẳng sai mà! - Pam nói, vẻ rạng rỡ - Nhóm đọc sách của tôi đã đọc cuốn sách về tính nữ thiêng liêng và nhà thờ của ông đấy! Cuốn sách đã làm dấy lên vô khối điều tiếng! Ông thích vẽ đường cho hươu chạy thật!

Langdon mỉm cười.

- Tôi không định gây ra tai tiếng gì đâu.

Dường như cảm nhận được rằng Langdon không có hứng thảo luận về tác phẩm của mình, người phụ nữ bèn nói:

- Xin lỗi vì đã bắt ông nghe những lời huyên thuyên. Tôi biết, chắc ông phát mệt vì cứ bị người ta nhận ra… nhưng đó là lỗi của chính ông - Pam hài hước ra dấu về phục sức của Langdon - Bộ đồng phục này tố cáo ông đấy.

Đồng phục này ư? Langdon liếc xuống quần áo của mình. Anh đang mặc chiếc áo len cổ lọ màu than mọi khi, cùng với áo khoác tuýt hiệu Harris, quần ka ki và đôi giày lười da mềm mà các sinh viên hay mang… chính là kiểu phục trang chuẩn mực của anh khi lên lớp, đi lưu giảng, chụp ảnh tác giả sách hay tham gia các hoạt động xã hội.

Người phụ nữ bật cười:

- Cái áo len cổ lọ quá lỗi mốt rồi. Trông ông sẽ bảnh bao hơn nếu đeo cà vạt!

Không đời nào, Langdon nghĩ bụng. Khác gì mấy cái thòng lọng.

Thời Langdon còn ở Học viện Phillips Exeter, nhà trường yêu cầu sinh viên phải đeo cà vạt sáu ngày một tuần và mặc dù ông hiệu trưởng lý giải rất lãng mạn rằng cà vạt có nguồn gốc từ thời các nhà hùng biện La Mã quàng lụa fascalia để giữ ấm dây thanh quản, nhưng Langdon thừa biết, về mặt từ nguyên, tiền thân của cà vạt là thứ khăn quàng cổ thắt nút mà một nhóm lính đánh thuê hung bạo người “Croat” thường đeo khi lâm trận. Ngày nay, các chiến binh văn phòng hiện đại đeo loại phụ kiện cổ xưa này với hy vọng đe doạ kẻ thù của họ trong các trận chiến họp hành thường nhật.

- Rất cảm ơn lời khuyên của cô - Langdon nói và cười khùng khục - Sắp tới tôi sẽ tìm một chiếc cà vạt vậy.

Bấy giờ, một người đàn ông trông rất chuyên nghiệp vận bộ đồ sẫm màu chui ra khỏi chiếc Lincoln Town Car bóng loáng đỗ gần nhà ga và giơ ngón tay lên.

- Ông Langdon phải không? Tôi là Chárles, hãng xe Beltway Limousine - Anh ta mở cửa bên - Chúc ông một buổi tối tốt lành. Chào mừng ông tới Washington.

Langdon đưa tiền boa cho Pam để cảm ơn thái độ niềm nở của cô rồi bước lên khoang xe sang trọng của chiếc Town Car. Người lái xe chỉ cho anh bảng điều khiển nhiệt độ, nước đóng chai, và giỏ bánh xốp nướng còn nóng hổi. Mấy giây sau, Langdon đã lao vun vút trên một tuyến đường riêng. Ra là giới thương lưu người ta sống kiểu này đây.

Khi lái xe vào đường Windsock, người tài xế kiểm tra lại tên hành khách của mình rồi gọi một cú điện ngắn.

- Beltway Limousine đây, - anh ta nói với giọng rất chuyên nghiệp - Tôi được yêu cầu xác nhận khi hành khách tới nơi - anh ta ngừng lại - Vâng, thưa ngài. Ông Langdon khách của ngài đã đến. Tôi sẽ đưa ông ấy tới nhà Quốc hội lúc 7 giờ tối. Rất hân hạnh, thưa ngài - anh ta gác máy.

Langdon mỉm cười. Không thể chê vào đâu được. Chú ý đến từng chi tiết là một trong những tư chất đáng nói nhất của Peter Solomon, nhờ nó mà ông dễ dàng điều khiển được quyền lực lớn lao của mình.

Vài tỷ đô la trong nhà băng cũng chẳng nhằm nhò gì.

Langdon ổn định tư thế trong chiếc ghế da sang trọng và nhắm mắt lại trong khi tiếng ồn ào của sân bay loãng dần phía sau. Còn nửa tiếng đồng hồ đi xe nữa mới đến toà nhà Quốc hội Hoa Kỳ, và anh rất mừng vì được tự do trong khoảng thời gian ấy để sắp xếp lại những suy nghĩ của mình. Ngày hôm nay, mọi chuyện diễn ra quá nhanh, tới giờ Langdon mới rảnh trí để suy nghĩ một cách nghiêm túc về buổi tối lạ lùng đang chờ đợi mình.

Xuất hiện dưới lốt bí mật. Langdon nghĩ, thích thú với viễn cảnh đó.

Cách toà nhà Quốc hội mười dặm, có một nhân vật đang sốt ruột chuẩn bị để đón tiếp anh
 
Chương 2

Kẻ tụ xưng là Mal’akh(1) nhấn mũi kim vào cái đầu cạo nhẵn thín của mình, đoạn thở một hơi dài khoan khoái khi cái vật nhọn ấy chọc vào rồi lại rút ra khỏi d.a thịt gã. Tiếng thiết bị điện chạy ro ro khe khẽ quả thật cũng dễ nghiền… nhất là lúc cây kim ăn sâu vào lớp hạ bì và để lại chút phẩm nhuộm.

Ta sẽ là một kiệt tác.

Nhân loại xăm mình chưa bao giờ là vì cái đẹp. Mục đích thật ra là để thay đổi. Từ các thày tế người Nubia(2) da rạch nhằng nhịt khoảng 2000 năm trước Công nguyên tới các thày dòng xăm trổ đầy mình chuyên thờ Cybele ở La Mã cổ đại hay dân Maori hiện đại với những vết sẹo moko, con người luôn xăm mình như một cách tự hiến dâng phần nào cơ thể, chịu đựng nỗi đau thân xác của việc làm đẹp và thể hiện những thay đổi.

Bất chấp lời cảnh báo đáng sợ trong Sách Leviticus/ Levificus 19:28 ngăn cấm việc ghi dấu lên d.a thịt ai đó, xăm mình vẫn trở thành nghi lễ trưởng thành cho hàng triệu người trong thời đại ngày nay - từ các cô cậu choai choai mặt mũi sáng sủa đến con nghiện ma tuý và những bà nội trợ vùng ngoại thành.

Hành động xăm hình lên da là một tuyên ngôn về sự thay đổi quyền lực, một lời công bố với thế giới rằng: Ta nắm quyền điều khiển thân xác ta. Việc biến đổi thể chất mang lại cảm giác mê hoặc đến nỗi hàng triệu kẻ đã chạy theo đủ mọi cách thức thay đổi d.a thịt, nào là phẫu thuật thẩm mỹ, xỏ khuyên khắp người, nào là thể dục thể hình hay bơm chất tạo cơ bắp… thậm chí còn thay đổi thói quen ăn uống và chuyển đổi giới tính. Về mặt tinh thần, con người muốn khao khát được làm chủ cái vỏ xác phàm của mình.

Chiếc đồng hồ quả lắc thừa kế tử tổ phụ gõ lên một tiếng, Mal’akh ngước mắt nhìn. 6 giờ 30 phút tối. Buông dụng cụ xuống, gã khoác tấm áo choàng bằng lụa Kiryu quanh cơ thể trần như nhộng cao ngót 1m90 của mình và bước xuống sảnh. Hương thơm cay nồng của thuốc nhuộm da trộn với mùi khói từ những cây nến sáp ong gã thắp để khử trùng kim tạo thành một thứ không khí thật nặng nề trong toà nhà bừa bộn. Gã thanh niên cao lớn bước xuống hành lang, băng qua những món đồ cổ Italia vô giá - một bức tranh khắc của Piranesi, một cái ghế Savonarola, một ngọn đèn dầu Bugarini bằng bạc.

Lúc đi ngang qua khung cửa sổ trải suốt tử trần xuống tận nền nhà, gã đưa mắt ngắm đường chân trời ở phía xa. Phần mái vòm sáng ngời của nhà Quốc hội nổi lên rực rỡ trên nền trời đông tối thẫm, toát ra một sức mạnh uy nghiêm.

Kia chính là nơi cất giấu, gã nghĩ thầm. Người ta chôn nó đâu đó bên ấy.

Rất ít người biết rằng nó tồn tại… và số người ý thức được sức mạnh kinh khủng của nó cũng như cách thức khéo léo cất giấu nó thì càng ít hơn. Cho đến hôm nay, nó vẫn là bí mật lớn nhất của đất nước này, và cái nhóm ít ỏi nắm rõ sự thật đó đã giấu kín nó dưới một bức màn dày biểu tượng, huyền thoại và ẩn ý.

Nhưng giờ họ đã mở rộng cửa cho ta vào! - Mal’akh nghĩ.

Ba tuần trước, trong một nghi thức bí mật với sự chứng kiến của những nhân vật quyền thế nhất nước Mỹ, Mal’akh đã leo lên cấp 33, cấp tối cao của hội ái hữu lâu đời nhất còn sót lại trên thế giới. Mặc dù Mal’akh đã có địa vị mới nhưng các tín hữu vẫn chưa hề chia sẻ điều gì với gã, và cũng chẳng bao giờ họ chia sẻ, gã biết rõ như vậy.

Mọi chuyện không đơn giản như vậy. Cái gì cũng có tôn ti trật tự của nó, trong đẳng cấp luôn còn đẳng cấp. Thậm chí phải chờ đợi hàng năm trời nữa, có khi Mal’akh vẫn không giành được lòng tin tuyệt đối của họ.

May thay, gã sẽ khám phá ra bí mật sâu xa kia mà chẳng cần đến lòng tin ấy.

Vào hội là đạt được mục đích rồi.

Được tiếp sức bởi viễn cảnh sắp đến, gã sải bước về phía phòng ngủ. Khắp nhà vang vọng giai điệu quái đản của một đĩa nhạc rất hiếm ghi âm bản “Khúc an hồn” của Verdi - một lời gợi nhớ kiếp trước, hiện đang đến phần “ánh sáng vĩnh hằng” thể hiện qua giọng nữ cao eo éo. Mal’akh bấm điều khiển từ xa chuyển sang phần “Ngày phẫn nộ”. Giữa tiếng trống giữ nhịp chói tai và những quãng năm song song, gã sải bước chạy lên cầu thang cẩm thạch, chiếc áo choàng bay tung theo nhịp di chuyển của đôi chân gân guốc.

Trong lúc chạy, Mal’akh thấy cái dạ dày trống rỗng của mình quặn lên. Đã hai ngày nay, gã thực hiện phương pháp chay tịnh truyền thống là chỉ uống nước mà không ăn gì. Khi bình minh lên, cơn đói của mày sẽ được đền đáp, cùng với sự đau đớn, gã tự nhủ.

Mal’akh bước vào thánh điện phòng ngủ của mình và khoá chặt cửa lại sau lưng, thái độ hết sức sùng kính. Trên đường tiến về phía khu vực thay đồ, gã dừng lại, cảm nhận được bóng mình trong tấm gương lớn mạ vàng. Không cưỡng nổi, gã quay người và đứng đối diện với hình phản chiếu của bản thân. Bằng cử động chậm rãi như đang mở một món quà vô giá, Mal’akh cởi áo choàng để lộ ra cơ thể trần như nhộng. Những gì trông thấy làm gã sợ sệt.

Ta đúng là một kiệt tác.

Thân hình to cao của gã được cạo nhẵn nhụi. Trước tiên, gã hạ tầm mắt xuống hình xăm vảy và móng vuốt của một con diều hâu trên hai mu bàn chân. Ngược lên trên là đôi chân cơ bắp với hình xăm của những cây cột chạm khắc - chân trái là hoa văn xoắn ốc còn chân phải là những sọc thẳng đứng. Chẳng khác gì cặp cột Boaz và Jachin(4). Phần bẹn và bụng dưới trông y như một vòm cung có trang trí, lên cao hơn là bộ ngực vạm vỡ vẽ một con phượng hoàng hai đầu, mỗi đầu ngoảnh ra một phía với con mắt chính là núm vú của Mal’akh. Hai vai, cổ, mặt và cái đầu cạo trọc lốc của gã đều phủ kín các hình vẽ công phu mô tả những biểu tượng và dấu triện cổ.

Ta là một tác phẩm… một biểu tượng đang tiến hoá.

Mười tám tiếng trước, có một kẻ người trần mắt thịt nhìn thấy tấm thân loã thể của Mal’akh. Kẻ đó đã thét lên sợ hãi.

- Lạy Chúa, ngươi đúng là quỷ sứ.

- Nếu ông cho là như vậy thì đúng như vậy - Mal’akh đáp. Cũng như người xưa, gã hiểu rằng thiên thần và ác quỷ vốn dĩ giống nhau, hai nguyên mẫu có thể hoán đổi cho nhau, vấn đề chỉ là góc nhìn mà thôi: trong trận đấu, thiên thần hộ mệnh giúp con người chống lại kẻ thù sẽ bị chính những kẻ thù đó coi là quỷ sứ.

Mal’akh hơi cúi đầu xuống để nhìn phần nào đỉnh đầu mình. Ở đó bên trong một cái quầng như vương miện là một vòng da trơn xanh xao tròn nhỏ, không có hình xăm. Khoảng trống chưa vẽ được gìn giữ rất cẩn thận này là phần d.a thịt nguyên vẹn duy nhất còn lại của Mal’akh. Khoảng trống thiêng liêng ấy đã kiên nhẫn chờ đợi… và sẽ được phủ kín vào đêm nay. Mặc dù chưa rõ còn cần những gì để hoàn thành kiệt tác của mình, Mal’akh vẫn biết rằng thời khắc ấy đang gần đến.

Sung sướng với hình ảnh bản thân và cảm thấy quyền lực của mình tăng lên mạnh mẽ, gã khép áo choàng lại rồi tiến về phía cửa sổ, đăm đăm nhìn ra thành phố bí ẩn bên ngoài. Nó được chôn giấu đâu đó đằng kia.

Sau đó, Mal’akh đi tới bàn trang điểm, quay về với nhiệm vụ trước mắt. Gã cẩn thận thoa một lớp phấn hoá trang lên mặt, da đầu và cổ cho tới khi những hình xăm biến mất. Rồi gã mặc bộ quần áo đặc biệt và vài thứ phục sức đã lựa chọn kỹ càng cho buổi tối hôm nay. Xong xuôi Mal’akh tự soát lại mình trong gương. Hết sức hài lòng, gã đưa tay xoa lên lớp da đầu nhẵn thín và mỉm cười.

Nó ngoài kia, gã nghĩ, và đêm nay, có một người sẽ giúp ta tìm thấy nó.

Lúc bước ra khỏi nhà. Mal’akh hoàn toàn sẵn sàng cho một sự kiện sắp làm chấn động cả toà nhà Quốc hội Hoa Kỳ. Gã đã cố công gắng sức chuẩn bị mọi điều cần thiết cho buổi tối hôm nay.

Và rốt cuộc, giờ đây, con tốt cuối cùng của gã đã tham gia vào ván cờ.

Chú thích:

(1) Mal’akh là thiên thần truyền tin, thường có một đôi cánh, xuất hiện nhiều trong Kinh thánh, văn học và nghi thức tế lễ truyền thống Do Thái. Trong tiếng Do Thái hiện đại, malákh là một từ chung để chỉ các thiên thần - ND.

(2) Nubia là vùng đất ở miền Nam Ai Cập, dọc sông Nile và ở miền Bắc Sudan. Thời cổ đại, đây là một vương quốc độc lập - ND.

(3) Sách Leviticus 19:28: Chớ vì kẻ chết mà cắt thịt mình, chớ xăm vẽ trên mình: Ta là Đức Jehovah.

Leviticus là quyển thứ ba trong Kinh thánh Do Thái và Cựu ước, có nghĩa là “cuốn sách của các thầy Levi”. Về nội dung, Leviticus viết rất cụ thể những lề luật Israel phải tuân giữ để cụ thể hoá việc làm “dân riêng” của Thiên Chúa.

Trọng tâm của quyển sách này cũng nói về vai trò của hàng tư tế (các thầy Levi) trong dân tộc Israel nên người ta đã lấy tên Levi để đặt cho nó - ND.

(4) Boaz và Jachin, hai cây cột bằng đồng ở cổng vòm Đền thờ Solomon tại Jerusalem. Cột Boaz đứng ở bên trái và cột Jachin ở bên phải. Cặp cột này có kích thước dày gần 1,8 mét và cao 8,2 mét. Phần đầu cột cao 2.4 mét trên đỉnh có trang trí hoa văn hoa huệ tây - ND
 
Chương 3

Đang bạn xem lại mấy trang ghi chú, Robert Langdon chợt nghe thấy tiếng lốp xe nghiến mạnh hơn xuống mặt đường. Anh ngước lên, ngạc nhiên khi nhận ra họ đã tới quãng nào.

Đến cầu Tưởng niệm(5) rồi cơ à?

Langdon buông tập ghi chú xuống và đăm đăm ngắm dòng Potomac hiền hoà chảy qua bên dưới. Sương dày buông là là trên mặt nước. Foggy Bottom(6) là một nơi đúng như cái tên của nó, và có vẻ là một địa điểm khá kỳ cục để xây dựng thủ đô của cả nước. Tân Thế giới có bao nhiêu nơi chốn, mà các bậc tiền bối lại chọn vùng đầm lầy ẩm ướt ven sông này để đặt nền móng cho xã hội không tưởng của họ.

Langdon liếc mắt sang trái, nhìn qua hồ Tidal Basin sang phía bóng tròn duyên dáng của Đài tưởng niệm Jeherson hay đền Pantheon(7) của nước Mỹ như nhiều người vẫn gọi. Ngay phía trước xe, Đài tưởng niệm Lincoln vươn cao với nét khắc khổ cứng nhắc, những đường thẳng trực giao gợi nhớ Parthenon(8) cổ đại ở Athens. Xa hơn nữa là khu trung tâm của thành phố - nơi có chóp nhọn mà Langdon ngó thấy từ trên không. Cảm hứng kiến trúc của nó rất xa xưa, xa xưa hơn cả Đế chế La Mã hoặc Hy Lạp.

Đó là Đài tưởng niệm Washington - tháp Ai Cập của nước Mỹ.

Ngọn tháp bằng đá nguyên khối lù lù hiện ra, nổi bật trên nền trời như cột buồm chính của một con tàu. Từ góc nhìn nghiêng của Langdon, ngọn tháp đêm nay trông như đang lơ lửng… nó tròng trành trên nền trời ảm đạm tựa hồ đang trôi nổi ở một vùng biển động. Langdon cảm thấy mình cũng chống chếnh theo. Chuyến viếng thăm Washington lần này hoàn toàn bất ngờ. Lúc thức giấc mình cứ tưởng sẽ có một Chủ nhật yên tĩnhở nhà… còn giờ thì mình chỉ cách điện Capitol chừng vài phút đi đường.

Sáng nay, vào hồi 4 giờ 45 phút, như thường lệ, Langdon bắt đầu một ngày mới bằng việc lao mình xuống làn nước phẳng lặng, bơi liền năm mươi vòng trong bể bơi Harvard vắng tanh. Thể lực của anh không bằng dạo còn là vận động viên nghiệp dư môn polo dưới nước ở đại học, nhưng anh vẫn gọn gàng và dẻo dai, một điểm rất đáng ngưỡng mộ đối với một người đàn ông đã vào độ tứ tuần. Chỉ khác là giờ đây anh phải nỗ lực hết sức mình để duy trì vóc dáng ấy.

Khoảng 6 giờ, Langdon về đến nhà, bắt đầu nghi lễ buổi sớm của mình bằng việc tự tay nghiền cà phê Sumatra và tận hưởng mùi thơm kỳ lạ ngập tràn gian bếp. Anh rất ngạc nhiên khi thấy đèn đỏ nhấp nháy trên màn hình thư thoại. Ai lại gọi tới vào lúc 6 giờ sáng Chủ nhật chứ? Anh nhấn nút nghe tin nhắn.

- Chúc một buổi sáng tốt lành, Giáo sư Langdon. Tôi vô cùng xin lỗi vì gọi vào lúc mới bảnh mắt thế này - Giọng nói nhã nhặn mang âm sắc miền nam ngập ngừng thấy rõ - Tôi là Anthony Jelbart, trợ lý của Peter Solomon. Ông Solomon có nói Giáo sư là người quen dậy sớm… ông đang cố liên lạc với Giáo sư trong sáng nay. Khi nào nhận được tin nhắn này, Giáo sư vui lòng gọi trực tiếp cho ông ấy được không? Chắc Giáo sư đã biết đường dây riêng mới của ông ấy rồi, còn nếu chưa biết thì xin thông báo đó là số 202-329-5746.

Langdon đâm lo cho ông bạn vong niên. Peter Solomon là người có giáo dục và lịch sự hết chỗ chê, chắc chắn không gọi đến vào rạng sáng Chủ nhật trừ phi có chuyện gì đó rất không ổn.

Langdon buông chỗ cà phê nghiền dở và vội vã tới phòng làm việc của mình để gọi lại.

Hy vọng ông ấy không sao.

Peter Solomon là một người bạn, người thầy và mặc dù chỉ lớn hơn Langdon mười hai tuổi, với anh, ông còn là một người cha ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên của họ tại Đại học Princeton. Hồi học năm thứ hai, Langdon được mời tham dự một buổi diễn thuyết tối của sử gia kiêm nhà phúc thiện lừng danh này. Solomon đã nói chuyện với niềm say mê đầy sức lan toả, trình bày một cách nhìn rất mới lạ về ký hiệu học và lịch sử hình thành của nó, từ đó khơi dậy trong Langdon hứng thú trọn đời dành cho các biểu tượng. Tuy nhiên, không phải sự lỗi lạc mà chính vẻ khiêm nhường trong đôi mắt xám dịu dàng của Peter Solomon đã giúp Langdon có đủ dũng khí để viết cho ông một lá thư cảm ơn. Chàng sinh viên năm thứ hai chẳng bao giờ dám mơ tưởng rằng Peter Solomon, một trong những trí thức trẻ tuổi giàu có và hấp dẫn nhất nước Mỹ, lại viết thư trả lời. Nhưng Solomon đã làm đúng như thế, và đó là sự khởi đầu cho một tình bạn đẹp đẽ.

Peter Solomon là một học giả nổi tiếng, có phong thái giản dị trái ngược hẳn với gia thế huy hoàng của mình. Ông xuất thân từ gia tộc Solomon giàu sang, một dòng dõi mà nhiều tên tuổi xuất hiện trên các công trình và trường đại học ở khắp đất nước này. Tương tự dòng họ Rothschild bên châu u, cái tên Solomon ở Mỹ luôn nhuốm đầy màu sắc kỳ bí của một thế gia vọng tộc và của những thành công. Peter kế thừa danh vọng và sự sản từ người cha quá cố khi còn rất trẻ, giờ đây ở tuổi 58, ông đã kinh qua không ít vị trí quyền thế. Hiện ông là người đứng đầu Viện Smithsonian. Đôi lúc, Langdon bỡn Peter rằng tì vết duy nhất trên lý lịch sáng chói của ông chính là tấm bằng tốt nghiệp một trường đại học hạng hai - trường Yale.

Vừa bước vào phòng làm việc, Langdon đã nhận ra có một bức fax của Peter.

Peter Solomon

VĂN PHÒNG TÔNG THƯ KÝ VIỆN SMITHSONIAN

Chúc một buổi sáng tốt lành, Robert, Tôi cần nói chuyện với cậu ngay.

Trong sáng nay hãy gọi cho tôi theo số 202-329-5746, càng sớm càng tốt.

Peter

Langdon lập tức quay số, ngồi xuống bên chiếc bàn gỗ sồi chạm trổ tinh xảo để đợi tín hiệu trả lời.

- Văn phòng Peter Solomon - giọng nói quen thuộc của viên trợ lý vang lên - Tôi là Anthony. Tôi giúp gì được quý vị?

- Chào anh, tôi là Robert Langdon đây. Sớm nay anh có gửi cho tôi một tin nhắn…

- A vâng thưa Giáo sư Langdon! - Giọng chàng trai ở đầu dây bên kia như giãn ra - Cảm ơn Giáo sư đã gọi lại nhanh như vậy. Ông Solomon rất muốn nói chuyện với Giáo sư. Để tôi báo cho ông ấy biết rằng Giáo sư đang nghe máy. Giáo sư vui lòng chờ một lát được chứ?

- Được!

Trong lúc đợi Solomon đến nghe máy, Langdon cúi nhìn cái tên Peter ở trên cùng tờ giấy in tiêu đề của Viện Smithsonian và bất giác mỉm cười. ít thấy ai vô công rồi nghề trong gia tộc Solomon. Cây phả hệ nhà Peter sản sinh ra toàn những tên tuổi, từ các doanh nhân giàu có, các chính khách nhiều ảnh hưởng đến vô vàn khoa học gia trứ danh, thậm chí một vài người còn có chân trong Hiệp hội Hoàng gia London(9). Cô em gái Katherine, người thân duy nhất còn lại của Peter hiển nhiên cũng được thừa hưởng gene khoa học, bởi vì hiện thời cô là nhân vật hàng đầu trong một ngành học thuật mới mẻ gọi là Lý trí học.

Mình mù tịt về thể loại ấy, Langdon nghĩ bụng, thích thú nhớ lại một bữa tiệc ở tư gia Peter hồi năm ngoái, hôm ấy Katherine đã ra sức giải thích cho anh hiểu thế nào Lý trí học, anh lắng nghe rất chăm chú rồi nhận xét:

- Nghe giống phép thuật hơn là khoa học!

Katherine nháy mắt dí dỏm:

- Hai lĩnh vực đó gần gũi nhau hơn anh tưởng đấy, Robert ạ.

Lúc này, viên trợ lý của Solomon đã trở lại đầu dây.

- Tôi xin lỗi, ông Solomon còn đang cố kết thúc một cuộc họp qua điện thoại. Sáng nay, mọi việc ở đây có phần lộn xộn.

- Không sao. Tôi gọi lại sau cũng được.

- Thực ra, Peter có dặn tôi giải thích cho Giáo sư biết lý do của lần liên lạc này. Giáo sư bằng lòng nghe tôi nói chứ ạ?

- Tất nhiên.

Viên trợ lý hít một hơi thật sâu.

- Chắc Giáo sư cũng biết, hằng năm, ban Giám đốc Smithsonian thường tổ chức một bữa tiệc riêng tư tại Washington để tri ân những người đã nhiệt thành ủng hộ Viện. Đối tượng tham dự đều thuộc giới thượng lưu của đất nước.

Langdon thừa hiểu với một tài khoản ngân hàng có quá ít số 0, anh khó lòng được coi là một nhân vật thượng lưu, nhưng biết đâu Solomon định mời anh tham dự thì sao.

- Năm nay, như thường lệ - viên trợ lý tiếp tục - trước dạ tiệc sẽ có một bài diễn văn quan trọng. Chúng tôi may mắn đăng ký được Đại sảnh Tượng đài Danh nhân Quốc gia để trình bày bài diễn văn đó.

Địa điểm xịn nhất thủ đô còn gì, Langdon nghĩ thầm, nhớ lại một buổi diễn giảng chính trị từng tham dự tại đại sảnh hình bán nguyệt đầy ấn tượng ấy. Thật khó lòng quên được 500 chiếc ghế gấp bố trí thành một vòng cung hoàn hảo, xung quanh là 38 pho tượng cỡ bằng người thật, trong căn phòng mà Hạ viện từng sử dụng làm phòng họp.

- Vấn đề là thế này - viên trợ lý nói - Diễn giả bị ốm và vừa mới thông báo cho chúng tôi biết rằng bà ấy không thể diễn thuyết được - Anh ta ngừng lời vẻ lúng túng - Nghĩa là chúng tôi đang xoay xở tìm diễn giả thay thế, và ông Solomon hy vọng Giáo sư bằng lòng đảm nhiệm vai trò ấy.

Langdon ngạc nhiên lặp lại.

