Bắt trẻ đồng xanh - J.D. Salinger (Full)

Totoro

Thành viên thân thiết
Thành viên thân thiết
Tham gia
17/12/2011
Bài viết
5.437
J.D. Salinger

Bắt Trẻ Đồng Xanh



Nguyên tác: The Catcher in the Rye Của Jerome David Salinger

Người dịch: Đức Dương - Bùi Mỹ Hạnh





Nếu các bạn thực tình muốn nghe câu chuyện tôi sắp kể, chắc hẳn các bạn muốn biết trước nhất tôi sinh ra ở đâu, tuổi nhỏ ngốc nghếch của tôi diễn ra thế nào, cha mẹ tôi trước ngày tôi sinh trưởng làm những gì - tóm lại, là toàn bộ cái mớ lai lịch vớ vẩn kiểu như của David Coperfield, đúng thế không? Nhưng nói thực, tôi chẳng thích bới những thứấy ra. Trước hết, không gì chán bằng phải kể lại những điều ngốc nghếch kia. Sau nữa, các bậc cha chú trong họ nhà tôi chắc sẽ bị đứng tim mỗi người ít nhất hai bận liền nếu tôi đem kể hết những chuyện bí mật đó với các bạn. Ai chứ họ, họ không thể nào xực nổi món ấy, nhất là bố tôi. Nói chung, họ đều tử tế cả, và tôi chẳng có gì đáng phải phàn nàn, nhưng ai cũng đều dễ bị chạm nọc kinh người. Vả lại, tôi cũng chẳng định thuật lại lai lịch chính mình, hoặc bất cứ thứ gì vớ vẩn tương tự, tôi chỉ muốn kể cái trò rồ dại mới xảy ra hồi Giáng Sinh vừa rồi. Sau vụ đó, tôi suýt quỵ hẳn, nên cả nhà đã phải tức tốc đưa tôi tới đây để chạy chữa và tĩnh dưỡng chút đỉnh. Hơn nữa, chuyện này tôi mới chỉ kể lại với một mình anh D. B, vì dẫu sao anh ấy cũng là anh ruột tôi. Anh ấy hiện đang ở trên Hollywood. Cách cái nhà an dưỡng chết rấp này chẳng mấy đường đất, và anh ấy vẫn ghé tới đây luôn, gần như hằng tuần. Mai mốt, không khéo chính anh ấy lại đưa tôi về, chắc chỉ vào đầu tháng sau thôi. Anh ấy vừa tậu được một chiếc Jaguar rất oách, mác Anh tử tế; bỏ rẻ cũng phóng được 200 dặm mỗi giờ. Suýt soát bốn ngàn bạc, chứ có phải ít ỏi gì đâu. Hồi này, anh ấy rủng rỉnh tợn. Chứ chẳng như độ nọ. Độ nọ, hồi còn ở nhà, anh ấy chỉ ngồi viết văn. Nghe đồn, anh ấy có viết được một tập truyện mỏng tầm cỡ quốc tế hẳn hoi, đó là Chú cá vàng ẩn danh. Cái truyện tuyệt nhất cũng mang cùng tựa đề đó - Chú cá vàng ẩn danh, - truyện kể về một cậu bé, không cho ai ngắm con cá vàng của mình hết, chỉ vì chính cậu ta đã xuất tiền túi ra mua con cá đó, cái truyện ấy tuyệt đấy chứ ! Thế nhưng hồi này anh ấy bỏ sang hẳn bên Hollywood, bán đứng tài nghệ cho đám làm phim. Nếu tôi ghét gì nhất trên đời thì đó chính là xi nê. Gì chứ món đó tôi không tài nào xực nổi.

Tốt nhất có lẽ tôi cứ mở đầu câu chuyện từ việc tôi từ giã Pencey. Pencey là cái trường trung học nội trú ở Agerstown, bên tiểu bang Pennsylvania. Trường đó, chắc các bạn đều nghe tiếng. Không chừng các bạn còn được nhìn thấy cảảnh chụp trên các mẫu quảng cáo. Vẫn đăng trên trên cả ngàn tờ tạp chí, chụp một thằng đại láu cá, mặt mày vênh váo, cưỡi trên lưng một con tuấn mã đang tung vó, chực vượt một chướng ngại vật rất cao. Cứ như là ở Pencey, học sinh chẳng còn biết làm gì hơn ngoài việc chơi polo! Kỳ thực, trên ấy mắt tôi cóc trông thấy một con ngựa còm nào. Rồi ngay bên dưới thằng nỡm láu cá nọ, họ còn trưng thêm cả cái câu này nữa: "Kể từ năm 1888, trường chúng tôi đã đào tạo được bao chàng trai can đảm và cao thượng!". Láo toét! Trường ấy chưa bao giờ đào tạo được đứa nào ra hồn. Mà cả các trường khác nữa cũng thế. Tôi chưa từng gặp một thằng nào "cao thượng và can đảm". À, mà cũng có một vài thằng đấy, tôi suýt quên. Nhưng kỳ thực, mấy đứa ấy vốn đã thế. Từ trước khi chưa vào học kia. Chứ tại trường đó thì cóc có đứa nào tử tế.

Tóm lại, câu chuyện bắt đầu xảy ra vào hôm thứ bảy, khi đang diễn ra trận đấu với đội Saxon Hall. Phần đông đều coi đó là trận cầu hệ trọng hơn hết thảy mọi thứ trên đời đối với đội Pencey. Bởi đó là trận chung kết, và nếu trường tôi mà thua bọn ấy, thì toàn trường khéo đến phải treo cổ lẫn nhau vì nhục nhã. Tôi nhớ là ngày hôm đó, lúc gần ba giờ rưỡi, tôi đang đứng, họa có trời biết là ở xó xỉnh nào trên chính ngọn đồi Thompson trong khuôn viên nhà trường, kế bên khẩu thần công ngu ngốc, có nhẽ vẫn nằm tênh hênh trên ấy từ thời chiến tranh vì Độc Lập đến giờ. Từ chỗ tôi đứng có thể nhìn rõ toàn bộ sân bóng và cảnh hai đội quần nhau, từ đầu bên nọ đến đầu bên kia. Riêng mặt mũi khán giả thì tôi không tài nào nhìn ra, mà chỉ nghe thấy tiếng hò hét vọng tới. Tiếng hò hét cổ vũ cho đội nhà thiếu nước muốn nổ trời vì cả trường, trừ tôi, đều kéo ra xem đông đủ. Còn phía bọn Saxon Hall thì năm khi mười họa mới có một đứa la hét: đội khách xưa nay bao giờ cũng ít người cổ vũ!

Tới xem các trận đấu bóng đá, bao giờ cũng lèo tèo dăm đứa con gái. Chỉ bọn con trai mấy lớp lớn mới được phép dắt đám bạn gái đi cùng. Đúng là một cái trường tệ lậu hết đường. Nhưng tôi, tôi vốn chúa ghét có mặt ở những chỗ xúm đông xúm đỏ tụi con gái bắng nhắng. Thậm chí cả khi bọn chúng chỉ ngồi suông, chẳng làm quái gì, mà chỉ chải đầu, xì mũi hay cười khúc khích, tôi cũng không chịu nổi. Con gái ông hiệu trưởng, lão Thurmer, là đứa chăm đi xem đá bóng nhất. Nhưng nó thì chẳng phải là thứ có thể khiến thiên hạ phải mê mẩn tâm thần. Tuy rằng nhìn chung, nó cũng chẳng có gì đáng chê. Có lần, tôi đã ngồi cạnh nó trên một chuyến xe buýt, xuất phát từ Agerstown, và trò chuyện huyên thuyên suốt buổi. Trước, tôi rất thích nó. Của đáng tội, mũi con bé kể cũng quá dài, còn mười đầu móng tay thì nó gặm nham nhở, đến mức suýt bật cả máu tươi. Với lại chiếc coocxê của nó, chẳng hiểu sao lúc nào cũng như muốn chĩa hết ra tứ phía. Nhưng tiếng thế chứ nhìn nó, ai cũng lập tức thấy mủi lòng ngay. Còn tôi, tôi thích nó vì nó không hay vặn vẹo bất cứ ai, như cái thói mà lão thân sinh tuyệt diệu của nó vẫn quen làm xưa nay. Chắc chính nó cũng thừa biết bố nó là thứ chày vồ quái đản.

Tôi không xuống dưới bãi bóng, mà lên đồi đứng xem, chẳng qua chỉ vì tôi vừa ở New York về, cùng với đội đấu kiếm của trường. Tôi chính là đội trưởng cái đội thối thây ấy. Một kiếm thủ khiến mọi đối thủ đều phải chùn tay ngay tức khắc. Tôi dẫn toàn đội xuống New York để thi đấu với trường Mc Burney. Có điều cuộc đọ sức đã bị bãi bỏ. Với lại tôi để quên mấy thanh kiếm, cả bộ quần áo, và nói chung mọi thứ đồ lề vớ vẩn dưới tàu điện ngầm ở New York. Nhưng tôi hoàn toàn không có lỗi. Bởi tôi phải đứng lên ngồi xuống suốt, để trông chừng các bảng sơ đồ treo ở các ga, xem lúc nào thì phải dắt cả bọn xuống ga. Tóm lại, bọn tôi về đến Pencey không phải trước giờăn trưa như dự định, mà mãi tới tận hai giờ rưỡi chiều hôm đó. Cả đội mắng mỏ, xỉ vả tôi đủ điều suốt dọc đường về. Kể cũng buồn cười thật đấy.

Tôi không xuống bãi bóng, còn vì một lẽ nữa, tôi tính ghé đến thăm thầy Spencer, giáo viên dạy sử lớp tôi, để từ biệt thầy trước lúc ra đi. Thầy bị cúm, nên tôi biết chắc từ giờ tới đầu kỳ nghỉ Giáng Sinh sắp đến, tôi chẳng còn dịp nào để gặp thầy nữa. Vả lại, chính thầy cũng đã gởi thư nhắn rằng thầy muốn gặp tôi trước lúc tôi về nhà. Thầy biết chắc tôi sẽ chẳng bao giờ quay lại đây nữa.

À, tôi quên kể là tôi đã bị đuổi. Tôi sẽ không quay lại trường sau kỳ nghỉ Giáng Sinh này, vì tôi đã thi trượt bốn môn, và nói chung, tôi không chịu học hành gì, chứ chẳng phải chỉ riêng bốn môn kia. Họ đã cảnh cáo tôi đến cả trăm lần - phải cố mà học hành. Bố mẹ tôi, hồi giữa học kỳ cũng đã bị mời lên gặp lão Thurmer hiệu trưởng. Nhưng tôi bất chấp tất, vẫn chẳng chịu học hành gì. Thế nên họ đã đuổi thẳng cánh. Họ đã đuổi khỏi Pencey vô khối đứa. Học lực bọn ấy đều rất chúa, thật đấy; toàn là những học trò giỏi hẳn hoi.

Tóm lại, chuyện đó xảy ra vào hồi tháng Chạp vừa qua, trời rét căm căm, như thể bị một lão phù thủy chui tọt vào sau vạt áo mình. Nhất là trên ngọn đồi chết tiệt tôi đang đứng. Tôi lại chỉ phong phanh có mỗi chiếc blouson mỏng - găng tay không, các thứ đồấm khác cũng không. Tuần trước, tôi bị nẫng mất chiếc măng tô bằng lông lạc đà ngay tại phòng. Cả đôi găng tay rất ấm tôi nhét trong túi áo. Trong này vốn nhan nhản bọn ăn cắp. Bố mẹ vô khối đứa rất giàu, thế nhưng trộm cắp vẫn như rươi. Hễ học phí càng cao, thì trường càng nhiều quân trộm cắp hơn. Tóm lại, tôi đứng bên khẩu thần công ngu ngốc ấy, suýt chết cóng đến nơi vì không có áoấm. Nhưng trận đấu, tôi nào có để mắt đến. Tôi trèo lên đó chẳng qua chỉ vì tôi muốn cảm thấy rõ hơn là mình đã giã từ mãi mãi cái trường chết tiệt này. Gì chứ chuyện bị đuổi tôi chẳng lạ. Nhưng tình thực, tôi chẳng thiết nghĩ tới chuyện phải cuốn gói ra đi. Tôi rất căm chuyện đó. Nhưng không một phút nào thèm nghĩ - đó là chuyện đáng buồn hay chẳng hơi đâu mà buồn. Nhưng mỗi lần chia tay với một nơi nào đó, bao giờ tôi cũng thấy cần phải cảm nhận thật rõ mình đã thực sự đoạn tuyệt với cái nơi mình sắp sửa ra đi. Bằng không, tôi vẫn cảm thấy bứt rứt suốt.

Hôm đó tôi lại gặp may. Vì tôi chợt nhớ đến một chuyện, và lập tức cảm nhận ngay được cái cảm giác mình sẽ mãi mãi rời khỏi đây. Tôi chợt nhớ một lần - vụ đó xảy ra vào hồi tháng mười - ba đứa tôi - tôi, thằng Robert Tichener với thằng Paul Campbell - đã vờn bóng ngay trước tòa nhà dùng làm phòng học. Hai thằng kia đều là những đứa rất tử tế, nhất là thằng Tichener. Đó là lúc sắp sửa ăn tối, trời đã nhá nhem, nhưng bọn tôi vẫn mải mê với quả bóng da. Của đáng tội, trời cũng đã tối lắm rồi, gần như chẳng còn nhìn thấy gì, nhưng bọn tôi chẳng hiểu sao vẫn chẳng chịu thôi. Tuy vậy, rút cục vẫn phải bỏ cuộc. Vì thầy dạy sinh vật, ông Zambisi, bỗng thò đầu ra ngoài cửa sổ, bảo bọn tôi phải về ngay ký túc, ăn mặc cho tử tế mà đi ăn tối. Vụt nhớ lại chuyện đó, tôi lập tức cảm thấy chẳng có gì đáng phải luyến tiếc ngôi trường. Vừa hiểu ra thế, tôi bèn quay ngoắt lại, co giò lao thẳng xuống nhà thầy Spencer già lão. Thầy ấy không ở ngay trong trường. Mà có căn nhà nằm trên đường Antheny Wayne, cách trường một quãng.

Tôi chạy liền một mạch tới cổng chính, rồi dừng lại một lát cho tới lúc nhịp thở đã đều trở lại. Phổi tôi vốn yếu, thật đấy. Một, là vì tôi rít thuốc lá như một đầu máy xe lửa, nghĩa là tôi đã nghiện ngập từ trước. Còn ở đây, tại cái nhà an dưỡng này, thì họ bắt phải cai thuốc. Hai, là vì chỉ riêng năm ngoái, tôi đã cao thêm lên những hơn mười hai phân. Chắc vì thế nên tôi mới chớm bị lao, và phải tới đây nằm để kiểm tra lại sức khoẻ và chữa chạy với mấy lão bác sĩ chết tiệt. Chứ ngoài hai lá phổi, thể lực tôi nói chung khá ổn.

Tóm lại, vừa đỡ hụt hơi một cái, tôi đã băng ngay qua phố, chạy thẳng tới đường Wayne. Mặt đường phủ kín băng, trơn chết người, nên tôi suýt ngã chổng vó mấy lần liền. Tôi chẳng biết mình chạy thế để làm gì, nhưng vẫn cắm cổ chạy như bị ma đuổi. Lúc tới bên kia đường rồi, tôi bỗng có cảm giác như mình bị mất hút giữa trời đất. Hôm đó là một ngày rất rồ dại, rét như cắt ruột, lại chẳng có lấy một chút nắng nào, chẳng có gì hết, nên tôi dễ có cảm giác: hễ sang tới bên kia đường lập tức bạn sẽ bị mất hút vĩnh viễn.

Khiếp, tôi cứ bấm chuông tưởng như hóa dại, khi mò tới được trước cổng nhà ông Spencer già lão đó! Tôi lạnh cóng toàn thân. Hai tai nhức buốt, ngón tay không còn co duỗi được nữa. "Mau lên! Mau lên cho tôi nhờ một chút! - tôi suýt thét lên thành tiếng, - Mở cửa ra mau!". Mãi, rồi bà Spencer cũng ra mở cửa cho tôi. Nhà hai ông bà không nuôi đầy tớ và cũng chẳng còn ai khác nữa, nên bao giờ hai vợ chồng cũng phải tự tay ra mở cửa cho khách. Lương bổng ông chồng khéo chỉ vừa nuôi sống vợ.

- Cậu Holden! - bà Spencer nói - Rất mừng là được gặp lại cậu! Vào đi, cậu bé đáng mến! Chắc cậu suýt chết cóng ngoài phố chứ gì?

Tôi cảm thấy bà ta thực tình mừng rỡ khi gặp lại tôi. Bà rất quý tôi. Ít ra, tôi cũng có cảm tưởng thế. Tôi lao vào nhà như một phát đạn.

- Cô vẫn khoẻ chứ, thưa cô Spencer? - Tôi nói - Thầy Spencer đã đỡ hẳn chưa, cô?

- Cởi áo ngoài ra đã, Holden! - Bà bảo. Bà không nghe thấy lời tôi vừa hỏi thăm sức khoẻ thầy Spencer. Bà hơi nghễnh ngãng.

Bà treo áo tôi vào t ủ, còn tôi, tôi đưa tay lên chải lại mái tóc cho tử tế hơn. Tóc tôi vốn tua tủa như lông nhím trên đầu, hầu như chẳng mấy khi phải bận tâm nhiều với chuyện chải chuốt.

- Cô vẫn mạnh giỏi luôn chứạ? - Tôi lại cất tiếng hỏi, lần này to hơn trước, để bà già nghe thấy điều tôi muốn hỏi thăm.

- Ừ, tuyệt lắm, Holden ạ - Bà đóng tủ lại - Thế còn cậu?

Qua giọng nói, tôi hiểu ngay: rõ ràng ông Spencer đã kể hết với bà vợ chuyện tôi bị đuổi.

- Cũng tuyệt lắm ạ, - Tôi đáp - Thế còn thầy, sức khoẻ thầy thế nào? Chắc đã khỏi hẳn rồi, hả cô?

- Khỏi hẳn? Holden, độ rày ông ấy cư xử cứ như là... như là tôi với ông ấy chưa từng quen biết nhau! Ông ấy đang ngồi trong buồng riêng đấy, cậu cứ việc vào thẳng trong ấy.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Hai ông bà, mỗi người có một phòng riêng. Cả hai đều đã ngót bảy mươi, nếu không hơn. Tuy thế, họ vẫn cố tận hưởng mọi lạc thú cõi trần, dù rằng một chân đã mấp mé bên miệng huyệt. Ăn nói thế là mất dạy, tôi biết, nhưng trong thâm tâm tôi hoàn toàn chẳng muốn nói thế chút nào. Tôi chỉ muốn bảo: tôi nghĩ nhiều về ông thầy giáo già Spencer. Nhưng nếu nghĩ ngợi nhiều quá về ông, bạn sẽ lập tức thấy kinh ngạc sao ông ấy cứ sống mãi thế không biết?! Thì các bạn thấy đấy, lưng ông ấy đã còng gần sát đất, đi đứng thì chậm chạp, đến nỗi hễ đánh rơi cục phấn giữa lớp thì mấy đứa ngồi ở dãy bàn đầu phải lập tức cúi xuống, nhặt giúp và trao lại tận tay. Theo tôi, đã vậy thì còn sống làm quái gì! Nhưng nếu đừng quá bận tâm đến ông ấy, mà chỉ nghĩ qua quít thì hóa ra ông ấy ăn ở cũng chẳng đến nỗi tệ bạc lắm. Chẳng hạn, có lần, vào một ngày chủ nhật, ông ấy đã tự đứng ra thết tôi với mấy đứa nữa, mỗi thằng một cốc sôcôla nóng, rồi đem khoe với bọn tôi tấm chăn Anh điêng sắp nát mủn mà ông ấy với bà Spencer đã mua lại được của một anh chàng người Navaho, tại công viên Yellow Stone. Trông cũng biết ông ấy rất khoái chí vì đã mua được tấm chăn. Đấy, bây giờ hẳn các bạn hiểu điều tôi muốn nói về thầy Spencer rồi chứ? Nghĩa là ở ông già lụ khụấy còn có một con người thứ hai nữa, từa tựa như ông ấy. Thế nhưng ông già thứ nhất vẫn khoái chí như ai, vì đã sắm được một tấm chăn lạ mắt của người Anh điêng thuộc bộ tộc Navaho.