- Tôi ư? - Anh hoàn toàn không ngờ đến tình huống này - Tôi dám chắc Peter có thể tìm được người thế chân tốt hơn nhiều.

- Thật khiêm nhường quá! Giáo sư chính là lựa chọn đầu tiên của Peter Solomon đấy ạ. Các khách mời của Viện sẽ rất vui nếu được nghe Giáo sư diễn thuyết. Để đỡ công chuẩn bị, ông Solomon cho rằng Giáo sư có thể sử dụng lại bài giảng mà Giáo sư đã trình bày trên Bookspan TV cách đây vài năm. Ông ấy bảo nội dung bài giảng đề cập đến tính biểu tượng trong kiến trúc ở thủ đô chúng ta. Nghe có vẻ thích hợp lắm.

Langdon ngần ngừ.

- Theo tôi nhớ thì bài diễn thuyết đó liên quan đến lịch sử xây dựng Hội Tam điểm nhiều hơn là…

- Chính xác! Chắc Giáo sư biết Peter Solomon là một hội viên Tam điểm, và rất nhiều bạn bè ông ấy đến dự tiệc lần này cũng thế. Tôi tin rằng họ sẽ ưa thích chủ đề của Giáo sư.

Quả thực công việc khá dễ dàng. Langdon luôn giữ lại bản thảo của tất cả các buổi nói chuyện mà anh từng thực hiện.

- Tôi cho rằng tôi cần phải xem xét đã. Sự kiện sẽ diễn ra hôm nào nhỉ?

Viên trợ lý hắng giọng, nghe chừng bối rối…

- Chà, thật tình thì, đúng tối nay.

Langdon bật cười vang.

- Tối nay à?

- Chính vì vậy mà sáng nay mọi việc ở đây cứ nháo nhào cả lên. Viện Smithsonian đang rơi vào tình thế nước sởi lửa bỏng… - Viên trợ lý nói vội vã hơn - ông Solomon sẵn sàng cho phi cơ riêng tới Boston đón Giáo sư. Chuyến bay chỉ mất một tiếng, và Giáo sư sẽ trở lại nhà trước nửa đêm. Chắc Giáo sư đã rất quen với ga hàng không tư nhân của Sân bay Logan ở Boston rồi phải không?

- Phải, - Langdon miễn cưỡng thừa nhận. Chẳng trách Peter luôn thành công.

- Tuyệt quá! Vậy Giáo sư sẽ ra chỗ máy bay lúc… xem nào, 5 giờ được không?

- Các vị đâu có để cho tôi nhiều lựa chọn, - Langdon cười.

- Tôi chỉ muốn làm ông Solomon vui vẻ thôi.

Peter luôn biết cách khiến người ta dốc sức vì mình. Langdon cân nhắc một lúc lâu, và thấy rằng chẳng thể nào từ chối được.

- Thôi được rồi. Nhắn với Peter rằng tôi nhận lời.

- Tuyệt vời! - viên trợ lý thốt lên, thực sự trút được gánh nặng. Anh ta báo cho Langdon số hiệu máy bay và vài thông tin khác.

Gác máy xong, Langdon tự hỏi không biết có ai từ chối nổi Peter Solomon điều gì chưa.

Anh quay trở lại với món đồ uống và múc thêm hạt cà phê vào máy xay. Một chút caffeine nữa cho buổi sáng, anh nghĩ thầm. Hôm nay sẽ là một ngày rất dài.

Chú thích:

(5) Cầu tưởng niệm, tên tiếng Anh là Arlington Memorial Bridge, nối liền đảo Columbia với Đài tưởng niệm Lincoln tại Washington D.C. ngang qua sông Potomac. Đầu phía đông của cầu là rìa phía tây của Công viên Quốc gia, gồm Công viên West Potomac và Vườn Hiến pháp. Đầu phía tây của cầu chạy tới Nghĩa trang Quốc gia Arlington, Virginia - ND.

(6) Đáy Sương mù - ND.

(7) Đền Pantheon là một công trình ở Rome, nguyên thuỷ được xây làm điện thờ tất cả các thần của La Mã cổ đại, và được xây lại vào đầu thế kỷ thứ II sau Công nguyên - ND.

(8) Parthenon là ngôi đền bằng đá cẩm thạch trắng thờ thần Athena, được xây dựng vào thế kỷ V trước Công nguyên ở Acropolis. Đây là công trình xây dựng nổi tiếng nhất còn lại của Hy Lạp cổ đại. Tên của đền Parthenon có nguồn gốc từ bức tượng Athena Parthenos bằng ngà voi và vàng ở căn phòng phía Đông công trình. Tên gọi cho Athena là parthenos, có nghĩa là vị nữ thần vẫn còn trinh nguyên - ND.

(9) Hiệp hội Hoàng gia London về Nâng cao Kiến thức Tự nhiên, gọi tắt là Hiệp hội Hoàng gia, là một tổ chức học thuật khoa học được thành lập năm 1660 và được coi là tổ chức lâu đời nhất theo hình thức này hiện vẫn còn tồn tại. Nó cũng được xem là Viện Khoa học Anh quốc - ND.
 
Chương 4

Điện Capitol hay Toà nhà Quốc hội Hoa Kỳ, vươn lên bề thế ở đầu phía đông Công viên Quốc gia, trên một khu đất bằng được tôn cao mà Kiến trúc sư cảnh quan Pierre L’Enfant từng mô tả là “nền móng sẵn sàng cho một đài kỷ niệm”. Vô cùng đồ sộ với chiều dài khoảng 229 mét, chiều rộng 107 mét, bao phủ hơn 16 mẫu mặt sàn và có tới 541 phòng, toà nhà được xây dựng tỉ mỉ đến chừng chi tiết theo phong cách kiến trúc tân cổ điển nhằm mô phỏng sự huy hoàng của La Mã cổ đại, nơi có nhiều ý tưởng tạo nguồn cảm hứng cho những người sáng lập nước Mỹ trong việc thiết lập luật pháp và văn hoá của nền cộng hoà mới.

Dưới lòng đất, sâu trong trung tâm du khách mới hoàn thiện, người ta vừa lập một trạm kiểm tra an ninh ra vào Điện Capitol, bên trên là mái kính rất lộng lẫy, chẳng khác gì phần khung tranh mà nội dung bên trong là vòm Điện. Một vị khách nam đang tiến đến gần trạm. Alfonso Nunez, nhân viên mới vào làm thận trọng quan sát anh ta: Người đàn ông nọ đã nấn ná trong sảnh được một lúc, gắng kết thúc cho xong một cuộc điện đàm trước khi bước vào toà nhà. Đầu anh ta cạo nhẵn thín, tay phải quấn băng choàng qua cổ, bước chân hơi khập khiễng. Trông chiếc áo khoác thuỷ quân rách rưới và cái đầu trọc lốc, Nunez đoán vị khách này xuất thân từ quân ngũ. Những người đã từng phục vụ trong lực lượng vũ trang Hoa Kỳ là diện khách thường xuyên nhất của Washington.

- Chúc ông một buổi tối tốt lành, - Nunez lên tiếng, theo đúng quy định chào hỏi dành cho các vị khách nam giới đến tham quan một mình.

- Chào anh, - vị khách đáp, đưa mắt nhìn quanh lối vào gần như vắng tanh - Một buổi tối yên tĩnh quá nhỉ!

- Đang diễn ra trận đấu sống còn của NPC mà. Tối nay mọi người đều mải xem những anh chàng áo đỏ rồi - Nunez đáp, thầm ước giờ này mình cũng được ngồi xem như vậy, nhưng đây là tháng làm việc đầu tiên của anh, và anh lại gặp đúng phiên trực - Xin hãy bỏ mọi đồ vật bằng kim loại ra khay.

Trong khi vị khách dùng bàn tay lành lặn rờ rẫm moi hết các túi áo khoác của mình, Nunez quan sát anh ta rất kỹ. Theo bản năng, con người thường ưu tiên chiếu cố cho những đồng loại bị thương và tàn tật nhưng Nunez đã được huấn luyện để biết cách gạt bỏ chính bản năng đó.

Vị khách moi từ trong túi ra ít xu lẻ, chìa khoá, và mấy chiếc điện thoại di động. Trong khi chờ đợi, Nunez đưa mắt nhìn bàn tay bị thương của người đàn ông, nó được quấn kín dưới nhiều lớp băng rất dày.

- Bị bong gân à? - Anh hỏi.

Gã trọc gật đầu.

- Trượt ngã trên băng. Tuần trước. Vẫn đau chết cha?

- Rất lấy làm tiếc cho ông. Xin mời bước qua đây.

Vị khách tập tễnh bước qua máy dò, cỗ máy kêu lên kinh ỏi.

Vị khách cau mày.

- Biết ngay mà. Tôi vẫn đang đeo nhẫn dưới lớp băng gạc này.

Ngón tay tôi sưng tướng nên không tháo nhẫn ra được, vì thế bác sĩ băng trùm lên luôn.

- Không sao. - Nunez nói - Tôi sẽ dùng máy dò cầm tay.

Nunez đưa máy dò trên bàn tay băng bó của vị khách. Đúng như dự liệu, thứ kim loại duy nhất mà anh phát hiện được là một cục to sụ ở ngón đeo nhẫn của người đàn ông. Nunez đưa thiết bị dò kim loại rà kỹ từng li trên khắp ngón tay và băng đeo. Anh biết rằng cấp trên có thể đang giám sát mình qua hệ thống truyền hình tại trung tâm an ninh của toà nhà, mà anh thì rất cần việc làm. Cẩn thận lúc nào cũng vẫn hơn. Nunez thận trọng lách nhẹ máy dò vào dưới lớp băng đeo của vị khách.

Người đàn ông nhăn mặt vì đau.

- Xin lỗi.

- Không sao, - người đàn ông đáp - Thời buổi này thì không thể không cẩn thận được.

- Đúng thế - Nunez bỗng sinh thiện cảm với người khách của mình. Thật lạ, cảm giác ấy dường như có tác dụng rất lớn ở đây. Nước Mỹ đã coi bản năng con người là tuyến phòng thủ đầu tiên trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa khủng bố. Sự thật cũng chứng minh rằng trực giác là thứ máy cảnh báo chính xác hơn bất kỳ thiết bị điện tử nào trên đời - nó là món quà của sự sợ hãi, như cách gọi trong một cuốn sách tham khảo về vấn đề an ninh.

Trong trường hợp này, bản năng của Nunez không mách bảo điều gì khiến anh phải lo sợ. Chỉ lạ là khi đứng gần sát người khách, anh bỗng nhận ra cái gã bặm trợn ấy có bôi một thứ kem chống nắng hoặc kem xoá nám nào đó trên mặt. Nhưng có sao. Ai lại thích chường bộ mặt nhợt nhạt ra vào mùa đông cơ chứ.

- Ông có thể vào được rồi, - Nunez nói, hoàn tất công việc dò tìm và xếp gọn máy dò cầm tay lại.

- Cảm ơn - Người đàn ông bắt đầu nhặt nhạnh đồ đạc trên khay.

Trong khi anh ta thu dọn, Nunez chú ý thấy hai ngón tay thò ra khỏi lớp băng đều có hình xăm: đầu ngón tay trỏ có hình một cái mũ miện, còn đầu ngón tay cái là hình một ngôi sao. Dường như thời buổi này ai cũng có hình xăm trổ, Nunez nghĩ thầm, mặc dù các đầu ngón tay phải buốt lắm để xăm được thế kia.

- Mấy hình xăm đó có đau không?

Người khách liếc xuống mấy đầu ngón tay mình và cười.

- Không ghê như anh tưởng đâu.

- Thế còn may, - Nunez đáp - Tôi thì đau khủng khiếp. Thời ở trại huấn luyện tân binh, tôi có xăm hình tiên cá trên lưng mà.

- Tiên cá à? - gã trọc cười hềnh hệch.

- Ừ, - Nunez đáp, có phần ngượng ngùng - Sai lầm thời trai trẻ ấy mà.

- Tớ hiểu, - gã trọc đáp - Tớ cũng phạm một sai lầm to đùng thời còn trẻ, và giờ sáng nào tớ cũng phải thức dậy cùng ả.

Cả hai cùng cười, rồi gã kia quay đi.

Đúng là trò trẻ con. Mal’akh nghĩ thầm, băng qua Nunez và lên cầu thang máy tiến về phía Điện Capitol. Việc thâm nhập dễ dàng hơn dự đoán. Dáng đi lom khom và cái bụng độn bông đã giúp gã che giấu được vóc dáng thật, trong khi lớp hoá trang trên mặt và tay giúp phủ kín những hình xăm chi chít khắp cơ thể. Tuy nhiên, món nguỵ trang tài tình nhất lại là cái băng đeo, đang che đậy một đồ vật ghê gớm mà Mal’akh mang theo vào toà nhà.

Đó là món quà dành cho kẻ duy nhất trên đời giúp ta đạt được thứ ta đang tìm kiếm.
 
CHƯƠNG 5



Bảo tàng lớn nhất và có công nghệ tiên tiến nhất thế giới cũng chính là một trong những bí mật được giữ kín nhất trên đời. Nó chứa nhiều hiện vật hơn cả Bảo tàng Cung điện Mùa Đông, Bảo tàng Vatican và Bảo tàng New York Metropolitan cộng lại. Bộ sưu tập thì phong phú như vậy, nhưng lại nằm giữa những bức tường bảo vệ nghiêm ngặt, trước nay chẳng có mấy người được mời vào bên trong.

Toạ lạc ở số 4210 đường Silver Hill, ngay ngoại ô Washington D.C., bảo tàng là một dinh thự đồ sộ hình chữ chi bao gồm năm khu vực liên thông với nhau - mỗi khu vực còn rộng hơn cả một sân bóng đá. Phần ngoại thất bằng kim loại phơn phớt xanh của toà nhà phần nào ám chỉ sự khác thường bên trong nó - một thế giới kỳ lạ rộng 56.000 mét vuông với một “Tử địa”, một “Thuỷ trì” và nhiều phòng lưu trữ trải dài suốt mười hai dặm.

Lái chiếc Volvo trắng tới tận cổng kiểm tra an ninh chính của bảo tàng, Katherine Solomon vẫn cảm thấy bồn chồn.

Người bảo vệ mỉm cười.

- Chắc cô không phải dân hâm mộ bóng bầu dục, cô Solomon nhỉ? - Anh ta giảm bớt âm lượng chương trình phát trước trận đấu lượt về của đội Redskins.

Katherine cố nặn ra một nụ cười.

- Tối chủ nhật mà.

- Ồ, vâng. Cô phải họp nhỉ?

- Ông ấy đến chưa? - Katherine hỏi, vẻ sốt ruột.

Người bảo vệ liếc vào sổ.

- Tôi chưa thấy tên ông ấy trong phần đăng ký…

- Chắc tôi đến sớm quá - Katherine vẫy tay thân mật và tiếp tục lái theo lối vào xoáy tròn để tới khu vực đỗ xe hai tầng. Cô dừng lại tại vị trí thường lệ ở tầng dưới, cầm lấy đồ đạc và liếc nhanh mình trong gương chiếu hậu, một động tác do thói quen nhiều hơn là do nhu cầu làm điệu.

May mắn thừa hưởng làn da Địa Trung Hải mềm mại của tổ tiên, nên dù đã ở tuổi 50, Katherine Solomon vẫn giữ được nước da bánh mật mịn màng. Cô hầu như không trang điểm, mái tóc đen dài để xoã một cách tự nhiên. Cũng như ông anh Peter, cô có đôi mắt xám, vóc dáng mảnh khảnh và vẻ trang nhã đầy quý phái.

Hai người cứ như một cặp song sinh vậy, người ta thường nhận xét với anh em họ thế.

Cha Katherine mất vì ung thư khi cô lên bảy, nên cô không còn nhớ gì nhiều về ông. Peter lớn hơn Katherine tám tuổi, lúc đó vừa mười lăm đã phải học cách trở thành người đứng đầu gia tộc Solomon, sớm hơn dự tưởng của tất cả mọi người. Nhưng không phụ sự mong đợi của dòng họ, Peter đã trưởng thành trong vai trò mới bằng phẩm cách và sức mạnh xứng đáng với tên tuổi gia đình. Đến giờ, ông vẫn chăm nom săn sóc Katherine y như hồi còn bé.

Dù thi thoảng bị anh trai thúc giục, và dù chẳng thiếu người theo đuổi, Katherine vẫn gắn bó với cuộc sống độc thân. Khoa học trở thành người bạn đời của cô, công việc thì đầy hứa hẹn và thú vị tới mức khó có người đàn ông nào sánh nổi. Cô không hề nuối tiếc điều gì.

Katherine làm quen với Lý trí học - lĩnh vực cô đang đeo đuổi - từ thời chưa mấy ai biết đến nó, vài năm trở lại đây, môn khoa học này bắt đầu mở ra nhiều cánh cửa tri thức mới, giúp tìm hiểu sức mạnh của trí tuệ con người.

Nhân loại còn rất nhiều tiềm năng đáng kinh ngạc chưa được khai thác.

Katherine đã viết hai cuốn sách về Lý trí học, và nghiễm nhiên trở thành người đi đầu trong lĩnh vực trừu tượng này. Nếu sắp tới cô cho công bố những phát hiện gần đây nhất thì thể nào Lý trí học cũng sẽ chiếm vị trí trung tâm trong mọi cuộc đàm thoại ở khắp nơi trên thế giới.

Tuy nhiên tối nay, khoa học lại rất xa vời trong tâm trí Katherine.

Mới đây thôi, cô nhận được vài ba thông tin đáng ngại liên quan đến anh trai mình. Mình vẫn không tin nổi đó là sự thật. Suốt cả buổi chiều, cô chẳng còn tâm trí nghĩ đến điều gì khác.

Mấy giọt mưa rơi tí tách lên kính chắn gió, Katherine vội vã vơ lấy đồ đạc để đi vào trong, nhưng vừa dợm bước ra khỏi xe thì điện thoại di động đổ chuông.

Cô xem tên người gọi và hít một hơi thật sâu.

Rồi cô vén tóc ra sau tai và ngồi lại trong xe để trả lời cuộc gọi.

***

Cách đó sáu dặm, Mal’akh đang di chuyển qua những hành lang của Điện Capitol với chiếc điện thoại di động áp chặt bên tai, kiên nhẫn đợi đầu kia bắt máy.

Cuối cùng, một giọng phụ nữ vang lên.

- Tôi nghe đây?

- Chúng ta cần gặp nhau lần nữa. - Mal’akh nói.

Một khoảng im lặng khá dài.

- Mọi việc vẫn ổn chứ?

- Tôi có manh mối mới, - Mal’akh thông báo.

- Nói đi.

Mal’akh hít một hơi thật sâu.

- Có thể tìm được…

- Sao?

- Thứ mà anh trai bà tin rằng đang giấu ở thủ đô.

Giọng Katherine Solomon đầy sửng sốt.

- Anh bảo sao… thật ư?

Mal’akh mỉm cười.

- Một truyền thuyết sở dĩ tồn tại được nhiều thế kỷ… là có lý do cả đấy.
 

Chương 6


- Thế nây là đã vào gần hết mức chưa? - Robert Langdon chợt cảm thấy lo lắng khi người lái xe đỗ lại trên phố Số 1, còn cách Điện Capitol những một phần tư dặm.

- Gần hết mức rồi đấy ạ - người lái xe đáp - Do quy định An ninh Nội địa, không xe cộ nào được lại gần các toà nhà quan trọng nữa. Tôi rất lấy làm tiếc, thưa ông.

Langdon nhìn đồng hồ, giật mình vì thấy đã 6 giờ 50 phút. Chỉ còn mười phút nữa là đến giờ diễn thuyết. Một công trường xây dựng quanh Công viên Quốc gia đã làm chậm hành trình của họ.

- Trở trời rồi - người lái xe nói, bước ra và mở cửa cho Langdon - Chắc ông sẽ phải nhanh lên đấy.

Langdon móc ví định boa cho người lái xe, nhưng anh ta khoát tay.

- Chủ nhà của ông đã tính một khoản thưởng rất hậu hĩ vào tiền cước rồi.

Đúng là Peter, Langdon nghĩ bụng, đoạn thu dọn đồ đạc của mình.

- Xong, rất cảm ơn anh về chuyến đi.

Khi Langdon tới tầng trên cùng của phòng đợi có mái vòm trang nhã dẫn xuống lối vào “ngầm” dành cho khách tham quan, trời bắt đầu lác đác vài giọt mưa.

Trung tâm du khách điện Capitol là một công trình tốn kém và gây nhiều tranh cãi. Được mô tả như một thành phố ngầm lớn ngang ngửa với Disney World, không gian dưới mặt đất này dành hẳn một diện tích rộng 45.000 mét vuông cho các hiện vật trưng bày, nhà hàng và phòng họp.

Langdon vẫn mong tới lúc được nhìn ngắm nơi đây, nhưng anh không lường nổi là phải đi bộ xa đến thế. Trời có vẻ sẽ đổ mưa bất kỳ lúc nào, và anh buộc phải bước rảo chân, đôi giày mềm gần như trượt đi trên nền xi măng ướt. Mình ăn mặc để lên diễn thuyết chứ có phải để chạy bổ xuống dốc cao mấy trăm thước trong mưa đâu.

Xuống đến bên dưới, Langdon đã mệt đứt hơi. Anh đẩy cánh cửa xoay, dừng lại một lát trong phòng giải lao để điều hoà nhịp thở và giũ bớt nước mưa, đồng thời ngước mắt nhìn không gian mới hoàn thành vừa hiện ra trước mặt mình.

Chà, quả là ấn tượng

Nơi này khác hẳn với hình dung của anh. Biết rằng người ta xây dựng trung tâm dưới lòng đất, Langdon đã từng ngại ngần khi nghĩ đến việc phải đi qua đây. Thuở bé, có lần anh bị mắc kẹt dưới đáy giếng sâu suốt một đêm, tai nạn ấy khiến anh trở nên dị ứng với những không gian khép kín. Nhưng cái thế giới dưới lòng đất này lại, rất thoáng đãng. Sáng sủa. Rộng rãi.

Trần nhà là một khoảng không mênh mông bằng kính gắn hàng loạt cụm đèn lộng lẫy, trải ánh sáng êm dịu khắp phần nội thất màu ngọc trai.

Kể như bình thường, Langdon sẽ tha thẩn cả tiếng đồng hồ để chiêm ngưỡng kiến trúc nơi này, nhưng vì chỉ còn năm phút nữa là đến giờ nên anh đành dẹp ý muốn ấy và lao qua sảnh chính để sang chỗ kiểm tra an ninh và thang máy. Cứ bình tinh nào, anh tự nhủ.

Peter biết là mình đang trên đường đến mà. Thiếu mình thì chương trình chưa bắt đầu đâu.

Tại quầy kiểm tra an ninh, khi Langdon moi đồ đạc khỏi các túi và tháo chiếc đồng hồ cũ rích của mình ra, tay bảo vệ gốc Tây Ban Nha liền gợi chuyện với anh.

- Chuột Mickey à? - gã ta hỏi, giọng khá hào hứng.

Đã quá quen với những phản ứng tương tự, Langdon gật gật đầu.

Chiếc đồng hồ Chuột Mickey này là món quà cha mẹ tặng anh nhân sinh nhật lần thứ 9.

- Tôi đeo nó để nhắc mình biết thong thả và đơn giản hoá cuộc sống đi.

- Tôi nghĩ nó vô tác dụng rồi, - gã bảo vệ cười - Trông ông đang cuống quít cả lên ấy!

Langdon mỉm cười và đẩy túi xách của mình qua máy chiếu X quang.

- Đi đường nào tới Sảnh Tượng đài nhỉ?

Tay bảo vệ ra hiệu về phía thang máy.

- Có biển chỉ dẫn đấy ạ!

- Cảm ơn - Langdon nhấc túi xách khỏi băng chuyền và vội vã bước đi.

Trong khi thang máy chạy lên. Langdon hít một hơi thật sâu và cố gắng tập hợp những ý nghĩ của mình. Anh ngước mắt, nhìn xuyên qua trần nhà bằng kính lấm tấm mưa lên vòm Điện khổng lồ đang ngập trong ánh đèn chiếu sáng. Quả là một toà nhà kỳ vĩ. Tít trên nóc, ngót 90 mét trong không trung, Tượng thần Tự do vươn cao giữa trời đêm mù sương như một tên lính gác ma quái. Cứ nghĩ chính các nô lệ là người nâng từng mảnh của bức tượng đồng cao gần 6 mét kia tới vị trí chót vót đó, Langdon lại cảm thấy thật chua chát. Việc thi công pho tượng này là một bí mật của Điện Capitol, hiếm khi xuất hiện trong bài giảng lịch sử ở bậc trung học.

Thực ra thì toàn bộ toà nhà cũng là một kho tàng chứa vô khối bí mật kỳ lạ, chẳng hạn cái “bồn tắm sát nhân” khiến Phó Tổng thống Henry Wilson viêm phổi mà chết, cái cầu thang với vết máu vĩnh viễn không phai làm bao nhiêu người vấp ngã, và một phòng hầm có niêm phong đựng con ngựa chết nhồi rơm của tướng John Alexander Logan, được các công nhân phát hiện ra vào năm 1930…

Tuy nhiên, không có câu chuyện nào tồn tại lâu như những lời đồn về mười ba bóng ma lang thang trong toà nhà. Người ta hay kháo nhau rằng linh hồn của Pierre L’Enfant - Kiến trúc sư thiết kế thành phố - vẫn thơ thẩn trong các đại sảnh, tìm cách thanh toán tờ hoá đơn tính đến nay đã quá hạn hai trăm năm của mình. Bóng ma của một công nhân ngã từ Vòm điện Capitol xuống trong lúc thi công thì thường lang thang ở các hành lang với một khay dụng cụ trên tay, và dĩ nhiên không thể thiếu con mèo đen chết yểu luôn lảng vảng trong cái mê cung kỳ quái gồm toàn những lối đi và phòng ngủ hẹp ở tầng hầm, đây cũng là bóng ma nổi tiếng nhất, xuất hiện rất nhiều lần trong tầng hầm Điện Capitol.

Langdon bước ra khỏi thang máy và lại nhìn đồng hồ. Còn ba phút. Anh vội vã đi xuống hành lang lớn, theo các biển chỉ dẫn để tới Đại sảnh Tượng đài Danh nhân và dượt lại phần phát biểu mở màn ở trong đầu. Langdon phải thừa nhận rằng viên trợ lý của Peter nhận xét rất có lý: chủ đề diễn thuyết hôm nay cực kỳ phù hợp với sự kiện do một thành viên quan trọng của Hội Tam điểm chủ trì, nhất là lại tổ chức tại Washington D.C.

Ai nấy đều biết thủ đô nước Mỹ có một lịch sử phong phú liên quan đến hội kín này. Chính George Washington đặt viên gạch đầu tiên cho toà nhà Quốc hội trong một nghi lễ hoàn chỉnh của Hội Tam điểm. Rồi cũng chính ông cùng các Huynh trưởng khác của Hội như Ben Franklin và Pierre L’Enfant lại ấp ủ ý tưởng và thiết kế nên thành phố, những trí tuệ tuyệt vời ấy đã trang hoàng cho thủ đô mới của họ toàn bằng những biểu tượng, kiến trúc và nghệ thuật theo phong cách Hội Tam điểm.

- Dĩ nhiên, người thường sẽ nhận thấy đủ loại ý tưởng kỳ cục trong những biểu tượng như vậy.

Lắm kẻ đa nghi phàn nàn rằng các bậc tiền bối trong Hội Tam điểm đã che giấu nhiều bí mật lớn lao ở khắp Washington cùng với những thông điệp mang tính biểu tượng lẩn khuất trong bố cục đường phố của thủ đô. Langdon chẳng bao giờ chú ý đến giả thuyết ấy Thông tin thất thiệt quanh Hội Tam điểm phổ biến đến mức ngay cả những sinh viên có học vấn của Harvard cũng quan niệm rất sai lệch về tổ chức này.

Năm ngoái, một tân sinh viên hốt hoảng lao bổ vào lớp Langdon với một bản in tải từ web. Thì ra là một tấm bản đồ thủ đô, theo đó vài tuyến phố nhất định đã được bôi đậm để tạo thành nhiều hình dạng khác nhau, chẳng hạn dấu ấn của quỷ Satan, biểu tượng com pa và thước thợ của Hội Tam điểm, rồi cái đầu của Baphomet(10)… cốt chứng tỏ rằng các thành viên Hội Tam điểm tham gia kiến tạo Washington D.C. ngày trước có liên quan đến một âm mưu bí mật và đen tối nào đó.