Cửa phòng ông Spencer vẫn để ngỏ, nhưng tôi vẫn gõ khẽ cho lịch sự. Tôi cũng nhìn thấy ông ấy hẳn hoi, thầy đang ngồi trong chiếc ghế xa-lông bọc da, rộng thênh thang, người quấn chặt trong tấm chăn tôi vừa kể kia. Ông già quay người lại, khi thoáng nghe mấy tiếng gõ khẽ.

- Ai đó? - Ông lớn tiếng hỏi - Cậu đấy hả Caulfield? Vào đi cậu bé, vào đi!

Giọng thầy vẫn oang oang như lúc giảng bài trên lớp. Nghe rất chối óc, thật đấy. Vừa bước vào là tôi đã ân hận ngay, chẳng biết ma quỷ nào xui mình mò tới đây. Ông đang xem tờ Atlantic Monthly, và nhìn đâu tôi cũng thấy bày la liệt nào thuốc viên, nào thuốc chai. Khắp phòng nồng nặc mùi thuốc nhỏ mũi để chống cảm lạnh. Tôi đâm buồn bã. Tôi, nói chung, không thích nhìn thấy cảnh đauốm. Tôi càng rầu hơn nữa, bởi nhìn thấy ông già choàng chiếc áo ngủ cũ mèm, sờn rách, thảm hại hết chỗ nói, chắc ông ấy đã dùng nó từ lúc mới lọt lòng, thật đấy. Tôi vốn chúa ghét người già cả lúc họ thắng bộ áo choàng ngủ hoặc pijama. Tứ thời, họ toàn để phanh ngực, phô hết mấy chục chiếc xương sườn ọp ẹp. Lại cả những bộ giò dễ sợ của họ nữa chứ ! Thì đã mấy ai được nhìn thấy một ông già nào ngoài bãi biển có bộ giò trơn tru, trắng trẻo, không một sợi lông chưa?

- Chào thầy! Em có nhận được thư thầy. Cảm ơn thầy nhiều lắm - Ôngấy có viết cho tôi một mẩu giấy, nhắn tôi đến chào từ biệt trước lúc về nghỉ đông. Ông già thừa biết tôi chẳng bao giờ thèm quay lại trường - Lẽ ra thầy không cần phải viết đâu. Vì đằng nào em chẳng đến từ giã thầy trước lúc đi hẳn?

- Ngồi xuống đây, chú bé - Thầy Spencer bảo, chỉ tay vào cái gi.ường ngủ kề> bên cạnh. Tôi ngồi xuống mép gi.ường.

- Thầy đã đỡ chút nào chưa ạ?

- Em biết đấy, thầy mà thấy đỡ thì thầy còn cho đi mời bác sĩ làm gì? Ông già

Spencer tự diễu mình. Ông cất tiếng cười the thé, như một lão điên. Cười xong, ông già thở lấy hơi, rồi hỏi tiếp: - Này, sao cậu không đi xem đá bóng? Hôm nay nghe bảo là chung kết kia mà?

- Vâng. Nhưng em vừa mới từ New York về cùng đội đấu kiếm.

Khiếp, gi.ường với chiếu! Đá tảng chắc cũng chả rắn bằng!

Rồi thầy đột nhiên nghiêm giọng, như một ông giáo khắt khe. Tôi biết trước sau gì rồi cảnh đó cũng sẽ tới.

- Nghĩa là cậu sắp giã từ chúng tôi đấy hả? - Thầy hỏi.

- Vâng ạ, đại để là thế.

Nghe tôi nói v ậy, thầy lập tức lắc đầu triền miên. Từ nhỏ tới giờ, tôi chưa từng thấy ai lắc đầu lâu đến thế. Không biết thầy ấy lắc đầu lắm thế là vì đang ngẫm nghĩ hay chẳng qua chỉ vì đã quá già. Hẳn quỷ sứ họa may mới hiểu!

- Thế tiến sĩ Thurmer đã nói gì với cậu chuyện này? Nghe bảo ông ấy đã trò chuyện với cậu suốt một buổi chiều, đúng không?

- Vâng ạ. Thầy ấy quả có nói chuyện với em. Nhưng em chỉ ngồi đằng phòng làm việc của thầy ấy chừng hai tiếng thôi, không hơn.

- Thế ông ấy nói những gì, Holden?

- Ồ... đủ thứ. Nào đời là một canh bạc lớn. Nào phải chơi thật trung thực, theo đúng luật lệ. Thầy ấy nói thao thao bất tuyệt. Nghĩa là chẳng có gì đặc sắc cả. Quanh đi quẩn lại vẫn chỉ mỗi một chuyện đời là một canh bạc lớn và vân vân. Gì chứ chuyện đó, em chắc thầy biết cả rồi?

- Nhưng đời quả tình là một canh bạc, chú bé ạ, và phải chơi cho thật đúng luật lệ.

- Vâng. Em biết những thứấy, em biết cả đấy.

Hừm! Ví thế mà cũng đòi! Bài với chả bạc! Nếu ở bên phía vận đỏ, thì ví đời là canh bạc, hay gì gì tùy thích cũng chả sao. Nhưng cứ thử đặt mình vào phía bên kia, bên vận đen ? Lúc đó, xem đời có còn là một canh bạc nữa không? Chẳng giống nhau chút nào hết. Ví thế mà cũng đòi ví.

- Thế tiến sĩ Thurmer đã báo tin cho bố mẹ cậu chưa? - Thầy Spencer hỏi.

- Chưa ạ, thầy ấy định đến thứ hai mới viết thư.

- Còn cậu, cậu cũng chưa báo tin gì cho bố mẹ cậu à?

- Vâng, em chưa kịp báo tin gì, vì tối thứ năm này em đã có mặt ở nhà.

- Theo cậu, bố mẹ cậu sẽ tỏ thái độ gì khi nghe tin đó?

- Chắc... bố mẹ em sẽ giận lắm - tôi đáp - Có lẽ thế. Vì đây là lần thứ tư em bị đuổi học. Bây giờ thì chính tôi lắc đầu. Tôi quen thế rồi.

- Ái chà! - tôi nói. Đó cũng lại là một cái tật nữa: cứ kêu lên "Ái chà!" hoặc "Ối giời!" trước lúc nói. Phần vì tôi chưa tìm được những lời lẽ cần phải nói; phần vì tôi hay cư xử theo lối trẻ con. Hồi ấy tôi mười sáu, bây giờ thì đã mười bảy, nhưng lắm lúc tôi vẫn xử sự như mới mười hai, mười ba tuổi. Cư xử thế dĩ nhiên hết sức chướng mắt, nhất là vì tôi đã cao tới một mét bảy hai và tóc đã hoa râm. Thật đấy. Một nửa mái tóc, nửa bên phải, đã có tới cả triệu sợi bạc. Từ bé, vốn đã thế rồi. Vậy mà lắm lúc tôi vẫn xử sự như thể mới mười hai tuổi. Ai cũng trách tôi về khoản ấy, nhất là bố tôi. Nhưng chỉ đúng phần nào, chứ không đúng hoàn toàn. Thế nhưng thiên hạ thường ai cũng tưởng mình đi guốc trong bụng người khác. Tôi thì tôi nhổ toẹt vào chuyện đó, tuy rằng tôi rất buồn mỗi khi nghe thiên hạ răn dạy này nọ: phải xử sự cho ra vẻ người lớn một chút chứ! Chán vạn gì lúc tôi cũng đã cư xử như người lớn hẳn hoi, nhưng nào có ai thèm để ý đâu. Nói chung, họ chẳng bao giờ chịu để ý đến bất cứ điều gì.

Ông già Spencer l ại lắc đầu. Vừa lắc đầu, vừa cho tay vào mũi ngoáy lấy ngoáy để. Thầy ấy làm như thể chỉ lau mũi qua quít, nhưng kỳ thực đã thọc cả một ngón tay vào ngoáy. Chắc thầy ấy tưởng chuyện đó chẳng sao hết, bởi lẽ ngoài tôi ra, trong phòng chẳng còn ai. Tôi thì cố nhiên, tôi chẳng chấp làm gì, tuy rằng tôi chúa tởm cái trò cứ thọc tay vào mũi mà ngoáy trước mặt người ta. Lát sau thầy lại lên tiếng:

- Thầy có hân hạnh là đã được tiếp xúc với bố lẫn mẹ cậu, khi hai ông bà đến đây gặp tiến sĩ Thurmer, dăm tuần trước đây. Bố mẹ cậu đều là những người hết sức quý hóa.

- Vâng, dĩ nhiên. Bố mẹ em đều rất tử tếạ.

Quý hóa. Tôi không ghét gì bằng hai chữ đó. Tầm thường hết chỗ nói. Nghe ai nhắc tới nó là tôi thấy lợm giọng ngay. Nét mặt thầy Spencer vụt đổi khác, như thể thầy sắp thốt ra một điều gì rất thông minh, rất hay ho. Thầy rướn người, ngồi lại cho ngay ngắn hơn trước. Nhưng hóa ra tôi bị báo động nhầm. Thầy ấy chỉ cầm lên tờ tạp chí nằm trong lòng, và muốn quẳng nó sang cái gi.ường cứng như đá. Nhưng ý định đó không kết quả. Cái gi.ường chỉ cách chỗ thầy ấy đang ngồi chưa đầy năm tấc; thế mà thầy vẫn ném không tới. Tôi lại phải đứng dậy, nhặt giúp tờ báo đặt nó lên gi.ường. Tôi bỗng muốn chạy ngay ra khỏi căn phòng cho nhẹ cái thân. Tôi cảm thấy sắp phải nghe một bài giảng đạo tồi tệ nhất. Ai muốn nói gì tùy thích, nói chung, tôi không phản đối. Nhưng tôi thấy thật quá quắt, nếu cứ phải ngồi nghe những lời giáo huấn mà chung quanh mình ngập ngụa toàn những thuốc là thuốc và trước mặt là ông già Spencer, thắng bộ pijama và chiếc áo choàng ngủ như thế kia. Nói thật chứ tôi chẳng còn bụng dạ nào mà ngồi nghe thầy ấy nói. Nhưng bài giảng đạo vẫn cứ tuôn ra, bất chấp hết thảy.

- Cậu học hành gì mà lạ thế, hả ông tướng con - Thầy Spencer lên tiếng, giọng nghiêm khắc đến mức tôi chưa từng nghe thấy bao giờ - Học kỳ này, cậu phải thi mấy môn nào?

- Năm.

- Năm môn. Thế cậu trượt mấy môn cả thảy?

- Bốn ạ - Tôi vặn vẹo trên chiếc gi.ường thổ tả. Trên cái gi.ường cứng ngắc mà tôi ch ưa từng gặp bao giờ. Tiếng Anh tôi thi rất trót lọt vì tôi đã từng học Beowulf và Huân tước Randat, con ta với đủ thứ khác nữa bên trường Whootton. Vả lại, tôi phải động đến tiếng Anh luôn, mỗi khi làm luận.

Ông già bỏ ngoài tai những điều tôi vừa nói. Tính ông ấy vẫn thế: chẳng bao giờ chịu nghe xem người ta nói gì với mình.

- Tôi đánh trượt cậu môn sử, vì cậu chẳng chịu học bài gì hết, dù là một dòng.

- Em biết. Điều đó em biết. Thầy không thể làm khác được.

- Cậu chẳng chịu học, dù chỉ một bài! - Thầy Spencer nhắc lại. Tôi rất tức khi nghe người khác nhắc đi nhắc lại chính cái điều mà ngay từ đầu tôi đã công nhận với họ. Thế nhưng thầy ấy vẫn đay lại câu đó lần thứ ba: - Dù chỉ một bài thôi, cậu cũng chẳng chịu học. Tôi dám đánh cuộc là suốt học kỳ vừa rồi, cậu chưa hề động đến sách giáo khoa lần nào. Đúng không, hả? Nói thật đi, ông tướng con!

- Không đâu ạ, dĩ nhiên là em có xem qua một vài bận - tôi nói. Tôi không nỡ làm thầy ấy giận. Thầy rất mê sử học.

- Chà, có ấy à - thầy giận dữ nói - Xin lỗi cậu nhé, bài thi của cậu còn nằm sờ sờ trên giá kia. Bên trên chồng vở đấy. Nào lấy xuống giúp cho tôi đi!

Đây quả là một vố chơi khăm, nhưng tôi vẫn phải cầm quyển vở của mình xuống, trao cho ông thầy, vì còn biết làm gì khác nữa? Xong đâu đó, tôi lại gieo người xuống cái gi.ường bê tông vẫn ngồi từ nãy. Các bạn hẳn không thể hình dung nổi là tôi ân hận đến mức nào về chuyện đã ghé lại đây từ giã ông già Spencer!

Ông cầm quyển vở của tôi trên tay, như cầm một cục phân khô hoặc một thứ gì đó còn tồi tệ hơn.

- Về Ai Cập, ta học từ hôm mồng 4 tháng Một đến mồng 2 tháng Chạp - ông nói - C ậu đã chọn đầu đề đó cho bài thi học kỳ. Cậu có muốn nghe tôi đọc những gì cậu viết không, Caulfield?

- Không ạ, thầy chẳng cần đọc lại đâu.

Thế nhưng ông ấy vẫn cất tiếng đọc. Thầy ấy mà đã định làm gì thì đố ai ngăn. Muốn là làm, bất chấp tất.

- "Người Ai Cập là tộc người cổ xưa nhất thuộc gốc gác Kavkaz, sinh sống tại một vùng đất thuộc địa phận Bắc Phi. Đó, như ta đã biết là lục địa lớn nhất ở đông bán cầu".

Tôi cứ phải ngồi thừ ra đó mà nghe tất thảy những thứ nhảm nhí chưa từng có. Đúng là một trò chơi khăm, không hơn không kém.

- "Hiện thời, chúng ta rất chú ý đến người Ai Cập vì nhiều nguyên do. Khoa học hiện đại vẫn đang cố tìm cách giải đáp câu hỏi: họ đã dùng những chất bí ẩn gì khi ướp các tử thi, để năm tháng không làm thối rữa những khuôn mặt của tổ tiên. Câu đố hóc hiểm ấy vẫn đang thách thức nền khoa học hiện đại của thế kỷ hai mươi chúng ta đang sống".

Thầy nín bặt, đặt quyển vở của tôi xuống. Tôi gần như căm ghét ông ấy thực sự vào giây phút này.

- Đúng thế đấy, cuộc du ngoạn của cậu vào thế giới khoa học kết thúc ở đây - ông ấy vẫn dùng cái giọng cay độc như trước. Chưa bao giờ tôi nghĩ rằng một ông già lụ khụ đến mức đó lại có lắm trò hiểm độc đến thế - Nhưng chưa hết, ở cuối bài, cậu còn có nhã ý gửi riêng cho tôi mấy dòng - ông thêm.

- Đúng, đúng, chuyện đó em vẫn còn nhớ ! - tôi nói. Tôi vội nói lấp đi, để ông ấy đừng đọc câu đó lên. Nhưng vô ích, có họa là thánh may mới ngăn nổi ! Lòng ông ấy đang hừng hực khí thế mà lại!

- "Thầy Spencer quý mến! - ông cao giọng đọc - Đấy là tất cả những gì em biết về người Ai Cập. Họ, chẳng hiểu sao không khiến em quan tâm mấy. Tuy rằng thầy giảng về họ rất tuyệt. Sẽ chẳng sao cả, nếu thầy đánh trượt em, bởi vì trừ tiếng Anh, các môn khác em đều bị đánh trượt cả rồi. Kính thư. Holden Caulfield, học trò của thầy".

Đọc xong, ông ấy đặt quyển vở thổ tả của tôi xuống đùi, rồi ngước lên nhìn, như thể vừa hạ tôi một "xéc" bóng bàn với tỷ số 21 - 0. Tôi không bao giờ tha thứ cho việc ông ấy đã đọc to lên mấy câu vớ vẩn đó. Nếu ông ấy mà viết cho tôi mấy dòng như thế, thì dẫu có các vàng tôi cũng dứt khoát từ chối, thật đấy. Vì viết thêm mấy câu chết giẫm ấy, tôi thực tình chỉ muốn cất đỡ cho ông ấy cái gánh nặng khi phải hạ bút đánh trượt một đứa học trò lười.

- Cậu có giận là tôi đã đánh trượt cậu không, ông tướng con?

- Ô, không đâu ạ. Em không hề giận chút nào! - tôi đáp. Chà, sao ông ấy cứ gọi mãi tôi là "cậu tướng con" thế nhỉ?

Ông ấy vứt quyển vở của tôi lên gi.ường. Nhưng lại hụt, cố nhiên, tôi lại phải đứng dậy, nhặt lên. Rồi đặt nó ngay ngắn xuống cạnh tờ tạp chí Atlantic Monthly đang xem dở. Nhưng tôi chả trách, bởi tôi đang thích chốc chốc lại được vặn người cho đỡ mỏi.

- Thế ở vào địa vị tôi thì cậu tính xử trí thế nào? Nói thực đi, cậu tướng con?

Đấy nhé, trông cũng thừa biết ông ấy đang rất áy náy vì đã đánh trượt tôi bài sử. Nhưng dĩ nhiên tôi phải nói trớ sang chuyện khác. Nào là tôi tối dạ, đại để hơi đần độn; nào là ở vào địa vị ông ấy, tôi cũng sẽ làm hệt thế; nào là lắm kẻ vẫn không hiểu làm một ông giáo khó đến bực nào. Và vân vân... Tóm lại, tôi phải nói trớ đi, cho ông ấy đỡ thấy bứt rứt lương tâm.

Nhưng buồn cười nhất là lúc đó đầu óc tôi lại hoàn toàn bận tâm đến chuyện khác. Miệng vẫn nói, nhưng tâm trí lại nghĩ đến một chuyện khác. Mà nghĩ đến một chuyện khác, chẳng dính dáng gì tới điều đang nói. Chả là nhà tôi vốn ở New York, nên tôi bận tâm đến cái hồ nước ở mé cửa nam công viên Trung tâm không biết nó đã đóng băng chưa; mà nếu đã đóng băng rồi, thì bầy vịt nuôi dưới đó không biết sẽ xoay xở thế nào? Tôi không thể hình dung nổi đàn vịt ấy sẽ trốn rét khi hồ nước bị băng phủ kín và giá buốt như cắt thịt. Chắc họ sẽ cho xe tải tới chở chúng sang một sở thú ấm áp? Mà không chừng chúng sẽ tự bay đến cũng nên?