- Thú vị đấy, - Langdon trả lời - nhưng không đủ sức thuyết phục. Nếu em vẽ cho hết mọi đường giao cắt trên bản đồ, chắc chắn em sẽ tìm được tất cả các loại hình dạng.

- Nhưng đây không thể là một sự trùng hợp được! - cậu sinh viên kêu lên.

Langdon kiên nhẫn chứng minh cho cậu ta thấy rằng có thể tạo ra những hình tương tự trên bản đồ đường phố Detroit.

- Cậu sinh viên vô cùng thất vọng.

- Đừng vội nản! - Langdon nói - Đúng là ở Washington có một số bí mật khó lòng tưởng tượng… chỉ hiềm chúng không nằm trên tấm bản đồ đường phố này mà thôi.

- Cậu sinh viên trở nên phấn chấn:

- Bí mật ạ? Kiểu kiểu thế nào, thưa thầy?

- Cứ xuân sang tôi lại dạy một khoá gọi là Các biểu tượng Huyền hoặc. Tôi giảng rất nhiều về thủ đô. Em nên tham gia khoá học đó.

- Biểu tượng huyền hoặc - Cậu tân sinh viên lại được phen kích động - Vậy đúng là có những biểu tượng của quỷ sứ ở thủ đô!

Langdon mỉm cười.

- Xin lỗi, nhưng cái từ huyền hoặc, mặc dù gợi ra những hình ảnh liên quan đến việc tôn thờ quỷ sứ, trên thực tế lại có nghĩa là “được che giấu” hoặc “bí ẩn”. Vào thời kỳ tôn giáo bị đàn áp, người ta phải giấu giếm hoặc che đậy những tri thức bị xếp vào loại phản chính thống. Những tri thức ấy khiến nhà thờ lo ngại, họ bèn định nghĩa lại rằng bất kỳ thứ gì “thần bí” thì đều xấu xa, và vì thế mới sinh ra thiên kiến.

- Ồ - Cậu sinh viên cụt hứng.

Tuy nhiên, mùa xuân năm đó, Langdon nhận ra cậu sinh viên ngồi ở hàng ghế đầu trong khi năm trăm sinh viên đang chen chân vào Thính phòng Sanders của Đại học Harvard, một giảng đường rất cũ với những băng ghế gỗ kêu cọt cà cót kẹt.

- Xin chào tất cả các bạn. - Langdon nói to từ trên bục giảng: Anh bật máy chiếu, và một hình ảnh hiện ra phía sau lưng anh - Trong khi mọi người đang ổn định chỗ ngồi, xin hỏi có bao nhiêu bạn nhận ra toà nhà trong bức hình này?

- Điện Capitol! - hàng chục giọng nói đồng thanh vang lên - Thủ đô Washington!

- Đúng. Trong mái vòm này, có tới hơn 4.000 tấn sắt thép. Một thành tích phi thường chứng tỏ trình độ kiến trúc của những năm 1850.

- Ghê thật! - ai đó nói to.

Langdon đảo mắt, hy vọng sẽ có người phản đối cái từ đó.

- Và bao nhiêu người trong số các bạn đã từng tới Washington?

Lác đác những cánh tay giơ lên.

- Ít quá nhỉ? - Langdon giả vờ ngạc nhiên - Thế bao nhiêu người đã tới Rome, Paris, Madrid hoặc London?

Hầu như tất cả các cánh tay trong phòng đều giơ cao.

Chẳng có gì là lạ. Một trong những nghi thức trưởng thành cho sinh viên Mỹ là tấm vé tàu hoả đi châu u nghỉ hè trước khi bước ra thực tế nghiệt ngã của cuộc đời.

- Xem ra các bạn đi châu u nhiều hơn là tới thủ đô của chúng ta. Theo các bạn tại sao lại như vậy?

- Ở châu u không quy định độ tuổi được uống bia rượu! - ai đó ở phía cuối lớp nói to.

Langdon mỉm cười.

- Cứ làm như quy định về độ tuổi uống bia rượu ở đây ngăn trở nổi các bạn ấy!

Mọi người phì cười.

Đó là ngày đầu tiên của khoá học, và sinh viên mất nhiều thời gian hơn so với bình thường để ổn định chỗ ngồi, đổi chỗ và gây ra những tiếng cọt kẹt trên các băng ghế gỗ. Langdon rất thích giảng bài trong thính phòng này, bởi chỉ cần nghe xem sinh viên nhấp nhổm trên ghế ra sao, anh sẽ biết họ quan tâm đến bài giảng tới mức độ nào.

- Nói cho đúng, - Langdon nói - Washington D.C. có một số công trình kiến trúc, tác phẩm nghệ thuật và biểu tượng tuyệt vời nhất thế giới. Tại sao các bạn lại ra nước ngoài trước khi tới thăm thủ đô của mình nhỉ?

- Những thứ cổ xưa cuốn hút hơn - ai đó đáp.

- Nhân nhắc đến những thứ cổ xưa - Langdon nói rõ thêm - tôi cho rằng ý bạn chỉ những toà lâu đài, hầm mộ, đền thờ, đại loại như thế, phải không nào?

Sinh viên đồng loạt gật đầu.

- Tốt. Giờ nếu tôi nói rằng Washington D.C. có tất cả những thứ đó thì các bạn nghĩ sao? Nào là lâu đài, hầm mộ, nào là kim tự tháp, đền thờ… đủ hết.

Tiếng cọt kẹt giảm hẳn.

- Thưa các bạn - Langdon nói, hạ thấp giọng và bước lên phía trước bục giảng - trong tiết tới, các bạn sẽ thấy rằng đất nước chúng ta có rất nhiều bí mật và lịch sử được giấu kín, và cũng y hệt như ở châu u tất cả những bí mật hay nhất đều được giấu ở những chỗ ai cũng trông thấy.

Các băng ghế im phăng phắc.

Thế đấy.

Langdon giảm bớt ánh sáng và chuyển sang hình chiếu thứ hai.

- Ai nói cho tôi biết George Washington đang làm gì ở đây nào?

Trên hình chiếu là một bức bích hoạ nổi tiếng tả cảnh George Washington vận bộ lễ phục của Hội Tam điểm, đang đứng trước một cỗ máy trông rất kỳ dị - một cái kiềng khổng lồ bằng gỗ đỡ hệ thống ròng rọc có treo khối đá to tướng. Một nhóm người ăn bận chỉnh tề đứng quanh ông.

- Chắc là đang nâng tảng đá tổ chảng ấy ạ? - ai đó đánh bạo lên tiếng.

Langdon không bình luận vội. Anh thích để sinh viên tự đính chính nếu có thể được.

- Thật ra, - tiếng một sinh viên khác - em nghĩ Washington đang hạ tảng đá. Ông ấy mặc y phục Hội Tam điểm. Em đã từng nhìn thấy vài bức tranh vẽ các hội viên Tam điểm đặt móng rồi. Nghi thức này luôn phải dùng đến những cái giá ba chân để hạ viên đá đầu tiên xuống.

- Rất chính xác - Langdon nói - Trong bức bích hoạ này, Người cha của đất nước ta đang sử dụng cái giá ba chân và ròng rọc để đặt viên đá móng cho Điện Capitol. Đó là ngày 18 tháng Chín năm 1793, trong khoảng thời gian từ 11 giờ 15 phút đến 12 giờ 30 phút - Langdon dừng lại, nhìn khắp lớp học một lượt - Ai có thể cho tôi biết ý nghĩa của ngày tháng đó nào?

Im lặng.

- Vậy nếu tôi nói với các bạn rằng thời gian chính xác đó là do ba hội viên Tam điểm nổi tiếng George Washington, Benjamin Franklin và Pierre L’Enfant ấn định thì sao?

Càng im lặng.

- Rất đơn giản, viên đá móng được đặt vào ngày giờ ấy vì đó là lúc Đầu Rồng cát tường nằm trong cung Xử Nữ, tất nhiên là còn nhiều yếu tố khác nữa.

Tất cả ngơ ngác nhìn nhau.

- Thưa thầy, - giọng một người vang lên - Thầy muốn nói việc đó liên quan đến chiêm tinh học phải không ạ?

- Đúng. Mặc dù là một dạng chiêm tinh khác hẳn những gì chúng ta biết ngày nay.

Một cánh tay giơ lên.

- Ý thầy là những người sáng lập đất nước ta đã tin vào chiêm tinh?

Langdon cười.

- Cừ lắm. Các bạn nghĩ sao nếu tôi cho các bạn biết rằng kiến trúc của thành phố Washington chứa nhiều biểu tượng chiêm tinh hơn bất kỳ thành phố nào khác trên thế giới - hoàng đạo này, tinh đồ này, đá móng được đặt vào ngày giờ chiêm tinh thật chính xác này? Quá nửa số người soạn thảo bản Hiến pháp của chúng ta là hội viên Tam điểm, họ đều tin rằng các ngôi sao có liên hệ chặt chẽ với số phận, và rất chú ý tới bố cục của bầu trời khi kiến thiết thế giới mới của mình.

- Nhưng ai cần bận tâm đến sự thật là viên đá móng điện Capitol được đặt xuống đúng lúc Đầu Rồng nằm trong cung Xử Nữ chứ? Biết đâu đó chỉ là sự trùng hợp thì sao?

- Thế thì sự trùng hợp ấy quá ấn tượng. Bởi đá móng của ba công trình tạo nên Tam giác Liên bang - Điện Capitol. Nhà Trắng, và Tượng đài Washington - tuy đặt xuống vào những năm khác nhau nhưng đều được tính toán giờ giấc kỹ càng để diễn ra trong điều kiện chiêm tinh giống hệt nhau đấy.

Khắp giảng đường, những cặp mắt mở to. Rồi rất nhiều cái đầu cúi xuống hí hoáy ghi chép.

Một cánh tay giơ lên cuối lớp.

- Tại sao họ lại làm như thế ạ?

Langdon bật cười.

- Phải trả lời bằng tài liệu của cả một học kỳ cơ đấy. Nếu muốn tìm hiểu, các bạn nên tham dự khoá học về chủ nghĩa thần bí của tôi. Thật tình thì, tôi nghĩ tinh thần các bạn chưa sẵn sàng để nghe câu trả lời.

- Sao cơ ạ? - anh chàng kia kêu lên - Thầy nói đi mà!

Langdon tỏ ra trầm ngâm và sau đó lắc đầu, cố tình đùa bỡn họ.

- Xin lỗi, tôi không làm thế được. Một số bạn mới chỉ là sinh viên năm thứ nhất. Tôi e điều đó có thể lung lạc tinh thần các bạn.

- Thầy nói cho chúng em biết đi! - cả lớp ồ lên.

Langdon nhún vai.

- Có lẽ các bạn nên gia nhập Hội Tam điểm hoặc Đông Tinh Hội(11) để biết rõ câu trả lời ngay từ nguồn gốc.

- Chúng em làm sao xin vào được, - một chàng trai lý sự - Hội Tam điểm giống như một hội kín siêu hạng ấy!

- Hội kín siêu hạng ư? Thật thế à? - Langdon nhớ tới chiếc nhẫn Tam điểm to tướng mà ông bạn Peter Solomon vẫn đeo một cách tự hào bên tay phải - Vậy tại sao hội viên Tam điểm lại công khai đeo nhẫn, kẹp cà vạt, hoặc ghim cài áo có biểu tượng của hội? Tại sao những toà nhà của Hội Tam điểm đều được làm dấu rất rõ ràng? Tại sao thời gian hội họp của họ lại được đăng sờ sờ trên báo? - Langdon mỉm cười trước tất cả những khuôn mặt đầy bối rối - Thưa các bạn, Hội Tam điểm không phải là một hội kín… đó là một hội chứa đựng nhiều điều bí mật.

- Cũng thế cả thôi ạ, - ai đó thốt lên.

- Thật ư? - Langdon gặng hỏi - Vậy bạn có coi Coca-Cola là một hội kín không?

- Dĩ nhiên là không ạ, - chàng sinh viên đáp.

- Được rồi, vậy sẽ thế nào nếu bạn gõ cửa trụ sở chính của hãng và hỏi xin công thức sản xuất Coke?

- Họ sẽ chẳng bao giờ tiết lộ đâu.

- Chính xác. Để biết được bí mật lớn nhất của Coca-Cola, bạn cần phải gia nhập công ty, làm việc trong nhiều năm, chứng tỏ mình là người đáng tin cậy và cuối cùng len được vào hàng ngũ tinh tuý, nơi bạn có thể được chia sẻ thông tin ấy. Sau đó bạn sẽ phải thề giữ gìn bí mật.

- Ý thầy là Hội Tam điểm giống như một công ty?

- Chỉ ở khía cạnh hệ thống tầng bậc chặt chẽ và nguyên tắc giữ bí mật ngặt nghèo của họ thôi.

- Chú em là hội viên Tam điểm, - một cô gái nói to - Và em rất khó chịu vì chú chẳng bao giờ kể chuyện về hội với . bảo rằng Hội Tam điểm là một dạng tôn giáo kỳ lạ.

- Một quan niệm sai lầm phổ biến!

- Hội Tam điểm không phải là một tôn giáo ư?

- Chúng ta làm một phép thử nhé! - Langdon nói - Ai ở đây đã từng học khoá học tôn giáo so sánh của Giáo sư Witherspoon?

Vài cánh tay giơ lên.

- Tốt. Hãy cho tôi biết ba điều kiện tiên quyết để một hệ tư tưởng được coi là một tôn giáo?

- ABC, - một cô gái lên tiếng - An lòng, Buộc chặt, Cải đạo(12)

- Rất đúng, - Langdon nói - Tôn giáo an lòng người ta bằng sự cứu rỗi; tôn giáo buộc chặt người ta vào một thuyết thần học chính xác, và tôn giáo cải đạo cho những người phi tín ngưỡng - Anh ngừng lại - Hội Tam điểm không có ba điều kiện này. Hội viên Tam điểm chẳng hề hứa hẹn gì về sự cứu rỗi, không có thuyết thần học nhất định và không tìm cách cải đạo ai. Trên thực tế, ngay trong các địa điểm hội họp của Hội, việc thảo luận về tôn giáo cũng bị cấm ngặt.

- Vậy Hội Tam điểm là phản tôn giáo?

- Ngược lại. Một trong những điều kiện tiên quyết để trở thành hội viên Tam điểm là bạn phải tin vào một đấng tối cao. Điểm khác biệt giữa duy linh Tam điểm và tôn giáo có tổ chức là ở chỗ hội viên Tam điểm không áp đặt định nghĩa hay tên gọi cụ thể cho một đấng tối cao nào. Thay vì những nhân vật xác định như Thượng đế, thánh Allah. Đức Phật, hay Jesus, hội viên Tam điểm sử dụng các thuật ngữ khái quát hơn như Đấng Toàn năng hoặc Kiến trúc sư vĩ đại của Vũ trụ. Điều này giúp hội viên Tam điểm thuộc mọi tín ngưỡng có thể tập hợp lại với nhau.

- Nghe hơi xa vời, - ai đó lên tiếng.

- Ồ có lẽ thế, nhưng nên chăng gọi là đầu óc phóng khoáng? - Langdon tiếp tục - Trong thời buổi các nền văn hoá khác biệt đang sát phạt nhau để xem định nghĩa về Chúa của ai tốt hơn thì có thể nói truyền thống khoan dung và phi thành kiến của Hội Tam điểm là rất đáng khen - Langdon sải bước trên bục giảng - Hơn nữa, Hội Tam điểm chào đón thành viên thuộc mọi chủng tộc, màu da, tín ngưỡng, và đối đãi với nhau bằng tinh thần huynh đệ công bằng bình đẳng.

- Công bằng bình đẳng ạ? - một hội viên Hội Phụ nữ của trường đứng lên - Có bao nhiêu phụ nữ được nhận vào Hội Tam điểm rồi, thưa Giáo sư Langdon?

Langdon giơ tay trong tư thế đầu hàng.

- Câu hỏi rất hay. Theo chuyện xưa kể lại, Hội Tam điểm bắt nguồn từ các hội nghề nghiệp của những người thợ nề ở châu u và do đó là một tổ chức của nam giới, vài trăm năm trước, có người nói là từ năm 1703, một chi nhánh dành cho nữ giới gọi là Đông Tinh Hội được thành lập. Họ có hơn 1 triệu hội viên.

- Thế nhưng Hội Tam điểm vẫn là một tổ chức hùng mạnh loại trừ phụ nữ, - cô gái khăng khăng.

Langdon không rõ Hội Tam điểm thực sự hùng mạnh đến mức nào, nhưng anh không định đi theo hướng đó. Hội viên Tam điểm hiện đại phân bố từ mấy ông già vô hại thích ăn mặc chải chuốt đến những phe đảng môi giới bí mật đủ quyền năng khuynh đảo cả thế giới. Sức mạnh của họ chắc chắn nằm đâu đó giữa khoảng này.

- Giáo sư Langdon, - một cô gái tóc quăn ở hàng ghế sau lên tiếng, - nếu Hội Tam điểm không phải hội kín, không phải doanh nghiệp, cũng chẳng phải tôn giáo, vậy thì nó là gì ạ?

- Chà, nếu em hỏi một hội viên Tam điểm, người đó sẽ đưa ra định nghĩa thế này: Hội Tam điểm là một hệ thống đạo đức ẩn giấu trong những biểu tượng và thể hiện qua các ký hiệu.

- Nghe như lối diễn tả văn hoa cho khái niệm “giáo phái quái đản” ấy thôi.

- Em bảo sao, quái đản?

- Vâng! - cô gái đáp, và đứng lên - Em đã nghe nói về những trò họ làm bên trong các toà nhà bí mật! Những nghi thức thắp nến kỳ cục với quan tài, thòng lọng, rồi uống rượu trong những cái đầu lâu. Như thế là quái đản!

Langdon nhìn lướt cả lớp.

- Còn ai thấy quái đản nữa không?

- Có ạ! - Tất cả đồng thanh.

Langdon vờ thở dài buồn bã.

- Tệ quá? Chỉ thế mà đã thấy quái đản thì chắc chẳng bao giờ các bạn muốn gia nhập tôn giáo của tôi đâu.

Cả khán phòng chìm vào im lặng. Cô sinh viên ở Hội Phụ nữ có vẻ băn khoăn.

- Thầy cũng đi theo một giáo phái nào đấy à?

Langdon gật đầu và hạ thấp giọng ra chiều bí mật.

- Đừng tiết lộ với ai nhé, vào ngày của thần mặt trời Ra, tôi quỳ xuống trước một công cụ tra tấn cổ xưa và nhấm nháp những biểu tượng máu thịt mang tính nghi thức.

Cả lớp lộ vẻ khiếp hãi.

Langdon nhún vai.

- Nếu có bạn nào muốn tham gia cùng tôi, hãy đến nhà nguyện Harvard vào Chủ nhật, quỳ dưới thánh giá và nhận lễ ban thánh thể.

Cả lớp vẫn im phăng phắc.

Langdon nháy mắt.

- Hãy mở mang đầu óc của các bạn đi. Tất cả chúng ta đều sợ những gì chúng ta không hiểu.

***

Tiếng chuông đồng hồ bắt đầu vang vọng trong các hành lang Điện Capitol.

7 giờ

Giờ thì Robert Langdon guồng chân chạy. Hãy nói về một cổng vào đầy kịch tính. Lao qua Hành lang Liên kết, anh nhận ra lối đi sang Đại sảnh Tượng đài Danh nhân Quốc gia và tiến thẳng về phía đó.

Khi tới gần cửa. anh bước chậm lại như đi dạo và hít vài hơi thật sâu.

Rồi anh cài cúc áo khoác, ngẩng cao đầu, rẽ vào vừa đúng lúc tiếng chuông cuối cùng ngân vang.

Đến giờ trình diễn rồi.

Vào tới Đại sảnh Tượng đài Danh nhân Quốc gia, Giáo sư Robert Langdon ngước mắt và mỉm cười thân thiện. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc nụ cười của anh biến mất. Anh đứng sững lại.

Có điều gì đó rất, rất tệ.

Chú thích:

(10) Baphomet là một thần dị giáo, bị xem là hình ảnh của quỷ Satan. Baphomet có hình dáng thân người, đầu dê, và đôi chân dê. Khuôn mặt, cặp sừng và đôi tai của Baphomet khi cách điệu tạo thành một ngôi sao lộn ngược, biểu tượng của tín ngưỡng thờ quỷ Satan - ND.

(11) Order of the Eastem Star (Đông Tinh Hội) là tổ chức huynh đệ lớn nhất thế giới, kết nạp cả nam và nữ giới. Hội được thành lập năm 1850 bởi Rob Morris, một luật sư kiêm nhà giáo dục ở Boston. Massachusetts, một nhân vật cao cấp trong Hội Tam điểm. Đông Tinh Hội lấy nền tảng là những lời răn trong Kinh thánh, nhưng cũng đón nhận người từ tất cả các tín điều đơn thần. Hội có khoảng 10.000 tăng hội tại 20 quốc gia và xấp xỉ 1 triệu hội viên thuộc Tổng Tăng hội. Các thành viên của Đông Tinh Hội có độ tuổi từ 18 trở lên; nam giới phải là Huynh trưởng trong Hội Tam điểm còn nữ giới phải có quan hệ đặc biệt với các hội viên Tam điểm - ND.

(12) Nguyên gốc trong tiếng Anh, cụm từ ABC là viết tắt của 3 chữ “Assure, Believe, Convert”. Để giữ nguyên được cụm viết tắt này, người dịch không dịch nguyên văn đúng nghĩa của từng từ mà lựa dịch ý - ND.
 
Chương 7

Katherine Solomon vội vã băng qua bãi đỗ xe bất chấp làn mưa lạnh ngắt, lòng thầm ước giá như mình mặc nhiều hơn chứ không chỉ phong phanh chiếc quần jeans và áo len cashmere thế này. Càng tới gần lối vào chính của toà nhà, tiếng ồn của máy lọc không khí nghe càng ầm ĩ, nhưng Katherine hầu như không nhận thấy, bởi tai cô vẫn ong ong cuộc nói chuyện điện thoại vừa rồi.

Có thể tìm được… thứ mà anh trai bà tin rằng đang giấu ở thủ đô.

Katherine nửa tin nửa ngờ trước thông tin ấy. Cô còn nhiều điều phải thảo luận với người gọi, và họ đã thoả thuận là sẽ gặp nhau vào tối muộn hôm nay.

Đến cửa chính, Katherine lại cảm thấy phấn khích, y như mọi lần bước vào toà nhà đồ sộ này. Chẳng ai biết nơi ấy lại nằm ở đây.

Tấm biển trên cánh cửa ghi:

TRUNG TM HỖ TRỢ BẢO TÀNG SMITHSONIAN

(SMSC)

Viện Smithsonian sở hữu một bộ sưa tập hiện vật khổng lồ đến nỗi hơn một tá bảo tàng đồ sộ bên Công viên Quốc gia chỉ đủ cho họ trưng bày 2% trong số đó cùng một lúc. 98% còn lại của bộ sưu tập đành phải lưu giữ ở nơi khác, và cái nơi khác ấy… chính là nơi đây.

Quả vậy, toà nhà này chứa đựng hàng loạt hiện vật phong phú đến kinh ngạc, từ những pho tượng Phật khổng lồ, sách cổ chép tay, tên tẩm độc xứ New Guinea, dao chạm đá quý đến thuyền độc mộc làm từ tấm sừng hàm cá voi. Các báu vất thiên nhiên cũng khiến người ta choáng váng không kém, chẳng hạn như những bộ xương khủng long cổ dài, nhiều mảnh thiên thạch vô giá, một con mực khổng lồ, thậm chí cả bộ sưu tập sọ voi được Teddy Roosevelt mang về từ một khu bảo tồn tự nhiên châu Phi.

Tuy thế, chẳng báu vật nào trong số đó là lý do khiến Peter Solomon, Tổng thư ký của Smithsonian, phải giới thiệu em gái mình tới SMSC. Ba năm trước, ông mời Katherine về đây, nhưng không phải để nhìn ngắm những kiệt tác khoa học, mà là để sáng tạo ra chúng, và đó chính là những gì Katherine đang thực hiện.

Sâu trong toà nhà này, trong bóng tối của nơi chốn tách biệt nhất, có một phòng thí nghiệm khoa học nho nhỏ khác hẳn bất kỳ phòng thí nghiệm nào trên thế giới. Tại đây, Katherine đã đạt được nhiều bước đột phá trong lĩnh vực Lý trí học, những đột phá ấy có dây mơ rễ má với tất cả mọi ngành từ vật lý, lịch sử, triết học tới tôn giáo. Chỉ ít lâu nữa, mọi thứ sẽ thay đổi, cô nghĩ.

Khi Katherine bước vào tiền sảnh, người bảo vệ ngồi ở quầy giấu vội chiếc đài của mình và giật vội tai nghe ra khỏi tai.

- Cô Solomon! - Anh ta cười hì hì.

- Lại đội áo đỏ hả?

Người bảo vệ đỏ mặt ngượng nghịu.

- Mới là chương trình trước trận đấu thôi ạ.

Katherine tủm tỉm.

- Tôi không mách đâu.

Cô bước tới máy dò kim loại và bỏ hết mọi thứ trong túi ra. Khi tháo đến chiếc đồng hồ Cartier bằng vàng ở cổ tay, Katherine lại thấy lòng đau tê tái. Chiếc đồng hồ này là món quà mẹ tặng cô nhân ngày sinh lần thứ 18. Ngót mười năm đã trôi qua kể từ khi mẹ chết thảm… chết ngay trên tay Katherine.

- Thế, thưa cô Solomon? - người bảo vệ thì thầm giọng bông đùa - Cô đã định nói cho ai biết cô thường làm gì trong này chưa?

Katherine ngước nhìn lên.

- Một ngày nào đó, Kyle ạ. Nhưng không phải tối nay.

- Nào, - Kyle giục - Một phòng thí nghiệm bí mật… trong một bảo tàng bí mật? Chắc chắn là cô đang làm gì đó rất hay ho.

Hơn cả hay ho ấy chứ

Katherine nghĩ và thu gom lại đồ đạc. Sự thật là cô đang làm cho khoa học tiên tiến đến mức nó thậm chí không còn là khoa học nữa kia.
 
Chương 8

Robert Langdon đứng chết sững ở cửa Đại sảnh Tượng đài Danh nhân Quốc gia, trân trối nhìn khung cảnh bất ngờ trước mắt. Căn phòng vẫn y nguyên như trong ký ức của anh với hình bán nguyệt cân đối xây dựng theo phong cách khán đài Hy Lạp. Những bức tường vòng cung duyên dáng bằng sa thạch và thạch cao Italia làm nền cho hàng cột ốp đá sặc sỡ, điểm xuyết loạt tượng danh nhân quốc gia - cả thảy là ba mươi tám pho lấy nguyên mẫu từ các công dân Mỹ xuất chúng, kích thước như người thật, quây thành nửa vòng tròn trên nền nhà lát đá cẩm thạch đen trắng.

Mọi chi tiết đúng như Langdon ghi nhớ hồi tham dự thuyết giảng ở đây

Ngoại trừ một chi tiết.

Tối nay, căn phòng trống rỗng.

Không ghế ngồi. Không cử toạ. Không có Peter Solomon. Chỉ có vài du khách đi lại vẩn vơ, chẳng hề để tâm đến sự xuất hiện của Robert Langdon. Hay là Peter dặn đến Nhà Tròn(13) nhỉ? Langdon ngó xuống hành lang phía nam dẫn tới Nhà tròn và cũng chỉ thấy dăm ba khách du lịch lang thang ở đó.

Tiếng vọng của chuông đồng hồ đã dứt hẳn. Giờ thì anh đến muộn thật rồi.

Robert Langdon vội vã quay lại tiền sảnh và gặp được một hướng dẫn viên.

- Xin lỗi anh, sự kiện tổ chức ở đâu nhỉ, sự kiện của Viện Smithsonian tối nay ấy?

Người hướng dẫn ngập ngừng.

- Tôi không dám chắc, thưa ông. Khi nào thì nó bắt đầu?

- Giờ này!

Người kia lắc đầu.

- Viện Smithsonian không có sự kiện nào vào tối nay cả, chí ít là ở đây.

Ngơ ngác, Langdon vội vã quay trở lại trung tâm căn phòng, đưa mắt nhìn quanh một lượt. Hay là Solomon đang trêu đùa gì đây?

Langdon không tài nào hiểu nổi. Anh rút điện thoại di động cùng tờ fax nhận được sáng nay và bấm số của Peter.

Điện thoại phải mất một lúc mới bắt được tín hiệu trong toà nhà rộng lớn. Cuối cùng, nó cũng đổ chuông.

Giọng miền nam quen thuộc trả lời máy.

- Văn phòng Peter Solomon, tôi là Anthony. Tôi giúp gì được quý vị?

- Anthony! - Langdon thở phào - Rất vui là anh vẫn còn ở văn phòng. Robert Langdon đây. Hình như có gì đó nhầm lẫn về buổi thuyết giảng. Tôi đang đứng trong Đại sảnh Tượng đài Danh nhân, nhưng chẳng có ai ở đây cả. Hay là buổi lễ được chuyển tới một phòng khác?

- Tôi không nghĩ như vậy, thưa Giáo sư. Để tôi kiểm tra nhé! - Viên trợ lý dừng lại một lát - Giáo sư đã xác nhận trực tiếp với ông Solomon chưa?

Langdon bối rối.

- Không, tôi xác nhận với anh, Anthony ạ. Sáng nay!

- Vâng, tôi nhớ rồi - Đầu dây bên kia im bặt một lúc - Đó là sơ suất của Giáo sư đấy, Giáo sư có nghĩ thế không?

Langdon giật thót.

- Anh bảo sao cơ?

- Hãy xem nhé… - người đàn ông nói - ông nhận được một bản fax đề nghị gọi tới một số điện thoại, và làm theo. Ông nói chuyện với một người hoàn toàn xa lạ tự nhận mình là trợ lý của Peter Solomon. Sau đó, ông sẵn sàng leo lên một chiếc máy bay riêng để tới Washington và chui vào một chiếc xe đợi sẵn. Có phải thế không nào?

Langdon rùng mình ớn lạnh.

- Anh là thằng quái nào vậy? Peter đâu?

- Tôi e rằng Peter Solomon không hề biết rằng ông đến Washington tối nay - âm sắc miền nam biến mất, và giọng gã đàn ông chuyển thành tiếng thì thầm dịu dàng - Ngài ở đây, thưa ngài Langdon, bởi vì tôi muốn như vậy.

Chú thích:

(13) Nhà tròn Điện Capitol nằm ngay phía dưới mái vòm và là phần cao nhất của toà nhà này, được xem như “trái tim biểu tượng và vật chất” của Điện Capitol. Nhà tròn được bao quanh bởi những hành lang nối hai khu Hạ viện và Thượng viện. Phía nam Nhà tròn là Đại sảnh Tượng đài Danh nhân Quốc gia - Phía đông bắc là phòng họp cũ của Thượng viện - ND
 
Chương 9

Robert Langdon áp chặt điện thoại di động vào tai và bồn chồn đi đi lại lại trong Sảnh Tượng đài.

- Anh là thằng quái nào vậy?

Gã đàn ông bình tĩnh trả lời bằng giọng thầm thì mượt như nhung.

- Đừng cuống thế, Giáo sư. Ngài được triệu tới đây vì một lý do.

- Triệu tới ư? - Langdon cảm thấy mình như con thú bị nhốt - Anh định bắt cóc tôi chăng?

- Không hề - Giọng gã kia thản nhiên - Nếu tôi chủ tâm làm hại thì ngài đã chết ngay trong chiếc Town Car rồi - Gã bỏ lửng câu nói một lúc.

- Ý định của tôi hoàn toàn cao quý, tôi khẳng định như vậy. Đây chỉ đơn giản một lời mời.

Thôi xin kiếu!

Sau những trải nghiệm tại châu u trong mấy năm vừa qua, sự nổi tiếng không hề mong muốn của Langdon khiến anh trở thành một khối nam châm với những kẻ điên rồ, nhưng gã này đã đi quá giới hạn cho phép.

- Xem nào, tôi không biết chuyện quái gì đang diễn ra ở đây, nhưng tôi sẽ tắt máy…

- Đừng dại dột thế? - gã kia nói - Cơ hội cho ngài cứu rỗi linh hồn Peter Solomon không có nhiều đâu.

Langdon hít một hơi lạnh buốt.

- Anh nói gì?

- Tôi chắc là ngài nghe rõ lời tôi.

Nghe cách gã nọ nhắc đến Peter, Langdon thấy bình tĩnh lại.

- Anh biết gì về Peter nào?

- Tôi biết những bí mật sâu kín nhất của ông ta. Ngài Solomon là khách của tôi, và tôi có thể là một chủ nhà đầy sức thuyết phục.

Không thể như thế được.

- Peter không hề ở chỗ anh.

- Tôi trả lời điện thoại di động riêng của ông ta. Như thế là đủ rồi chứ gì?

- Tôi sẽ gọi cho cảnh sát.

- Không cần đâu, - gã kia đáp - Các nhà chức trách sẽ đến với ngài ngay thôi.

Gã điên này đang nói về chuyện gì không biết

Langdon đanh giọng.

- Nếu Peter ở chỗ anh, hãy để ông ấy nghe máy đi.

- Không được. Ngài Solomon bị kẹt ở một nơi không hay ho lắm - Gã kia ngừng lại - ông ta đang ở Araf(14).

- Ở đâu?- Langdon nhận ra mình đang siết chặt điện thoại đến nỗi tê cứng cả mấy ngón tay.

- Araf? Hamistagan(15)? Cái nơi Dante(16) dâng hiến thần khúc ngay sau trường đoạn Hoả ngục huyền thoại của ông ấy.

Những trích dẫn văn học và tôn giáo của gã đàn ông càng củng cố thêm mối nghi ngờ của Langdon, rõ ràng anh đang phải đương đầu với một tên loạn trí. Thần khúc thứ hai. Langdon biết rất rõ tác phẩm ấy ai học ở Phillips Exeter cũng phải đọc Dante cả.

- Anh bảo rằng Peter Solomon đang… ở trong luyện ngục à?

- Một từ ngữ thô tục mà lũ Thiên Chúa giáo các người sử dụng, nhưng phải, ngài Solomon đang ở quãng giữa.

Lời nói của gã đàn ông ong ong trong tai Langdon.

- Ý anh là Peter đã… chết?

- Không, không hẳn.

- Không hẳn ư?! - Langdon thét lớn, giọng anh dội vang trong đại sảnh. Cả một nhóm du khách trố mắt nhìn anh. Langdon quay đi và hạ giọng:

- Chết là chết, sống là sống chứ!

- Ngài làm tôi ngạc nhiên đấy, thưa Giáo sư. Tôi cứ tưởng ngài hiểu biết sâu sắc hơn về những bí ẩn của sự sống và cái chết cơ. Có một thế giới trung chuyển, một thế giới Peter Solomon đang lang thang vào lúc này. Ông ta có thể quay trở lại thế giới của ngài, mà cũng có thể bước sang thế giới tiếp theo… tuỳ thuộc vào hành động của ngài hiện thời.

Langdon cố gắng tìm hiểu ý nghĩa đằng sau câu nói ấy.

Vậy anh muốn gì ở tôi?

Rất đơn giản. Ngài đã được tiếp cận với một thứ rất cổ xưa, và tối nay, ngài sẽ chia sẻ nó với tôi.

- Tôi chẳng rõ anh đang nói chuyện gì.

- Không. Ngài giả vờ không hiểu những bí mật cổ xưa đã được gửi gắm cho ngài chăng?

Langdon bỗng thấy lòng trĩu nặng, cố gắng đoán xem câu chuyện định dẫn tới đâu. Những bí mật cổ xưa. Anh chưa hề hé một lời với bất kỳ ai về những trải nghiệm của mình hồi ở Paris, nhưng những kẻ cuồng tín Chén Thánh đã theo sát tin tức truyền thông, một số kẻ đoán già đoán non cho rằng Langdon hiện nắm giữ thông tin bí mật liên quan đến Chén Thánh, thậm chí cả nơi cất giấu nó.

- Xem nào, - Langdon nói - nếu chuyện này liên quan đến Chén Thánh thì tôi dám quả quyết với anh rằng tôi chẳng biết gì hơn…

- Đừng có xúc phạm trí thông minh của tôi, ông Langdon, - gã kia gắt lên - Tôi không quan tâm đến mấy thứ vớ vẩn như Chén Thánh hay cuộc tranh cãi ba lăng nhăng của loài người xem phiên bản lịch sử của ai đúng hơn ai. Tôi cũng không hứng thú với các luận điểm quẩn quanh về ngữ nghĩa của tín điều. Đó là loại câu hỏi chỉ được trả lời thông qua cái chết.

Những lời cay nghiệt ấy khiến Langdon bối rối.

- Thế chuyện quái này là gì vậy?

Gã kia nín lặng vài giây.

- Chắc ông cũng biết, ở Washington có một cánh cổng cổ xưa.

Một cánh cổng cổ xưa?

- Và tối nay, thưa Giáo sư, ông sẽ mở nó ra cho tôi. Ông phải lấy làm vinh hạnh vì tôi đã liên hệ với ông. Đây là lời mời đáng giá nhất đời ông đấy. Chỉ riêng ông được lựa chọn mà thôi.

Mày đúng là thằng mất trí.

- Xin lỗi, nhưng anh chọn nhầm người. - Langdon từ chối - Tôi chẳng mảy may hay biết về bất kỳ cánh cổng cổ xưa nào cả.

- Ông không hiểu rồi, thưa Giáo sư. Không phải là tôi chọn ông… mà là Peter Solomon.

- Sao cơ? - Langdon đáp, giọng chỉ như một tiếng thì thầm.

- Ngài Solomon chỉ cho tôi cách tìm cánh cổng, và tiết lộ rằng trên đời này chỉ có một người đủ khả năng mở nó ra. Người đó chính là ông.

- Nếu Peter nói vậy thì chắc ông ấy nhầm… hoặc nói dối.

- Tôi không nghĩ thế. Khi thú nhận sự thực, ông ta đang ở trong trạng thái rất yếu ớt, và tôi thiên về hướng tin lời ông ta.

Langdon cảm thấy tức điên lên.

- Tôi cảnh cáo anh, nếu anh làm hại Peter bằng bất kỳ…

- Lời cảnh cáo quá muộn mằn - gã kia đáp bằng giọng thích thú - Tôi đã khai thác được những gì mình cần từ Peter Solomon. Nhưng vì lợi ích của ông ta, tôi khuyên ông nên đưa cho tôi thứ tôi yêu cầu ở ông. Thời gian chẳng còn bao nhiêu đâu… đối với cả hai vị. Tôi khuyên ông hãy tìm cánh cổng và mở nó ra. Peter sẽ chỉ đường.

Peter?

- Nhưng anh vừa nói Peter đang ở “luyện ngục” kia mà.

- Thượng hạ tương liên(17) - gã kia đáp.

Langdon cảm thấy rùng mình. Câu trả lời lạ lùng này là một ngạn ngữ bí ẩn cổ xưa tuyên ngôn cho niềm tin vào sự liên kết vật lý giữa trời và đất. Thượng hạ tương liên. Langdon dõi mắt nhìn khắp căn phòng rộng lớn và tự hỏi làm thế nào mà tối nay mọi việc lại thay đổi đột ngột ngoài tầm kiểm soát như thế này.

- Chà, tôi không biết cách tìm bất kỳ cánh cổng cổ xưa nào. Tôi sẽ gọi cảnh sát.

- Tại sao ông lại được chọn nhỉ? Thật sự thì nó vẫn chưa hé mở gì với ông à?

- Chưa, - Langdon trả lời.

- Sắp rồi, - gã kia đáp, cười khùng khục - Có khi ngay bây giờ đấy.

Sau đó máy tắt.

Langdon kinh hãi đứng đờ ra một lúc, cố gắng phân tích những gì vừa xảy ra.

Đột nhiên, anh nghe thấy một âm thanh bất ngờ từ xa vọng lại.

Chỗ Nhà tròn.

Ai đó đang gào thét.

Chú thích:

(14) Theo quan điểm Hồi giáo. Araf là vùng ranh giới giữa thiên đàng và địa ngục, dành cho những người không tốt không xấu. Araf cũng là một bức tường cao ngăn giữa thiên đàng và địa ngục. Trên bức tường này là những người thoát khỏi địa ngục nhưng chưa được tiếp nhận lên thiên đàng. Họ rất muốn được vào thiên đàng nhưng tội lỗi và đức hạnh của họ cân bằng nhau - ND.

(15) Hamistagan là một khái niệm chỉ địa điểm tương tự như Araf - ND.

16. Dante Alighieri (1265-1321), một trong những nhà thơ kiệt xuất nhất Italia và thế giới thời Trung cổ, tác giả trường ca Thần chức (La divina commedia). Tác phẩm này được sáng tác bằng tiếng Italia trong thời gian Dante bị trục xuất khỏi quê hương Florence, từ khoảng năm 1308 đến khi ông mất năm 1321, gồm 100 khổ thơ với 14.226 câu thơ, chia làm ba phần, mỗi phần bao gồm 33 khổ thơ: Hoả ngục (Infemo). Luyện ngục (Purgatorio) và Thiên đường (Paradiso). Tác phẩm được xếp vào hàng những bản trường ca vĩ đại nhất của nền văn học thế giới. Trường ca kể lại cuộc du hành của Dante qua ba thế giới bên kia, diễn ra tại thời điểm Ba ngày lễ Phục sinh thiêng liêng mùa xuân năm 1300. Nhà thơ La Mã Virgil dẫn ông đi qua Hoả ngục và Luyện ngục; trong khi nàng Beatrice, người phụ nữ mà Dante coi là lý tưởng, dẫn ông qua Thiên đường. Beatrice là người phụ nữ thành Florence, người mà ông biết đến từ thời thơ ấu, và mang lòng ái mộ, theo hình mẫu tình yêu thuần khiết thời thượng truyền thống - ND.

(17) Nguyên văn: As above, so below. Cụm từ này được dùng trong giới thần bí và yêu thuật và khởi nguồn từ các văn bản của phái thần bí chủ nghĩa. Khái niệm này được đặt ra đầu tiên trong The Emerald Tablet của Hermes Trismegistus, “That which is Below corresponds to that which is Above, anh that which is Above, corresponds to that which is Below, to accomplish the miracles of the One Thing” (Tạm dịch: Cái gì ở Dưới tương ứng với cái gì ở Trên, và cái gì ở Trên tương ứng với cái gì ở Dưới, để đạt tới những phép nhiệm màu của Nhất thể). Theo các cấp độ khác nhau của thực tại: vật chất, tâm thần và tinh thần, khái niệm này được hiểu rằng những gì xảy ra ở một cấp độ nào đó cũng sẽ xảy ra ở mọi cấp độ khác. Tuy nhiên, khái niệm này thường được dùng với thế giới vi mô và vĩ mô. Thế giới vi mô là cá thể còn thế giới vĩ mô là vũ trụ, cái này nằm trong cái kia, và nhờ hiểu một cái (thường là vi mô) mà ta có thể hiểu cái kia - ND.
 
Chương 10

Robert Langdon đã từng vào Nhà tròn Điện Capitol nhiều lần, nhưng đây là lần đầu tiên phải chạy cuống lên thế này. Khi phóng qua cửa phía bắc. anh thấy một nhóm du khách túm tụm ở giữa phòng. Một cậu bé con đang gào khóc, bố mẹ cậu ta gắng sức vỗ về. Những người khác xúm xít xung quanh, vài nhân viên an ninh thì nỗ lực vãn hồi trật tự.

- Gã rút nó ra khỏi cái băng đeo của gã - ai đó nhớn nhác nói - và vứt lại đó!

Khi tới gần, Langdon hướng ngay ánh nhìn vào thứ đang khiến tất cả chấn động. Phải công nhận, vật nằm trên sàn Điện Capitol kia rất vặt vãnh, nhưng sự hiện diện của nó không làm người ta kêu thét lên mới là lạ.

Kẻ nào đó đã bỏ lại một bàn tay hình nộm trong Nhà tròn.

Langdon đã nhìn thấy loại dụng cụ ấy rất nhiều lần. Khoa Nghệ thuật của trường Harvard có hàng chục cái như thế - những người mẫu nhựa với kích cỡ thật đê các nghệ sĩ điêu khắc và hội hoạ sử dụng làm minh hoạ cho các biểu hiện phức tạp nhất của con người, thật lạ là biểu hiện ấy không phải ở gương mặt mà là ở bàn tay.

Những bàn tay hình nộm, hay tay nộm như cách gọi của một số người, có đủ khớp để giúp nghệ sĩ tạo dáng bất kỳ động tác nào theo mong muốn, chẳng hạn ngón giữa chọc thẳng lên không trung là kiểu bọn sinh viên non nớt thường nghịch. Tuy nhiên, tư thế của bàn tay này là ngón trỏ và ngón cái chĩa lên trần nhà.

Khi tới gần hơn, Langdon nhận ra cái tay nộm rất bất bình thường. Bề mặt nó không nhẵn nhụi như đa số những bàn tay nhựa cùng loại. Thay vào đó, bề mặt ấy lấm tấm và hơi nhăn nhúm, trông gần như là…

Da thật

Langdon khựng lại.

Rồi anh nhìn thấy máu. Chúa ơi!

Bàn tay cụt kia bị xiên lên một cái đế gỗ có đóng đinh để dựng đứng được. Langdon thấy nôn nao cả người. Anh nhích lại gần hơn, gần như ngợp thở, giờ thì nhận ra ở đầu ngón cái và ngón trỏ điểm những hình xăm nhỏ xíu. Tuy nhiên, anh không bận tâm nhiều đến mấy đường nét ấy. mọi sự chú ý lập tức bị hút vào chiếc nhẫn vàng quen thuộc ở ngón tay thứ tư.

Không!

Langdon giật nảy mình. Trời đất dường như chao đảo, anh nhận ra bàn tay bị cắt cụt đó là bàn tay phải của Peter Solomon.
 
Chương 11

- Tại sao Peter không trả lời?

Vừa tắt máy di động, Katherine Solomon vừa băn khoăn tự hỏi.

Anh ấy ở đâu nhỉ?

Suốt ba năm qua, trong những cuộc gặp lúc 7 giờ tối Chủ nhật hằng tuần, Peter Solomon luôn là người đến trước. Những buổi gặp mặt này là một nghi thức riêng trong gia đình, giúp duy trì mối liên hệ thường xuyên giữa hai anh em, và giúp Peter cập nhật thông tin về tình hình công việc của Katherine ở phòng thí nghiệm.

Anh ấy chưa bao giờ đến muộn, Katherine nghĩ, và anh ấy luôn trả lời điện thoại. Tệ hơn nữa, cô vẫn không quyết định được là nên nói gì với Peter khi ông đến. Mình biết đề cập thế nào về điều mình phát hiện ra hôm nay?

Bước chân Katherine gõ đều đặn xuống hành lang xi măng. Hành lang này được gọi là “Đường phố” chạy xuyên suốt SMSC như một cột sống, nối liền năm khoang lưu trữ rất lớn. Bên trên, ở độ cao 12 mét là hệ thống tuần hoàn gồm nhiều ống thông gió màu cam đang lọc và lưu thông hàng nghìn mét khối không khí, nó phát ra tiếng kêu ro ro như hoà cùng nhịp đập trái tim của toà nhà.

Mọi lần đi bộ trên quãng đường dài ngót một phần tư dặm tới phòng thí nghiệm, Katherine luôn cảm thấy bình tâm trong tiếng thở của toà nhà. Song đêm nay, âm thanh này lại làm cô bất an. Những chuyện mới biết về Peter có thể khiến ai cũng phải khó chịu. Là người thân duy nhất còn lại trên đời của ông, Katherine rất phiền muộn khi nghĩ rằng anh trai đang giấu giếm mình nhiều điều bí mật.

Cho đến nay, mới chỉ có một lần Peter giữ bí mật với Katherine… một bí mật tuyệt vời cất giấu ở cuối hành lang này. Ba năm trước, ông dẫn em gái xuống đây, giới thiệu với cô về SMSC bằng cách tự hào khoe một vài hiện vật phi thường của toà nhà - mảnh thiên thạch từ sao Hoả mang số hiệu ALH-84001, cuốn nhật ký bằng hình viết tay của Sitting Bull(18), bộ sưu tập bình cau gắn sáp có chứa các tiêu bản gốc do chính Charles Darwin sưu tầm.

Khi đi ngang một cánh cửa nặng nề có ô cửa sổ nhỏ, Katherine thoáng thấy một thứ bên trong. Cô há hốc miệng.

- Kia là cái gì thế?

Peter cười và tiếp tục bước.

- Khoang 3. Nó được gọi là Thuỷ trì. Trông rất lạ lùng, phải không nào?

Nói là kinh khủng thì đúng hơn. Katherine vội vã theo sau anh trai. Toà nhà này hệt như một tinh cầu biệt lập với thế giới bên ngoài.

- Thứ anh muốn chỉ cho em xem nằm ở Khoang 5 - Peter nói, dẫn em gái xuống hành lang dài bất tận - Đây là khu vực mới nhất của bọn anh. Nó được xây dựng để chứa những hiện vật lấy từ tầng hầm Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia. Bộ sưu tập đó dự kiến được chuyển về đây trong vòng năm năm tới, tức là hiện thời Khoang 5 đang rỗng không.

Katherine trố mắt.

- Rỗng không à? Vậy thì mình đi xem làm gì?

Đôi mắt xám của Peter ánh lên vẻ láu lỉnh quen thuộc.

- Anh chợt nghĩ ra là trong lúc chưa ai sử dụng không gian này thì em có thể sử dụng.

- Em à?

- Ừ. Em nên có một phòng thí nghiệm chuyên dụng, dùng để triển khai một vài thí nghiệm lý thuyết mà em đang tiến hành suốt bao năm nay.

Katherine sửng sốt nhìn anh trai.

- Nhưng, anh Peter, những thí nghiệm đó là lý thuyết? Gần như không thể triển khai chúng trên thực tế.

- Chẳng có gì là không thể. Katherine ạ, và toà nhà này rất hoàn hảo với em. SMSC không chỉ chứa các kho báu, nó còn cung cấp phương tiện nghiên cứu khoa học tiên tiến hàng đầu thế giới. Bọn anh liên tục lấy mẫu vật từ các bộ sưu tập và kiểm tra chúng bằng những công nghệ định lượng tốt nhất có thế mua được. Mọi trang thiết bị có khả năng cần đến đều được bố trí ở đây cho em tuỳ ý sử dụng.

- Anh Peter, những trang bị cần thiết để thực hiện các thí nghiệm này…

- Đâu vào đấy cả rồi - Peter mỉm cười rạng rỡ - Phòng thí nghiệm đã hoàn thành.

Katherine dừng phắt lại.

Peter trỏ xuống hành lang dài.

- Chúng ta sẽ tới tham quan nó bây giờ.

Katherine gần như không nói lên lời.

- Anh… anh xây cho em một phòng thí nghiệm à?

- Công việc của anh mà. Viện Smithsonian được thành lập để phát triển kiến thức khoa học, là Tổng thư ký, anh phải nghiêm túc thực hiện trách nhiệm đó. Anh tin rằng những thí nghiệm em đề xuất có tiềm năng mở rộng biên giới khoa học sang một lãnh địa hoàn toàn mới mẻ - Peter ngừng lời, nhìn thẳng vào mắt em gái - Cho dù em có là em gái anh hay không thì anh cũng cảm thấy có nghĩa vụ phải ủng hộ nghiên cứu này. Những ý tưởng của em rất xuất sắc. Thế giới đáng được biết những thí nghiệm ấy đi đến đâu.

- Anh Peter, em không thể…

- Được rồi, thoải mái đi… nó là tiền riêng của anh, vả lại không ai sử dụng Khoang 5 lúc này cả. Khi làm xong những thí nghiệm của mình, em sẽ chuyển đi. Thêm nữa, Khoang 5 có một số đặc tính độc đáo rất thích hợp cho công việc của em.

Katherine chưa hình dung nổi không gian rộng lớn bỏ không kia sẽ đem lại những gì cho nghiên cứu của mình, nhưng cô cảm thấy sắp tìm ra rồi. Bấy giờ họ tới một cánh cửa thép với dòng chữ khắc đậm: KHOANG 5

Peter đưa thẻ từ qua khe, bảng phím điện tử bật sáng. Ông đưa ngón tay bấm mã truy cập, nhưng rồi dừng lại, nhướng cặp lông mày với vẻ ranh mãnh y như hồi còn là một cậu bé.

- Em dám chắc là mình đã sẵn sàng chứ?

Katherine gật đầu. Anh của em, lúc nào cũng giỏi quảng cáo.

- Lùi lại đi - Peter bấm số.

Cánh cửa thép phát tiếng kêu rè rè và mở ra.

Sau ngưỡng cửa chỉ là một màn tối đen như mực… một khoảng trống toang hoang. Có tiếng rền trống rỗng dường như vọng ra từ sâu thẳm. Katherine cảm thấy khí lạnh thốc vào mặt mình. Chẳng khác gì nhìn xuống Hẻm núi Lớn(19) vào ban đêm vậy.

- Hãy hình dung ra một nhà chứa máy bay còn trống đang đợi một phi đội Airbus - Peter nói - và em sẽ có khái niệm cơ bản.

Katherine bất giác lùi lại một bước.

- Khoang này quá rộng nên không thể sưởi ấm được, còn phòng thí nghiệm của em là một phòng bằng bọt đá núi lửa cách nhiệt, gần như một khối vuông, nằm ở góc xa nhất của khoang để bảo đảm cách biệt tối đa.

Katherine cố gắng tưởng tượng. Một cái hộp bên trong một cái hộp. Cô căng mắt nhìn vào khoảng tối đen, nhưng nó đặc quánh.

- Bao xa ạ?

- Khá xa… nhét được cả một sân bóng vào đây đấy. Phải báo trước với em rằng đi bộ tới nơi là tương đối mệt. Rất tối nữa!

Katherine ngập ngừng nhìn về phía góc phòng.

- Không có công tắc đèn à?

- Khoang 5 chưa được đấu điện.

- Nhưng… thế thì phòng thí nghiệm hoạt động sao được?

Peter nháy mắt.

- Dùng pin nhiên liệu hydrogen.

Katherine há hốc miệng.

- Anh đùa đấy à?

- Có đủ năng lượng sạch để vận hành cả một thành phố nhỏ. Tần số sóng vô tuyến ở phòng thí nghiệm của em hoàn toàn tách biệt với phần còn lại của toà nhà. Toàn bộ bề ngoài khoang này được phủ màng phản quang để bảo vệ các hiện vật bên trong khỏi bức xạ mặt trời. Tóm lại, khoang này là một môi trường khép kín, trung tính với năng lượng.

Katherine bắt đầu hiểu sự hấp dẫn của Khoang 5. Vì rất nhiều nghiên cứu của cô tập trung vào việc định lượng các trường năng lượng mới nên cần tiến hành thí nghiệm ở một nơi tách biệt các bức xạ lạ (hay còn gọi là “tạp âm trắng”), tránh cả sự gây nhiễu từ “bức xạ sóng điện não” (hay còn gọi là “bức xạ tư duy”) của những người sống gần đó. Khuôn viên đại học và phòng thí nghiệm bệnh viện đều không đáp ứng được các điều kiện ấy, còn căn hầm chứa bỏ không này lại hoàn hảo tới mức không thể hoàn hảo hơn được nữa.

- Giờ chúng ta vào sâu trong và xem xét nhé - Peter cười tươi, tiến vào khoảng tối đen mịt mùng - Cứ đi theo anh là được.

Katherine ngập ngừng ở ngưỡng cửa. Đi thầm đến hơn 100 thước cơ à? Cô định gợi ý mang đèn pin, nhưng Peter đã tan biến trong bóng tối.

- Anh ơi? - Katherine gọi.

- Hãy vững tin - Peter nói vọng lại, giọng đã khá xa - Em sẽ tìm thấy lối đi. Cứ nghe anh.

Anh ấy đang đùa chắc? Katherine bước vài bước qua ngưỡng cửa, tim đập thình thịch, cố căng mắt dõi vào bóng tối. Mình chẳng nhìn thấy gì cả.

Đột nhiên, cách cửa thép rít lên và đóng sầm lại phía sau, đẩy cô vào bóng tối hoàn toàn. Không có lấy một đốm sáng nào.