Thành ra dẫu sao tôi cũng thấy đỡ nặng nề hơn. Tôi muốn nói là tôi vừa có thể múa may ba tấc lưỡi về đủ mọi thứ với thầy Spencer già lão, vừa có thể nghĩ đến đàn vịt. Sự thể đã xô đẩy tôi nghĩ đến nước ấy, chứ thực tình, khi đang trò chuyện với thầy giáo, bạn đừng nên nghĩ ngợi điều gì khác. Nhưng rồi thình lình ông ấy lại cắt đứt dòng suy nghĩ của tôi. Đối với ông ấy, đó là chuyện cơm bữa.

- Này, thế cậu nghĩ gì về chuyện đó, cậu bé? Tôi đang muốn biết cậu nghĩ gì.

Tôi không mong gì khác hơn.

- Về chuyện em bị đuổi ấy ư? - Tôi hỏi. Trời ơi, ước gì ông ấy khép ngay cái vạt áo ngủ ngu ngốc kia lại giúp! Chứ trông chướng mắt quá.

- Nếu tôi không nhầm thì hình như cậu cũng đã gặp chính những chuyện lôi thôi đó cả bên trường Whootton, lẫn trường Elkton Hills, đúng không? Câu ấy ông già thốt ra bằng một giọng chẳng những độc địa, mà còn thù địch.

- Em không hề gặp một chuyện lôi thôi nào bên trường Elkton Hills. Em chẳng trượt môn nào bên trường ấy. Em chỉ thôi học - thế thôi. Chứ chẳng phải bị đuổi ạ.

- Tôi hỏi thẳng nhé, tại sao thế?

- Tại sao ư ? Đó là cả một câu chuyện dài, thưa thầy - Chuyện đó đại để khá rắc rối ạ.

Tôi chẳng muốn kể với ông ấy chút nào đầu đuôi câu chuyện. Vì có kể hết, ông ấy cũng chẳng chịu hiểu cho. Vượt quá sức tưởng tượng của ông ấy. Tôi từ giã Elkton Hills chẳng qua chỉ vì bên ấy đầy rẫy một lũ rởm đời, thế đấy. Rởm đời lộ liễu đến mức bạn phải chết ngốt tức khắc, nếu cứ học mãi bên ấy. Như lão hiệu trưởng của trường, lão Haass, chẳng hạn. Tôi chưa từng gặp kẻ nào rởm đời, đê tiện đến mức ấy. Còn tệ gấp mười lão Thurmer bên này. Chẳng hạn, chủ nhật nào lão cũng chạy ra, rối rít bắt tay, bắt chân tất cả các vị phụ huynh đến thăm con. Lão tươi cười, lịch duyệt đố ai bằng. Nhưng chẳng phải ai lão cũng tay bắt mặt mừng như nhau bởi vì bố mẹ bọn học trò cũng có kẻ giàu sụ, người túng quẫn. Các bạn cứ nhìn cung cách lão chào hỏi bố mẹ thằng ở cạnh phòng tôi, chẳng hạn, là khắc biết. Nếu mẹ đứa nào quá đẫy đà hoặc ăn mặc quê mùa quá, hoặc bố nó mà thắng bộ com-lê vai hếch quá, còn giầy thì không hợp thời trang chỗ đen, chỗ trắng lam nham, thì lão chỉ chìa cho có đúng hai ngón tay, gượng gạo cười mỉm, rồi quay ngoắt sang trò chuyện với bố mẹ đứa khác, lắm lúc cả nửa tiếng đồng hồ là ít ! Gì chứ trò đó thì tôi chịu, xực hết nổi. Máu tôi lập tức sôi lên. Tức đến muốn phát điên. Tôi căm ghét cái trường Elkton Hills thổ tảấy chẳng biết để đâu cho hết.

Ông già Spencer lại hỏi thêm câu gì đó, nhưng tôi không nghe. Tôi đang mãi nghĩ đến cái lão Haass đê tiện.

- Thầy bảo gì em thế ạ? - tôi hỏi.

- Thế cậu có buồn không, khi phải từ giã Pencey?

- Có chứ, dĩ nhiên cũng chỉ hơi buồn chút đỉnh thôi. Dĩ nhiên... nhưng dẫu sao cũng chỉ chút đỉnh thôi, thưa thầy! Chắc tâm trí em chưa bị nó xâm chiếm. Phải có thời gian cho nó thấm. Lúc này, em chỉ bận tâm đến chuyện sắp được về nhà vào thứ năm này. Dẫu sao em cũng tự thấy mình là đồ bỏ đi!

- Chẳng lẽ cậu không bận tâm chút nào về tương lai ư, ông tướng con?

- Không ạ, em vẫn nghĩ đấy chứ, dĩ nhiên, làm sao không nghĩ đến được? -

Tôi ngừng bặt - Có điều chỉ thỉnh thoảng mới nghĩ. Thỉnh thoảng thôi ạ.

- Phải nghĩ thật kỹ! - ông già Spencer nói - Ngay từ bây giờ. Chứ để ít nữa mới nghĩ e muộn mất! Tôi bỗng thấy khó chịu kinh khủng khi nghe câu đó. Sao ông ấy lại ăn nói thế nh ỉ, cứ làm như tôi sắp chết đến nơi không bằng? Khó chịu kinh khủng.

- Nhất định em sẽ ngẫm nghĩ đến điều đó. Em sẽ ngẫm nghĩ.

- Cậu có cần tôi nhồi nhét cho đôi điều cần thiết không, Caulfield? Vì tôi rất muốn giúp cậu, cậu hiểu chứ?

Trông vẻ mặt, tôi thấy ông ấy quả muốn giúp tôi thực. Giúp thực tình. Nhưng tâm trí mỗi người một ngả, thành thử chẳng ăn thua.

- Em biết thầy rất quý em, em cảm ơn thầy rất nhiều. Nói thật, em rất cảm kích, đúng thế đấy!

Dứt lời, tôi liền đứng phắt dậy. Lạy chúa, dẫu có bị xử chém, tôi cũng không thể nào ngồi thêm trên cái gi.ường ấy mười phút nữa.

- Rất tiếc em đang phải vội về trường! Em phải gói ghém đồ đạc trong phòng chơi thể thao. Đằng ấy đang trăm thứ linh tinh, nhưng khốn nỗi em rất cần những thứấy. Lạy chúa, em phải về gấp ạ!

Ông già chỉ nhìn tôi, rồi lại lắc đầu triền miên nhưng vẻ mặt hết sức trang nghiêm, phiền muộn lạ lùng. Tôi bỗng thấy tội nghiệp cho ông già quá. Nhưng không thể cứ nấn ná ở đây mãi. Vả lại, ý nghĩ của hai thầy trò cách bức nhau quá nhiều. Không thể ngồi mãi ở đây để ngắm cái cảnh ông già muốn vứt thứ này thứ nọ sang bên kia gi.ường nhưng mười lần đều hụt cả mười, chiếc áo ngủ thảm hại ông ấy đang diện, lẫn bộ ngực lép kẹp cứ phanh trần ra suốt, với lại ngửi cái mùi thuốc chống cúm nồng nặc.

- Thầy biết đấy. - tôi nói, - thầy đừng quá buồn phiền về em. Đừng thầy ạ, em nói th ật đấy. Mọi thứ rồi sẽ ổn hết. Em đang trong lứa tuổi chuyển tiếp, chính thầy cũng biết rõ đấy. Ai cũng đều thế cảấy mà.

- Thầy không biết, thầy không biết.

Tôi chúa ghét cái tật cứ lầu bà lầu bầu kiểu đó.

- Ai mà chả thế - tôi nói - ai mà chả qua cái tuổi đó, hả thầy? Thật đấy, thầy đừng quá buồn phiền về em. - Thậm chí tôi còn vỗ vỗ lên vai ông Spencer - Thầy đừng quá buồn phiền nhé!

- Cậu có muốn uống một cốc sôcôla nóng cho ấm bụng không? Bà Spencer nhà tôi sẽ rất lấy làm sung sướng...

- Em rất muốn, thật đấy, nhưng em đang rất vội. Phải chạy tới phòng tập thể dục gấp. Rất cảm ơn thầy. Cảm ơn thầy nhiều lắm.

Thế là hai thầy trò bắt tay nhau. Rồi cả các thứ lễ nghi lúc chia tay, dĩ nhiên. Nhưng chẳng hiểu sao tôi bỗng thấy buồn khủng khiếp.

- Em sẽ viết thư cho thầy. Thầy nhớ giữ gìn sức khoẻ khi dứt cúm, thầy nhé!

- Thôi, đi nhé, ông tướng con! Nhưng lúc tôi vừa khép cửa, bước ra phòng ăn, thì ông già Spencer liền cất tiếng gọi với theo sau lưng nhưng tôi không nghe ra, tuy rằng ông hét rất to. Hình như ông chúc tôi "Đi mạnh giỏi nhé!". Mà không chừng chẳng phải thế. Tôi hy vọng vậy. Có các vàng mà bảo tôi chúc thế, tôi cũng cóc làm. Một thói quen đến là bỉ ổi, các bạn cứ ngẫm mà xem.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Tôi chúa hay nói dối, trên đời đố ai sánh kịp. Một tật xấu thật đáng tởm. Rõ ràng tôi đang ra hiệu sách để mua một tờ báo vớ vẩn gì đó, nhưng nếu thình lình có ai hỏi đi đâu, tôi sẽ không chút ngần ngại, bảo ngay: đi xem ca kịch đằng rạp Ôpêra. Thật kinh khủng! Tôi bảo với ông già Spencer phải đến phòng tập thể thao gấp để thu dọn các thứ đồ đạc linh tinh, nói dối đấy. Kỳ thực, tôi chẳng đời nào dại dột để một thứ gì đằng cái phòng thổ tảấy.

Những ngày còn học ở đó, tôi trọ tại khu ký túc mới, nằm ngay trong toà nhà mang tên lão Ossenburger. Khu ấy chỉ dành cho học sinh các lớp cuối cấp và đầu cấp. Tôi thuộc loại mới vào học, còn thằng ở cùng phòng thuộc loại sắp ra trường. Toà nhà được đặt tên như vậy để ghi nhớ lạo Ossenburger, một học sinh cũ của trường Pencey. Ra trường, lão kiếm được cả đống tiền nhờ mở một văn phòng mai táng. Xó xỉnh nào trong tiểu bang cũng có chi nhánh của lão. Những chi nhánh ấy, chắc ai cũng biết rõ, vì họ vẫn quảng cáo ầm ĩ là có thể giúp các bạn chôn cất thân bằng quyến thuộc với cái giá rất hời, chỉ mất có năm đôla một người. Chà, ước gì các bạn được nhìn thấy tận mắt cái mặt thịt của lão ta! Tôi dám thề độc là lão chỉ tống thi hài người chết vào bao tải, rồi thả trôi sông chứ chẳng thèm chôn cất gì hết. Thành thử lão giàu sụ, rồi đem cúng chút ít cho trường Pencey để họ lấy tên lão đặt cho toà nhà trọ của bọn tôi. Hôm khai diễn mùa bóng năm nay, lão đã ngồi trong chiếc Cadillac choáng lộn tới dự, nên trường đã bắt bọn tôi phải đứng cả dậy và vỗ tay ầm ĩ, nghĩa là để gào thẳng vào mặt lão đến khô cả cổ :"Hurrah!" (Hoan hô). Sáng hôm sau, lão bước lên toà giảng trong nhà nguyện, lớn tiếng đọc một bài diễn văn dài tới mười mấy tiếng đồng hồ. Mở đầu, lão kể gần chục chuyện tiếu lâm bằng một giọng cợt nhả, để tỏ vẻ ta đây cũng còn trai trẻ sung sức như ai! Kế đến, lão kể lể không bao giờ ngượng nghịu, mà sẵn lòng quỳ mọp xuống cầu Chúa, mỗi lần gặp trắc trở hoặc lôi thôi này khác. Lão cũng khuyên bọn tôi nên theo gương lão - quỳ mọp xuống và trò chuyện với Chúa mọi lúc, mọi chỗ. Lão nói:"các em hãy hướng về Chúa, đối đãi với Ngài như với người bạn chí tình. Về phần minh, bao giờ tôi cũng trò chuyện với Đấng Cứu Thế rất mực thành tâm. Ngay cả lúc ngồi sau tay lái, phóng xe đi đây đó." Lão mà nói thêm câu nữa, chắc tôi chết mất. Tôi hình dung trong óc tôi cái cảnh thằng cha mất giống đó, tay thì gạt cần số sang số một, còn miệng thì lẩm nhẩm cầu Chúa gửi xuống cho mình thêm nhiều thi hài cần chôn. Nhưng giữa lúc lão đang múa may ba tấc lưỡi thì thình lình bỗng xảy ra một chuyện tuyệt hay. Đang giữa chừng câu chuyện phét lác rằng lão là một chàng trai xuất chúng, khôn ngoan, thì thằng Eddie Marsalla - ngồi ngay trước mặt tôi - đánh một phát rắm rất to, suýt làm tốc mái ngôi nhà nguyện. Nó làm thế cố nhiên là rất đểu, chẳng còn coi phép tắc xử thế ra gì, nhưng phải nói là "tiếu lâm" hết sảy. Khá thật, cái thẳng quỷ Marsalla! Không đứa nào dám cười thành tiếng. Lão Ossenburger thì làm ra vẻ chẳng nghe thấy gì. Nhưng chỉ nhìn hiệu trưởng Thurmer đang ngồi cạnh lão chủ đòm đám trên bục diễn đàn cao, thì cũng biết là lão đã nghe thấy tất. Khiếp, trông mặt lão mới kinh chứ! Lão chẳng hé răng câu nào, nhưng chiều hôm đó liền lôi cả trường lên giảng đường và quạt cho bọn tôi một trận nên thân. Lão bảo: một học sinh mà cố tình gây rối như thế trong giờ hành lễ thì không còn xứng đáng ngồi học ở đây nữa. Bọn tôi cố bắt thằng Marsalla nổ thêm một loạt đại bác chào mừng như ban sáng, ngay giữa lúc lão Thurmer đang giảng giải, nhưng hắn chịu chết, cố đến mấy cũng cóc ăn thua. Đấy, chỗ tôi trọ là khu ký túc xá mới, nằm trong toà nhà mang tên cái lão Ossenburger đó.

Về lại buồng, tôi thấy nhẹ cả người bởi thoát được ông thầy già Spencer giữa lúc cả trường đều đangở ngoài bãi bóng dưới kia, và chiếc lò sưởi duy nhất trong cả toà nhà đang toả hơi ấm ra khắp phòng. Thậm chí tôi còn thấy người nóng lên là khác. Tôi cởi blouson, cà vạt, nới bớt mấy cái cúc cổ rồi chụp lên đầu chiếc mũ đỏ mới mua hồi sáng ở New York, chiếc mũ đi săn, có gắn thêm đằng trước một cái lưỡi trai dài tới mười lăm phân. Tôi thấy họ bày bán trong một cửa hiệu trang phục thể thao, khi vừa chui từ dưới đường tàu điện ngầm lên, sau lúc vừa bị mất sạch mấy thanh kiếm thổ tả, giá chỉ một " đô" chẵn. Tôi đội ngược, dĩ nhiên rất chướng mắt, nhưng tôi thích thế. Xong xuôi, tôi vớ lấy quyển sách đang đọc dở, rồi gieo người xuống chiếc ghế salon hỏng. Trong phòng chỉ có hai chiếc, một của tôi, một của thằng bạn cùng phòng, Ward Stradlater. Mấy cái tay vịn đều gãy hết, vì đứa nào cũng toàn đặt đít lên đó, nhưng lần đệm thì còn êm đáo để. Quyển tôi đang đọc là sách thư viện cho mượn nhầm vì họ ghi sai ký hiệu. Mãi tới lúc cầm về nhà, tôi mới biết đã mượn nhầm cuốn khác. Tên cuốn sách là Giữa rừng thẳm Châu Phi của Isal Dinesen. Tôi tưởng đó là của vứt đi, nhưng hoá ra rất khá. Tôi chúa lười học, nhưng sách thì ngốn nhiều vô kể. Nhà văn tôi hâm mộ nhất là D.B. anh ruột tôi. Kế đến - Ring Lardner. Cuốn của Ring Lardner là quà tặng của anh tôi nhân ngày sinh nhật tôi, trước thời điểm bị đày lên cái trường Pencey chết tiệt này. Cuốn sách có in mấy vở kịch, vở nào cũng nhộn kinh khủng kèm một mẩu chuyện ngắn kể về chàng cảnh sát giao thông phải lòng một cô gái rất kháu, nhưng tứ thời toàn vi phạm luật đi đường. Anh chàng cảnh sát nọ đã vợ con đàng hoàng, nên cố nhiên không thể cưới cô kia. Về sau, cô ấy chết, vì vi phạm luật giao thông. Câu chuyện viết rất xúc động. Nói chung, tôi chỉ thích những chuyện nhộn nhộn, loại cổ điển, đại để như Về lại cố hương (Tiểu thuyết của Thomas Hardy). Sách viết về chiến tranh lẫn truyện trinh thám, cố nhiên tôi đều không chê, nhưng chẳng hiểu tại sao chả mê mấy. Những cuốn tôi thích phải là những cuốn mà vừa gấp sách lại, bạn đã lập tức ước ao: ôi phải chi nhà văn ấy là bạn chí thiết của mình, để hễ cần là có thể nhấc máy lên gọi, và trò chuyện chút đỉnh. Nhưng loại đó thì hiếm đấy. Tôi sẽ thích thú lắm, nếu được gọi dây nói cho ông Dinesen, và cố nhiên, cả cho ông Ring Lardner. Có điều anh D.B. bảo ông ta mất lâu rồi. Còn những cuốn như Thân phận con người của Somerset Maugham chẳng hạn thì khác hẳn. Đại để cũng chẳng đến nỗi nào. Nhưng gì chứ chuyện gọi dây nói cho ông ấy thì tôi chẳng ước. Chính tôi cũng chẳng biết tại sao nữa. Chỉ cảm thấy đó không phải là người mình thích chuyện trò. Mà có gọi dây nói, tôi cũng chỉ gọi cho ông Thomas Hardy đã mất thôi. Tôi thích cô Eustacia Vye mà ông ấy tả. Như vậy là tôi chụp chiếc mũ mới lên đầu, gieo người xuống salon, rồi đọc Giữa rừng thẳm Châu Phi. Tôi đã đọc qua một lần rồi, nhưng vẫn còn muốn xem lại vài đoạn. Tôi mới chỉ kịp lật có mấy trang thì thình lình nghe có tiếng chân bước ra khỏi nhà tắm. Chẳng cần ngước mắt, tôi cũng thừa biết đó là thằng Robert Ackley ở buồng bên. Chái nhà phía bên này, hai phòng mới có một buồng tắm. Thành thử thằng ấy ngày nào cũng mó sang khoảng bảy tám chục bận. Ngoài ra, nó là đứa độc nhất ở ký túc không ra bãi xem đấu bóng. Và nói chung, nó chẳng đi đâu bao giờ. Là đứa rất kỳ quặc, đang học năm cuối và đã mài đũng quần tại trường Pencey này suốt bốn năm trời, nhưng tôi chưa từng thấy ai gọi nó bằng tên. Ngay cả thằng Herb Gale, ở cùng phòng với nó, cũng chưa bao giờ gọi nó là "Bob" hay thậm chí "Ack" cả. Hoạ may có vợ nó mới chịu gọi nó là "Ackley", nếu ít nữa nó cũng lấy nổi vợ. Nó cao kinh khủng, những một thước chín, lưng gù dễ sợ, còn răng thì bẩn đến phát tởm lên được. Từ ngày ở chung với nó tới giờ, tôi chưa từng thấy nó đánh răng lần nào. Cả hàm trên lẫn hàm dưới đều bẩn kinh khủng, mốc meo cả, mỗi lần thấy nó ngốn khoai tây hay đậu hầm dưới nhà bếp là tôi suýt lộn mửa. Lại còn trứng cá nữa chứ! Chẳng phải chỉ có trên trán hay dưới cằm, như bọn con trai chúng tôi, mà khắp mặt khắp mũi kia. Nghĩa là cái gì trên người nó trông cũng kinh. Ấy là chưa kể cái thói đê tiện của nó. Nói của đáng tội, nó là đứa tôi chẳng ưa chút nào.