- Anh Peter?!

Im lặng.

- Em sẽ tìm thấy lối đi. Cứ nghe anh.

Ngập ngừng, Katherine dò dẫm nhích lên phía trước. Vững tin ư?

Thậm chí còn không nhìn rõ bàn tay xòe ngay trước mặt. Cô tiến thẳng về phía trước, nhưng chỉ vài giây đã hoàn toàn mất phương hướng. Mình đang đi đâu không biết?

Đó là chuyện ba năm về trước.

Giờ đây, khi bước đến trước cánh cửa kim loại nặng nề. Katherine nhận ra mình đã tiến rất xa so với buổi tối đầu tiên ấy. Phòng thí nghiệm - có biệt danh là Khối vuông, một thánh điện ngay trong lòng Khoang 5 - đã trở thành mái ấm của cô. Đúng như Peter tiên đoán, Katherine tìm được đường đi trong bóng tối vào đêm hôm đó, cũng như các hôm khác sau này, nhờ hệ thống chỉ dẫn đơn giản cực kỳ khéo léo mà ông để cô tự khám phá.

Quan trọng hơn là, một lời tiên đoán nữa của Peter cũng đã trở thành hiện thực: thí nghiệm của Katherine đem lại nhiều kết quả phi thường, đặc biệt những đột phá trong sáu tháng vừa qua sẽ làm thay đổi hoàn toàn các mô thức tư duy. Hai anh em thống nhất giữ bí mật tuyệt đối cho tới khi hiểu thật rõ mọi hàm ẩn. Tuy nhiên, Katherine biết rằng một ngày gần đây cô có thể công bố vài phát kiến khoa học, những phát kiến có tính cách mạng nhất trong lịch sử loài người.

Một phòng thí nghiệm bí mật trong một bảo tàng bí mật, Katherine nghĩ thầm, tay nhét thẻ từ vào cánh cửa Khoang 5. Đợi bảng phím điện tử bật sáng, cô nhập mã PIN của mình.

Cánh cửa thép rít lên.

Tiếng rền rĩ quen thuộc vang ra kèm theo luồng khí lạnh giá thường lệ, và như mọi lần. Katherine cảm thấy mạch đập của mình bắt đầu tăng vọt.

Hành trình thường lệ kỳ lạ nhất trên trái đất.

Gắng trấn tĩnh để bắt đầu chuyến đi bộ, Katherine Solomon liếc đồng hồ đeo tay và bước vào không gian trống rỗng. Tuy nhiên, tối nay, một ý nghĩ khó chịu cứ bám riết lấy cô. Peter đang ở đâu nhỉ?

Chú thích:

(18) Sitting Bull (1831 - 1890) là tù trưởng bộ lạc da đỏ Hunkpapa Lakota. Sitting Bull Chỉ huy dân da đỏ trong cuộc chiến chống quân đội Hoa Kỳ và nổi tiếng đánh thắng trong trận Little Bighorn - ND.

19. Hẻm núi Lớn (Grand Canyon) là một khe núi dốc được tạo ra bởi sông Colorado ở bang Arizona, Hoa Kỳ, hàng triệu năm về trước, với độ dài 446 km, rộng 0,4 đến 24 km và sâu hơn 1600 mét. Nơi đây được xem như một “cuốn sách truyện vĩ đại” vì có thể quan sát được các tầng, lớp khác nhau của vỏ Trái đất hình thành trong suốt hơn 2 tỷ năm - ND.
 
Chương 12

Trent Anderson, chỉ huy cảnh sát Điện Capitol, phụ trách an ninh ở khu vực đầu não của Hoa Kỳ đã hơn mười năm nay. Anh là người đàn ông vạm vỡ, tóc đỏ, ngực nở, khuôn mặt rắn rỏi, có dáng dấp quân nhân nhờ kiểu đầu luôn cạo ngắn, vũ khí thường kè kè bên hông như cảnh cáo bất kỳ kẻ ngu ngốc nào dám chất vấn mức độ quyền lực của người đeo nó.

Phần lớn thời gian, Anderson có mặt trong trung tâm giám sát công nghệ cao đặt tại tầng hầm Điện Capitol để phối hợp từ xa với nhóm sĩ quan cảnh sát của mình. Ở đây, anh điều hành một đội kỹ thuật viên theo dõi các màn hình, các kết quả thông báo của máy tính và giữ liên lạc với cán bộ an ninh dưới quyền thông qua một tổng đài điện thoại.

Tối nay Điện Capitol yên ắng một cách khác thường, và Anderson rất hài lòng. Anh hy vọng xem được một chút trận đấu của đội bóng áo đỏ trên chiếc ti vi màn hình phẳng ở văn phòng mình. Song trận đấu chỉ vừa bắt đầu thì bộ đàm của anh réo vang.

- Thưa Chỉ huy?

Anderson bật rên, bấm nút hồi đáp mà mắt vẫn dán vào ti vi.

- Chúng ta có chút rắc rối ở Nhà tròn. Tôi vừa cử nhân viên tới đó rồi, nhưng tôi nghĩ Chỉ huy sẽ muốn xem qua tình hình đấy.

- Được! - Anderson bước vào trung tâm an ninh đầu não, một cơ sở hiện đại thu gọn đầy ắp những màn hình máy tính - Cậu tìm được gì thế?

Kỹ thuật viên đang chuyển một đoạn video kỹ thuật số lên màn hình.

- Máy quay ban công phía đông Nhà tròn. Hai mươi giây trước. - Anh ta cho chạy đoạn phim.

Anderson nhìn qua vai kỹ thuật viên.

Hôm nay Nhà tròn gần như vắng tanh, chỉ lác đác vài ba khách du lịch. Con mắt nhà nghề của Anderson lập tức chú ý tới một người đi một mình và di chuyển nhanh hơn hẳn những người khác. Đầu trọc lốc áo khoác kiểu quân đội màu xanh lục. Cánh tay bị thương đeo băng. Hơi tập tễnh. Dáng đi lom khom. Đang nói chuyện điện thoại.

Tiếng bước chân của gã trọc vang lên khô đanh trên loa cho tới khi đột ngột dừng lại, chính giữa Nhà tròn. Gã kết thúc cuộc trò chuyện và quỳ xuống như thể buộc dây giày. Nhưng thay vì buộc giày, gã lôi một vật ra khỏi băng đeo tay và thả nó xuống sàn. Sau đó gã đứng lên và tập tễnh tiến ra cửa phía đông.

Anderson chăm chú ngó vật thể kỳ dị mà gã kia để lại sau. Cái gì thế nhỉ? Nó cao khoảng 20 cm và dựng đứng. Anderson cúi sát màn hình hơn rồi nheo mắt nhìn. Trông giống lăm, nhưng nhất định không phải!

Bằng những bước chân vội vã, gã trọc nhanh chóng biến mất sau cánh cửa phía đông. Tiếng một cậu bé vang lên cạnh đó:

- Mẹ ơi, ông kia đánh rơi cái gì ấy.

Cậu ta tiến tới gần vật nọ, nhưng lại dừng ngay tắp lự. Bất động hồi lâu, cậu đột ngột trỏ tay và hét lên chói tai.

Ngay lập tức, viên Chỉ huy xoay người lao ra cửa, vừa chạy vừa quát to ra lệnh.

- Liên lạc với tất cả các trạm! Tìm ngay một gã trọc tay băng bó và chặn gã lại. NGAY LẬP TỨC!

Anh lao ra khỏi trung tâm an ninh, nhảy ba bậc một trên mặt cầu thang mòn vẹt. Tín hiệu an ninh cho thấy gã trọc tay băng bó rời Nhà tròn qua cổng phía đông. Do đó, lối ngắn nhất ra khỏi toà nhà sẽ dẫn gã theo hành lang đông-tây, ngay phía trước kia.

Mình có thể chặn đường hắn.

Khi lên đến bậc trên cùng và ngoặt khỏi góc tường, Anderson quan sát hành lang vắng vẻ trải dài trước mặt. Chỉ có một đôi vợ chồng già tay trong tay đi bộ thơ thẩn ở tít đầu bên kia. Gần đó là một du khách tóc vàng mặc chiếc áo phông màu lam đang đọc cuốn sách hướng dẫn và ngắm nhìn phần trần nhà đắp nổi bên ngoài phòng họp Hạ viện.

- Xin lỗi, - Anderson hỏi và chạy lại phía anh ta - Anh có thấy một người trọc đầu tay băng bó không?

Người kia rời mắt khỏi cuốn sách với vẻ mặt ngơ ngác.

- Một người trọc đầu, tay băng bó! - Anderson nhắc lại rành rẽ hơn - Anh có nhìn thấy hắn không?

Vị khách tỏ vẻ ngần ngừ, đoạn lo lắng liếc về đầu phía đông của hành lang.

- A, vâng, - anh ta nói - Tôi nghĩ hắn vừa chạy ngang qua tôi… tới lối cầu thang đằng kia - Anh ta trỏ xuống sảnh.

Anderson rút bộ đàm và quát to.

- Tất cả các trạm! Đối tượng tình nghi tiến ra lối đông nam. Tập hợp! - Anh gác máy và giật tung vũ khí ra khỏi bao, chạy về hướng được chỉ.

***

Ba mươi giây sau, tại một lối ra vắng vẻ bên mạn đông của Điện Capitol, người đàn ông tóc vàng to khỏe trong chiếc áo phông màu lam bước vào trời đêm ẩm ướt. Gã mỉm cười, tận hưởng không khí mát mẻ buổi tối.

Thay hình đổi dạng.

Quá dễ dàng.

Chỉ một phút trước, gã còn vội vàng tập tễnh ra khỏi Nhà tròn trong tấm áo khoác quân đội. Lẩn vào một hốc tường tối, gã lột nhanh áo khoác, để lộ chiếc áo phông màu lam bên trong. Trước khi bỏ lại áo khoác, gã lôi ra một mớ tóc giả màu vàng và đội lên đầu mình. Sau đó, gã đứng thẳng dậy, móc từ áo phông ra một cuốn sách hướng dẫn về Washington và bình thản rời khỏi hốc tường với dáng vẻ tinh tươm.

Thay hình đổi dạng. Đó là tài nghệ của ta.

Bằng những sải chân dài, Mal’akh tiến về phía chiếc Limousine đang chờ sẵn. Gã cong lưng, đứng thẳng lên với chiều cao gần 1m9 và vươn vai. Gã hít thật sâu đê không khí tràn vào căng phổi, cảm thấy đôi cánh phượng hoàng xăm trên ngực đang quạt rộng ra.

Giá như họ biết sức mạnh của ta. Mal’akh nghĩ, đăm đăm nhìn về phía thành phố. Đêm nay quá trình chuyển đổi của ta sẽ hoàn tất.

Mal’akh đã chơi những con bài của mình rất điệu nghệ ngay trong Điện Capitol, qua đó thể hiện sự kính nể đối với tất cả những nghi thức cổ xưa. Lời mời cổ xưa đã được gửi đi. Nếu Langdon chưa hiểu được vai trò của ông ta ở đây tối nay thì chỉ lát nữa ông ta sẽ hiểu.
 
Chương 13

Nhà tròn Điện Capitol - cũng như nhà thờ Thánh Peter - luôn khiến Robert Langdon ngạc nhiên. Về lý thuyết, anh vẫn biết gian phòng này lớn tới mức thừa chỗ đặt tượng Thần Tự do, nhưng chẳng hiểu sao anh vẫn cảm thấy nó rộng hơn và thiêng liêng hơn mình nghĩ nhiều, như thể có các linh hồn lẩn quất trong không trung vậy.

Tuy thế, đêm nay ở đây chỉ có sự hỗn loạn.

Các sĩ quan cảnh sát Điện Capitol vừa triển khai bao vây Nhà tròn vừa cố gắng xua đám du khách hoảng loạn tách xa khỏi bàn tay. Cậu bé con vẫn khóc. Chợt có ánh đèn sáng rực nhá lên - một khách tham quan đang chụp ảnh. Mấy nhân viên an ninh lập tức ngăn cản, giằng lấy máy ảnh và dẫn ông ta đi. Giữa tình cảnh lộn xộn ấy, Langdon như bị thôi miên, cứ vô thức len lỏi qua đám đông, nhích lại gần bàn tay.

Bàn tay phải của Peter Solomon dựng thẳng đứng, cổ tay bị chém rất ngọt gắn liền với đế gỗ nhỏ nhờ một cái xiên. Ngón giữa, ngón vô danh và ngón út gập lại, còn ngón cái và ngón trỏ duỗi hẳn ra, chỉ thẳng lên mái vòm cao vút.

- Tất cả lùi lại! - một sĩ quan hô.

Bấy giờ Langdon đã đứng khá gần, đủ để trông thấy vết máu khô chảy từ cổ tay và đông lại trên đế gỗ. Nếu chết rồi thì vết thương không thể chảy máu… tức là Peter còn sống. Langdon không biết mình nên cảm thấy nhẹ nhõm hay ghê sợ. Peter bị chặt tay khi vẫn còn sống ư? Anh sực nhớ lại bao nhiêu lần người bạn thân thiết chìa chính bàn tay này ra để bắt tay hoặc âu yếm ôm lấy mình. Túi mật như lộn lên tận cổ họng anh.

Trong khoảnh khắc, đầu óc Langdon trống rỗng, y hệt ti vi mất sóng. Rồi hình ảnh rõ nét đầu tiên bật ra đột ngột.

Một chiếc vương miện… và một ngôi sao.

Langdon cúi xuống, chăm chú nhìn đau ngón tay cái và trỏ của Peter. Những hình xăm? Thật khó tin, chắc đây là tác phẩm của chính tên quái vật đã chặt tay Peter.

Trên ngón cái là hình vương miện. Còn trên ngón trỏ là hình ngôi sao.

Không thể nào! Hai dấu hiệu nọ lập tức đánh mạnh vào cân não Langdon, biến cảnh tượng hãi hùng trước mắt anh thành một điều gì gần như phi thực. Vương miện và ngôi sao đã xuất hiện rất nhiều lần trong lịch sử, luôn luôn cùng nhau và cùng một chỗ - trên những đầu ngón tay của một bàn tay. Nó là một trong những biểu tượng thần bí và được thèm muốn nhất của thế giới cổ đại.

Mật Thủ(20).

Biểu tượng này tuyệt tích đã lâu, nhưng xưa kia, nó tượng trưng cho một lời hô hào mạnh mẽ. Langdon căng óc, cố tìm hiểu ý nghĩa của cái vật kỳ quái trước mặt mình. Kẻ nào đó dùng bàn tay Peter để tạo Mật Thủ? Thật không thể tưởng tượng nổi. Theo truyền thống, biểu tượng được khắc trên đá, gỗ hoặc thể hiện qua hình vẽ. Chăng ai lấy xương thịt con người làm Mật Thủ. Y tưởng này thật kinh tởm.

- Thưa ông? - một nhân viên an ninh lên tiếng phía sau Langdon - Xin hãy lùi lại.

Langdon hầu như không nghe thấy. Còn những hình xăm khác nữa. Mặc dù không nhìn được ba đầu ngón tay còn lại, nhưng Langdon biết chúng cũng sẽ mang những dấu hiệu đặc biệt riêng. Đó là truyền thống. Tổng cộng có năm biểu tượng. Đã mấy ngàn năm qua, những biểu tượng trên các đầu ngón tay Mật Thủ chưa bao giờ thay đổi… hàm ý của nó cũng vậy.

Bàn tay thể hiện… một lời mời.

Langdon rùng mình khi nhớ lại câu nói của gã đàn ông đã kéo anh tới đây. Thưa Giáo sư đây là lời mời đáng giá nhất đời ông đấy. Thật vậy, Mật Thủ thời xưa có vai trò như lời mời quý giá nhất trên trái đất. Nhận được biểu tượng này tức là nhận được lệnh triệu tập thiêng liêng để gia nhập một nhóm tinh tuý gồm toàn những người bảo vệ cho sự uyên thâm bí ẩn của mọi thời đại. Lời mời vừa là một vinh dự, vừa ngụ ý rằng bề trên tin tưởng anh xứng đáng nhận được sự uyên thâm ấy, và như thế, Mật Thủ chính là bàn tay của bề trên chìa ra cho kẻ nhập môn.

- Thưa ông - nhân viên an ninh nhắc lại, đồng thời đặt bàn tay rắn rỏi của anh ta lên vai Langdon - Yêu cầu ông lùi lại ngay.

- Tôi biết thứ này có ý nghĩa gì, - Langdon giãy ra - Tôi có thể giúp các anh.

- Lùi lại ngay! - người bảo vệ nói.

- Bạn tôi đang bị đe doạ. Chúng ta phải…

Những cánh tay mạnh mẽ kéo Langdon lên và lôi anh ra xa bàn tay. Langdon đành buông xuôi… lòng dạ rối bời đến nỗi không đủ sức kháng nghị. Anh đã nhận được một lời mời chính thức. Kẻ nào đó đang triệu tập anh đến mở cánh cổng huyền hoặc dẫn vào một thế giới khác - thế giới của những điều bí ẩn cổ xưa và những tri thức chưa ai hay biết.

Nhưng tất cả thật điên rồ.

Đều do ảo tưởng của một kẻ tâm thần.

Chú thích:

(20) Mật Thủ (Hand of the Mysteries - Bàn tay kỳ bí) là bàn tay mang rất nhiều biểu tượng (chìa khoá). Hình tượng này được xem như bàn tay của một triết gia chìa ra đón nhận những người bước vào thế giới của những điều bí mật. Về mặt triết học, mỗi biểu tượng trên bàn tay chính là một điều bí mật, mà nếu hiểu được chúng, con người sẽ khai mở được những “căn phòng” trong chính mình - ND.
 
Chương 14

Chiếc Limousine dài thượt của Mal’akh nhẹ nhàng rời xa Điện Capitol, tiến về phía đông, xuôi xuống Đại lộ Độc Lập. Một đôi nam nữ trên vỉa hè cố căng mắt nhìn qua những ô cửa sau lắp kính màu, hy vọng trông thấy yếu nhân ngồi bên trong.

Ta ở đằng trước cơ mà. Mal’akh nghĩ thầm, tự mãn cười với mình.

Gã ưa thích cái cảm giác quyền lực khi tự lái chiếc xe hơi đồ sộ này. Ở nhà còn năm chiếc xe hơi nữa, nhưng không chiếc nào đem lại điều gã cần tối nay, đó là sự đảm bảo riêng tư. Riêng tư hoàn toàn.

Những chiếc Limousine ở Washington đều được hưởng một sự miễn trừ bất thành văn. Người ta gọi chúng là toà đại sứ trên các bánh xe.

Đám cảnh sát làm việc gần đồi Capitol chẳng bao giờ dám chắc mình có thể chặn phải nhân vật thần thế cỡ nào ngồi trong một chiếc Limousine, nên đơn giản nhất là tránh voi chẳng xấu mặt nào.

Khi vượt sông Anacostia sang địa phận Maryland, Mal’akh cảm thấy lực hút của số phận đang cuốn mình tới chỗ Katherine. Nhiệm vụ thứ hai trong đêm nay đang vẫy gọi mình… một nhiệm vụ chưa bao giờ mình tưởng tượng nổi. Đêm qua, Peter Solomon đã tiết lộ điều bí mật cuối cùng, nhờ đó Mal’akh biết về sự tồn tại của một phòng thí nghiệm, nơi Katherine Solomon đang thực hiện những phép màu và đạt được nhiều bước đột phá vĩ đại tới mức đủ sức thay đổi cả thế giới, một khi chúng được công bố.

Công việc đó sẽ hé lộ bản chất thật của tất cả mọi điều.

Đã nhiều thế kỷ nay, “những bộ óc sáng láng nhất” trên trái đất đều phủ nhận khoa học cổ đại. Tự trang bị cho mình thái độ hoài nghi thiển cận, họ thường chế giễu khoa học cổ là dị đoan ngu ngốc, trong khi đó lại ngất ngây vì công nghệ mới - vốn là thứ chỉ càng kéo họ rời xa chân lý. Những đột phá của thế hệ trước luôn bị công nghệ của thế hệ sau chứng minh là sai lầm, và cứ thế tình trạng này diễn ra qua nhiều thời đại. Con người càng học hỏi thì càng nhận thấy mình chẳng hiểu biết gì hết.

Mấy nghìn năm qua, nhân loại vẫn đang dò dẫm trong bóng tối… nhưng giờ đây, sắp có một sự thay đổi, đúng như lời tiên tri. Lần mò mãi trong lịch sử, cuối cùng nhân loại cũng đến được một giao lộ.

Khoảng khắc này đã được dự đoán từ lâu, được tiên tri trong những văn bản cổ xưa, những cuốn lịch nguyên thuỷ, thậm chí trong chính các vì sao. Ngày tháng rất cụ thể, và nó sắp đến. Dẫn đường cho nó là sự bùng nổ tri thức vĩ đại… là luồng ánh sáng soi rọi bóng tối, cho nhân loại cơ hội cuối cùng để tránh xa vực thẳm và tiến vào con đường trí tuệ.

Ta đến để xua tan ánh sáng, Mal’akh nghĩ. Đây là vai trò của ta.

Số phận đã gắn gã với Peter và Katherine Solomon. Những đột phá mà Katherine thực hiện trong SMSC có nguy cơ tháo cũi xổ lồng cho tư duy tương lai, bắt đầu thời đại Khai sáng mới. Một khi cô cho công bố những khám phá đó, chúng sẽ trở thành chất xúc tác, thành nguồn cảm hứng để nhân loại phát hiện lại những tri thức đã mất, tạo ra nhiều quyền năng khó tả.

Định mệnh của Katherine là thắp lên ngọn đuốc.

Còn định mệnh của ta là dập tắt nó.
 
Chương 15

Katherine Solomon dò dẫm trong bóng tối mịt mùng, gắng tìm cửa ngoài của phòng thí nghiệm. Khi chạm tới cánh cửa lót chì ấy, cô ra sức kéo mạnh và lách nhanh vào tiền sảnh nhỏ xíu. Chỉ mất 90 giây để băng qua khoảng không mông lung nọ, vậy mà tim cô đập dữ dội.

Ba năm đã qua, chắc anh tưởng em quen với quãng đường đó rồi phải không? Katherine luôn cảm thấy an tâm khi thoát khỏi màn đen của Khoang 5 và bước vào không gian sáng sủa, sạch sẽ này.

“Khối vuông” là một cái hộp khổng lồ không có cửa sổ. Lưới sợi chì bọc titan trải kín từng li tường và trần nhà, y như một cái chuồng khổng lồ xây dựng bên trong hàng rào xi măng. Không gian này được chia thành nhiều ngăn khác nhau như phòng thí nghiệm, phòng điều khiển, phòng máy, phòng tắm và một thư viện nghiên cứu nhỏ… nhờ các vách ngăn bằng kính mờ Plexiglas.

Katherine nhanh nhẹn bước vào phòng thí nghiệm chính. Đây là một nơi làm việc sáng sủa và vô trùng, trang bị nhiều thiết bị định lượng tiên tiến: các máy điện não đồ, một máy femto giây(21), một bẫy quang từ, và công cụ phân tích xác suất dựa trên tiếng ồn điện tử (hay gọi đơn giản là Máy tạo Biến cố Ngẫu nhiên).

Các trang thiết bị và công nghệ phục vụ việc nghiên cứu Lý trí học tuy rất tiên tiến, song chính những phát kiến lại bí ẩn hơn hẳn đám máy móc lạnh lẽo dùng để tạo ra chúng kia. Những dữ liệu mới được nạp vào sẽ mau chóng biến nhiều phép màu và huyền thoại thành hiện thực, điều này củng cố cho hệ tư tưởng cơ bản của lý trí học, đó là: trí óc con người vẫn còn nhiều tiềm năng chưa khai phá hết.

Luận thuyết chung rất đơn giản: Chúng ta mới chỉ chạm đến bề mặt trí tuệ và năng lực tinh thần của mình mà thôi.

Thông qua thí nghiệm, một vài cơ sở như Viện Khoa học Tinh thần (IONS) tại California và Phòng Nghiên cứu những Dị thường Công nghệ Princeton (PEAR) đã khẳng định rằng suy nghĩ của con người, nếu được tập trung một cách thích hợp, có khả năng tác động và thay đổi khối lượng vật chất. Thí nghiệm của họ không phải là dạng tiểu xảo mua vui ở các phòng khách như kiểu “bẻ cong thìa”, mà là những thẩm định được kiểm soát kỹ càng và đem lại cùng một kết quả phi thường: tư duy con người tương tác với thế giới vật chất, thậm chí có khả năng thay đổi tới cả lĩnh vực hạ nguyên tử, cho dù con người có biết điều đó hay không.

Ý thức bao trùm vật chất.

Năm 2001, trong những thời khắc tiếp theo sự kiện hãi hùng ngày 11 tháng 9, lĩnh vực Lý trí học đã đạt được bước tiến vượt bậc. Bốn nhà khoa học phát hiện ra rằng, khi thế giới hoảng loạn cố kết lại và cùng hướng mọi sự chú ý vào thảm kịch này trong nỗi sợ hãi chung thì kết quả của ba mươi bảy Máy tạo Biến cố Ngẫu nhiên khác nhau trên khắp thế giới đột ngột trở nên bớt ngẫu nhiên rõ rệt. Bằng cách nào đó, sự đồng nhất về trải nghiệm, sự tập hợp của hàng triệu bộ óc đã ảnh hưởng đến chức năng ngẫu nhiên hoá của những cỗ máy, hệ thống các thông tin đầu ra của chúng và tạo lập được một trật tự từ trong hỗn loạn.

Xem ra, phát hiện đáng kinh ngạc ấy trùng khớp với một tín điều xa xưa, theo đó người ta tin tưởng vào “ý thức vũ trụ” - một tập hợp to lớn những ý hướng con người mà trên thức tế có thể tương tác với thế giới vật chất. Gần đây, các nghiên cứu về thiền định và cầu nguyện tập thể cũng đem lại những kết quả tương tự trên các Máy tạo Biến cố Ngẫu nhiên, củng cố thêm nhận định của tác giả Lý trí học Lynne McTaggart: ý thức con người là một thực thể bên ngoài những giới hạn cơ thể, là một năng lượng có tổ chức cao đủ khả năng thay đổi thế giới vật chất. Katherine say mê cuốn sách Cuộc du hành vào Ý thức của McTaggart, cũng như rất quan tâm đến công trình nghiên cứu qua Web của nữ tác giả này. Tại địa chỉ themtentionexperimnent.com, McTaggart tiến hành các thực nghiệm nhằm khám phá xem ý niệm con người tác động ra sao đến thế giới. Bên cạnh đó, còn một số nghiên cứu khá cách tân, lưu hành dưới dạng văn bản, cũng khơi gợi nhiều hứng thú của Katherine.

Nền tảng này giúp Katherine tiến nhanh hơn trong công việc, giúp cô chứng minh được rằng “tập hợp tư duy” đủ sức tác động đến bất kỳ thứ gì, từ khả năng tăng trưởng của cây cối, hướng cá bơi trong bát, cách tế bào phân chia trên đĩa cấy vi khuẩn, quá trình đồng bộ hoá những hệ thống tự động tách biệt, đến các phản ứng hoá học trong cơ thể ai đó. Thậm chí ý niệm cá nhân có thể biến đổi cả cấu trúc kết tinh của một chất rắn mới hình thành. Katherine đã tạo ra những tinh thể băng đối xứng hoàn hảo bằng cách truyền suy nghĩ trìu mến vào một ly nước khi nó đóng băng. Thật kỳ diệu, trường hợp ngược lại cũng thu được kết quả tương ứng: khi Katherine truyền những suy nghĩ tiêu cực, ô nhiễm vào nước, các tinh thể băng liền hình thành dưới dạng hỗn độn, dễ đứt gãy.

Tư duy con người có thể biến đổi thế giới vật chất.

Khi tiến hành những thí nghiệm táo bạo hơn, Katherine càng thu được nhiều kết quả đáng kinh ngạc. Công việc của cô đã chứng minh rằng “ý thức bao trùm vật chất” hiển nhiên không chỉ là câu thần chú tự huyễn hoặc của Kỷ nguyên Mới. Ý thức có khả năng thay đổi trạng thái của vật chất, và quan trọng hơn, ý thức có đủ sức mạnh khuyến khích thế giới vật chất dịch chuyển theo một hướng nhất định.