Chẳng cần nhìn, tôi cũng thừa biết nó đang đứng trước cửa nhà tắm, ngay đằng sau chiếc salon tôi đang ngồi, lấc láo nhìn trước ngó sau, xem Stradlater có nhà không. Nó rất ghét thằng Stradlater, nên không đời nào bước chân vào phòng khi thấy có thằng kia. Nói chung thì ai nó cũng ghét. Nó bước hẳn ra khỏi phòng tắm, rồi đi thẳng về phía tôi.

- Hello! Nó lên tiếng, giọng tứ thời uể oải, như thể đang ngao ngán kinh khủng hoặc đang mệt bở hơi tai vậy. Nó không muốn tôi nghĩ là nó ghé sang chơi. Chỉ làm ra vẻ tình cờ tạt vào, thằng quỷ!

Nó bắt đầu lân la khắp mọi xó xỉnh, rất thong thả, như bất cứ lúc nào và lục lọi bất cứ thứ gì tôi để trên bàn học và gi.ường ngủ. Hết thảy những thứấy, thứ nào nó cũng đều đã xem qua một lượt, nhưng lần nào sang, nó cũng lại cầm chính cái đó lên, săm soi, ngắm nghía. Thế này khéo tôi đến phát điên mất!

- Sao, đấu gươm đấu ghiếc thế nào? - Nó cất tiếng hỏi. Nó chẳng muốn gì hơn là tôi vứt sách xuống, dừng thưởng thức những thứ hay ho ấy nữa chứ đâu thèm đếm xỉa đến kết quả trận đấu gươm. Bên nào thắng, bọn mày hay chúng nó?

- Nó tiếp.

- Cóc bên nào thắng. - tôi đáp, nhưng vẫn chẳng thèm rời mắt khỏi cuốn sách.

- Cóc bên nào thắng. - tôi nhắc lại, liếc mắt về phía thằng bạn xem nó lục lọi những gì trên bàn ngủ. Nó ngắm tấm ảnh con bé tôi mới làm quen dưới New York, tên là Sally Hayes. Nó đã cầm tấm ảnh thổ tảấy lên ít nhất cả ngàn lần. Nhưng lần nào xem xong cũng không chịu đặt xuống đúng chỗ. Nó cố ý đấy, trông khắc biết.

- Cóc bên nào thắng à? - Nó nói - Thế là thế nào?

- Tao để quên sạch các thứ đồ lề dưới tàu điện ngầm.- Tôi đáp, đầu vẫn cúi gằm xuống trang sách.

- Dưới tàu điện ngầm? Đồ quỷ! Thế mất mẹ nó hết còn gì?

- Bọn tao lên nhầm chuyến. Nên cứ phải đứng lên ngồi xuống, để xem các sơ đồ treo ở các ga. Nó lần đến sát bên tôi, án ngữ ngay trước mặt.

- Này, vì mày mà tao đã phải đọc câu này tới hai chục lượt rồi đấy.

Ai chắc cũng hiểu ngay điều tôi ngụ ý trong câu vừa nói, trừ thằng Ackley. Chắc trên đời chỉ có mỗi mình nó là một.

- Thế chắc bọn chúng bắt mày chịu cả tiền vé chứ gì? - Nó hỏi.

- Tao cóc biết mà cũng cóc cần biết. Mày ngồi xuống cho tao nhờ chút được không. Ackley nhóc? Ch ứ nãy giờ mày che hết cả ánh đèn đây này .

Nó rất ức mỗi lần tôi gọi là "Ackley nhóc". Nó vẫn lải nhải suốt: tôi mới là nhóc con, vì tôi mới mười sáu còn nó, nó đã mười tám đôi mươi.

Nhưng nó vẫn đứng trơ ra đó. Nó là hạng người dẫu có được các vàng cũng không đời nào chịu tránh đi chỗ khác, nếu nghe người khác bảo nó che mất ánh đèn. Sớm muộn gì rồi nó đứng dịch ra chỗ khác nhưng nếu nghe ai bảo thế, thì nó sẽ cố ý đứng ỳ ra.

- Mày đọc gì đấy? - Nó hỏi

- Đọc sách, mày mù à?

Nó lật úp cuốn sách xuống, xem tựa đề

- Khá không?- Nó tiếp tục

- Khá, nhất là câu này, cái câu tao đã phải đọc đi đọc lại suốt từ nãy đến giờ -

Thỉnh thoảng tôi cũng biết ăn nói đốp chát, nếu thấy cao hứng. Nhưng với thằng Ackley thì chẳng ăn thua. Nó lại lân la khắp phòng, lại sờ cái này, mó cái nọ, tất cả những thứ đồ đạc, cả của tôi, lẫn của thằng Stradlater. Rốt cục, tôi đành quẳng quyển sách xuống sàn. Nó mà còn ở lì bên này thì có đọc cũng vô ích.

Tôi ngả người ra, và bắt đầu nhìn thằng Ackley lục lọi phòng tôi. Chuyến đi New York khiến tôi mệt bã người, chỉ trực ngáp dài. Nhưng tôi cũng cố gượng làm trò khỉ để chọc tức nó. Tôi xoay cái lưỡi trai ra đằng trước, rồi kéo sụp mũ xuống sát mắt. Tôi như thằng mù, chẳng còn nhìn thấy gì nữa.

- Ối, ối! Không khéo con mù mất thôi! - tôi rống to lên bằng một giọng khản đặc. - Mẹơi, sao mà tối tăm thế này, chết cha!

- Mày điên hả, ôn dịch? - Ackley nói

- Mẹ ơi, đưa tay cho con, khổ thân con! Sao mẹ không đưa tay ra giúp con, hở mẹ?

- Thôi đi đồ ngốc!

Tôi bắt đầu quờ quạng tứ phía như một thằng mù thật, nhưng vẫn ngồi

nguyên trên gh ế salon và mồm vẫn rền rĩ không ngớt.

- Mẹ ơi, mẹ hỡi! Sao mẹ không dắt con?

Dĩ nhiên, tôi chỉ làm trò thế cho đỡ chán. Lắm lúc tôi cũng thấy thích vậy. Vả lại, tôi thừa biết thằng Ackley là đứa dễ cáu nhất trần đời nên thích làm tình làm tội nó bằng những trò đùa tai ác, cho vui. Tìm mọi cách chọc tức nó, cố ý làm cho nó điên tiết nhưng chỉ được một chốc là tôi chán ngay. Tôi lại quay ngược chiếc mũ lại, rồi ngả người xuống ghế.

- Của ai cái này? - Ackley hỏi. Nó cầm cái băng nịt đầu gối của thằng > Stradlater lên. B ạ gì nó cũng cầm, cái thằng thổ tả, kể cả mấy sợi dây giày. Tôi bảo nó cái nịt đó là của thằng Stradlater. Thế là nó vất ngay lên gi.ường. Của nợ đó vốn nằm trên bàn ngủ, nó biết thế, nhưng vẫn cố ý vứt ra chỗ khác.

Rồi nó đến bên tôi, ngồi xuống tay vịn chiếc salon. Nó chẳng bao giờ ngồi theo kiểu thiên hạ vẫn ngồi, đã ngồi là thượng ngay lên tay vịn.

- Mày kiếm cái mũ thổ tảấy ở đâu vậy?

- Dưới New York

- Mất bao nhiêu vậy?

- Một " đô".

- Mày bị hố đấy - và nó bắt đầu vớ lấy que diêm, cạy ghét trên mười đầu móng tay g ớm ghiếc của nó. Tứ thời nó chỉ chăm chút có mấy cái móng tay thổ tả ấy. Một thói quen kỳ quặc. Răng thì đầy những **********, ghét đóng vành ngoài hai tai. Thế nhưng chỉ lo trau chuốt có ba cái móng tay. Chắc nó tưởng nó sạch sẽ nhất xứ.

- Ở quê tao, chỉ lúc đi săn người ta mới đội thứ mũ đó, hiểu chứ? Thiên hạ chỉ đội nó khi bắn các thứ thú rừng.

- Chứ sao? - Tôi nói, bỏ chiếc mũ xuống, ngắm nghía một lúc. Tôi nheo một mắt, như thể đang nhắm bắn một con thú. - Nhưng thiên hạ cũng đội nó cả lúc săn người. - tôi bảo, - nên tao đội nó để săn người

- Thế bố mẹ mày biết mày bị đuổi chưa?

- Chưa

- Còn thằng Stradlater nhà mày đi đâu?

- Xem đá bóng. Nó hẹn gặp bồ ngoài bãi - Tôi lại ngáp dài. Không thể kiềm chế được. Trong phòng nóng kinh khủng, tôi lại mệt nữa, nên đâm buồn ngủ. Sống trong cái trường này, bọn tôi chỉ hoặc chết cóng, hoặc là phát ngốt vì bức bối. - Thằng Stradlater sướng thật! - Ackley nói - Này, đưa cái kéo tao mượn một chút. Mày có thủ sẵn trong áo đấy không?

- Không, tao cất nó đi rồi. Ra tủ mà lấy. Ngăn trên cùng ấy.

- Thì lấy ra tao mượn chút không được à? Móng tay tao dài quá, phải cắt cái đã.

Nó cóc cần biết bạn đã cất đồ đạc đi chưa, cất ở ngăn dưới hay ngắn trên. Tôi đành phải đứng dậy, lấy xuống cho nó mượn. Cứ thế này thì tôi đến ngoẻo mất. Tôi vừa mở tủ thì cái vợt của thằng Stradlater, cả cái bàn thấm bằng gỗ nữa, rơi xuống giữa đỉnh đầu đánh cốp một cái, đau kinh khủng. Thằng Ackley chừng khoái chí lắm, cười ngặt nghẽo. Tiếng cười vừa the thé, vừa chua. Trong lúc tôi phải lôi chiếc vali xuống, moi cái kéo cho nó, thì nó lại ôm bụng cười. Cái ngữ như Ackley, thì đừng cho nó ăn bánh làm gì, uổng tiền. Cứ cho nó xem cảnh ai đó bị một hòn đá giáng xuống đầu hoặc một trò gì đại để thế, bởi, nó chỉ biết ôm bụng cười hô hố, khi người khác hoạn nạn.

- Ra mày cũng có khiếu khôi hài đấy chứ, Ackley nhóc - Tôi bảo nó. - Mày cóc bao giờ biết thế, đúng không? - Vừa nói, tôi vừa đưa cho nó cái kéo.

- Mày có muốn tao bảo trợ, cho mày lên biểu diễn trên đài phát thanh không, Ackley nhóc?

Tôi lại gieo người xuống salon, còn nó thì chăm chú tỉa tót ba cái móng tay ghét bẩn.

- Mày ra bàn kia mà cắt cho tao được nhờ tí đi - tôi bảo nó. - Tao không muốn giẫm phải vụn móng tay khi bỏ dép - Tuy nghe rõ tôi nói thế, nhưng nó vẫn cứ vứt bừa xuống sàn. Cái tính nó thế. Kể cũng đáng ghét thật.

- Thế thằng Stradlater hẹn gặp con nào ngoài bãi? - Nó hỏi. Tứ thời nó toàn gạn hỏi tôi và chuyện Stradlater giao du với những ai, tuy rằng nó chúa ghét thằng đó.

- Tao cóc biết. Nhưng bận gì đến mày?

- Tao chỉ hỏi cho biết. Chứ tao cóc chịu nổi cái ngữ thối thây ấy.

- Thế nhưng nó, nó lại mê mày hết biết! Nó bảo với tao, mày là một hoàng tử đích danh! - Tôi nói. Gặp ai tôi cũng khen rằng nó là một hoàng tử đích danh. Đại để tôi vẫn thường giả ngốc, lúc đó, tôi thấy đỡ buồn tẻ chút đỉnh.

- Tứ thời, lúc nào mặt mũi nó cũng vênh vênh váo váo - Thằng Ackley nói

Tao không tài nào xực nổi cái ngữ mất giống ấy. Nó cứ tưởng nó...

- Này, mày không quá bộ lại cái bàn kia mà cắt được sao? - Tôi bực bội - Tao đã năn nỉ mày đến cả năm chục bận...

- Nó cứ vênh mặt lên suốt - Ackley lặp lại - Theo tao, nó chỉ là đứa bốc phét.

Thế nhưng nó cứ tưởng mình rất thông minh. Nó tưởng mình thông minh nhất đời...

- Ackley! Quỷ bắt mày đi! Mày không cắt mấy cái móng tay bẩn thỉu của mày ở đằng bàn kia được sao? Tao đã năn nỉ mày đến năm chục bận rồi, mày điếc hả?

Mãi lúc đó nó mới chịu dẫn xác lại mép bàn. Muốn bắt nó làm gì, chỉ có quát ầm lên thế. may mới ổn. Tôi ngước nhìn nó một chặp, rồi bảo:

- Mày cáu với thằng Stradlater vì nó bảo mày năm thì mười hoạ mới chịu đánh răng, đúng không nào? Chứ kỳ tình, nó chẳng hề muốn sỉ nhục mày! Nó nói thế là hoàn toàn vô tâm, chứ chẳng phải xúc phạm gì mày cả. Nó chỉ muốn mày sẽ thấy dễ chịu và trông dễ coi hơn, nếu đánh răng.

- Nhưng tao không đánh răng bao giờ? Mày đừng về hùa với nó.

- Không, mày không đánh răng, đừng chối. Tao vẫn theo dõi mày suốt, đích thị là mày không hề đánh răng.

Tôi nói b ằng một giọng rất thản nhiên. Thậm chí còn thấy thương hại nó nữa. Tôi biết chẳng ai dễ chịu cả khi bị người khác chê là không vệ sinh.

- Thằng Stradlater không phải là đồ thối thây. Nó không xấu đến mức ấy.

- Còn tao, tao bảo nó là quân chó đẻ nên mới tưởng tượng ra thế.

- Có thể nó hay tưởng tượng, nhưng về nhiều điểm, nó là đứa không hẹp bụng. - Đó là sự thật. Rồi ít nữa mày sẽ hiểu ra. Mày thử hình dung, chẳng hạn, thằng Stradlater có một thứ đồ dùng gì đó mà mày rất mê. Nói giả dụ, nó đang thắt một chiếc cà vạt, mà chiếc cà vạt đó mày rất thích, là tao chỉ nói giả dụ thế cho dễ hiểu, mày đồng ý chứ? Mày có biết nó sẽ làm gì với chiếc cà vạt ấy không? Tháo ngay ra rồi tặng mày. Phải, nó sẽ tặng. Hoặc là nó sẽ làm gì nữa, tao đố mày đấy? Nó sẽ không nói không rằng, đặt chiếc cà vạt đó lên gi.ường mày, hay trên bàn mày. Nghĩa là nó vẫn kín đáo tặng mày, hiểu chưa? Còn những thằng khác, không đời nào!

- Xì! - Ackley nói - Tao mà giàu có, tao cũng tặng cà vạt cho khối đứa.

- Không, mày chẳng tặng ai hết! Thậm chí tôi còn vừa lắc đầu vừa nói- Vì chẳng đời nào mày nghĩ tới chuyện đó đâu. Ackley nhóc! Nếu mày cũng giàu có như nó, mày vẫn là đứa đốn mạt như trước...

- Này, đừng gọi tao là "Ackley nhóc", nghe chưa? Đồ quỷ dữ! Tao đáng tuổi bố mày đấy, ngốc ạ!

- Không, mày cóc đáng! - Nó lồng lộn lên đến nỗi tôi không thể nói tiếp được nũa. Bởi chẳng bao giờ nó chịu bỏ lỡ dịp đốp vào mặt thằng bạn mới chỉ mười sáu còn nó đã mười tám, đôi mươi. - Một là tao không bao giờ cho mày vác mặt tới nhà tao...

- Này, câm ngay cái mõm đi, tao cấm mày gọi tao là...

Đúng lúc đó thì thằng Stradlater đẩy cửa lao vào. Tứ thời, lúc nào nó cũng vội, cũng lao như tên bắn bởi tứ thời nó toàn có những công việc rất hệ trọng. Nó chạy tới bên tôi, tát đánh bốp vào má tôi - cũng lại một thói quen không xực nổi - rồi hỏi lớn:

- Tối nay mày có đi đâu không, Holden?

- Chưa biết. Cũng có thể tao sẽ đi. Thế trời thế nào rồi, tuyết còn xuống không? Người nó bê bết tuyết

- Còn, vẫn xuống. Này, nếu mày không phải đi đâu thì cho tao mượn cái áo blouson da của mày tối nay.

- Thế bên nào thắng? - Tôi hỏi

- Chưa ngã ngũ. Nhưng tụi tao phải đi. Hỏi thật đấy, cho tao mượn cái áo một lúc, n ếu mày không đi đâu. Ban sáng, tao trót đánh đổ lọ mực chết tiệt lên cái áo xám của tao.

- Được thôi, nhưng khéo mày làm bục hết chỉ vì mày to ngang như hộ pháp. - Tôi bảo. Tôi cao gần bằng nó nhưng nó nặng gấp đôi tôi, nên vai nó rộng lắm.

- Đừng lo! - Nó lao đến bên tủ áo. - Mày thế nào Ackley? - Nó hỏi, được cái rất hồ hởi. Nó chỉ hỏi cho có lệ, dĩ nhiên. Nhưng dẫu sao, nó vẫn chào hỏi thằng Ackley tử tế.

Ackley không mu ốn đáp, nhưng dẫu sao vẫn phải ậm àậm ờ, vì làm thinh thì không đủ can đảm. Rồi quay sang phía tôi, nó bảo:

- Thôi, tao về đây! Lát nữa tao sang!

- Được - tôi đáp. Chẳng ai phải khóc cả khi ngữ nó đứng dậy ra về.

Thằng Stradlater lúc đó đã cởi vét-tông, cà vạt.

- Phải cạo râu đã! - Nó nói - Râu tao mọc khoẻ khiếp. Tua tủa dưới cằm như người lớn.

- Thế con bạn mày đâu rồi?

- Đang đợi dưới hiên, nó vơ vội khăn tắm, hộp dao cạo râu, rồi ra khỏi phòng ngay. Nó toàn ở trần, vì nghĩ người ngợm nó cân đối lắm. Kể đúng thế thật. Gì chứ khoản đó đố ai dám dè bỉu.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Chẳng biết làm gì, tôi cũng đứng dậy, theo nó vào phòng tắm., bốc phét dăm ba câu trong lúc nó cạo mặt. Hơn nữa, ngoài hai đứa, trên này chẳng còn ai, bởi bọn kia đều đang ngồi ngoài sân bóng, chưa về. Nóng như điên, cửa sổ phòng nào cũng hấp hơi. Dọc tường có lắp một dãy chừng mười cái bồn. Stradlater đến bên cái bồn chính giữa, tôi ngồi phịch xuống ngay cái bồn bên cạnh, bắt đầu vặn ra vặn vào cái vòi nước lạnh cho đỡ buồn tay. Tôi đang sốt ruột kinh khủng. Thằng Stradlater vừa cạo râu, vừa giẩu môi huýt sáo Khúc caẤn Độ . Nó huýt to kinh khủng và câu nào cũng lạc điệu, nhưng toàn chọn những bài mà những tay chúa nhất cũng thấy khó nhá, chẳng hạn, bài Khúc ca Ấn Độ hoặc Vụ án mạng trên đại lộ số Mười. Bài nào nó cũng thừa sức huýt lạc điệu hết.

Tôi vừa mới kể là Ackley ở bẩn kinh người. Thằng Stradlater cũng thế, nhưng bẩn theo kiểu khác. Bề ngoài thì chẳng có gì đáng chê. Lúc nào cũng bảnh bao như một ông hoàng. Nhưng các bạn cứ xem nó cạo râu khắc biết. Lưỡi dao thì gỉ ngoèn, trông đến phát tởm, lại đầy những lông với tóc và bê bết bọt xà phòng dẻo quánh từ những lẫn cạo trước vì cấm chịu rửa. Cho nên, trông thì bảnh đấy, nhất là khi nó chải chuốt, nhưng kỳ thực vẫn là đứa ở bẩn. Ai chứ Stradlater thì tôi chẳng lạ. Nó thích chải chuốt, khoe mẽ, vì nó tự mê mình, tự nghĩ mình đẹp trai nhất Tây bán cầu. Thực ra thì nó chỉ trông được thôi, - khoản đó phải nói cho công minh. Nhưng đó chỉ là vẻ đẹp vừa đủ để các ông bố, bà mẹ lật tập album trường ra phải tấm tắc khen: "con nhà ai thế?" Một vẻ đẹp chỉ hiện rõ trong album thôi, các bạn hiểu chứ? Ở trường Pencey này vô khối đứa, theo tôi, còn đẹp trai bằng vạn nó, nhưng trên ảnh trông lại chẳng ra sao. Bọn đó, đứa thì mũi dường như dài quá, đứa thì tai vểnh lên. Khoản ấy tôi biết rất rõ.

Tôi ngồi trên cái bồn rửa mặt, vặn ra vặn vào cái vòi nước, trên đầu vẫn chiếc mũ săn đội ngược. Tôi khoái nó kinh khủng, cái mũ đi săn ấy.

- Này, - thằng bạn lên tiếng - Tao có chuyện này, mày giúp tao được không?

- Chuyện gi? - Tôi hỏi, chẳng thích thù gì. Bởi tứ thời nó toàn nhờ những việc mệt kinh khủng. Bọn đẹp trai thằng nào vốn cũng tự coi mình là cái rốn của vũ trụ, nên toàn bắt người khác phải hầu hạ chúng đủ điều. Chúng tự mê mình như điếu đổ, thành thử cứ tưởng ai cũng mê chúng và chẳng ao ước gi hơn là được phục dịch chúng đủ thứ. Một lũ dở hơi, thật đấy.

- Tối nay mày có đi đâu không? - Nó hỏi

- Có thể đi, và cũng có thể không. Thế mày cần gì?

- Tao phải học gần một trăm trang sử ký từ giờ tới thứ hai. - Tao muốn mày làm giúp tao m ột bài luận. Thứ hai này mà chưa thuộc hết sử thì nguy lắm, nên tao mới phải nhờ mày.Được chứ? Nực cười không các bạn? Chết cười, thật đấy!

- Tao bị đuổi vì ngu như chó, thế mà mày còn đi nhờ?

- Tao biết, tao biết. Nhưng khổ nỗi tao sẽ nguy mất, nếu không làm nổi bài sử. Thôi, chỗ anh em bạn giúp tao đi. Tôi không đáp ngay. Hạch nó, càng bắt nó hồi hộp càng tốt.

- Đầu đề thế nào? - Tôi hỏi

- Tự chọn. Mày thích tả gì tuỳ ý. Tả căn phòng cũng tốt. Mà ngôi nhà càng hay. Ho ặc nơi nào mày từng trú ngụ trước kia tuỳ may. Tả tự do, mày hiểu chứ? Có điều phải ngoạn mục một chút, quỷạ. - Rồi nó ngoạc mồm ra ngáp. Tôi rất lộn tiết vì nó dám thế! Các bạn biết đấy, - đi nhờ vả bạn, mà làm vậy tức là chẳng còn coi bạn ra gì! - Có điều mày đừng làm hay quá. Ông Hartzell trời đánh thừa biết tiếng Anh mày rất chúa. Ông ấy cũng chẳng lạ gì chuyện tao với mày trọ cùng phòng. Cốt nhất là mày cố chấm phẩy đúng. Cả các dấu câu khác nữa cũng thế.

Nghe nó phán thế, ruột gan tôi tức thì sôi lên. Dám lên lớp tôi về cách dùng dấu câu, một người rất giỏi tiếng Anh. Nhưng dù có cố chứng minh với tôi nó không giỏi văn lắm, chung qui chỉ vì nó không biết đặt dấu phẩy ở đâu cho đúng. Thì ra nó cũng cùng một giuộc với Ackley. Có lần tôi đã ngồi cạnh thằng này trong một trận đấu bóng rổ. Trong đội, có một đứa chơi rất chúa, thằng Howie Coyle. Nó có thể dễ dàng ném bóng vào chính giữa rổ. Thậm chí chả cần nhờ đến tấm bảng gỗ, cũng tung được bóng vào. Vậy mà một buổi, Ackley lại dám lải nhải là thằng Coyle chỉ được cái cao to thế thôi, chứ tài cán thì cóc hơn ai. Đấy, các bạn hiểu lỹ lẽ của bọn chúng rồi chứ? Tôi chúa ghét cái lối bốc phét ấy!

Rốt cục, tôi chán cái trò ngồi bên mép bồn rửa mặt nên nhảy xuống, đi mấy vòng clacket cho đỡ cuồng chân. Chỉ muốn giãn gân cốt, chứ điệu nhảy đó tôi không thạo lắm. Có điều sàn phòng rửa mặt lát toàn gạch men bóng lộn, nên nhảy clacket thì không gì tuyệt bằng. Tôi nhại lại dáng dấp một tài tử trong phim bởi đã từng xem ông ta biểu diễn một vở hài kịch rất vui. Xi nê tôi ghét thượng hạng, nhưng rất khoái bắt chước các ngôi sao điện ảnh. Thằng Stradlater vừa cạo râu, vứa dõi mắt nhin. Chẳng mong gì hơn là có khán giả chiêm ngưỡng tài nghệ, nói chung tôi rất thích trình diễn các trò vui nhộn.

- Ta là quý nam của chính ngài thống đốc đây! - tôi nói, đoạn này phải rất gằng sức. Tôi nhảy tới, nhảy lui khắp phòng rửa mặt - Cha ta không cho ta làm vũ công. Người gửi ta sang Oxford ăn học. Nhưng điệu vũ clacket này đã ngấm vào máu huyết ta, quỷạ! Stradlater phá lên cười ha hả. Dẫu sao nó cũng có máu khôi hài.

- Đêm nay ta khai diễn cuộc đại vũ hội của ta - Đến đấy, tôi bắt đầu thấy hụt hơi. Phổi tôi cóc ra gì - Than ôi! Ta không thể nhảy tiếp được nữa! Ta đang say bí tỉ. Vậy ai là người thế chỗ ta đây? Chỗ của ta - đấng nam tử khốn khổ, đói rách của ngài thống đốc giàu có?

- Mày vớ đâu cái mũ ngộ nghĩnh đó thế? - Stradlater hỏi. Mãi bây giờ nó mới để ý tới chiếc mũ. Tôi thở dốc, ngừng lại, bỏ mũ xuống, ngắm nó đến lần thứ một trăm - Tao vừa mua hồi sáng dưới New York. Giá một " đô". Trông được chứ, hả?

Thằng Stradlater gật đầu - Oách đấy - nó bảo Nó chỉ nịnh chút đỉnh cho qua chuyện, rồi hỏi ngay cái chuyện đang khiến nó hồi hộp

- Sao, bài luận đó mày có giúp được tao không? Nói đi, để tao còn liệu nào

- Rảnh thì tao giúp, còn bận thì thôi

Tôi lại ngồi phịch xuống mép bồn rửa mặt, cạnh thằng Stradlater như trước.

- Mày hẹn hò với con bé nào đấy? Fitzerald hả?

- Quỷ sứ! Tao hất con lợn ỉ đó từ lâu rồi còn gì!

- Thật chứ? Thế nhường tao đi, người anh em! Nói tử tế đấy. Con bé ấy tao thấy rất được mắt.

- Thì cứ rước đi, xin mời! Có điều nó nhiều tuổi hơn mày đấy.

Thế là bất thình lình, chẳng có lý do gì chính đáng cả, tôi bỗng muốn nhảy xuống, vặn ngoéo cái cổ thằng ngốc Stradlater ấy. Đó là một miếng võ hiểm: chộp lấy cổ địch thủ, bẻ gục xuống cho tới lúc nó nghẹt thở, nếu cần. Tôi nhảy phốc về phía thằng nỡm, nhanh như một con báo gấm!

- Buông ra, Holden, đồ ngu! - Thằng Stradlater hét. Nó không thích bị khoá cổ thế. Hơn nữa nó đang cạo mặt - Mày muốn tao thiến cả vào cổ à? Nhưng tôi vẫn không buông, tay vẫn thít chặt lấy cổ nó.

- Mày giãy thử đi, - Tôi bảo, - xem có gỡ nổi hai cánh tay sắt của tao không?

- Đồ quỷ! - Nó đặt con dao cạo xuống, rồi thình lình giơ cao tay, giẫy mạnh, vùng ra kh ỏi hai cánh tay đang khoá chặt. Nó khoẻ thật. Sức tôi thì chẳng được mấy nả. - Dẹp cái trò ấy đi! - nó nói. Rồi cạo thêm lần nữa. Bao giờ nó cũng cạo hai lần, cho mày râu thật nhẵn nhụi. Vả lại, con dao của nó bẩn quá.

- Thế bỏ rơi Fitzgerald thì đi với con bé nào? - Tôi hỏi, lại gieo người xuống mép bồn rửa. Hay là với con Phyllis Schmitt?

- Không. Lẽ ra là với nó nhưng rồi mọi thứ đâm lộn tùng phèo cả. Con bé đ ang chờ tao hôm nay là bạn của Bud Thaw. Chết, suýt nữa quên, nó biết mày đấy.

- Ai mà còn biết cả tao nữa thế?

- Con bạn tao.

- Ra là thế! - tôi nói - thế nó tên là gì? - Tôi thấy hồi hộp thực sự.

- Để tao nhớ đã... đúng rồi Jeanne Gallagher Trời, tôi suýt ngất xỉu khi nghe cái tên ấy.

- Jane Gallagher! - tôi nói, thậm chí nhảy phắt xuống đất khi nghe nhắc đến tên nàng. Tôi suýt ng ất, thật đấy! - Tưởng ai chứ con bé ấy thì tao có quen! Hè năm kia, nhà nó với nhà tao ở sát vách nhau. Hồi đó, nhà nó có nuôi một con Debermanpinscher to kinh khủng. Chính vì con chó ấy mà tụi tao quen nhau đấy. Chả là ông tướng mò sang vườn nhà tao đi *********.

- Mày chắn hết ánh đèn của tao rồi, Holden, - Stradlater nói.

- Đứng dịch ra tí, hết chỗ rồi hả?

Chà, tôi hồi hộp lạ!

- Thế nó đâu rồi? Đứng dưới mái hiên, hả?

- Ừm.

- Sao nó lại nhắc tới tao? Hồi này, nghe đâu nó đang học bên Brean Moore, đ úng không? Nó bảo với tao chắc sẽ chuyển sang đó, hoặc là sang Shipley. Sao nó lai nhắc tới tao, hả?

- Làm sao tao biết được, quỷ sứ! Dịch ra chỗ khác, nghe chưa?

Tôi đang ngồi đè lên chiếc khăn tắm của nó.

- Jane Gallagher! - Tôi reo lên, không thể không nhớ tới những kỷ niệm cũ - Thật không thể ngờ! Thằng Stradlater bôi sáp thơm lên tóc. Sáp thơm của chính tôi.

- Nó khiêu vũ khá lắm - Tôi nói, - Chả là nó có học balet. Ngày nào cũng tập hai gi ờ, cả những hôm trời nóng khủng khiếp nhất. Nó sợ càng lớn, chân cẳng càng cứng. Vì nó đang phát phì, nên sợ đủ thứ. Tao với nó vẫn chơi cờ nhảy suốt.

- Chơi trò gì-ì-ì?

- Cờ nhảy.

- Trời đất quỷ thần ơi, ai đời con gái lai đi chơi cờ nha-aảy. Bỏ mẹ thật!

- Chứ sao. Nó chẳng đời nào chịu động đến mấy quân hậu. Quân nào đổi đượ c, nó đều đổi tất thành quân hậu, rồi cứ để yên đó, sau lúc đẩy xuống hàng cuối cùng. Nó sắp các quân hậu ở vị trí đó thôi.

Stadlater làm thinh. Nh ững điều tôi nói, của đáng tội , thường chẳng khiến ai chú ý.

- Mẹ nó với mẹ tao cùng là hội viên một câu lạc bộ - tôi nói - Hồi đó, tao có lãnh thêm vi ệc mang gậy đánh gôn tới, để kiếm thêm chút ít. Tao có mang gậy cho mẹ nó mấy lần. Khiếp, có chín cái hố mà bà ta phải đánh tới gần một trăm bảy chục lần, bóng mới xuống hết.

Stradlater h ầu như bỏ ngoài tai câu chuyện. Nó cứ chải tới chải lui bộ tóc lộng lẫy của mình.

- Phải xuống hỏi han dăm câu chứ nhỉ? - Tôi dò ý nó.

- Thì mày cứ viềc, còn chần chừ gì?

- Được, tao đi ngay đây.

Nó lại rẽ lại đường ngôi. Trò đó xưa nay nó vẫn làm cả tiếng đồng hồ.

- Bố mẹ nó bỏ nhau lâu rồi. Về sau, bà ấy lại vớ phải một gã nghiện rượu, - lão gầy như quỷ đói. Chân cẳng thì toàn những lông là lông. Tao còn nhớ lão như in. Tứ thời chỉ diện độc quần đùi. Nó kể, lão là văn sĩ, viết kịch bản. kịch biếc gì đấy, nhưng tao thì tao thấy lão chỉ toàn uống rượu với lại ngồi nghe đọc đủ thứ truyện trinh thám ngu ngốc bên radio. Thỉnh thoảng lão còn ở truồng nồng nỗng chạy lung tung trước mặt cả nhà nó.

- Thật hả? - Stradlater hỏi. Nó hoạt bát hẳn, khi nghe tôi kể về lão dượng ghẻ nghiện ngập của Jane.

- Tuổi nhỏ của nó kinh khủng lắm. Thật đấy.

Nh ưng chuyện đó nó lại càng chẳng chút bận tâm, thằng dê già Stradlater. Nó chỉ khoái những chuyện tục tĩu.

- Quỷ thật! Jane Gallagher! - Bao kỷ niệm cứập đến với tôi. Không thể nào xua đuổi nổi. - Phải xuống gặp nó một lát mới được.

- Thì xuống đi, ai cấm? Sợ mày chỉ được cái bốc phét là giỏi.

Tôi đến bên một khung cửa sổ. Nhưng chẳng trông thấy gì. - kính cửa mù mịt mồ hôi.

- Tao chưa thấy hứng - tôi bảo. Tự nhiên tôi chẳng còn chút hứng thú gặp nàng. - Tao t ưởng nó đã chuyển sang Shipley. Thế là tao cứ đinh ninh nó học bên Shipley. - Tôi đi tới đi lui trong phòng. - Nó thích bóng đá chứ?

- Thích, hình như thế. Tao cũng chả rõ lắm.

- Nó có kể với mày chuyện nó với tao chơi cờ nhảy không? Hay những chuyện đại để thế?

- Tao chả nhớ. Bọn tao mới quen nhau có mấy bữa. Thôi, đừng ám tao! -

Stradlater đã chải xong mái tóc lộng lẫy và đang thu dọn bộ dao cạo.

- Này, chuyển giúp tao lời chào nhé?

- Được, - thằng Stradlater nói, nhưng tôi biết tỏng là nó sẽ cóc làm.

Hạng nó thì có bao giờ thèm chuyển lời chào hộ ai? Nó quay về phòng, còn tôi vẫn quanh quẩn trong buồng rửa mặt, nhớ lại những kỷ niệm cũ về Jane, cô bạn thời xưa, Được một lát, tôi cũng đành quay lại phòng ngủ. Tôi bước vào đúng lúc thằng Stradlater đang đứng trước gương thắt cà vạt. Nó mất đứt cả nửa cuộc đời để soi gương. Tôi gieo người xuống chiếc salon của mình, ngồi ngắm.

- Này - tôi bảo, - có điều đừng nói với nó là tao bị đuổi đấy

- Được, tao sẽ không kể đâu.

Stradlater còn được một cái nết nữa: nó không hay căn vặn những chuyện vặt vãnh như thằng Ackley. Chắc vì mọi thứ nó đều bất cần. Còn thằng Ackley thì khác hẳn. Bạ gì cũng thọc mũi vào tất. Thằng bạn choàng lên người chiếc blouson mượn của tôi.

- Đừng xải ẩu quá, nhớ không? - Tôi nói, - Tao mới xỏ tay có đúng hai lần đấy.

- Đừng lo, tao sẽ nương nhẹ. Thuốc lá, tao vất đâu rồi ấy nhỉ?

- Trên bàn kia kìa!...- Chẳng bao giờ nó nhớ thứ gì vứt ở đâu.- Dưới cái khăn phula của mày ấy. - Nó cho bao thuốc vào túi áo - chiếc áo mượn của tôi.

Thình lình, tôi quay ng ược chiếc mũ đỏ lại, đội xuôi chĩa cái lưỡi trai ra đằng trước, bắt đầu thấy bứt rứt vô cớ. Thần kinh tôi, nói chung, chẳng ra gì.

- Này, thế mày định dẫn nó đi đâu tối nay? - Tôi hỏi.- Mày định sẵn cả rồi chứ?

- Tao cũng chưa biết nữa. Nếu có thời giờ, bọn tao sẽ xuống New York một lúc. Nó ng ốc quá, chỉ xin phép đi đến chín rưỡi tối. Tôi không thích điều nó vừa thổ lộ, nên cay độc:

- Nó chỉ xin phép đến chín rưỡi, vì nó có ngờ đâu gặp được một gã bảnh bao, trai l ơ như mày, chó đẻ như mày. Giá biết trước thế, chắc nó sẽ xin phép đi đến tận chín rưỡi sáng mai là ít

- Đúng! - Stradlater nói. Không gì có thể khiến nó bối rối. Mặt nó trơ quá mặt thớt.- Đừng lảm nhảm nữa đi, - nó nói tiếp, - có làm giúp tao bài luận không, bảo đi! - Nó đã choàng cái áo khoác lên người, tính bước ra ngoài. - Đừng hay quá, miễn cứ lưu loát là ổn, hiểu chứ? Có làm không thì bảo? Tôi nín thinh. Tôi không còn bụng dạ nào để trả lời Stradlater nên chỉ lí nhí:

- Hỏi nó xem hồi này nó có còn cho hậu đứng hàng chót nữa không nhé!

- Được, - Stradlater đáp, nhưng tôi thừa biết nó sẽ không hỏi. - Tạm biệt! -

Nó đập mạnh cửa, rồi chuồn thẳng. Tôi cứ ngồi thừ ra đó nửa tiếng nữa. Chỉ ngồi trong salon, chẳng làm gì. Tâm trí cứ vương vấn mãi về Jane và cuộc hò hẹn giữa nó với thằng Stradlater. Tôi bồn chồn đến mức suýt phát điên. Tôi đã kể rồi đấy - nó là thằng tục tĩu, đốn mạt về khoản gái gủng.