Chúng ta chính là chủ nhân của vũ trụ.

Ở mức độ hạ nguyên tử, Katherine nhận thấy các hạt tồn tại hay tiêu biến hoàn toàn phụ thuộc vào việc cô có muốn quan sát chúng hay không. Nói theo một nghĩa nào đó là niềm ước mong được nhìn thấy một, hạt… đã làm hạt đó xuất hiện. Nhiều thập kỷ trước, Heisenberg từng đề cập đến thực tế này, và giờ đây nó trở thành một nguyên tắc cơ bản của khoa Lý trí học. Theo Lynne McTaggart thì: “Bằng cách này hay cách khác, ý thức sống có tác động đến việc biến khả năng thành sự thật. Yếu tố quan trọng nhất tạo ra vũ trụ của chúng ta chính là ý thức quan sát vũ trụ đó”.

Chưa hết, các nghiên cứu của Katherine còn đưa đến một nhận định hết sức phi thường: nếu biết luyện tập, ta có thể tăng cường mức độ ảnh hưởng của ý thức lên thế giới vật chất, ý thức là một kỹ năng hình thành được nhờ rèn giũa. Cũng như ngồi thiền, muốn khai thác sức mạnh thật sự của “tư duy, thì phải luyện tập. Quan trọng hơn… một số người bẩm sinh thành thạo trong việc điều khiển ý thức hơn những người khác, và trước đây đã có vài người thật sự trở thành những bậc thầy.

Đó là mắt xích còn thiếu giữa khoa học hiện đại và thuyết thần bí cổ xưa.

Katherine học được điều này từ người anh trai, Peter. Vừa sực nhớ về ông, cô lại cảm thấy vô cùng lo lắng. Cô bước tới thư viện và ngó vào.

Vắng ngắt.

Thư viện là một phòng đọc nhỏ với hai chiếc ghế Morris, một bàn gỗ hai cây đèn đứng và một giá sách bằng gỗ gụ áp sát tường chất khoảng 500 cuốn sách. Sách này là do Katherine và Peter góp chung, nội dung bao gồm mọi đề tài họ yêu thích, từ vật lý hạt đến chủ nghĩa thần bí cổ xưa. Bộ sưu tập của họ đã phát triển thành một hỗn hợp dung hoà cả mới và cũ, tiên tiến và lịch sử. Hầu hết sách của Katherine mang những tựa đề như Ý thức Lượng tử Vật lý học Mới và Những Nguyên tắc của Thần kinh học. Còn sách của anh trai cô mang những cái tên khó hiểu hơn, cổ kính hơn như Kybalion(22), Zohar(23), Các bậc thầy vật lý nhảy múa(24), và một bản dịch thẻ sách của người Sumeria lấy từ Bảo tàng Anh quốc.

Peter thường nói:

- Chìa khoá cho tương lai khoa học được cất giấu trong quá khứ của chúng ta.

Là một học giả cống hiến cả đời cho lịch sử, khoa học và chủ nghĩa thần bí, Peter chính là người đầu tiên khích lệ Katherine nâng cao kiến thức ở bậc đại học bằng những hiểu biết về triết học Hermetic sơ khai. Katherine chỉ mới 19 tuổi khi Peter khơi dậy nơi cô sự quan tâm đối với mối liên hệ giữa khoa học hiện đại và chủ nghĩa thần bí cố xưa.

- Nào Kate, hãy cho anh biết - Peter đề nghị vào kỳ nghỉ năm thứ hai của Katherine - Thời buổi này sinh viên Đại học Yale - đọc gì về vật lý lý thuyết?

Katherine đứng trong thư viện bao la sách của gia đình và liệt kê danh mục sách cần đọc.

- Rất ấn tượng, - Peter nhận xét - Einstein, Bohr, và Hawking là những thiên tài hiện đại. Nhưng em đã đọc gì xa xưa hơn nữa chưa?

Katherine gãi đầu.

- Ý anh là kiểu như… Newton?

- Tiếp tục xem nào - Peter mỉm cười. Ở tuổi 27, anh đã nổi danh trong giới học thuật, và thường cùng em gái tận hưởng hình thức đối đáp giải trí rất trí tuệ này.

Còn xa xưa hơn cả Newton cơ à? Những cái tên cũ kỹ như Ptolemy, Pythagoras, và Hermes Trismegistus nảy ra trong đầu Katherine. Làm gì còn ai đọc những thứ ấy nữa.

Peter rà một ngón tay dọc theo giá sách dài toàn những bìa da nứt nẻ và hàng tập sách cũ kỹ nhuốm bụi.

- Kiến thức khoa học của người xưa cực kỳ đáng nể… vật lý hiện đại giờ đây chỉ mới bắt đầu hiểu về nó mà thôi.

- Anh Peter, - Katherine nói - anh từng kể với em rằng người Ai Cập biết về đòn bẩy và ròng rọc từ rất lâu trước thời Newton, và rằng các nhà giả kim cổ đại chẳng kém cạnh gì hoá học gia hiện đại, nhưng thế thì sao? Vật lý học ngày nay giải quyết được những khái niệm mà cổ nhân không thể tưởng tượng nổi kia.

- Chẳng hạn như…?

- Chà… chẳng hạn thuyết rối lượng tử! Các nghiên cứu hạ nguyên tử đã chứng minh rõ ràng rằng mọi vật chất có liên hệ qua lại, chúng cùng mắc vào một mạng lưới duy nhất… một dạng tổng thể vũ trụ.

- Anh định nói với em rằng người cổ đại đã từng ngồi với nhau thảo luận về thuyết rối lượng tử chắc?

- Hẳn rồi! - Peter đáp, gạt mớ tóc đen dài trước trán cho khỏi vướng mắt mình - Sự liên hệ là cốt lõi của những tín điều nguyên thuỷ. Tên gọi của nó cũng xa xưa như chính lịch sử vậy… Dharmakaya(25), Đạo Bà la môn(26). Trên thực tế, cuộc truy tìm tinh thần cổ xưa nhất của con người là nhận thức về sự ràng buộc của bản thân, để cảm nhận mối liên hệ qua lại giữa mình với tất cả mọi thứ. Con người luôn muốn trở thành “một chủ thể” cùng với vũ trụ… để đạt tới nhất thể trạng (at-one-ment). - Anh nhướng mày - Cho đến nay, người Do Thái và người Thiên Chúa giáo vẫn cố gắng “chuộc tội” (atonement)… mặc dù hầu hết chúng ta đã quên rằng chính “nhất thể trạng” mới thực sự là thứ chúng ta đang tìm kiếm.

Katherine thở dài, sực nhớ ra rằng khó lòng tranh luận được với một người quá thông thạo lịch sử.

- Được rồi, nhưng mà anh đang nói đến những thứ tổng quát. Còn em thì nói về vật lý cụ thể.

- Vậy thì cụ thể nhé - Đôi mắt tinh anh của Peter ánh lên thách thức.

- Vâng, thế những thứ đơn giản như tính phân cực, hay cân bằng dương/âm của lĩnh vực hạ nguyên tử thì sao nào? Rõ ràng, người cổ đại không hiệu…

- Từ từ đã! - Peter rút ra một văn bản phủ bụi và đập mạnh xuống bàn - Tính phân cực hiện đại chính là “thế giới kép” đã được Krishna(27) mô tả trong cuốn Bhagavad Gita(28) này từ hơn 2000 năm trước. Ở đây có hàng chục cuốn sách khác, kể cả Kybalion, nói về các hệ đôi và lực đối lập trong tự nhiên.

Katherine tỏ vẻ hoài nghi.

- Vâng, nhưng nếu bàn về phát hiện hiện đại liên quan đến hạ nguyên tử, chẳng hạn nguyên tắc bất định Heisenberg…

Khi đó ta phải xem ở đây, - Peter ngắt lời, sải bước dọc giá sách dài và rút ra một cuốn sách khác - Những quyển Kinh Vệ đà của người Hindu được gọi là Upanishads(29) - Anh đặt mạnh cuốn sách lên trên cuốn thứ nhất - Heisenberg và Schrodinger đã nghiên cứu tài liệu này và ghi rõ rằng nó giúp họ hình thành một số luận thuyết riêng.

Cuộc tranh luận còn tiếp tục vài phút nữa, chồng sách bụi bặm trên bàn càng lúc càng cao. Cuối cùng, Katherine giơ tay chịu thua.

- Được rồi! Anh đã thắng, nhưng em muốn nghiên cứu vật lý lý thuyết tiên tiến. Tương lai của khoa học! Em cho rằng Krishna hay Vyasa(30) chẳng có gì nhiều để mà đề cập tới lý thuyết siêu dây và các mô hình vũ trụ học đa chiều đâu.

- Em nói đúng. Họ không hề đả động đến - Peter ngừng lời, môi thoáng nụ cười - Khi em nêu ra lý thuyết siêu dây… - Anh tiến lại gần giá sách lần nữa - tức là em đang nhắc tới cuốn sách này- Anh lôi ra một cuốn sách bọc da to tướng và ném rất mạnh xuống bàn - Bản dịch thế kỷ XIII từ nguyên bản tiếng Syria trung cổ.

- Lý thuyết siêu dây vào thế kỷ XIII? - Katherine ngờ vực - Anh tiếp đi!

Lý thuyết siêu đây là một mô hình vũ trụ học hết sức mới mẻ. Thông qua những quan sát khoa học gần đây nhất, nó hé mở về một vũ trụ đa chiều được cấu thành không phải từ ba… mà từ mười chiều, tất cả đều tương tác như những sợi dây dao động, tương tự các dây đàn vĩ cầm cộng hưởng.

Katherine im lặng chờ đợi. Trong khi đó, anh trai cô mở sách, lướt qua phần mục lục được in rất đẹp rồi búng tay vào một chỗ gần đầu cuốn sách.

- Đọc đoạn này đi - Anh trỏ vào một trang văn bản và biểu đồ đã mờ.

Hết sức nghiêm túc, Katherine xem kỹ trang sách. Bản dịch dùng nhiều từ cổ và rất khó đọc, nhưng trước sự ngạc nhiên hoàn toàn của cô gái, quả thực lời văn và các hình vẽ mô tả một vũ trụ mười chiều với những sợi dây cộng hưởng y hệt mô hình vũ trụ theo lý thuyết siêu dây hiện đại. Vừa đọc tiếp xuống dưới, Katherine bỗng há hốc miệng và nhảy dựng lên.

- Chúa ơi, thậm chí nó còn mô tả rõ sáu chiều liên hệ với nhau thế nào và vận hành như một chỉnh thể ra sao? - Cô thảng thốt giật lui một bước - Cuốn sách này là gì vậy?

Peter cười toe toét.

- Là thứ mà anh hy vọng một ngày kia em sẽ đọc - Anh lại búng tay lên trang bìa, nhan đề gồm ba chữ in rất đẹp.

Zohar Toàn tập.

Mặc dù chưa bao giờ đọc Zohar nhưng Katherine đã nghe nói nó là tài liệu căn bản của thuyết thần bí Do Thái cổ đại, và chỉ dành cho những giáo sĩ thông thái nhất.

Cô nhìn cuốn sách.

- Vậy là xưa kia, những người theo thuyết thần bí đã biết vũ trụ của họ có mười chiều rồi ư?

- Chính xác - Peter ra hiệu về phía hình minh hoạ tên là Sephiroth(31) gồm mười vòng tròn đan xen vào nhau trên trang sách - Rõ ràng, thuật ngữ thì khó hiểu nhưng bản chất rất tiên tiến.

Katherine không biết phản ứng thế nào.

- Nhưng… tại sao sau họ không còn ai nghiên cứu vấn đề này?

Peter mỉm cười.

- Còn chứ.

- Em không hiểu.

- Katherine, chúng ta sinh ra trong một thời đại tuyệt vời. Sắp có thay đổi rồi. Loài người đang đứng ở ngưỡng cửa của một kỷ nguyên mới, họ sắp dõi mắt nhìn lại tự nhiên và những lối xưa… quay về với ý tưởng trong các cuốn sách như Zohar hay nhiều văn bản cổ khác từ khắp các nơi trên thế giới. Chân lý vững mạnh có sức hấp dẫn riêng và cuối cùng sẽ kéo người ta về với nó. Rồi một ngày kia, khoa học hiện đại sẽ nghiêm túc nghiên cứu tri thức của người xưa… đó là ngày nhân loại bắt đầu tìm thấy đáp án cho những câu hỏi lớn vẫn còn vượt quá tầm hiểu biết của mình.

Đêm ấy, Katherine háo hức đọc tập tài liệu cổ của anh trai mình và nhanh chóng hiểu rằng anh nói đúng: Người cổ đại sở hữu một tri thức khoa học phong phú. Khoa học ngày nay mới chỉ “khám phá lại” chứ chưa “phát hiện” được gì nhiều. Nhân loại đã từng thấu hiểu bản chất thật sự của vũ trụ… nhưng lại để tuột mất, và lãng quên.

Vật lý học hiện đại có thể giúp chúng ta nhớ ra! Katherine xác định sẽ dành trọn cuộc đời cho nhiệm vụ sử dụng khoa học tiên tiến để tái phát hiện những tri thức mất mát của người xưa. Điều đó không đơn thuần là cảm hứng với học thuật vẫn mang lại động lực cho cô bấy nay, mà quan trọng hơn, Katherine nhận thức được rằng thế giới cần đến những vốn hiểu biết ấy… cần hơn bao giờ hết.

Đến cuối phòng thí nghiệm, Katherine nhìn thấy chiếc áo bờ-lu trắng của anh trai treo trên móc bên cạnh áo mình. Cô rút điện thoại ra kiểm tra tin nhắn. Chẳng có gì. Một giọng nói lại vang lên trong tâm trí cô. Có thêm tìm được thứ mà anh trai bà tin rằng đang giấu ở thủ đô. Một truyền thuyết sở dĩ tồn tại được nhiều thế kỷ… là có lý do cả đấy.

- Không, - Katherine nói to - Đó không thể nào là sự thật.

Đôi khi một truyền thuyết chỉ đơn giản là một truyền thuyết mà thôi.

Chú thích:

(21) Một femto giây là đơn vị thời gian tương đương 10-15 giây, tức là một phần tỷ của một phần triệu của một giây. Nếu lấy một femto giây tương đương một giây, thì một giây sẽ tương đương 420 triệu năm. Hoặc nếu một femto giây tương ứng với đường kính một sợi tóc thì một giây tương đương khoảng cách giữa Trái đất và Mặt trăng - ND.

(22) The Kybalion: Hermetic Philosophy (Kybalion: Triết học Kỳ bí) là một cuốn sách ra đời năm 1908, cô đúc những lời dạy của Hermes Trismegistus, vị thần kết hợp giữa thần Hermes của Hy Lạp và thần Thoth của Ai Cập, hai vị thần chủ về chữ viết và pháp thuật. Sách do tác giả ẩn danh tự nhận là “Ba tín đồ nhập môn” - ND.

Kybalion lần đầu được xuất bản tháng 12 năm 1912. Nội dung sách dựa trên lý thuyết thần bí cổ đại Hermeticism, nhưng cũng có rất nhiều ý tưởng và khái niệm tương đối hiện đại xuất hiện trong trào lưu Tư duy mới. Sách có 7 chương, mỗi chương nói tới một “nguyên lý” về: Tinh thần. Tương hợp, Rung chấn, Phân cực Tiết tấu, Nhân quả, và Giới tính - ND.

(23) Zohar (có nghĩa Huy hoàng hoặc Lộng lẫy) được xem là tác phẩm quan trọng nhất của Kabbalah, trường phái tư tưởng liên quan đến khía cạnh thần bí của Do Thái giáo. Đây là một bộ sách chú giải rất kỳ bí về Torah (5 cuốn sách của Moses), viết bằng tiếng Syria thời Trung cổ. Nội dung có cả phân thảo luận rất khó hiểu về bản chất của Chúa, nguồn gốc và cấu trúc của vũ trụ, bản chất của linh hồn, tội lỗi, chuộc tội, thiện và ác, và mối quan hệ giữa Chúa và con người - ND.

(24) The Dancing Wu Li Masters (Các Bậc thầy Vật lý Nhảy múa) là cuốn sách nổi tiếng của tác giả Gay Zukav viết năm 1979 về những cách diễn giải thần bí về vật lý lượng tử - ND.

(25) Dharmakaya (Pháp Thân) là khái niệm trung tâm trong Phật giáo Đại Thừa, bộ phận cấu thành thuyết Tam Thân. Pháp thân là thể tính thật sự của Phật, đồng nghĩa với Chân như, là thể của vũ trụ. Pháp thân là thể mà Phật và chúng sinh đều có chung. Pháp thân cũng chính là quy luật vận hành trong vũ trụ là giáo pháp do đức Phật truyền dạy. Pháp thân được xem chính là Phật pháp. Pháp thân được xem là thường hằng, vô tướng, nhất nguyên, là thể tính chung của các vị Phật, là dạng tồn tại thật sự của chư Phật. Có lúc người ta xem Pháp thân là thể tính của mọi sự, là Pháp giới, là Chân như, là tính Không, là Phật tính. Trong nhiều trường phái, người ta xem Pháp thân là thể trừu tượng không có nhân trạng, có trường phái khác lại xem Pháp thân hầu như có nhân trạng. Đạt trí huệ siêu việt đồng nghĩa với, sự trực chứng được Pháp thân - ND.

(26) Đạo Bà la môn (Brahman) là một khái niệm về một thánh thần tối thượng của Ấn Độ giáo. Brahman là hiện thực siêu việt không thay đổi, vô hạn, có ở khắp mọi nơi và là nền tảng linh thiêng cho tất cả vật chất, năng lượng, thời gian, không gian, các thể sống, và tất cả những gì vượt khỏi vũ trụ này - ND.

(27) Krishna là một vị thần được thờ phụng trong Ấn Độ giáo. Krishna thường được khắc hoạ như một đứa tre sơ sinh, một câu bé thổi sáo hay một hoàng tử trẻ trung đưa ra những lời chỉ dẫn - ND.

(28) Bhagavad Gita, “Bài hát của Đấng Tối Cao” hay “Chí Tôn ca” là một văn bản cổ bằng tiếng Phạn bao gồm 700 câu của bộ trường ca Mahabharata. Những câu này, sử dụng dạng thơ mỗi câu có năm âm tiết với nhiều so sánh và ẩn dụ, mang nhiều tính thơ ca. Nội dung của Bhagavad Gita là một cuộc đối thoại giữa Krishna và Arjuna diễn ra trên chiến trường Kurukshetra trước khi trận chiến bùng nổ. Để đáp lại sự bối rối của Arjuna và những nghịch lý đạo đức, Krishna giải thích cho Arjuna các nghĩa vụ của anh ta, với các ví dụ và các phép so sánh. Cuốn sách này được xem là linh thiêng bởi đa số các truyền thống Hindu - ND.

(29) Upanishads (Áo nghĩa thư hay “kinh điển với ý nghĩa uyên áo”), là loại văn bản thuộc hệ thiên khải, nghĩa là được “bề trên khai mở cho thấy” trong Ấn Độ giáo. Chúng kết thúc hoặc hoàn tất các loại thánh kinh được xếp vào Vệ đà của Ấn Độ giáo. Đây là loại thánh điển rất quan trọng của Ấn Độ giáo với nội dung giải thích, diễn giảng các bộ kinh Vệ đà, được biên tập và truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác rất nghiêm túc và trung thực - ND.

(30) Vyasa (Quảng bác tiên nhân) là một nhân vật trung tâm rất được tôn kính trong Ấn Độ giáo. Ông cũng được gọi là Veda Vyasa hay Krishna Dvaipayana. Ông được xem là người ghi chép lại bộ kinh Vệ đà và các văn bản bổ sung. Vyasa còn được coi là một trong tám vị tiên bất tử trong Ấn Độ giáo - ND.

(31) Cây Sephiroth bao gồm 10 vòng tròn, đại diện cho các con số từ 1 đến 10 và được liên kết với nhau bằng 22 kênh - 22 chữ cái Do Thái. Mười số và 22 chữ cái tạo ra con số huyền bí 32, biểu hiện cho 32 con đường đi tới Trí tuệ. Số và chữ được xem là chìa khoá mở kho tàng tri thức, vì bằng cách sắp xếp chúng theo một hệ thống bỉ mật, những điều bí ẩn của tạo hoá sẽ được hé lộ - ND.
 
Chương 16

Chỉ huy Trent Anderson lao bổ trở lại Nhà tròn Điện Capitol, giận sôi vì nhóm an ninh của mình thất bại. Một người trong đội đã tìm thấy dải băng đeo và chiếc áo khoác nhà binh tại một hốc tường gần cổng phía đông.

Đây là chỗ thằng khốn thoát thân!

Anderson đã phân công các nhóm xem lại đoạn video khu vực bên ngoài, nhưng đến lúc họ tìm được gì đó thì gã kia đã cao chạy xa bay từ lâu.

Lúc này, khi bước vào Nhà tròn để xem xét tình hình, Anderson nhận thấy mọi việc đã được kiểm soát khá tốt. Lực lượng an ninh khéo léo phong toả cả bốn lối vào Nhà tròn bằng phương pháp kiểm soát đám đông sẵn có. Họ sử dụng một tấm màn chắn bằng nhung, bố trí bảo vệ trực để xin lỗi khách du lịch, và treo tấm biển mang dòng chữ PHÒNG NÀY TẠM THỜI ĐÓNG CỬA ĐỂ LÀM CÔNG TÁC VỆ SINH. Cả chục nhân chứng được dồn thành một nhóm ở mé phía đông gian phòng, bị tịch thu hết điện thoại di động và máy ảnh.

Anderson không muốn để ai gửi một bức ảnh chụp dù bằng điện thoại di động tới CNN.

Trong số những nhân chứng bị giữ lại có một người đàn ông tóc đen, cao ráo, mặc áo tuýt thể thao, đang cố tách khỏi nhóm để nói chuyện với viên Chỉ huy. Bấy giờ người đó đang tranh cãi khá gay gắt với các nhân viên an ninh.

- Lát nữa tôi sẽ nói chuyện với anh ta - Anderson gọi với tới chỗ nhân viên của mình - Còn bây giờ, hãy giữ tất cả mọi người trong sảnh chính cho tới khi chúng ta xác định được thứ này.

Anderson đưa mắt về cái bàn tay vẫn đứng trơ trơ ở giữa phòng.

Lạy Chúa lòng lành. Suốt mười lăm năm làm công tác an ninh tại Điện Capitol, anh đã trông thấy vài thứ kỳ lạ. Nhưng không có thứ nào như thế này.

Phải gọi pháp y tới đây nhanh để đưa cái đó ra khỏi khu vực của mình.

Anderson tiến lại gần hơn, thấy rõ rằng phần cổ tay đầm đìa máu đã được găm vào một đế gỗ có cắm chông để làm cho bàn tay đứng thẳng được. Gỗ và thịt, anh nghĩ. Các máy dò kim loại chịu chết. Vật duy nhất bằng kim loại là một chiếc nhẫn vàng lớn mà Anderson cho rằng đã từng bị dò ở cửa kiểm soát hoặc bị kẻ tình nghi tuốt khỏi ngón tay người chết để tự đeo.

Anderson cúi thấp xuống để xem xét bàn tay. Trông nó như tay một người đàn ông trạc tuổi 60. Cái nhẫn mang một dấu hiệu trang trí nào đó với một con chim hai đầu và chữ số 33. Anderson không biết biểu tượng này. Nhưng anh chú ý nhiều hơn đến những hình xăm nhỏ xíu trên đầu ngón cái và ngón trỏ.

Một tác phẩm quái gở khốn kiếp.

- Chỉ huy? - Một nhân viên an ninh bước vội tới, giơ điện thoại ra - Cuộc gọi đích danh Chỉ huy. Tổng đài an ninh vừa nối máy.

Anderson nhìn cấp dưới như nhìn một kẻ tâm thần.

- Tôi đang dở việc ở đây, - anh quát ầm lên.

Mặt anh chàng kia tái mét. Anh ta bịt ống nói và thì thào.

- CIA gọi.

Anderson sửng sốt. CIA đã biết vụ này rồi kia à?

- Gọi từ Phòng An ninh của họ.

Anderson đờ người. Chó chết thật. Anh khó chịu nhìn chiếc điện thoại trên tay cậu nhân viên.

Trong cái đại dương mênh mông nhung nhúc những cơ quan tình báo ở Washington này, Phòng An ninh (OS) của CIA chẳng khác gì Tam giác quỷ Bermuda - một khu vực nguy hiểm và bí ẩn mà tất cả những ai hiểu biết đều tìm cách tránh xa bất cứ khi nào có thể. OS do CIA thành lập và được trao quyền gần như thanh trừng nội bộ, chỉ để phục vụ một mục đích kỳ cục là kiểm soát chính CIA. Là một phòng nội chính rất có thế lực, OS theo dõi tất cả các nhân viên CIA để phát giác những hành vi trái phép: tham ô ngân quỹ, buôn bán bí mật, đánh cắp công nghệ, và sử dụng những hình thức tra tấn trái luật, đại loại như vậy.

Họ theo dõi các tình báo viên của nước Mỹ.

Với toàn quyền điều tra mọi vấn đề an ninh quốc gia, OS có phạm vi ảnh hưởng rất mạnh và rộng. Anderson không thể đoán được tại sao họ lại quan tâm đến sự cố ở Điện Capitol, hoặc làm cách nào mà họ biết nhanh đến vậy. Người ta đồn rằng OS có tai mắt khắp mọi nới. Tất cả những gì Anderson biết là họ có đường truyền tín hiệu trực tiếp từ các máy quay an ninh ở Điện. Sự cố này không phù hợp với định hướng quản lý của OS, nhưng thời gian cuộc gọi tới cho Anderson có vẻ quá trùng khớp, không thể là vụ gì khác hơn vụ bàn tay ghê tởm?

- Chỉ huy - như giơ một chủ khoai nóng rãy, nhân viên an ninh chìa điện thoại cho Anderson - Chỉ huy cần nhận cuộc gọi ngay bây giờ. Nó là từ… - Anh ta ngừng lại và chúm môi tạo hình hai chữ: SA-TO

Anderson cau mặt lườm anh chàng kia. Cậu đùa tôi đấy chắc? Anh cảm thấy bàn tay mình bắt đầu vã mồ hôi. Sato đích thân xử lý vụ này cơ? sỏ Phòng An ninh - Giám đốc Inoue Sato - là một huyền thoại của làng tình báo. Sinh ra sau vụ Trân Châu Cảng, trong hàng rào một trại giam của Nhật ở Manzanar California và phải trải qua bao nhiêu gian nan mới sống sót nổi, Sato cực kỳ thấm thía sự kinh khủng của chiến tranh, cũng như hiểu rõ tình báo quân sự kém hiệu quả thì nguy hại ra sao. Giờ đây, ở vào một trong những địa vị quyền lực và bí mật nhất của ngành tình báo Hoa Kỳ, Sato đã chứng tỏ mình là một người yêu nước kiên định và một đối thủ đáng sợ cho bất kỳ kẻ đối lập nào. Chẳng mấy khi lộ diện nhưng rất được công chúng nể sợ, vị Giám đốc OS thường lùng sục tại những vùng nước sâu của CIA, y như loài quái thú săn mồi, chỉ trồi lên khi nào định xơi tái nạn nhân của mình.

Anderson mới diện kiến Sato có một lần, nhưng ký ức về đôi mắt đen lạnh lùng ấy khiến anh cảm thấy được trao đổi chuyện này chỉ qua điện thoại là rất may rồi.

Anderson cầm điện thoại và đưa lên miệng.

- Giám đốc Sato, - anh cố nói bằng giọng thân thiện nhất - Tôi là Chỉ huy Anderson đây. Tôi có thể giúp…

- Tôi cần nói chuyện ngay với một người đàn ông đang hiện diện trong toà nhà anh quản lý - Giọng vị Giám đốc OS rất đanh, y như tiếng sỏi chà lên bảng viết. Cuộc phẫu thuật ung thư vòm họng để lại nơi cổ Sato một vết sẹo to tướng, và làm cho giọng nói trở nên uy hiếp người nghe một cách ghê gớm - Tôi muốn anh tìm ông ta cho tôi ngay lập tức.

Có thế thôi sao? Muốn tôi gọi một ai đó à? Anderson đột nhiên cảm thấy đầy hy vọng rằng có lẽ cuộc điện đàm này là hoàn toàn ngẫu nhiên.