Thình lình th ằng Ackley từ nhà tắm mò sang. Lần đầu tiên trong suốt quãng đời trọ học tại đây, tôi mừng rỡ khi thấy nó. Xua đuổi giúp tôi mọi ý nghĩ rối bời trong óc.

Nó ngồi lỳ bên phòng tôi cho đến lúc đi ăn tối, lảm nhảm về những đứa nó ghét, nặn ra cả một đống tướng mụn trứng cá ở dưới cằm mà cóc thèm dùng khăn tay. Tôi chưa thấy nó dùng khăn tay bao giờ, thật đấy.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Thứ bảy nào, bọn tôi cũng được cho ăn cùng một thực đơn hết như ngày vừa đặt chân tới Pencey. Khéo ai cũng tưởng đó là bữa cơm thịnh soạn lắm, bởi có món bíttết.

Tôi dám cuộc một ngàn đôla, ăn một: sở dĩ bọn tôi được ăn món đó chẳng qua vì chủ nhật nào cũng có phụ huynh đến thăm trường. Và lão Thurmer chắc cũng nghĩ bụng, thế nào cũng sẽ có một bà mẹ gạn hỏi cậu quý tử tối qua trường cho ăn gì, và thằng con sẽ trả lời chẳng kịp ngẫm nghĩ, bittết. Kỳ tình, đó là một trò bịp, y hệt như mọi trò bịp khác của lão ta. Thì các bạn thử ngắm những miếng bíttết kia xem? Rắn như đế giày, đến mức dao cắt cũng không đứt. Ăn kèm với món bíttết đó tứ thời là một bát súp thịt nấu nhuyễn với khoai tây cắt quân cờ. Còn đồ tráng miệng dọn ra luôn là bánh Brown Betty, bánh pudding rưới mật. Trừ tụi nhóc mới vào học, với những đứa như thằng Ackley thì bạ gì cũng tọng.

Ăn xong, bọn tôi ra ngoài đi dạo. Tiết trời tuyệt đẹp, trên mặt đất là một lớp tuyết mỏng chừng ba đium. Và tuyết vẫn tiếp tục rơi, như thể đang vui. Đẹp kinh khủng. Bọn tôi bắt đầu vo tròn tuyết lại thành từng nắm nhỏ, rồi ném nhau. Những trò trẻ nít, cố nhiên, nhưng đứa nào cũng thấy thích.

Tôi chẳng biết làm gì nên rủ thằng bạn trong đội đấu kiếm là Mal Brossard đáp xe buýt xuống Agerstown, ăn một đĩa thịt băm viên cho đỡ đói, rồi nếu thích, ghé luôn vào rạp chiếu bóng, xem một cuốn phim ngớ ngẩn gì đó cho đỡ buồn. Hai đứa đều không muốn ru rú suốt cả tối thứ bảy ở nhà. Tôi hỏi Mal - có sao không nếu rủ cả thằng Ackley đi? Tôi định bụng rủ nó, vì nó chẳng bao giờ chịu đi đâu ngay cả tối cuối tuần, - mà cứ ngồi lỳở nhà nặn mụn trứng cá. Thằng Mal bảo - chả sao cả, dĩ nhiên - tuy rằng nó chẳng thích lắm vì không ưa thằng Ackley. Thế là hai đứa liền kéo về phòng, thay áo quần, rồi vừa xỏ chân vào ủng đi tuyết, tôi vừa gọi thằng Ackley, hỏi nó có thích xem chiếu bóng thì đi cùng. Tôi biết tiếng tôi vọng qua nhà tắm sang tận bên phòng nó, nhưng nó vẫn chưa vội lên tiếng. Loại người như nó thì chẳng bao giờ chịu đáp ngay những câu người ta hỏi mình. Nhưng cuối cùng, nó cũng ló mặt sang. Nó vén tấm rèm che cửa phòng tắm, rồi vẫn đứng nguyên đó, hỏi có những đứa nào đi cùng? Tứ thời, bao giờ nó cũng phải hỏi rõ, cùng đi có những đứa nào? Nói thật chứ nó mà có bị đắm tàu và được thuyền cấp cứu tới vớt, thì chắc nó cũng phải vặn vẹo chán - đã có những ai ngồi bên trên - rồi mới chịu để người ta vớt lên. Tôi bảo, có thằng Mal Brossard. Nó nói:

- Xì, thứ vứt đi...Nhưng thôi được. Chờ tao một lát.

Nó làm như thể đang ban cho bạn một đặc ân to tát không bằng. Nó sửa soạn chừng năm phút. Trong khi chờ nó, tôi đến bên cửa sổ, mở toang hai cánh, lấy tay vo tròn một nắm tuyết. Tuyết dẻo lạ. Nhưng làm xong, tôi lại chẳng biết vất đi đâu, tuy rằng định vo nó để ném chơi cho khoái. Lúc đầu, tôi định ném xuống chiếc xe đang đỗ phía bên kia đường, nghĩ lại thấy nó sạch bong, trắng toát, nên không nỡ. Tiếp đến, tôi tính vất vào cái ống dẫn nước ở rìa tường, nhưng cái ống dẫn đó cũng sạch sẽ, trắng muốt, y hệt chiếc xe kia. Thế là tôi thôi, chẳng ném cục tuyết nữa. Tôi đóng cửa lại, rồi bắt đầu vê tròn cục tuyết trên tay cho nó rắn thêm chút nữa. Tôi cứ giữ nó trong tay thế cho tới lúc cả bọn lên xe. Người bán vé mở cửa xe, bảo tôi vất nó đi. Tôi bảo không định ném ai, nhưng ông ta không chịu tin. Người lớn họ chẳng bao giờ chịu tin bạn, thật đấy.

Cả Brossard lẫn Ackley đều đã xem cuốn phimấy, nên chén xong ba đĩa thịt băm viên nóng sốt, bọn tôi đưa nhau vào chơi mấy ván rulét trên máy tự động, rồi quay về. Tôi chẳng tiếc là không được xem phim. Vì chắc đó chỉ là cuốn phim quay lại từ một vở hài kịch vớ vẩn gì đó thôi, do Cary Grant đóng. Vả lại, có lần tôi đã cùng Ackley và Brossard đi xem phim rồi. Hai đứa cứ nhe răng ra cười, ngay cả những đoạn chẳng có gì đáng. Ngồi bên chúng, tôi chán kinh khủng.

Chưa đầy mười lăm phút sau, bọn tôi đã về tới ký túc. Brossard thích đánh bridge, nên chạy đi tìm bạn chơi. Thằng Ackley thì mò sang phòng tôi, cố nhiên. Có điều bây giờ nó không ngồi lên tay vịn chiếc salon của thằng Stradlater, mà nằm sấp trên gi.ường tôi, dụi mặt xuống gối. Vừa nằm xuống, nó đã lên ngay dây cót, cất giọng đều đều tẻ ngắt lải nhải khoe về một con bé mà nó nhăng nhít từ hè năm ngoái, trong khi hai tay vẫn nặn mụn trứng cá liên hồi. Tôi nói xa nói gần đến cả trăm lần với nó, nhưng vẫn chẳng ăn thua. Nó cứ lè nhè suốt về con bé ấy bằng cái giọng tẻ ngắt, mà tôi đã nghe đến cả trăm lượt , mỗi lần nó kể một khác. lần thì nó quần con bé ấy trong thùng chiếc xe tải nhỏ của ông anh họ. Lần thì kể là dưới gậm cầu thang. Cố nhiên, đều bốc phét tất. Tôi độp thẳng vào mặt nó rằng nó chưa bao giờ động được đến đứa nào. Rồi tôi đành phải nói toẹt vào mặt nó, là muốn làm giúp thằng Stradlater bài luận, để nó cuốn xéo đi cho tôi nhờ, kẻo tôi không thể dồn hết tâm trí lúc đang viết. Rốt cục, nó đành phải chuồn về phòng, dĩ nhiên, phải mất một lúc khá lâu. Khiếp, tôi chưa thấy ai lề mề như nó. Nó vừa đi khỏi là tôi choàng cả véttông lẫn áo ngủ vào cho ấm, chụp chiếc mũ đi săn ngộ nghĩnh lên đầu, và ngồi vào bàn, làm bài luận cho Stra đlater.

Khốn nỗi, tôi không tài nào bịa ra được một căn phòng hoặc một nếp nhà, rồi ba hoa đủ thứ như thằng Stradlater dặn. Nói chung, tôi chẳng mấy thích thú với chuyện tả mấy thứ vớ vần đó. Vì thế, tôi đành miêu tả lại chiếc găng chơi bóng chày của thằng Allie, em trai tôi. Chiếc găng đẹp kinh khủng. Thằng em tôi vốn thuận tay trái, nên đó là găng bên trái. Nó đẹp vì trên chiếc găng ấy, Allie chép đầy thơ. Cả mặt bên này, lẫn mặt bên kia bằng mực xanh lục. Nó chép thế để ngâm nga những lúc không phải bắt bóng và những lúc chẳng biết làm gì trên bãi. Nó chết lâu rồi, bị bệnh máu trắng hôm 18 tháng Bảy năm 1946, hồi cả nhà còn ở dưới bang Maine. Trông Allie chắc bạn phải mê ngay. Nó kém tôi hai tuổi, nhưng thông minh hơn tôi gấp năm chục lần. Thông minh kinh khủng. Thầy cô nào của Allie cũng viết thư khen mẹ, bảo là được dạy dỗ một học trò như nó thật chẳng gì thích bằng. Họ không nói dối, nghĩ thế nào, viết thếấy. Nhưng Allie không chỉ thông minh nhất nhà. Nó còn là đứa ngoan nhất nhà, về mọi phương diện. Nó không bao giờ nổi cáu, chẳng bao giờ phát khùng. Tóc nó màu hung. Theo lời thiên hạ, người tóc hung thường cục tính, thế nhưng Allie lại không bao giờ nổi cáu. Tôi kể các bạn nghe xem tóc Allie hung đến mức nào. Tôi bắt đầu học đánh golf lúc lên chín. Một lần, vào mùa xuân, hồi đó tôi mười một, tôi đang mải mê đuổi theo quả bóng nhưng lúc nào cũng có cảm giác ngoái cổ lại là nhìn thấy Allie. Tôi thử ngoảnh lại, quả nhiên thấy nó đang ngồi trên chiếc xe đạp, bên kia là cái bờ rào quanh sân golf, cách tôi một trăm năm chục bước, xem tôi đánh. Đấy, tóc nó hung đến mức ấy đấy! Nó cũng nhộn kinh khủng. Thỉnh thoảng, đang ngồi bên bàn học, nó vụt nảy ra một ý nghĩ gì đó và thế là thình lình phá lên cười, cười lăn cười lóc đến mức suýt ngã xuống đất. Hồi tôi mười ba tuổi, bố mẹ đã tính cho tôi đến khám nhà một ông bác sĩ tâm thần, vì tôi đã đạp vỡ hết sạch sành sanh tất cả cửa kính trong nhà để xe, vào đêm Allie chết. Bằng tay không, cũng chẳng biết làm thế để làm gì. Thậm chí tôi còn muốn đập cả cửa kính chiếc xe tải không mui mà mùa hè năm đó nhà tôi vừa sắm. Nhưng vì tay đã bị mảnh kính cứa đứt mấy chỗ nên tôi không thể đập tiếp. Tôi biết làm thế là ngốc ngếch nhưng tôi hoàn toàn chẳng ý thức được mình đang làm gì. Ngay cả bầy giờ, thỉnh thoảng tôi vẫn thấy đau tay, nhất là những hôm trời chuyển mưa, đến nỗi không thể co duỗi mấy ngón tay. Nhưng đó là chuyện vớ vẩn. Vì đằng nào thì tôi cũng chẳng định làm bác sĩ phẫu thuật, nghệ sĩ vĩ cầm hoặc nói chung bất cứ một danh nhân nào.

Bài luận tôi làm giúp thằng Stradlater đại để là thế. Về chiếc bao tay của bé Allie đang nằm dưới đáy chiếc vali tôi xách theo. Tôi lôi nó ra, chép lại tất cả những câu thơ ghi trên đó vào bài luận. Tôi chỉ đổi họ của bé đi chút ít, để không ai đoán ra nó là em tôi, thay vì em thằng Stradlater. Tôi không thích thú gì chuyện đổi họ tên nhưng chẳng nghĩ được một cách nào cả. Vả lại, tôi thích tả lại chuyện đó. Tôi ngồi đến cả tiếng đồng hồ bên máy đánh chữ cũ rích của thằng Stradlater, nó cứ nuốt chữ suốt mỗi khi muốn đánh nhanh. Còn chiếc máy của tôi, tôi lại cho một thằng ở đầu hồi đằng kia mượn mất.

Tôi kết thúc bài luận vào lúc gần mười rưỡi nhưng chẳng thấy mệt gì lắm nên đến bên cửa sổ ngắm cảnh vật bên ngoài. Tuyết đã ngừng rơi, xa xa vọng lại tiếng động cơọc ạch của một chiếc xe pan. Nghe rõ cả tiếng ngáy của thằng Ackley thổ tả bên phòng nó. Khiếp, cửa phòng tắm đã đóng kín mít thế mà vẫn nghe rõ mồn một những âm thanh khó chịu của nó. Thằng nỡm ấy thôi thì đủ mọi chứng viêm xoang, mụn trứng cá, sâu răng, cả hơi, móng tay sứt sẹo. Đến nỗi tôi phải mủi lòng thương hại nó, cái thằng ngốc khó xơi ấy.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Lắm lúc, bạn không thể nào nhớ nổi tỉ mỉ sự thể đã diễn ra như thế nào. Tôi cố nhớ, nhưng không sao nhớ nổi cái lúc thằng Stradlater quay về sau cuộc hẹn hò. Nghe tiếng chân nó lộp cộp khua ngoài hành lang, chắc lúc đó tôi vẫn đang đứng bên cửa sổ, nhưng không thể nhớ được đích xác, dù có bị xử chém. Tôi hồi hộp kinh khủng, thành thử không thể nhớ nổi những gì xảy ra lúc ấy. Tôi mà đang xúc động thì không phải giả vờ. Thậm chí tôi còn cảm thấy phải vào nhà vệ sinh ngay. Nhưng lúc đó tôi không làm vậy. Hồi hộp quá, nên không thể đi được. Giá biết rõ ruột gan thằng Stradlater, chắc các bạn cũng sẽ xúc động như tôi lúc đó. Tôi đã vài lần đến chỗ hẹn hò với cái thằng đốn đời ấy. Cho nên, những điều tôi nói là những điều tôi biết rõ mười mươi. Nó chẳng có tí lương tâm nào, quỷạ. Chẳng một chút nào.

Hành lang chỗ bọn tôi ở chỉ lót vải sơn, nên nghe rất rõ tiếng chân từ lúc cái thằng khốn kiếp ấy xuất hiện ở đầu hành lang dẫn đến phòng tôi. Thậm chí tôi cũng chẳng nhớ mình đang ngồi ở đâu lúc nó bước vào, trên chiếc salon của tôi, bên cửa sổ, hay trên salon của nó. Nói thật đấy, không tài nào nhớ nổi. Vừa bước chân vào, nó đã kêu rét quá. Rồi cất tiếng hỏi:

- Chuồn đâu cả rồi? Sao chẳng thấy ma nào thế này. Nhà mồ chả chắc đã vắng hơn.

Tôi không định lên tiếng. Nó. Cái thằng cà chớn ấy, lẽ nào lại không biết tối thứ bảy, tất cả đều đi chơi hết, đi ngủ sớm, hoặc về thăm nhà. Nói thật, dẫu có bị lột da, chả chắc tôi đã thèm giảng giải cho nó hiểu lý do đó. Nó bắt đầu cởi áo ngoài. Nhưng câm như hến về Jane. Không nói lấy một câu. Tôi mặc kệ chẳng thèm ra miệng. Chỉ giương mắt ngắm nó. Của đáng tội, nó cũng oang oang cảm ơn tôi về chiếc áo blouson. Rồi treo lên mắc, cất vào tủ.

Lúc cởi cà vạt, nó mới lên tiếng hỏi tôi có làm giúp nó bài luận thổ tảấy không. Tôi bảo: làm rồi, trên gi.ường mày kia kìa. Nó lại ngay gi.ường, rồi vừa đọc, vừa cởi cúc chiếc sơmi đang mặc. Nó đứng đọc, nhưng tay vẫn xoa xoa bộ ngực để trần chắc nịch, mặt nghệt ra. Nó cứ xoa mãi, hết ngực xuống đến bụng, rồi lại lên ngực. Nó tự lấy làm đắc ý lắm. Rồi nó chợt hỏi:

- Quỷ quái gì thế này, Holden? Một chiếc bao tay thổ tả hả?

- Thì đã sao? - Tôi hỏi, giọng lạnh như tiền.

- Thế này mà mày còn bảo là sao nữa, hả? Tao dặn mày tả căn phòng hay ngôi nhà kia mà, đồ ngốc!

- Mày bảo tả gì tuỳ thích, nhớ chưa? Vậy thì tả chiếc găng tay hay cái quái gì mà chẳng được?

- Xì, quỷ bắt mày đi! - Nó cáu, thở hồng hộc như kéo bễ. - Mày toàn làm những cái trò trái khoáy. - Đến đây, nó ngước nhìn tôi. - Thảo nào mà họ đuổi cổ mày, - nó tiếp.- Chưa bao giờ mày làm được một thứ gì tử tế cả. Chưa bao giờ! Mày hiểu chứ?

- Được, được, thế thì trả bài luận lại đây, - tôi nói. rồi tiến lại, giật lấy tờ giấy đó, xé vụn ra từng mảnh.

- Mày làm gì thế? - Nó hỏi. - Sao lại xé đi?

Tôi chẳng thèm trả lời. Vất nắm giấy vào sọt rác, hết chuyện. Rồi tôi lên gi.ường nằm. Cả hai đều nín thinh hồi lâu. Nó cởi áo, chỉ còn một chiếc quần cộc trên người. Tôi vừa nằm, vừa châm một điếu thuốc. Hút trong phòng ngủ vốn bị nghiêm cấm, nhưng khuya khoắt thế này, đứa thì ngủ khoèo, đứa thì đi chơi vắng, nên tôi chẳng có gì phải sợ. Vả lại tôi đang muốn chọc tức thằng khốn kiếp Stradlater. Nó rất hay cáu khi thấy có đứa vi phạm quy chế ký túc. Nó không đời nào dám hút thuốc trong phòng. Còn tôi, vẫn phì phèo điếu thuốc trên môi.

Tôi đã kể, nó không nói lời nào về Jane. Câm như hến. Thế cho nên tôi bèn khai mào:

- Nó chỉ xin phép đến chín rưỡi, sao mãi bây giờ mày mới vác mặt về. Khéo vì mày mà nó b ị về trễ chứ chẳng đùa. Tội nghiệp con bé! Lúc tôi nói câu đó, nó đang ngồi bên mép gi.ường cắt móng chân

- Chỉ chút đỉnh thôi, - nó nói, - ai bảo nó chỉ xin đi đến chín rưỡi, lại vào tối thứ bảy? Trời, lúc đó thật tôi chẳng còn căm ghét ai bằng!

- Mày lôi nó xuống New York đấy à?

- Tôi tò mò

- Mày điên chắc? Chỉ xin phép tới chín rưỡi thì xuống New York thế quái nào được?

- Tiếc nhỉ? - Tôi giả bộ Nó ngước nhìn tôi.