- Giám đốc đang tìm ai?

- Robert Langdon. Tôi tin chắc rằng ông ta đang ở trong khu nhà của anh.

Langdon à? Cái tên nghe quen quen, nhưng Anderson không tài nào xác định được. Giờ anh chỉ thắc mắc liệu Sato đã biết về vụ bàn tay chưa.

- Hiện tôi đang ở trong Nhà tròn, - Anderson phân vân - nhưng ở đây cũng có một số khách du lịch… Giám đốc chờ chút - Anh buông điện thoại xuống và gọi vọng lại phía nhóm người - Này các vị, có vị nào tên là Langdon không?

Không gian lặng đi chốc lát, rồi một giọng trầm thấp vang lên từ đám du khách.

- Có tôi là Robert Langdon.

Sato biết tất cả mọi chuyện. Anderson nghển cổ, dõi mắt nhìn người vừa lên tiếng.

Chính là người đàn ông đã cố gắng tách khỏi đám đông để đến gặp anh lúc trước. Anh ta có vẻ đang mất bình tĩnh… nhưng trông rất quen.

Anderson đưa điện thoại lên miệng.

- Vâng, ông Langdon có ở đây.

- Đưa máy cho ông ấy - Sato xẵng giọng.

Anderson thở hắt ra. Đỡ quá.

- Chờ nhé!

Anh vẫy Langdon.

Khi người đàn ông đến gần. Anderson bỗng hiểu ra tại sao tên họ anh ta lại quen quen. Mình vừa đọc một bài báo về thằng cha này. Hắn làm cái quái gì ở đây không biết.

Mặc dù Langdon cao tới 1m80 và nở nang như vận động viên, nhưng Anderson thấy anh thiếu hẳn vẻ sắc sảo hay lạnh lùng đáng ra phải có ở một nhân vật nổi tiếng vì đã thoát chết trong vụ nổ ở Vatican và vụ săn lùng tội phạm ở Paris. Trông anh ta giống một kẻ cắm cúi đọc Dostoyevsky bên lò sưởi thư viện một trường Đại học tên tuổi nào đó hơn. Thằng cha này trốn tránh cảnh sát Pháp bằng cách náu vào một đống giày thì phải?

- Ông Langdon? - Anderson lên tiếng và bước tới đón - Tôi là Chỉ huy Anderson, phụ trách an ninh ở đây. Ông có một cuộc điện thoại.

- Gọi tôi? - Đôi mắt xanh da trời của Langdon lộ vẻ lo lắng và bất ổn.

Anderson đưa điện thoại ra.

- Gọi từ Phòng An ninh CIA.

- Tôi chưa bao giờ biết đến cơ quan đó cả.

Anderson mỉm cười e ngại.

- Chà, thưa ông, thế mà họ lại biết ông đấy.

Langdon đưa điện thoại lên tai.

- A lô?

- Ông Robert Langdon phải không? - Cái giọng cay nghiệt của Giám đốc Sato oang oang vọng ra từ chiếc loa tí xíu, to đến mức Anderson cũng nghe rõ.

- Vâng - Langdon đáp.

Anderson nhích lại gần hơn để nghe xem Sato nói gì.

- Tôi là Giám đốc Inoue Sato, thưa ông Langdon. Tôi đang phải xử lý một cuộc khủng hoảng, và tôi tin ông có những thông tin may ra giúp ích cho tôi.

Langdon lộ vẻ hy vọng.

- Có liên quan đến Peter Solomon phải không? Các vị biết ông ấy ở đâu chứ?

Peter Solomon à? Anderson chịu không hiểu đầu cua tai nheo ra sao.

- Thưa Giáo sư, - Sato nhắc nhở - Lúc này tôi là người đặt câu hỏi.

- Peter Solomon đang gặp nguy hiểm, - Langdon kêu lên - Một gã điên nào đó vừa…

- Xin lỗi, - Sato ngắt lời.

Anderson co rúm người. Không hay rồi. Ngắt mạch câu hỏi của một quan chức CIA chóp bu đúng là một sai lầm mà chỉ dân thường mới mắc phải. Chắc gã Langdon này tự cho mình là khôn đây.

- Nghe cho kỹ - Sato nói - Như chúng tôi vừa nói, đất nước đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng. Người ta gợi ý cho tôi rằng ông có những thông tin ngăn chặn được cuộc khủng hoảng đó. Nào, tôi hỏi lại lần nữa. Ông nắm giữ những thông tin gì?

Langdon hoàn toàn mất phương hướng.

- Thưa Giám đốc, tôi chẳng hiểu Giám đốc đang đề cập tới chuyện gì. Bây giờ tôi chỉ quan tâm tới việc tìm Peter và…

- Không hiểu gì ư? - Sato gặng.

Anderson nhận ra Langdon bắt đầu phát cáu. Giọng vị Giáo sư lúc này nghe hung hăng tợn.

- Không hề, thưa ông. Chẳng hiểu tí nào cả.

Anderson chớp mắt. Sai lầm. Sai lầm. Sai lầm. Robert Langdon vừa mắc phải một sai lầm đắt giá trong cách ứng xử với Giám đốc Sato.

Và cũng quá muộn để sửa chữa rồi. Trước sự ngạc nhiên của Anderson, Giám đốc Sato xuất hiện ở mé bên kia Nhà Tròn, và đang tiến lại từ phía sau Langdon. Sato ngay trong toà nhà này. Anderson nín thở và chuẩn bị tinh thần xem tấn kịch sắp tới. Gã Langdon đúng là loại điếc không sợ súng.

Cái bóng lù lù của vị Giám đốc tiến lại gần hơn, điện thoại vẫn áp trên tai, đôi mắt đen như hai tia laser dính chặt vào lưng Langdon.

Langdon nắm chặt chiếc điện thoại của viên Chỉ huy cảnh sát và cảm thấy càng lúc càng thất vọng khi vị Giám đốc OS dồn ép anh.

- Tôi xin lỗi, thưa ông, - Langdon nói cộc lốc - nhưng tôi không hiểu được ý ông. Ông muốn gì ở tôi?

- Tôi muốn gì ở anh ư? - Giọng chói lói của vị Giám đốc OS vang qua chiếc điện thoại Langdon đang cầm, xóc óc và trống rỗng, như giọng một người đang hấp hối vì căn bệnh viêm họng liên cầu.

Trong khi vị Giám đốc nói, Langdon cảm thấy ai đó vỗ vào vai anh. Anh quay lại và mắt anh nhìn thẳng xuống… gương mặt của một phụ nữ Nhật Bản nhỏ thó. Bà ta có vẻ mặt dữ tợn, nước da lốm đốm, mái tóc thưa, hàm răng ám khói thuốc lá, và một vết sẹo trắng ởn dễ sợ chạy ngay qua cổ. Bàn tay xương xẩu của người phụ nữ cầm một chiếc điện thoại di động áp vào tai, và khi môi bà ta mấp máy, Langdon nghe thấy giọng nói khó chịu quen thuộc qua điện thoại di động của mình.

- Tôi muốn gì ở anh ư, thưa Giáo sư? - Bà ta bình thản gập điện thoại và đăm đăm nhìn anh - Trước hết, anh có thể thôi gọi tôi là ông được rồi.

Langdon trợn mắt nhìn, sượng trân.

- Thưa bà, tôi… xin lỗi. Tín hiệu điện thoại không tốt nên…

- Tín hiệu điện thoại rất tốt, thưa Giáo sư, - Sato gạt đi - Và tôi không đủ khoan dung để tiếp tục chịu đựng câu chuyện nhảm nhí này.
 
Chương 17

Giám đốc Inoue Sato chỉ cao xấp xỉ 1m50, nhưng là mẫu người đáng sợ, dễ trở nên dữ dội. Bà ta gầy trơ xương với những đường nét góc cạnh, làn da lốm đốm như đá hoa cương thô phủ địa y (hậu quả của một chứng bệnh da liễu gọi là bạch biến). Bà mặc áo khoác xanh lam nhàu nhĩ trông chẳng khác gì cái bao tải, bên trong là chiếc áo cánh cổ mở phơi ra toàn bộ vết sẹo chạy vắt ngang cổ. Theo các đồng nghiệp, hình thức làm đẹp duy nhất mà Sato chấp nhận là cạo ria mép.

Sato cai quản Phòng An ninh của CIA đã hơn mười năm. Bà có chỉ số IQ ngoại hạng và trực giác chính xác đến ghê người, hai yếu tố đó đem lại cho bà sự tự tin khiến bất kỳ ai không làm nổi những việc tưởng chừng bất khả thi đều phải khiếp sợ. Ngay cả khi nghe chẩn đoán mình bị ung thư cổ họng giai đoạn cuối, Sato cũng không gục ngã. Cuộc chiến với căn bệnh khiến bà phải rời bỏ công việc suốt một tháng, lấy đi phân nửa cơ quan thanh quản và làm trọng lượng cơ thể bà sụt mất một phần ba, nhưng bà đã quay lại văn phòng cứ như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Xem chừng Inoue Sato là người không thể bị đánh bại.

Robert Langdon ngờ rằng có lẽ anh không phải là người đầu tiên nhầm Sato là nam giới trên điện thoại, nhưng vị Giám đốc ấy vẫn nhìn xoáy vào anh bằng đôi mắt đen đầy giận dữ.

- Một lần nữa, tôi rất xin lỗi, thưa bà, - Langdon phân bua - Tôi đang cố tìm hiểu lý do mình ở đây. Có một kẻ lừa tôi tới thủ đô tối nay. Hắn ta đang bắt giữ Peter Solomon - Anh rút từ trong áo vét của mình ra bản fax - Đây là thứ hắn gửi cho tôi lúc trước. Tôi cũng đã ghi lại số đuôi của chiếc máy bay mà hắn cử tới, có lẽ các vị nên gọi cho Cục Hàng không Liên bang và truy xem…

Sato chìa bàn tay nhỏ xíu giật lấy tờ giấy và đút tọt nó vào tôi, chẳng buồn mở ra.

- Giáo sư, tôi đang tiến hành một cuộc điều tra. Từ giờ cho tới lúc ông bằng lòng cung cấp những gì tôi muốn biết, tôi khuyến cáo ông nên im lặng, trừ phi được yêu cầu mở miệng.

Rồi bà xoay sang viên Chỉ huy trưởng.

- Chỉ huy Anderson - bà lên tiếng, bước lại thật sát và nhìn xoáy vào anh bằng đôi mắt đen nhỏ xíu - liệu anh có thể cho tôi biết đang xảy ra chuyện quái gì ở đây không? Nhân viên bảo vệ đằng cồng phía đông báo với tôi rằng các anh phát hiện thấy một bàn tay người. Đúng không?

Anderson bước tránh sang bên và trỏ cái vật đang nằm chình ình giữa sàn nhà.

- Vâng, thưa bà, chỉ mới vài phút trước.

Sato thờ ơ liếc bàn tay như thể đấy chỉ là một thứ quần áo đặt sai chỗ.

- Anh không hề đả động đến nó khi tôi gọi?

- Tôi… tôi tưởng bà biết rồi.

- Đừng nói dối tôi. - Anderson xụi lơ trước ánh mắt Sato, nhưng giọng anh vẫn rất tự tin.

- Thưa bà, tình huống hiện nay vẫn trong tầm kiểm soát.

- Tôi thực sự nghi ngờ điều đó! - Sato nhận xét với vẻ tự tin không kém.

- Tổ pháp y đang trên đường tới đây. Bất kỳ kẻ nào gây ra việc này cũng sẽ để lại dấu vân tay.

Sato lộ vẻ hoài nghi.

- Tôi cho rằng một kẻ đủ khôn ngoan vượt qua trạm kiểm tra an ninh của các anh với một bàn tay người thì chắc cũng đủ thông minh để không lưu lại dấu tay nào.

Điều đó có thể đúng, nhưng tôi nắm trách nhiệm điều tra.

- Nói thật nhé, bây giờ tôi sẽ giải thoát cho anh khỏi trách nhiệm đó Tôi sẽ tiếp quản vụ việc.

Anderson cứng người.

- Đây không thuộc lãnh địa của OS thì phải?

- Rất đúng. Đây là vấn đề an ninh quốc gia.

Bàn tay của Peter… liên quan đến an ninh quốc gia cơ à?

Đầy thắc mắc, Langdon sửng sốt theo dõi cuộc đối đáp giữa hai người kia. Anh cảm thấy Sato không có chung mục tiêu cấp bách như mình là tìm kiếm Peter. Xem ra vị Giám đốc OS đang quan tâm đến một vấn đề hoàn toàn khác.

Anderson cũng lộ vẻ bối rối.

- An ninh quốc gia ư? Với tất cả lòng kính trọng, thưa bà…

- Suy cho cùng, - Sato ngắt lời - vị trí của tôi cao hơn anh. Tôi nghĩ anh nên làm đúng như tôi nói, và hãy tuân thủ mà đừng cật vấn gì.

Anderson gật đầu và nuốt khan.

- Nhưng ít nhất chúng tôi cũng cần in dấu tay để khẳng định bàn tay kia là của Peter Solomon chứ?

- Tôi xin xác nhận điều đó, - Langdon thốt lên, thấm thía một sự thật chắc chắn đến tởm lợm - Tôi nhận ra chiếc nhẫn… và bàn tay ông ấy! - Anh ngừng lại - Nhưng những hình xăm thì rất mới. Kẻ nào đó vừa xăm cho ông ấy thôi.

- Sao cơ - Lần đầu tiên kể từ lúc xuất hiện, Sato tỏ ra lúng túng - Bàn tay bị xăm ư?

Langdon gật đầu.

- Ngón cái có hình vương miện. Ngón trỏ hình ngôi sao.

Sato đeo kính lên và bước lại phía bàn tay, lượn vòng xung quanh như một con cá mập.

- Ngoài ra. - Langdon nói - mặc dù các vị không nhìn thấy ba ngón còn lại, nhưng tôi dám chắc chúng cũng có những hình xăm trên đầu ngón tay.

Sato lộ vẻ ngạc nhiên trước thông báo đó và ra dấu với Anderson.

- Chỉ huy, anh có thể xem xét mấy đầu ngón tay khác cho chúng tôi được không?

Anderson cúi xuống bên cạnh bàn tay, rất thận trọng để không chạm vào nó. Anh áp má xuống gần sát sàn nhà và ngước lên nhìn mé dưới những ngón tay bị bẻ gập.

- Ông ấy nói đúng, thưa bà. Tất cả các ngón tay đều có hình xăm, mặc dù tôi không thể nhìn rõ đó là…

- Một mặt trời, một đèn lồng và một chìa khoá, - Langdon bổ sung luôn.

Giờ thì Sato quay hẳn lại phía Langdon, đôi mắt hẹp của bà ta như đang đánh giá anh.

- Làm thế nào mà ông biết chính xác như vậy?

Langdon trợn mắt nhìn trả lại.

- Hình ảnh một bàn tay người được vẽ dấu hiệu như thế trên các đầu ngón tay là một biểu tượng rất cổ xưa. Người ta gọi nó là Mật Thủ.

Anderson đứng thẳng lên.

- Thứ này mà cũng có tên gọi à?

Langdon gật đầu.

- Nó là một trong những biểu tượng bí mật nhất của the giới cổ đại.

Sato gõ gõ lên đầu mình.

- Vậy thì tôi băn khoăn rằng nó làm quái quỷ gì ở giữa Điện Capitol chứ?

Langdon ước sao mình có thể thoát khỏi cơn ác mộng này.

- Theo truyền thống, thưa bà, nó được sử dụng như một lời mời.

- Một lời mời… cho cái gì? - Sato hỏi.

Langdon nhìn xuống những biểu tượng trên bàn tay đáng sợ của bạn mình.

- Trong nhiều thế kỷ. Mật Thủ được sử dụng như một lời triệu tập huyền bí. Về cơ bản, nó là một lời mời tiếp nhận tri thức bí mật, những tri thức được bảo vệ mà chỉ một vài nhân vật chủ chốt mới được biết.

Sato khoanh đôi tay gầy gò trước ngực và đăm đăm nhìn Langdon bằng cặp mắt đen láy.

- Chà, thưa Giáo sư, ông vừa cằn nhằn rằng không hiểu tại sao mình ở đây… nhưng đến giờ ông thể hiện rất tốt điều ngược lại đấy.
 
CHƯƠNG 18
Katherine Solomon khoác chiếc áo bờ lu trắng và bắt đầu lộ trình thường lệ của mình - "lượn vài vòng", như anh trai cô thường nói.

Như người mẹ lo âu ghé thăm đứa con đang ngủ. Katherine thò đầu vào phòng máy. Gian buồng dùng nhiên liệu hydro đang chạy rất êm, các két sao lưu của nó đều nằm yên trên giá.
Katherine tiếp tục men theo hành lang tới phòng lưu trữ dữ liệu. Như mọi khi, hai cỗ máy đa sao lưu toàn ảnh vẫn chạy ro ro yên ổn trong khoang chứa có kiểm soát nhiệt độ. Toàn bộ công trình nghiên cứu của mình đây. Katherine nghĩ thầm, ghé mắt nhìn vào qua lớp kính siêu bền dày gần 10 cm. Khác với phiên bản cũ to bằng tủ lạnh, các thiết bị chứa dữ liệu toàn ảnh trông chỉ như thiết bị âm thanh gọn nhẹ, mỗi cái được đặt trên một bệ hình trụ.
Các ổ đọc toàn ảnh trong phòng thí nghiệm đều đồng bộ và giống hệt nhau - cùng là nguồn đĩa sao lưu để bảo vệ các bản sao công trình của Katherine. Hầu hết các phác đồ sao lưu đều chủ trương nên có một hệ thống sao chép thứ cấp ở nơi khác đề phòng trường hợp động đất hoả hoạn, hoặc bị đánh cắp, nhưng Katherine và anh trai cô nhất trí rằng giữ bí mật mới là điều tối quan trọng; một khi các dữ liệu rời khỏi toà nhà để chuyển tới máy chủ ở nơi khác thì họ không dám chắc rằng liệu chúng còn giữ được bí mật hay không.
Hài lòng vì tất cả vẫn vận hành trơn tru. Katherine quay trở lại theo lối hành lang. Khi vòng qua góc tường, cô chợt nhận ra có điều khác thường bên kia phòng thí nghiệm. Chuyện gì thế nhỉ? Một quầng sáng đang chiếu rọi tất cả các thiết bị. Katherine chạy vội vào để nhìn cho rõ, lòng rất ngạc nhiên khi thấy ánh sáng phát ra từ phía sau bức tường kính Plexiglas của phòng điều khiển.
Anh ấy ở đây. Katherine lao như bay qua phòng thí nghiệm, đến cửa phòng điều khiển và đẩy bật nó ra.
- Anh Peter! - cô kêu lên và chạy bổ vào.
Người phụ nữ to béo ngồi ở bàn máy trong phòng điều khiển nhảy bật dậy.
- Ôi lạy Chúa! Chị Katherine? Chị làm em sợ hết hồn!
Trish Dunne là chuyên gia phân tích siêu hệ thống của Katherine, cũng là người duy nhất ngoài hai anh em Solomon được phép có mặt ở đây. Cô gái tóc đỏ 26 tuổi này là một thiên tài lập mô hình dữ liệu và đã khai thác được một tài liệu mật rất đáng giá của KGB. Cô rất ít khi làm việc vào những ngày nghỉ cuối tuần, nhưng tối nay, cô bận phân tích dữ liệu trên bức tường plasma của phòng điều khiển, bức tường này là một màn hình phẳng rất lớn trông chẳng khác gì màn hình điều khiển của NASA.
- Em xin lỗi. - Trish nói - Em không biết chị cũng ở đây. Em đang cố làm cho xong trước khi chị và anh trai chị tới.
- Cô vừa nói chuyện với Peter à? Anh ấy đến muộn và không trả lời điện thoại.
Trish lắc đầu.
- Em cá là Peter vẫn đang loay hoay với chiếc iPhone mà chị mới tặng anh ấy.
Katherine rất cảm kích sự hài hước của cô bạn đồng nghiệp, và sự có mặt của Trish làm cô nảy ra một ý tưởng.
- Nói thật thì tôi rất vui vì cô ở đây tối nay. Chưa chừng cô sẽ giúp được tôi đấy cô không phiền chứ?
- Bất cứ việc gì, em tin nó sẽ hay hơn xem đấu bóng.
Katherine hít một hơi thật sâu, cố giữ cho tâm trí bình tĩnh.
- Tôi chẳng biết phải giải thích thế nào, nhưng sớm hôm nay, tôi đã nghe được một câu chuyện rất bất thường…
Trish Dunne không đoán nổi Katherine Solomon đã nghe được chuyện gì, nhưng rõ ràng câu chuyện đó khiến chị ấy không vui. Đôi mắt xám vốn luôn điềm tĩnh nay lại lộ vẻ lo âu, và chị đã phải vén tóc ra sau tai ba lần kể từ lúc bước vào phòng - một "dấu hiệu" chứng tỏ chị ấy đang bối rối, như Trish thường nói. Một nhà khoa học xuất chúng, nhưng không biết che giấu cảm xúc của mình.
- Với tôi, - Katherine nói - câu chuyện này rất hoang đường… như một chuyện cổ tích xa xưa. Nhưng… - Cô ngừng lời, lại đưa tay gạt một lọn tóc ra phía sau tai.
- Nhưng sao ạ?
Katherine thở dài.
- Nhưng hôm nay, một nguồn tin rất đáng tin cậy đã cho tôi biết rằng chuyện cổ tích đó là có thật.
- Ồ… Chị ấy muốn dẫn câu chuyện đến đâu đây?
- Tôi định trao đổi với Peter, nhưng tôi sực nghĩ, biết đâu cô sẽ giúp tôi nảy ra ý tưởng nào đó trước khi tôi hỏi anh ấy. Tôi rất muốn biết liệu câu chuyện cổ tích này đã bao giờ được chứng thực trong lịch sử chưa.
- Trong lịch sử ư?
Katherine gật đầu.
- Ở đâu đó trên thế giới, bằng một thứ ngôn ngữ nào đó, vào một thời điểm nào đó trong lịch sử.
Kỳ quặc quá, Trish thầm nghĩ, những rất có khả năng. Mười năm trước, điều này là không tưởng. Nhưng ngày nay, với Internet, với mạng toàn cầu, và với quá trình số hoá những thư viện và bảo tàng lớn trên thế giới, mục tiêu của Katherine có thể thực hiện được bằng cách sử dụng một cơ chế tìm kiếm tương đối đơn giản có trang bị một loạt mô đun dịch thuật và vài ba từ khoá được lựa chọn kỹ.
- Không thành vấn đề - Trish nói. Nhiều cuốn sách nghiên cứu trong phòng thí nghiệm có chứa những đoạn ngôn ngữ cổ xưa, khi ấy Trish phải viết nhiều mô đun dịch thuật Nhận dạng ký tự quang học (OCR) chuyên dụng để tạo văn bản tiếng Anh từ các ngôn ngữ khó hiểu. Chắc chắn cô là chuyên gia siêu hệ thống duy nhất trên thế giới lập được các mô đun dịch thuật OCR bằng tiếng Frisian[1] cổ, tiếng Maek[2] và tiếng Akkadian[3].
Các mô đun rất có tác dụng, nhưng bí quyết xây dựng một cơ chế tìm kiếm kiểu nhện hiệu quả lại phụ thuộc vào việc lựa chọn các từ khoá đúng, độc đáo nhưng không hạn chế quá mức.
Trong lúc Trish suy nghĩ, Katherine đã ghi nhanh những từ khoá thích hợp ra một băng giấy. Viết được vài từ, cô dừng lại, nghĩ ngợi và tiếp tục thêm vài từ nữa.
- Được rồi đấy, - cuối cùng cô nói và đưa băng giấy cho Trish.
Trish đọc lướt danh sách các chuỗi tìm kiếm, và mở to mắt.
Katherine đang điều tra loại cổ tích quái quỷ gì đây?
- Chị muốn em tìm kiếm tất cả các cụm từ khoá này à? - Có một từ Trish còn không nhận ra. Liệu đây có phải là tiếng Anh không? - Chị cho rằng chúng ta sẽ tìm được những từ này ở cùng một chỗ à? Chính xác cả cụm ấy?
- Cứ thử đi.
Trish định nói không thể (impossible) nhưng ở đây, những từ bắt đầu bằng chữ cái I bị cấm. Katherine coi đó là vật cản tư duy rất nguy hiểm trong một lĩnh vực thường biến những định kiến sai lầm thành hiện thực được khẳng định. Trish Dunne thật sự ngại rằng việc tìm kiếm các cụm từ khoá này sẽ rơi vào phạm trù đó.
- Mất bao lâu để có kết quả? - Katherine hỏi.
- Vài phút để viết con nhện và cho nó hoạt động. Sau đó, có lẽ mất 15 phút để nó vận hành hết hiệu suất.
- Nhanh thế à? - Katherine phấn khởi.
Trish gật đầu. Các cơ chế tìm kiếm truyền thống thường cần trọn một ngày để lướt qua toàn bộ không gian trực tuyến, tìm kiếm các văn bản mới, phân tích nội dung của chúng và cho nó vào cơ sở dữ liệu thu thập được. Nhưng Trish không viết loại nhện đó.
- Em sẽ viết một chương trình gọi là người uỷ thác, - Trish giải thích - Không hợp pháp lắm, nhưng nó rất nhanh. Thực chất đó là một chương trình ra lệnh cho các cơ chế tìm kiếm của người khác làm việc thay cho mình. Hầu hết các cơ sở dữ liệu đều có chức năng tìm kiếm tích hợp trong, chẳng hạn thư viện, bảo tàng, các trường đại học, chính phủ. Cho nên em sẽ viết một con nhện chuyên dò ra cơ chế tìm kiếm của người ta, nhập các từ khoá của chị, và yêu cầu các cơ chế ấy hoạt động. Bằng cách này, chúng ta khai thác được sức mạnh của hàng nghìn cơ chế, làm việc thống nhất.
Katherine có vẻ rất ấn tượng.
- Xử lý song song.
Một loại siêu hệ thống.
- Em sẽ gọi chị nếu em phát hiện thấy gì đó.
- Rất cảm ơn cô. Trish - Katherine vỗ nhẹ vào lưng cô gái và đi ra phía cửa - Tôi sẽ ở bên thư viện.
Trish tập trung viết chương trình. Lập trình một con nhện tìm kiếm là nhiệm vụ quá ư tầm thường so với trình độ năng lực của cô, nhưng Trish Dunne không bận tâm. Cô sẵn sàng làm bất kỳ việc gì cho Katherine Solomon. Có lúc, Trish vẫn không tin nổi số phận may mắn lại đưa cô đến nơi này.
Cưng đã đi được một chặng đường dài, cưng nhỉ!
Chỉ mới hơn một năm trước, Trish bỏ công việc của một chuyên gia phân tích siêu hệ thống tại một trong vô vàn công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao. Lúc rỗi rãi, cô nhận lập trình cho một số nơi và bắt đầu mở một blog chuyên ngành mang tên "Những ứng dụng trong phân tích siêu hệ thống máy tính" mặc dù cô nghĩ chẳng ai thèm đọc nó. Rồi một buổi tối, điện thoại của cô đổ chuông.
- Cô Trish Dunne phải không? - một giọng phụ nữ nhã nhặn hỏi thăm.
- Vâng, xin hỏi ai gọi thế ạ?
- Tôi là Katherine Solomon.
Trish gần như ngất xỉu tại chỗ. Katherine Solomon à?
- Tôi vừa đọc cuốn sách của chị, cuốn Lý trí học. Cánh cổng hiện đại đi tới tri thức cổ xưa, và tôi đã viết về cuốn đó trên blog của mình!
- Phải, tôi có biết, - người phụ nữ trả lời rất nhã nhặn - Và đó là lý do tôi gọi cho cô.
- Dĩ nhiên là thế. Trish nhận ra như vậy, cảm thấy chẳng biết nói sao.
Ngay cả những nhà khoa học xuất sắc cũng phải sử dụng Google.
- Blog của cô khiến tôi rất thích, - Katherine nói tiếp - Tôi không ngờ rằng kỹ thuật lập mô hình siêu hệ thống lại tiến xa đến vậy.
- Vâng, - Trish hồ hởi, với tâm trạng rất muốn được người khác biết đến - Mô hình dữ liệu là một công nghệ đang bùng nổ với những ứng dụng rất rộng lớn.
Hai người phụ nữ dành vài phút nói chuyện phiếm về công việc của Trish trong ngành siêu hệ thống, kinh nghiệm của cô trong việc phân tích, lập mô hình và dự đoán xu hướng của các trường dữ liệu lớn.
- Nói thực cuốn sách của chị rất cao siêu so với tôi. - Trish nói - nhưng tôi cũng đủ khả năng hiểu nó để thấy có sự giao thoa với công trình siêu hệ thống của tôi.
- Trên blog, cô nói rằng cô tin ngành lập mô hình siêu hệ thống có khả năng biến cải những nghiên cứu của lý trí học, phải không?
- Chắc chắn là như vậy. Tôi tin siêu hệ thống sẽ biến Lý trí học thành một môn khoa học thật sự.
- Khoa học thật sự à? - Giọng Katherine hơi đanh lại - Thế hiện giờ nó không phải…?
Ôi thôi hớ rồi.
- Ừm, ý tôi là Lý trí học có vẻ… huyền bí hơn.
Katherine cười.
- Không sao đâu, tôi đùa thôi. Tôi nghe nói điều đó luôn ấy mà!
Cũng phải. Trish nghĩ bụng. Thậm chí Viện Lý trí học ở California cũng mô tả lĩnh vực này bằng một thứ ngôn ngữ khó hiểu và bí ẩn, xem nó như ngành nghiên cứu về "sự tiếp cận tức thời và trực tiếp của con người đối với những kiến thức vượt xa sức mạnh lý trí và độ cảm nhận của các giác quan bình thường".
Trish được biết rằng từ lý trí xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ - nếu dịch thô là "kiến thức bên trong" hoặc "ý thức trực giác".
- Tôi rất quan tâm đến công trình siêu hệ thống của cô, - Katherine nói - và muốn xem nó liên hệ ra sao với dự án tôi đang tiến hành. Cô có sẵn lòng gặp tôi không? Tôi rất muốn được thử bộ não của cô.
Katherme Solomon muốn thử bộ não của mình ư? Chẳng khác gì bảo Maria Sharapova đi hỏi thủ thuật chơi tennis.
Ngày hôm sau, một chiếc Volvo trắng tiến vào sân nhà Trish và một người phụ nữ yểu điệu duyên dáng trong bộ đồ bò màu xanh bước ra. Trish lập tức cảm thấy mình thật hèn kém. Trời ạ, cô lẩm bẩm. Thông miinh, giàu có, mảnh mai - và chắc mình phải tin là Chúa rất lòng lành mất? Nhưng phong thái khiêm nhường của Katherine khiến Trish cảm thấy thoải mái ngay.
Hai người ngồi ở hiên sau khá rộng rãi của Trish, nhìn xuống một khuôn viên khang trang.
- Nhà cô rất đẹp, - Katherine nhận xét.
- Cảm ơn chị. Tôi gặp may khi còn học đại học, bán được bản quyền một số phần mềm do tôi viết.
- Vẫn về siêu hệ thống chứ?
- Một dạng tiền thân của siêu hệ thống. Sau vụ 11-9, chính phủ chặn và xâm nhập các trường dữ liệu lớn như thư điện tử dân sự, điện thoại di động, fax, văn bản, website để tìm kiếm các từ khoá liên quan đến những giao dịch liên lạc có tính khủng bố. Vì thế tôi viết một phần mềm cho phép họ nắm giữ trường dữ liệu theo hình thức thứ cấp khai thác từ đó một sản phẩm tình báo bổ sung - Cô mỉm cười - Điều quan trọng là phần mềm của tôi cho phép họ đo được thân nhiệt của nước Mỹ.
- Tôi không hiểu lắm?
Trish bật cười.
- A nghe hơi kỳ cục, tôi biết. Y tôi định nói là nó định lượng trạng thái tình cảm của cả nước. Nó cung cấp một loại phong vũ biểu đo ý thức chung - Trish tiếp tục giải thích việc một người có thể đánh giá được tâm trang của đất nước như thế nào bằng cách sử dụng một trường dữ liệu về thông tin liên lạc của cả nước dựa trên "mật độ xuất hiện" một số từ khoá và chỉ số tình cảm nhất định trong trường dữ liệu ấy Những thời điểm vui vẻ sẽ có ngôn ngữ vui vẻ hơn, và những thời điểm căng thẳng thì ngược lại. Chẳng hạn, trong tình huống xảy ra một vụ tấn công khủng bố, chính phủ có thể sử dụng các trường dữ liệu để đo sự thay đổi trong tâm lý nước Mỹ và đưa ra lời khuyên tốt hơn cho Tổng thống về tác động tình cảm của sự kiện ấy.
- Rất lý thú, - Katherine nhận xét, tay xoa cằm - Và cô đang tiến hành kiểm nghiệm một nhóm các cá nhân… như là một chủ thể đơn nhất.
- Chính xác. Một siêu hệ thống. Một chủ thể đơn nhất được xác định bởi số lượng hợp phần của nó. Chẳng hạn, cơ thể người gồm hàng triệu tế bào riêng lẻ, mỗi tế bào có những thuộc tính và mục đích khác nhau, nhưng có chức năng như một chủ thể đơn nhất.
Katherine hào hứng gật đầu.
- Như một đàn chim hoặc đàn cá. Chúng tôi gọi đó là hội tự hoặc ràng buộc.
Trish cảm thấy vị khách nổi tiếng này bắt đầu nhìn thấy tiềm năng ứng dụng kỹ thuật lập trình siêu hệ thống vào lĩnh vực Lý trí học của mình.
- Phần mềm của tôi, - Trish giải thích - được thiết kế để giúp các cơ quan chính phủ đánh giá tốt hơn và phản ứng phù hợp với những cuộc khủng hoảng quy mô lớn như dịch bệnh, các thảm hoạ quốc gia, khủng bố, đại loại thế - Cô ngừng lại - Dĩ nhiên, luôn có khả năng sử dụng nó theo những hướng khác… chẳng hạn là nắm bắt nhanh trạng thái tâm lý quốc gia và dự đoán kết quả một cuộc bầu cử hoặc xu hướng vận động của thị trường chứng khoán vào thời điểm mở cửa.
- Tuyệt vời!
Trish ra hiệu về phía ngôi nhà rộng rãi của mình.
- Chính phủ cũng nghĩ vậy.
Giờ thì đôi mắt xám của Katherine tập trung hết vào cô.
- Trish, cho tôi hỏi về vấn đề đạo đức do công trình của cô đặt ra nhé?
- Ý chị là gì?
- Ý tôi là phần mềm của cô rất dễ bị lợi dụng. Kẻ sở hữu nó sẽ tiếp cận được với những thông tin rất quan trọng không phải ai cũng biết. Cô không cảm thấy do dự khi tạo ra nó ư?
Trish không hề chớp mắt.
- Hoàn toàn không. Phần mềm của tôi không khác gì hơn là… một chương trình mô hình tập bay trong ngành hàng không. Một số người sử dụng sẽ thực hành bay cho các nhiệm vụ cứu trợ tới các nước chậm phát triển. Một số người lại sử dụng để tập điều khiển máy bay chở khách lao vào các toà cao ốc. Kiến thức là một công cụ, và như tất cả các công cụ, tác động của nó tuỳ thuộc vào người sử dụng.
Katherine ngả người ra sau, vẻ rất ấn tượng.
Vậy cho phép tôi hỏi cô một câu hỏi giả định.
Trish đột nhiên cảm thấy cuộc trò chuyện của họ chuyển thành một buổi phỏng vấn tuyển dụng.
Katherine cúi xuống và nhặt một hạt cát nhỏ xíu dưới bàn và giơ lên cho Trish nhìn.
- Theo tôi hiểu, - cô nói - công trình siêu hệ thống ấy giúp cô tính toán được trọng lượng của cả một bãi biển toàn cát… bằng cách cân một hạt cát.
- Vâng, về cơ bản đúng như vậy.
- Cô biết đấy, hạt cát nhỏ bé này có khối lượng. Một khối lượng rất nhỏ, nhưng vẫn là khối lượng.
Trish gật đầu.
- Và vì hạt cát này có khối lượng nên nó có trọng lực. Tất nhiên, cũng rất nhỏ, nhưng vẫn có.
- Vâng.
- Vậy thì, - Katherine nói, - nếu chúng ta có hàng nghìn tỉ hạt cát thế này và để chúng hấp dẫn nhau nhằm tạo nên… ví dụ mặt trăng đi thì trọng lực kết hợp của chúng đủ để dịch chuyển toàn bộ các đại dương và tạo ra thuỷ triều lên xuống trên hành tinh chúng ta.
Trish không hiểu rõ câu chuyện sẽ đi đến đâu, nhưng cô thấy thích thú với những điều mình đang nghe.
- Giờ chúng ta cùng giả định nhé? - Katherine nói, tay phủi hạt cát đi -Nếu tôi bảo cô rằng một suy nghĩ… tức là bất kỳ ý tưởng nhỏ nhoi nào hình thành trong tâm trí chúng ta… trên thực tế cũng có khối lượng thì sao nào? Nếu một suy nghĩ là một vật chất thật sự, một thực thể đo đếm được, với một khối lượng đo đếm được thì sẽ sao? Dĩ nhiên, đó là một khối lượng vô cùng nhỏ, nhưng vẫn cứ là khối lượng. Vậy hàm ẩn ở đây là gì?
- Nói một cách giả định ư? Chà, hàm ẩn rõ nét là… nếu một suy nghĩ cũng có khối lượng thì nó sẽ có trọng lực và có thể hút mọi vật về phía nó.
Katherine mỉm cười.
- Cô cừ lắm. Giờ ta tiến thêm một bước nhé. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu nhiều người cùng tập trung vào một suy nghĩ giống nhau? Tất cả những điều nảy ra từ những suy nghĩ đó sẽ hợp nhất lại, và khối lượng luỹ tích của suy nghĩ này bắt đầu tăng lên. Bởi vậy, trọng lực của nó cũng tăng lên.
- Đúng.
- Nghĩa là… nếu có đủ số người cùng nghĩ về một điều thì lực hấp dẫn của suy nghĩ đó trở nên hữu hình… tạo ra một lực thực sự - Katherine nháy mắt - Và có thể gây ra một ảnh hưởng đo đếm được lên thế giới vật chất của chúng ta đấy.
Chú thích
[1] Tiếng Frisian là một nhóm ngôn ngữ tương đối gần gũi với tiếng Đức - ND.
[2] Tiếng Maek là một phương ngữ có thể đã mất, từng được sử dụng ở bán đảo Triều Tiên - ND.
[3] Akkadian là một ngôn ngữ đã mất, từng được sử dụng ở Lưỡng Hà cổ đại. Nó sử dụng hệ chữ viết hình nêm của người Sumer cổ đại. Tên gọi của ngôn ngữ này xuất phát từ tên thành phố Akkad, một trung tâm lớn của nền văn minh Lưỡng Hà - ND.
 