- Này, muốn hút thì vào nhà xí mà hút, kẻo vì mày mà tao lại bị lôi thôi đấy.

Mày thì cóc c ần vì mai mốt đã cuốn gói rồi. Chứ tao còn phải chường mặt ở đây cho đến tận ngày tốt nghiệp.

Tôi bỏ ngoài tay điều nó nói, cứ như thể chẳng hề có nó ở đây. Tôi rít lấy rít để như thiếu thuốc cả tháng nay vậy. Phớt tỉnh. Lát sau tôi còn nghiêng người lại, ngắm nó cắt mấy cái móng chân thổ tả. Xì, học sinh trường này là cái thá gì với tôi! Tứ thời chỉ nặn mụn trứng cá với cắt móng chân chứ làm vương làm tướng gì mà vênh váo!

- Mày nhắn giúp lời hỏi thăm của tao rồi chứ? - Tôi hỏi

- Ừm.

Thằng mặt thớt ấy thì có mà nhắn!

- Thế nó bảo sao? Mày có hỏi nó cái chuyện vẫn còn cho hậu đứng ở hàng chót không?

- Không. Tao chẳng hỏi gì. Mày tưởng tao cũng chơi cờ nhảy với nó như mày hồi trước chắc? Tôi chẳng thèm đáp. Trời, tôi chẳng ghét ai bằng nó lúc này.

- Không mò xuống New York thì từ tối tới giờ mày lôi nó đi đâu? - Tôi hỏi tiếp sau một lúc làm thinh. Tôi phải cố gắng kinh khủng mới khỏi lạc giọng, như đang phải cảm. Ruột gan như lửa đốt, tôi cảm thấy rõ ràng đang có chuyện bất ổn.

Rốt cục nó cũng hoàn thành công việc. Nó đứng dậy, trên người vẫn chỉ trơ khấc có cái quần đùi, rồi thình lình giở trò khỉ trêu tôi. Nó tiến lại phía tôi, cúi xuống, huých khẽ vào tôi. Rõ nỡm!

- Dẹp đi! - Mày lôi nó đi dâu, nếu không mò xuống New York?

- Chẳng đi đâu cả. Tụi tao chui vào xe ngồi, thế thôi! - Nó lại huých tôi, rõ ngốc.

- Dẹp đi! - Tôi bảo - Xe ai, hả?

- Ed Banky.

Ed Banky là giáo viên bóng r ổ của bọn tôi. Thằng Stradlater được lão rất cưng chiều. Nó giữ chân trung phong đội , nên lão Ed Banky thường hay cho nó mượn xe. Thường, bọn tôi bị cấm mượn xe các thầy giáo. Nhưng tụi thể thao trời đánh vốn vẫn cùng một giuộc. Ở tất cả các trường tôi học, tụi ấy đều chó đẻ như nhau.

Stradlater v ẫn làm ra vẻ như đang đọ găng với cái bóng của mình, huých tới huých lui vai tôi liên tiếp. Tay nó mới rồi còn cầm cái bàn chải, nhưng bây giờ thì đã nhét hẳn vào mồm.

- Thế mày đã giở những trò gì với nó? Quần nhau trong xe lão Banky, đúng không? - Giọng tôi run kinh khủng.

- Chà, chà, sao mày toàn thở cái giọng du côn ra thế? Coi chừng chứ tao lại xát xà phòng vào mõm bây giờ!

- Mày làm thế, đúng không?

- Bí mật nghề nghiệp, cậu emạ! Đừng gặng hỏi lôi thôi nữa.

Những gì sau đó tôi nhớ lơ mơ lắm. Chỉ biết là tôi chồm dậy, như thể sắp phải đi ngay, rồi thình lình lấy hết sức bình sinh, tống thẳng một quả đấm vào giữa cái bàn chải đánh răng nó ngậm giữa hai môi như để xé nát cái mõm khốn kiếp của thằng chó đẻ. Chỉ có điều tôi tống hụt, nắm đấm chỉ quại vào chính giữa trán. Thế đấy. Chắc nó đau lắm, nhưng quả đấm chưa đúng như tôi aoước. Chắc cú đấm sẽ trúng đích, nếu tôi kịp đổi tay. Bởi tay phải của tôi không nắm chặt được các ngón. Hẳn các bạn còn nhớ câu chuyện tôi vừa kể - tôi bị mảnh kính cứa nát bên tay phải, hồi em Allie chết.

Nhưng chỉ trong chớp mắt, tôi lại thấy mình đang nằm ngửa dưới sàn, còn thằng Stradlater thì ngồi đè lên trên, mặt mũi đỏ lựng, như con tôm luộc. Các bạn biết đấy, nó đè lên ngực tôi bằng cả hai đầu gối, mà nó thì nặng đến cả tấn, chứ chẳng đùa. Nó còn thít chặt lấy hai tay tôi, để tôi khỏi tiếp tục cho nó ăn thoi. Ước gì tôi giết được nó, thằng đốn mạt.

- Sao, mày điên hả? - Nó lắp bắp, mõm càng lúc càng đỏ, thằng bốc phét

- Tránh ra, đồ ngu! - Tôi suýt nữa hét ầm lên - Tránh ra, đồ lợn, nghe chưa nào? Nhưng nó cứ ngồi trơ như phỗng. Giữ chặt cả hai tay tôi, không chịu thả. Còn tôi, tôi xỉ vả nó là đồ chó đẻ, rồi đủ thứ linh tinh khác nữa. Thậm chí tôi cũng chẳng nhớ mình đã nói những gì. Tôi bảo nó tưởng cứ muốn giở trò dê chó với bất kỳ ai thì giở. Tôi bảo nó cóc cần biết con bé ấy có thích chơi cờ nhảy không, và nói chung, cóc cần biết bất cứ thứ gì, bởi nó ngu xuẩn và mất dạy. Nó căm nhất khi bị mắng là đồ mất dạy. Lũ mất dạy, thằng nào cũng tức khi bị điểm trúng huyệt

- Này, mày có câm ngay không, Holden - Nó hằm hè, cái mặt thớt vẫn đỏ như gấc - Câm ngay, nghe chưa?

- Thậm chí mày cũng cóc thèm biết tên nó là Jeane hay là Jane, đồ mất dạy vô phúc!

- Im ngay, Holden, tao bảo, đồ quỷ tha ma bắt! - Tôi làm nó điên tiết thật sự -

Mày mà không câm mồm thì đừng trách đấy!

- Bỏ hai cái đầu gối thổ tả của mày xuống, đồ ngốc, đồ bốc phét.

- Mày có câm mõm tao mới bỏ! Câm chưa?

Tôi không tr ả lời Nó lại hỏi:

- Tao bỏ ra thì mày có chịu câm họng lại không ?

- Ừ.

Nó đứng lên. Tôi cũng nhỏm ngay dậy. Ngực tôi đau điếng vì cặp gối chó chết của nó.

- Dẫu sao mày cũng là đứa mất dạy, đồ dốt đặc, quân chó đẻ! - Tôi lại tiếp tục.

Câu đó khiến nó điên tiết thực sự. Nó dí ngón tay chuối mắn trước mũi tôi, doạ dẫm:

- Holden, tao bảo lần chót đấy. Mày mà không câm họng, tao sẽ cho mày một trận.

- Việc gì tao phải câm. - Tôi hỏi, nhưng cứ như thét vào mặt nó.

- Rồi chúng mày sẽ khốn đốn, lũ mất dạy. Chúng mày rồi không còn mở đượ c mồm để nói tiếng người. Phường mất dạy thì đứng cách trăm dặm cũng thấy.

Nó điên tiết thực sự khi nghe câu đó, và tôi lại nằm vật ra giữa sàn. Tôi không nhớ mình có bất tỉnh không, chắc là không. Cho ai đó nốc ao đâu dễ, chẳng phải như phim ảnh. Nhưng máu mũi tôi túa ra như xối. Tôi mở mắt thì thấy thằng nhóc ngốc Stradlater đứng ngay trước mặt. Cầm bình nước rửa trên tay.

Thì tao đã bảo - Nó nói, trông cũng biết đang sợ hết hồn - chắc sợ tôi bị vỡ đầu khi ngã vật xuống sàn. Tiếc là đầu tôi không vỡ quách cho yên chuyện.- tại mày đấy, đồ quỷ! - Nó tiếp. Chà nó sợ tới mức mặt cắt không còn hột máu.

Tôi vẫn không ngồi dậy, cứ nằm ì trên sàn. Tôi căm nó tới mức suýt hét ầm lên chửi nó là đồ ngốc, đồ chó đẻ.

- Thôi, dậy rửa mặt đi! Nghe chưa?

Tôi bảo chính nó mới đáng phải đi rửa cái mặt mẹt của mình. Ăn nói thế, cố nhiên, rất ngốc nghếch, như con nít vẫn chửi nhau. Nhưng tôi tức quá nên cứ bảo nó đi rửa trước đi, rồi tiện đường, vào chim luôn bà Schmith dưới kia. Bà Schmith là vợ ông gác cổng, tuổi đã suýt soát bảy chục.

Tôi cứ ngồi ỳ cho tới lúc thằng Stradlater bỏ đi. Tôi nghe thấy tiếng chân nó lẹp xẹp ngoài dãy hành lang dẫn tới phòng rửa mặt. Mãi lúc đó, tôi mới chịu đứng dậy. Và loanh quanh suốt một hồi, vẫn không sao tìm ra được cái mũ thổ tả lúc chiều. Nhưng rốt cục, vẫn tìm ra. Hoá ra nó lăn xuống gập tít dưới gi.ường kia. Tôi chụp vội nó lên đầu, lưỡi trai xoay ngược, tôi vẫn thích thế, rồi soi gương, ngắm nghía cái mặt ngốc nghếch của chính mình trong ấy. Từ bé, tôi chưa bao giờ thấy máu chảy lắm thế. Mồm miệng bê bết máu, dưới cằm cũng thế, thậm chí cả trên vạt áo vét tông lẫn áo ngủ choàng ngoài. Tôi phát hoảng, nhưng cũng thấy thích thích. Tướng mạo tôi trông kinh thật, như một gã bất trị. Từ bé, tôi chỉ đánh nhau có hai lần, và cả hai lần đều thua. Bẩm sinh, tôi vốn là võ sĩ xoàng. Nói chung, tôi chuộng hoà bình, nếu phải thú thật cùng các bạn.

Tôi có cảm giác thằng Ackley vẫn thức và nghe thấy hết. Tôi lách qua buồng tắm, sang phòng nó, xem nó làm gì. Năm thì mười hoạ tôi mới ghé sang. Phòng nó tứ thời chẳng lúc nào đỡ hôi, bởi nó là đứa chúa ở bẩn.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Nhờ ánh sáng phòng bên le lói lách qua tấm màn, tôi thấy nó đang nằm trên gi.ường. Nhưng tôi thừa biết nãy giờ nó vẫn thức.

- Ackley? - tôi gọi - Mày chưa ngủ hả?

- Chưa.

Tối quá, nên tôi vấp phải chiếc gi.ường một thằng nào đó, suýt ngã lộn cổ. Ackley nhổm dậy tì má lên lòng bàn tay. Mặt nó nhoe nhoét thứ kem trừ mụn trắng nhợt. Trong tối, trông nó như một bóng ma khủng khiếp.

- Mày làm gì đấy? - Tôi hỏi

- Bây giờ mà mày còn hỏi tao làm gì? - Tao muốn ngủ một giấc, nhưng tụi quỷ sứ chúng mày cứ làm ầm ĩ cả lên. Sao mày với nó lại ục nhau thế?

- Công tắc ở đâu nhỉ? - Tôi không tài nào nhìn thấy nên phải sờ soạng khắp tường, chẳng ăn thua gì.

- Mày bật đèn lên làm gì? Nó ở bên cạnh tay mày đấy.

Tôi tìm th ấy cái công tắc và bật khẽ. Ackley đưa tay lên che mắt cho khỏi chói.

- Quỷ s-s-sứ! Mày làm sao thế? - Nó thấy tôi máu me đầy người.

- Bị sây sát chút đỉnh với thằng Stradlater, - tôi nói. Rồi ngồi phịch xuống sàn. Phòng nó ch ẳng bao giờ có ghế. Chẳng biết chúng nó làm gì với cái thứ chuyên dùng để ngồi ấy- Này, mày thích không, ta làm một ván canasta (một thứ bài thịnh hành tại Nam Mỹ) nhé? - Tôi rủ. Nó mê canasta kinh khủng.

- Kìa, máu vẫn đang chảy đấy! Mày tìm cái gì rịt lại ngay đi.

- Rồi nó khắc tự cầm thôi. Thế nào, có chơi không thì bảo?

- Canasta? Mày điên đấy à? Mấy giờ rồi biết không?

- Đã khuya lắm đâu. Chừng mười một giờ, mười một rưỡi chứ mấy!

- Thế mà chưa khuya, hả? Này, nghe tao bảo đây, mai tao phải dậy sớm đi lễ, quỷạ. Còn tụi mày, hai thằng quỷ sứ thì cả đêm cứầm ĩ suốt. Kể đi, tại sao chúng màyục nhau?

- Chuyện dài dòng lắm. Nghe tao kể, mày chỉ tổ chán thôi, Acklay ạ. Mày biết đấy, tao lo là lo cho mày! - Tôi chưa bao giờ tâm sự với nó chuyện riêng tư của chính mình. Một là nó còn ngốc hơn cả thằng Stradlater. Thằng kia, nếu đem so với nó, sẽ nghiễm nhiên trở thành một bậc vĩ nhân đích thực. - Này, tôi tiếp - tối nay, tao ngủ tạm trên gi.ường thằng Ely được chứ? Mai nó mới về, mày đừng lo.

- Có quỷ biết bao giờ thì nó về, - thằng Ackley làu bàu Tôi bi ết chắc tối nay thằng Ely nhất định không về. Thứ bảy nào nó cũng về ch ơi với bố mẹ.

- Có quỷ mới biết bao giờ thì nó về - Ackley nhắc lại

Trời, tôi chán nó quá đi mất!

- Sao lại không biết. - Tôi cười - mày lạ gì nó, chưa bao giờ về trường trước 9 giờ tối chủ nhật.

- Dĩ nhiên. Nhưng tao không thể mời mày cứ ngủ tạm gi.ường nó đi! Tao chưa từng thấy ai làm thế bao giờ.

Tôi muốn cho nó một cái tát quá! Tôi giơ tay lên, nhưng vẫn ngồi nguyên chỗ, vỗ vỗ vào vai nó

- Mày quả là một hoàng tử, Ackley nhóc. Mày biết thế chứ?

- Không. Nói của đáng tội, tao không thể bảo, mời cậu cứ ngủ tạm trên gi.ường người khác.

- Mày đích thực là một vị hoàng tử. Một chính nhân quân tử, một học giả, con ạ! - Tôi nói. Không chừng nó quả là một học giả đích thực, - mày có điếu thuốc nào đấy không? Tao sẽ chết mất nếu mày không còn

- Tao cóc có. Này, tại sao hai đứa lại đánh nhau vậy?

Nhưng tôi vẫn nín thinh. Tôi chỉ đứng dậy, lại bên cửa sổ, và chợt thấy buồn kinh kh ủng, chỉ muốn chết cho rảnh, thật đấy

- Sao chúng mày lại quại nhau vậy? - thằng Ackley thắc mắc, chẳng biết lần thứ bao nhiêu. Ai chứ nó thừa sức móc cả linh hồn bạn ra.

- Vì mày đấy, - tôi đáp.

- Quỷ sứ! Sao lại vì tao?

- Ừ, vì mày, tao bênh mày. Thằng Stradlater bảo mày là đồ đê tiện. Tao không th ể cho phép nó lăng loàn như thế. Nó chồm ngay dậy:

- Mẹ kiếp, không thể có chuyện đó. Thật đấy chứ?

Thấy nó sửng sốt thế, tôi phải cắt nghĩa là vừa nói đùa, rồi ngả lưng xuống gi.ường thằng Ely. Trời, tôi buồn thối ruột và cảm thấy chán ngán kinh khủng.

- Phòng chúng mày nặng mùi quá, - tôi bảo - Nằm tại đây tao vẫn ngửi thấy mùi đôi bít tất của mày. Thỉnh thoảng mày có đem giặt nó đi không đấy?

- Không chịu nổi, thì mày cứ việc xéo về! - thằng Ackley nói. Ranh gớm! - này, t ắt hộ tao cái đèn đi được rồi đấy!

Nhưng tôi mặc xác nó, chưa tắt vội. Tôi nằm trên gi.ường đứa khác, nghĩ đến Jane và hết thảy những gì vừa xảy ra. Tôi suýt phát điên khi hình dung cảnh Jane và thằng Stradlater trong chiếc xe thổ tả của lão Ed banky mông to. Cứ nghĩ tới chuyện đó là tôi chỉ muốn lao đầu qua cửa sổ cho vỡ sọ quách. Các bạn thì chắc chẳng thấy sao, bởi chưa biết tâm địa thằng Stradlater chứ tôi đi guốc vào trong nó. Bọn ở Pencey, đứa nào cũng khoác lác là đã ngủ với con này con nọ như thằng Ackley chẳng hạn. Nhưng riêng thằng Stradlater thì làm thật, chứ chẳng phải chỉ là múa may ba tấc lưỡi suông. Chính tôi có quen hai con bé đã từng bị nó giở trò dê cụ ra nên quá rõ.

- Ackley nhóc, kể tao nghe lai lịch của mày tí đi. Chuyện đó hấp dẫn đấy - tôi bảo.

- Tắt cái ngọn đèn trời đánh kia đi! Mai tao phải đi lễ sớm, hiểu chứ?

Tôi ngồi dậy, tắt đèn cho nó khỏi làm ầm ĩ, rồi lại ngả lưng xuống gi.ường thằng Ely như trước

- Sao, mày tính ngủ lại thật đấy hả? - Ackley hỏi. Gớm mến khách hết chê!

- Chả biết nữa. Để xem đã. Nhưng mày đừng lo.

- Nào tao có lo. Có điều tao cóc biết ăn nói thế nào nếu thằng Ely thình lình mò về, lại thấy gi.ường mình có đứa ngủ.

- Yêu trí. Tao chẳng thèm ngủ lại đâu, đừng sợ. Gì chứ tao cóc thèm lạm dụng lòng mến khách của mày đâu, đừng ngại.

Hai phút sau đó, nó đã ngủ khì, ngáy như bò. Tôi nằm trong bóng tối, cố không nghĩ tới hình ảnh Jane với thằng Stradlater, trong chiếc xe của lão Ed Banky trời đánh kia. Nhưng không thể không nghĩ tới. Khốn nỗi là tôi chẳng lạ gì hành tung của thằng bạn cùng phong thổ tả nọ. Càng nghĩ, tôi càng thấy khổ tâm.

Tôi với nó có lần cùng ngồi với bạn gái trong chiếc xe của lão Banky. Thằng Stradlater với con bồ của nó chiếm hàng ghế trước, còn hai đứa tôi, chiếm hàng ghế sau. Ngón nghề của thằng quỷ sống ấy, thôi, thà đừng nói tới! Nó mở màn bằng cách tỉ tê với con bé hết sức thực lòng rằng nó chẳng những là một trang nam nhi tuấn tú mà còn là một người tốt nết, chân tình. Tôi suýt nôn thốc nôn tháo, lúc nghe nó uốn éo ba tấc lưỡi đáng tởm với con bé kia. Còn cô bé thì cứ khẩn khoản luôn mồm: "Đừng, đừng thế... Đừng thế, đi anh. Đừng...". Giọng nó thủ thỉ hệt như giọng tổng thống Lincoln, rất chi là chân thật. Rồi bất thình lình hai đứa im bặt. Một không khí im ắng khó chịu kinh khủng bao trùm khắp xe. Chẳg biết hôm đó nó có làmăn được gì với con bé kia không. Nhưng mưu đồ của nó thì chẳng che nổi mắt ai hết. Chắc chắn thế nào nó cũng gỡ gạc được chút đỉnh.