CHƯƠNG 19


Giám đốc Inoue Sato đứng khoanh tay, mắt nhìn xoáy vào Langdon đầy vẻ hoài nghi trong khi phân tích những điều anh vừa nói.

- Gã nói rằng gã muốn ông mở khoá một cánh cổng cổ xưa phải không? Vậy tôi nên làm gì với câu chuyện đó đây, thưa Giáo sư?
Langdon nhún vai yếu ớt. Anh lại cảm thấy suy sụp và cố gắng không nhìn xuống bàn tay dễ sợ của bạn mình.
- Gã đã nói với tôi chính xác như vậy. Một cánh cổng cổ xưa… ẩn giấu đâu đó trong toà nhà này. Tôi bảo gã rằng tôi chẳng biết cổng kiếc nào cả.
- Nhưng tại sao hắn lại nghĩ rằng ông có thể tìm thấy nó?
- Tại gã bị điên, rõ ràng thế - Gã nói rằng Peter sẽ chỉ đường.
Langdon nhìn xuống ngón tay duỗi thẳng của Peter, và lại ngán ngẩm trước cái kiểu vặn vẹo câu chữ đầy ác ý của vị đại diện nhà chức trách. Peter sẽ chỉ đường. Langdon đưa mắt nhìn theo hướng ngón tay trỏ thẳng lên mái vòm bên trên. Một cái cổng ư? Trên đó chăng? Đúng là điên rồ.
- Gã đàn ông đã gọi cho tôi, - Langdon bảo Sato - là kẻ duy nhất biết tôi đến Điện Capitol tối nay, vì vậy bất kỳ ai thông báo cho bà rằng tôi ở đây tối nay, thì đó chính là người bà cần. Tôi thấy…
- Tôi có được thông tin từ đâu không phải là chuyện của ông, - Sato ngắt lời, giọng đanh lại - ưu tiên cao nhất của tôi lúc này là hợp tác với người đó, và tôi được biết ông là người duy nhất đủ khả năng đáp ứng những điều anh ta muốn.
- Còn ưu tiên cao nhất của tôi là tìm ra bạn tôi, - Langdon ủ rũ đáp lại.
Sato hít một hơi dài, rõ ràng sự kiên nhẫn của bà ta đang bị thách thức.
- Nếu muốn tìm thấy Solomon, chúng ta cần hành động, thưa Giáo sư bắt đầu bằng cách hợp tác với người có vẻ như biết rõ ông ấy đang ở đâu - Sato nhìn đồng hồ - Thời gian rất eo hẹp. Tôi dám khẳng định với ông rằng chúng ta bắt buộc phải nhanh chóng làm theo những đòi hỏi của người đàn ông này.
- Bằng cách nào chứ? - Langdon hỏi, vẻ ngờ vực - Bằng cách xác định và mở một cách cổng cổ xưa ư? Làm gì có cánh cổng nào, thưa Giám đốc Sato. Thằng cha đó bị tâm thần rồi.
Sato bước lại gần, chỉ cách Langdon chưa đầy nửa mét.
- Biết nói thế nào nhỉ… sáng nay gã điên của ông đã khôn khéo thao túng hai nhân vật vô cùng thông minh đấy - Bà ta nhìn thẳng vào Langdon rồi liếc về phía Anderson - Trong nghề của tôi, ai cũng hiểu rằng giữa điên rồ và thiên tài chỉ có một ranh giới rất nhỏ. Cho nên ít nhiều chúng ta cũng nên ngả mũ cúi chào gã này!
- Gã đã cắt phăng bàn tay của một con người!
- Đúng như vậy. Đó không phải là hành vi của một người lương thiện. Nhưng quan trọng hơn, thưa Giáo sư, rõ ràng gã ta tin rằng ông có thể giúp gã. Gã tìm cách đưa ông tới Washington, và chắc chắn phải có lý do gã mới làm thế chứ?
- Lý do duy nhất khiến gã nghĩ tôi mở được "cánh cổng" là bởi chính Peter đã nói với gã như vậy! - Langdon phản biện.
- Tại sao Peter Solomon lại nói thế nếu điều đó không phải sự thật?
- Tôi tin chắc Peter chẳng nói gì hết, và nếu có nói, thì đó là vì ông ấy bị ép buộc, bị rối trí… hoặc bị đe doạ.
- Phải. Người ta gọi đó là tra tấn ép cung, và hình thức ấy khá hiệu quả. Càng có lý do để ngài Solomon buột ra sự thật - Sato bình phẩm, như thể rất nhiều kinh nghiệm về thủ pháp này - Gã kia có giải thích tại sao Peter nghĩ chỉ mình ông mở được cánh cổng không?
Langdon lắc đầu.
- Thưa Giáo sư, nếu đúng như danh tiếng của ông thì ông và Peter Solomon đều cùng quan tâm đến một đề tài, đó là các bí mật, các bí quyết lịch sử, chủ nghĩa thần bí, đại loại như vậy. Trong tất cả các cuộc thảo luận với ông, Peter chưa bao giờ nhắc nhở đến một cánh cổng bí mật ở Washington D.C. ư?
Langdon không thể tin nổi mình lại phải nghe câu hỏi này từ một sĩ quan cao cấp của CIA.
- Tôi khẳng định như vậy. Peter và tôi trao đổi khá nhiều chuyện huyền bí, nhưng hãy tin tôi, tôi sẽ khuyên ông ấy đi kiểm tra lại đầu óc nếu có lần nào nói với tôi về một cánh cổng ẩn giấu đâu đấy. Đặc biệt lại là cánh cổng dẫn tới những Bí ẩn cổ xưa.
Sato ngước nhìn lên.
- Sao cơ? Người kia có nói cụ thể là cánh cổng này dẫn tới cái gì à?
- Phải, nhưng gã không cần nói thẳng ra - Langdon ra dấu về phía bàn tay - Mật Thủ là giấy mời chính thức để đi qua một cánh cống huyền diệu và nhận lấy những tri thức cổ - những tri thức mạnh mẽ có tên Bí ẩn cổ xưa… hoặc là tri thức bị lãng quên của mọi thời đại.
- Tức là ông đã nghe nói đến bí mật mà gã kia tin rằng được cất giấu ở đây.
- Rất nhiều nhà sử học nghe nói đến nó.
- Thế vì sao mà anh dám khẳng định cánh cổng đó không hề tồn tại?
- Kính thưa bà, tất cả chúng ta đều nghe nói đến Suối nguồn Tươi trẻ và Shangri-la[1], nhưng điều đó không có nghĩa là những thứ ấy tồn tại.
Máy bộ đàm của Anderson đột ngột ré lên rất to làm ngắt lời họ.
- Chỉ huy? - giọng trên máy bộ đàm gọi.
Anderson giật bộ đàm ra khỏi thắt lưng.
- Anderson đây.
- Thưa Chỉ huy, chúng tôi đã tìm kiếm xong. Ở đây không có ai khớp với mô tả. Còn mệnh lệnh gì không, thưa Chỉ huy?
Anderson liếc nhanh về phía Sato, rõ ràng là chờ đợi một lời quở trách, nhưng Giám đốc OS dường như không để tâm. Anderson bước xa khỏi chỗ Langdon và Sato, nói khẽ vào máy bộ đàm.
Sato vẫn chú tâm vào Langdon.
- Theo ông, bí mật mà gã kia tin rằng đang cất giấu ở Washington… chỉ là tưởng tượng?
Langdon gật đầu.
- Đó là một truyền thuyết rất lâu đời. Đã hàng nghìn năm rồi, từ thời tiền Công giáo, người ta đã đồn đại về bí mật của những Bí ẩn cổ xưa.
- Nhưng truyền thuyết ấy vẫn tồn tại?
- Khối tín điều vô lý hơn còn tồn tại nữa là - Langdon thường nhắc nhở sinh viên của mình rằng hầu hết các tôn giáo hiện đại đều có những câu chuyện không dễ kiểm chứng về mặt khoa học: tất cả mọi chuyện, từ Moses rẽ nước Hồng Hải… đến Joseph Smith sử dụng cặp kính thần để dịch Kinh Mormon từ những tấm vàng mà ông ấy tìm thấy ở tiểu bang New York. Việc nhiều người chấp nhận mộtý tưởng không phải là bằng chứng về giá trị của nó.
- Tôi hiểu. Vậy đích xác thì những… Bí ẩn cổ xưa này là gì?
Langdon thở hắt ra. Bà có hẳn vài tuần rảnh rỗi không?
- Nói ngắn gọn, Bí ẩn cổ xưa là một tập hợp kiến thức bí ẩn được tích luỹ từ rất lâu rồi. Người ta tin rằng khía cạnh đáng chú ý nhất của vốn kiến thức này là giúp kẻ thực hành nó tiếp cận được phần sức mạnh đang nằm im trong trí não con người. Những nhà thông thái nắm giữ được kiến thức này đã thề giữ bí mật với quần chúng bởi vì nó quá mãnh liệt và nguy hiểm cho những ai không được khai tâm.
- Nguy hiểm thế nào?
- Thông tin được giấu kín vì lý do tương tự như ta không để trẻ nhỏ nghịch diêm vậy. Nếu tích cực thì lửa sẽ đem lại ánh sáng… nhưng ở khía cạnh tiêu cực, lửa có khả năng huỷ diệt gớm ghê.
Sato gỡ cặp kính và săm soi Langdon.
- Giáo sư hãy cho tôi biết liệu ông có tin rằng kiến thức hùng mạnh đó thực sự tồn tại không?
Langdon không biết phải trả lời thế nào. Các Bí ẩn cổ xưa luôn là nghịch lý lớn nhất trong sự nghiệp học thuật của anh. Thực ra, mọi truyền thống huyền bí trên Trái đất này đều xoay quanh một ý tưởng.
- Ý tưởng ấy chấp nhận sự tồn tại của một thứ tri thức bí truyền có khả năng đem lại cho nhân loại những sức mạnh thần bí, thậm chí siêu phàm, chẳng hạn cỗ bài bói và Kinh Dịch giúp con người tiên đoán tương lai; thuật giả kim mang lại sự bất tử thông qua Hòn đá Triết học[2] huyền thoại; Wicca[3] cho phép những người thực hành nó ở cấp cao tạo ra được các loại bùa chú đầy quyền năng. Bản danh sách ấy còn kéo dài mãi.
Là một học giả, Langdon không thể phủ nhận các tư liệu lịch sử về những truyền thống này, đó là văn bản, hiện vật, và nhiều công trình nghệ thuật ám chỉ rằng người cổ đại có vốn tri thức rất cao song chỉ chia sẻ qua các huyền tích, truyền thuyết và biểu tượng, nhằm bảo đảm rằng những người được khai tâm mới đủ khả năng tiếp cận sức mạnh của vốn tri thức ấy. Tuy nhiên, là một người có tư tưởng thực tiễn và luôn biết nghi ngờ, Langdon vẫn không thực sự bị thuyết phục.
- Xin nói rằng tôi là một người hay hoài nghi - anh bảo Sato - Tôi chưa bao giờ bắt gặp thứ gì trong thế giới thực tiễn cho thấy sự hiện hữu của Bí ẩn cổ xưa, chúng chỉ là truyền thuyết, là một nguyên mẫu huyền thoại lặp đi lặp lại. Theo tôi, nếu quả thực con người sở hữu những sức mạnh kỳ diệu thì phải có bằng chứng chứ. Nhưng cho đến nay, lịch sử chưa hề ghi nhận một ai có sức mạnh siêu phàm cả.
Sato nhướng mày.
- Điều đó không hoàn toàn đúng.
Langdon do dự, nhận ra rằng với những người theo đạo, trên thực tế vẫn có tiền lệ về các vị nhân thần mà Jesus là minh chứng rõ rệt nhất.
- Phải thừa nhận rằng rất nhiều người giàu kiến thức tin tưởng vào sự tồn tại của vốn tri thức cao siêu ấy, nhưng tôi thì không tin - anh nói.
- Có phải Peter Solomon cũng thuộc số đó không? - Sato hỏi, liếc xuống bàn tay vẫn nằm trên sàn nhà.
Langdon không dám nhìn theo ánh mắt Sato.
- Peter xuất thân từ một dòng họ luôn có niềm đam mê đối với tất cả những gì cổ xưa và huyền bí.
- Phải chăng đó là một lời khẳng định? - Sato hỏi.
- Tôi có thể quả quyết với bà rằng cho dù tin vào sự tồn tại của những Bí ẩn cổ xưa. Peter cũng không khi nào tưởng đến việc tiếp cận chúng thông qua một cánh cổng ở Washington D.C. này. Ông ấy hiểu rõ những biểu tượng ẩn dụ, điều mà kẻ bắt giữ ông ấy rõ ràng mù tịt.
Sato gật đầu.
- Vậy ông tin rằng cánh cổng này là một ẩn dụ.
- Dĩ nhiên, - Langdon đáp - về mặt lý thuyết. Nó là một ẩn dụ rất quen thuộc, một cánh cổng bí ẩn mà người ta phải đi qua đó để được khai sáng. Cổng và cửa ngõ là những kiến trúc biểu tượng quen thuộc của nghi thức khai tâm. Tìm kiếm một cánh cổng theo đúng nghĩa đen chẳng khác gì cố tìm cho ra Cổng Thiên đàng.
Sato lộ vẻ trầm ngâm.
- Nhưng dường như kẻ bắt giữ Solomon tin rằng ông sẽ mở được một cánh cổng có thật?
Langdon thở hắt ra.
- Gã phạm phải một sai lầm giống như nhiều kẻ cuồng tín khác, đó là lẫn lộn giữa ẩn dụ với hiện thực.
Tương tự, các nhà giả kim ngày xưa đã lao tâm khổ tứ một cách vô ích nhằm biến chì thành vàng mà không hề nhận ra rằng quá trình này là một ẩn dụ về việc khai thác những tiềm năng đích thực của con người, giúp biến cải tư duy u tối, kém hiểu biết thành một tư duy sáng láng hơn.
Sato ra dấu về phía bàn tay.
- Nếu gã này muốn ông xác định cho gã một cánh cổng nào đó thì tại sao gã không đơn giản là hỏi ông cách tìm nó? Tại sao phải bày ra hành động điên rồ này? Tại sao lại gửi cho ông một bàn tay xăm hình?
Langdon đã tự hỏi mình đúng những câu hỏi này và vẫn chưa tìm ra câu trả lời.
- Chà, dường như kẻ mà chúng ta đang phải truy tìm, ngoài sự bất ổn về tâm thần, còn là kẻ có học vấn rất cao. Bàn tay này là bằng chứng cho thấy gã khá am hiểu về các Bí ẩn cũng như chìa khoá bí mật của chúng. Đấy là chưa kể lịch sử của căn phòng này.
- Tôi không hiểu.
- Mọi thứ gã làm tối nay đều được tiến hành theo đúng quy trình cổ xưa. Theo truyền thống. Mật Thủ là một lời mời thiêng liêng, và do đó nó phải được đưa ra ở một địa điểm thiêng liêng.
Sato nheo mắt.
- Đây là Nhà tròn của Điện Capitol, thưa Giáo sư, không phải là thánh đường dẫn tới những bí mật huyền thoại xa xưa.
- Trên thực tế, thưa bà. - Langdon đáp - tôi biết rất nhiều nhà sử học sẽ không đồng ý với bà về câu nói vừa rồi.
o O o
Lúc ấy, ở bên kia thành phố, Trish Dunne ngồi lọt giữa những bức tường plasma của Khối vuông. Chuẩn bị xong con nhện tìm kiếm, cô gõ năm cụm từ khoá mà Katherine đã đưa.
Chẳng đi đến đâu cả cho mà xem.
Cảm thấy không mấy lạc quan, cô cho con nhện hoạt động, bắt đầu trò chơi Đi câu cực kỳ phổ biến. Chỉ trong chớp mắt, các cụm từ liền được so sánh với mọi nội dung văn bản trên khắp thế giới… để tìm ra một trường hợp trùng khớp hoàn toàn.
Trish không khỏi thắc mắc về thực chất của câu chuyện, nhưng cô đã chấp nhận rằng làm việc với gia đình Solomon có nghĩa là không bao giờ biết hết toàn bộ mọi việc.
Chú thích
[1] Shangri-la là một địa danh hư cấu được nói đến trong cuốn tiểu thuyết Chân trời bị mất năm 1933 của tác giả người Anh James Hilton. Trong sách, "Shangri-la" là một thung lũng huyền bí nằm ở cực phía tây của dãy núi Côn Lôn. Shangri-la trở thành đồng nghĩa với cõi thần tiên và đặc biệt là một vùng đất sung sướng vĩnh hằng không tưởng bí ẩn trên dãy Himalayan, tách biệt với thế giới bên ngoài. Trong tiểu thuyết, những người sống ở Shangri-la đều bất tử - ND.
[2] Hòn đá Triết học là một dụng cụ giả kim huyền thoại, được cho là có khả năng biến những kim loại cơ bản thành vàng. Đôi khi, người ta còn tin rằng nó chính là thứ thuốc trường sinh bất lão, rất hữu dụng để cải lão hoàn đồng và có khi còn đạt được sự bất tử - ND.
[3] Wicca là một tôn giáo dựa vào tự nhiên được phổ biến vào năm 1954 bởi một công chức hưu trí người Anh là Gerald Gardner. Đây là tôn giáo lớn nhất trong các tôn giáo không theo Cơ đốc. Các tín đồ Wiccan rất tôn sùng Trái đất cùng vị nữ thần và nam thần của mình. Quy tắc ứng xử chính của họ là cấm làm hại mọi người, kể cả bản thân, trừ một vài trường hợp tự vệ - ND
 
Quay lại
Top