Tôi nằm, cố không nghĩ tới cảnh ấy, thì thình lình nghe thấy tiếng chân nó rời khỏi phòng rửa mặt. Tôi nghe rõ cả tiếng nó thu dọn bàn chải, kem đánh răng rồi mở cửa sổ. Nó vốn thích thoáng đãng. Rồi tiếng nó tắt đèn, có vẻ chẳng thèm nhìn trước, nhìn sau, xem tôi có còn trong phòng không.

Tôi ngán ngẩm kinh khủng, ngay cả với bầu không khí trong lành bên ngoài cửa sổ. Vắng ngơ vắng ngắt. Chẳng có lấy một tiếng động nhỏ, ngay cả tiếng xe hơi xa xa. Tôi thấy cô quạnh và ngao ngán tới mức đành phải đánh thức thằng Ackley đang ngáy o o.

- Ê, Ackley! - tôi gọi khẽ cho thằng Stradlater khỏi nghe thấy.

Nhưng thằng kia vẫn ngủ như chết

- Ê, Ackley!

Nó vẫn chẳng nghe thấy gì. Cứ ngủ khì như súc gỗ Nhưng cuối cùng nó cũng tỉnh giấc.

- Quỷ sứ ngoạm phải mày, hả? - Nó hỏi - Tao vừa chợp mắt chưa đầy năm phút đồng hồ.

- Này, phải làm thế nào mới vào tu viện được, hả Ackley? - Tôi chợt nảy ra ý định đi tu quách cho rảnh - Có cần phải theo công giáo không ấy nhỉ?

- Sao lại không, đồ quỷ? Chỉ có mỗi thế mà mày cũng dựng tao dậy đấy à?

- Thôi, được rồi, mày ngủ đi. Đằng nào thì tao cũng chẳng đi tu. Dẫu có rủi ro đến mấy, tao cũng chẳng đời nào chui đầu vào tu viện. Khéo trong ấy cũng rặt một lũ mất dạy như ngoài đời. Không chừng còn đốn mạt hơn là đằng khác. Tôi chỉ nói có thế mà thằng Ackley đã chồm dậy như phải bỏng

- Nghe tao bảo đây - nó nói - muốn xỉ vả gì, mày cứ tha hồ xỉ vả tao. Nhưng hễ động đến đức tin của tao thi liệu hồn đấy.

- Yên trí, chẳng ai thèm động đến đâu, đừng ngại.

Tôi ngồi dậy, nhảy xuống đất, tiến về phía cửa. Tôi chẳng còn muốn ở lại trong cái bầu không khí ngột ngạt này nữa. Nhưng giữa đường, tôi đứng phắt lại, cầm bàn tay thằng Ackley lên, cố ý trịnh trọng bắt tay. Nó giằng vội ra;

- Lại của nợ gì nữa đấy?

- Chẳng có gì đâu, đừng sợ. Tao chỉ muốn cảm ơn mày bởi lẽ mày là một hoàng t ử chính tông, thế thôi! - tôi nói giọng rất mực thành thực - Mày là tay cự phách. Mày có biết mày cự phách đến mức nào không, Ackley nhóc?

- Cứ múa mép đi, múa mép nữa đi! Nhưng liệu thần hồn, kẻo có ngày lại bị tao nện cho vỡ sọ đấy. Nhưng tôi chẳng thèm nghe nữa. Tôi dập mạnh cửa, rồi bước ra hành lang. Trừ những đứa về thăm nhà, tất cả đều ngủ say, nên suốt dãy hành lang đều vắng lặng và ảm đạm kinh khủng. Trước cửa phòng thằng Leaby và thằng Hoffman chơ chỏng một cái vỏống kem đánh răng Colhynos rỗng. Tôi lấy mũi chân hất nó suốt dọc con đường dẫn xuống cầu thang vì dưới chân tôi chỉ lẹp xẹp có một đôi băng túp lót lông chiên. Lúc đầu, tôi chỉ định bụng, hay là xuống dưới kia xem thằng bạn chí cốt, thằng mal Brossard đang làm gì. Nhưng thình lình tôi bỗng đổi ý. Và bất thần quyết, phải chuồn khỏi Pencey ngay từ bây giờ. Cóc cần phải đợi đến thứ tư. Cho nó xong đi. Tôi chẳng muốn quanh quẩn ở đây nữa, dù chỉ một phút. Tôi buồn và ô đơn kinh khủng. Tôi cũng quyết định thế này nữa: thuê quách phòng trọ tại một khách sạn quái quỷ nào đó dưới New York, rẻ tiền thôi, dĩ nhiên, rồi cứ ung dung ở đó cho đến thứ tư. Tới hôm đó, tôi sẽ đàng hoàng mò về nhà sau khi đã nghỉ ngơi tử tế và tâm trí đã thanh thản. Tôi đoán, phải tới thứ ba hoặc thứ tư, bố mẹ tôi mới nhận được thư lão Thurmer báo tin tôi bị đuổi. Thành thử tôi không thích mò về trước ngày bố mẹ tiêu hoá hết cái tin trời đánh kia. Tôi không thích chứng kiến cảnh hai cụ đọc bức thưấy lần đầu, chắc mẹ tôi sẽ tức khắc lên cơn kinh giật. Nhưng nếu để mẹ tiêu hoá xong chút đỉnh, lúc đó sẽ chẳng hề gì. Hơn nữa tôi cũng phải nghỉ ngơi đôi chút. Thần kinh tôi độ này đâm ra bẩt trị khủng khiếp.

Tóm lại, tôi quyết định sẽ cứ vậy mà làm. Thế là tôi quay về phòng, bật đèn lên, và bắt tay vào thu xếp đồ đạc ngay. Mọi thứ tôi đã gói ghém đâu vào đấy từ lâu. Thế nhưng thằng Stadlater vẫn ngủ lịm. Tôi châm điều thuốc, mặc vội quần áo, rồi cất hết đồ đạc vào hai chiếc vali khá lớn. Vài phút sau, mọi thứ đã cong xuôi. Tôi làm rất nhanh vì chẳng còn gì nhiều để thu dọn.

Chỉ có một điều khiến tôi hơi buồn chút ít là phải cất lại đôi giày trượt tuyết mới cứng mà mẹ vừa gửi lên chỉ cách đây mấy bữa. Tôi buồn, bởi hình dung ra cảnh mẹ tôi tới cửa hàng bán dụng cụ thể thao, hỏi tới hỏi lui ông chủ hiệu cả triệu câu hỏi chẳng đâu vào đâu mới chọn được đôi giày trượt ưng ý, thế mà giờ tôi lại bị đuổi khỏi trường! Buồn thật chứ chẳng đùa.

Đôi giày mẹ mua, tuy chẳng phải loại tôi mong vì tôi cần giày trượt tốc độ, chứ chẳng phải loại chơi hockey, nhưng dẫu sao tôi cũng thấy buồn kinh khủng. Lần nào cũng thế, hễ nhận được quà là tôi lại đâm buồn bã.

Dọn dẹp xong các thứ, tôi bắt đầu kiểm lại tiền. Tôi chẳng nhớ trong túi còn được bao nhiêu, nhưng đại để cũng chẳng có gì đáng lo. Mới tuần trước, bà tôi vừa gởi cho một tấm ngân phiếu. Tôi may mắn có được một người bà hào phóng, chẳng biết tiếc tiền là gì. Bà tôi, nói của đáng tội, chẳng còn được minh mẫn như ai. Bà đã ngót trăm tuổi nên năm nào cũng đãng trí bốn, năm lần gửi tiền mừng sinh nhật đứa cháu. Nhưng tuy sẵn tiền, tôi vẫn tự dặn mình đừng vung tay quá trán. Tôi chạy lại cuối dãy hành lang, dựng thằng Frederick Woodroff dậy, đòi lại chiếc máy chữ cho nó mua chịu, hỏi xem nó định trả bao nhiêu. Nó là con nhà giàu. Nó bảo: tao không biết. Rồi nói nó có định mua đâu mà hỏi.Nhưng rồi cũng bằng lòng trả tiền. Chiếc máy trên dưới chín chục đôla. Thế mà nó chỉ trả có hai chục, lại còn cáu tôi đã làm nó mất giấc.

Khi đã xong xuôi mọi thứ, tôi liền xách hai chiếc vali với mọi thứ cần mang về. Lúc đến gần đầu cầu thang, tôi dừng lại; ngoái nhìn lần chót dãy hành lang. Tuồng như tôi ứa nước mắt, nức nở khóc. Vì sao, tôi cũng chẳng biết nữa. Nhưng rồi vẫn chụp chiếc mũ đi săn lên đầu, lưỡi trai quay ngược ra sau, rồi lấy hết sức bình sinh gào to:

- Về nhé, lũ mất dạy!

Tôi dám cả quyết đã dựng tất cả lũ quái thai ấy dậy! Rồi ù té chạy xuống cầu thang. Một thằng ăn hại nào đó đã vất bừa mấy cái vỏ hồ đào trên bậc thang, tôi suýt ngã gãy cổ.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Khuya kho ắt thế này, đừng hòng gọi nổi taxi, nên tôi đành cuốc bộ. Nhà ga cách đấy cũng gần, nhưng trời lạnh kinh khủng. Đã thế, đường xá lại đày những tuyết, hai chiếc vali chốc chốc lại đập vào ống chân, điếng người. Nhưng được cái không khí đỡ ngột ngạt hơn. Chỉ khổ một nỗi là mũi và môi trên tôi rát kinh người

- nó đã đạp nát bởi quả thụi của thằng Stradlater chó đẻ. Nó nện thẳng môi tôi vào

m ấy chiếc răng cửa, nên bây giừo vẫn còn đau. Tuy thế, hai tai vẫn ấm. Bởi chiếc mũđi săn có dính một cặp tai che khá lứon, và tôi đã hạ cả hai tai xuống. Tôi cóc cần để ý đên diện mạo mình lúc này thế nào. Quanh đâu chẳng còn ai. Thiên hạ đều ngủ khoeos từ chập tối.

T ới ga, tôi lại gặp may phen nữa. Chỉ phải đợi tàu chưa đầy mười phút đồng hồ. Trong lúc đợi, tôi còn kịp bốc tuyết rửa sơ mặt mũi cho dễ coi.

Nói chung, tôi thích đi tàu, nhất là tàu đêm, khi trong toa đèn đuốc sáng trưng, còn bên ngoài thì tối mịt mù. Cà phê, xăng đuých, và tạp chí thì họ mang tới tận nơi, mừi mọc. Tôi thường mua loại xăngđuých thịt xông khói và ba bốn tờ tạp chí một lúc. Đi tàu đêm, bạn có thể ngấu nghiến cả những mẩu chuyện ngu xuẩn nhất in trogn tạp chí , mà chẳng sợ buồn nôn. Loại ấy, hắn các bạn đều biết. Truyện nào cũng kể về những gã tốt mã tên là David với những ả cũng tốt mã gọ bằng Linda, hoặc Marcia. Đám sắc nước hương trời nọ thì bao giờ cũng chỉ biết làm mỗi một thứ- nhồi thuốc rồi đánh diêm cho mấy gã David ấy phì phèo những chiếc píp ngu ngốc. Đi tàu đem, tôi có thể tiêu hóa cả những thứ thổ tảấy mà chẳng sợ gì hết.Nhưng đêm hômđó thì tôi không thể ngốn nổi những thứ này vì chẳng thấy hứng thú chút nào. Tôi chỉ bỏ mũ ra nhét vào túi. Vì chỉ ngồi suông nên chẳng biết làm quái gì cho đỡ cuồng tay.

B ất thần, đến Trenton bỗng có một bà lên tàu, và ngồi xuống bên tôi. Trong toa vắng ngắt (...làm mình nhớđến Spirtited away...), nhưng chả hiểu sao bà nọ vẫn không thích ngồi một mình, trên những dãy ghế trống thứ hai, thứ ba...Bà ngồi ngay xuống cạnh tôi, vì tôi đang thu mình ở dãy đầu cũng. Rồi đặt bừa cái túi sách đồ sộ ngay giữa lối đi lại, chẳng cần biết ông bán vé hoặc một hành khách nào có thể xéo phải. Chắc bà ta vừa rời một cuộc hiêu đãi hoặc vũ hội nào đó. Tôi thấy trên áo còn cài một nhánh phong lan tuyệt trần. Bà ta chắc đã bốn mươi, bốn lăm, nhưng vẫn đẹp kinh khủng. Tôi vốn dại gái. Thật đấy. Không , đừng nghĩ oan cho tôi, tôi hoàn toàn chẳng phải là thằng ăn chơi, tuy trông bề ngoài thì có vẻ thế thật. Tôi thícch phụ nữđẹp, chỉ có vậy. Chúng tôi ngồi thế một lúc, rồi thình lình bà ta cất tiếng hỏi:

- Xin lỗi, nhưng hình như tấm bỉên trên vali cậu là huy hiệu Pencey?

Bà ta ng ước nhìn mấy chiếc vali tôi gác trên cái giá bằng lưới, gắn gần nóc

toa.

- Vâng, - tôi đáp. Bà ta nói đúng, trên một chiếc vali quả còn đính một cái

nhãn của trường Pencey. Của nợ, thật khó lòng nói khác được!

- Ồ, ra cầu học Pencey đấy ử? - Bà ta tiếp, giọng êm ái lạ. Nghe hệt như bà

đang trò chuyện qua điện thoại với tôi vậy.

- Vângm cháu học ởđấy, - tôi đáp.

- Tuyệt quá! Chắc cậu biết thằng bé nhà tôi nhỉ? Thằng Ernest Morrow nhà

tôi cũng đang hoc trên Pencey.

- Biết ạ. Nó học cùng lớp với cháu.

Con bà là đuae thuộc loại mất dạy nhất ở cái trường Pencey khốn kiếp. Tắm xong, lần nào nó cũng chạy nhông ngoài hành lang, quật khăn ướt vào bất cứđứa nào tìnhcờ bát gặp. Đấy, nó mất dạy thếđấy.

- Trời , tuyệt quá! - bà tiếp có vẻ thật tình nghĩ sao nói vậy, chẳng chút làm

b ộ làm tịch. Tính bà chắc vốn rất hồ hởi, cởi mở - thế nào tôi cũng sẽ kể lại với thằng Ernest về cuộc gặp gỡ hôm nay. Cậu tên là gì, cậu bé?

- Rudolf Schmidt, - tôi đáp. Chẳng dại gì mà khai thật lai lịch với bà ấy.

Rudolf Schmidt là tên ông già gác đan của khu nhà tôi.

- Cậu thích Pencey chứ? - Bà hỏi.

- Pencey ấy ạ? Biết nói với bác thế nào? Cũng chẳng đến nỗi. Dẫu sao đấyc

c ũng chẳng phải là thiên đàng, cố nhiên, nhưng chẳng tồi tệ gì hơn các trường khác đâu, bác ạ. Các thầy giáo đều rất tận tâm dạy dỗ.

- Thằng Ernest nhà tôi thì lại mê Pencey kinh người!

- Vâng, cháu biết, - tôi nói. Rồi tôi bắt đầu ba hoa cho bà ta vừa lòng,- Cậu ấy

sống rất thoải mái. Cháu muốn nói Ernest rất chan hoà với chúng bạn.

- Thạt hả? Cậu nghĩ thế thật chứ? - Bà ta hỏi. Trông cũng biết bà ta háo hức

muốn biết ý tôi

- Về Ernesr ấy ạ? Ồ, dĩn nhiên! - Tôi nói. Nhưng mắt thì nhìn bà ta cởi đôi

găng. Khiếp, nhẫn to nhẫn bé, thồi thì vô khối!

- Tôi vừa làm gẫy một cái móng tay trong taxi, - bà ta vừa nói, vừa nhìn tôi,

mi ệng mỉm cười. Một nụ cười đáng yêu quá đi mất. Đáng yêu kinh khủng. Thường, thiên hạ chẳng ai chịu cười, hoặc khi cười trông rất đáng ghét.

- Vợ chồng tôi rất lo cho nó. Lắm lúc, tôi có cảm tưởng nó rất khó hoà hợp

với chúng bạn.

- Hiểu theo nghĩ nào hả bác?

- Cậu thấy đấy, nó là tằhng bé rất nhạy cảm. Chẳng bao giờ chịu kết bạn thực

s ự với những đứa cùng trường. Chắc nó coi trọng mọi thứ quá cái mức lứa tuổi nó đòi hỏi.

"Nh ạy cảm"! Thật chết cười! Cái nắp đậy hố xí khéo còn nhạy cảm hơn thằng Ernesr thổ tả kia!

Tôi nhìn bà ta. Trông thì bà ta ch ẳng ngốc chút nào. Thậm chí có thể tưởng bà ta thừa biết thằng con mình là đứa khốn kiếp. Nhưng trong chuyện này hẳn có điều gì bí hiểm, tôi nói về các bà mẹ tôi vẫn gặp. Tất cả các bà mẹ ít nhiều đều hơi điên điên. Dẫu sao, bà mẹ thằng Morrow đê tiện này cũng rất đáng yêu. Bà ta tử tế kinh khủng.

- Bác hút với cháu điếu thuốc nhé? - Tôi ướm hỏi

Bà ta nhìn quanh tàu một vòng.

- Dường nhưđây là toa dành cho người không hút thuốc thì phải, cạu Rudolf

ạ! - bà nói "Rudolf"! Thế này thì khéo tôi chết mất.

- Chả sao đâu ạ! Ta cứ hút, bao giờ họ kêu thì thôi, ngại gì?

Bà ta nhón l ấy điếu thuốc tôi mời, tôi đánh diêm cho bà ta. Cách bà ta hút trông thật đáng yêu. Cũng rất cẩn thận, dĩ nhiên, nhưng chẳng chút thèm thuồng không như các mệnh phụ khác trạc tuôi ấy. Dáng điệu hết sưc duyên dáng, quyến rũ. Cũng như nhiều ngừơi đàn bà đẹp khác, nếu tôi nói thực điều mình nghĩ. Bất thần bà ta nhìn tôi chằm chằm, rồi khẽ thốt lên

- Cậu đang bị chảy máu camđấy, cậu bé

Tôi gật đầu, rút khăn tay ra lau.

- Cháu bị mấy thằng bạn nén cho một cục tuyết vào chính giữa mũi - tôi nói

m ột cục tuyết vo viên, bác biết chứ?

Ch ắc tôi sẽ kể hết với bà ta, nếu như câu chuyện không quá dài dòng bởi thấy rất quy bà. Thậmc hí còn ân hận là đã bịa cho mình cái tên Rudolf Schmidt.

- Ernest nàh bác, vâng, - tôi nói rất được chúng bạn ở Pencey quý mến. Bác

biết chứạ?

- Không, tôi chả hay biết chút gì!

Tôi gật đầu

- Lúc đầu, chúng cháu chưa hiểu ra! bạn ấy suốt ngày chẳng rời cuốn sách

trên tay. Nói c ủa đáng tội, tính bạn ấy cũng hơi lạ, - bác hiểu chứạ? Đây, cháu lấy chuyện cháu làm quen với bạn ấy làm ví dụ là bác khắc biết. Hồi mới gặp, cháu thấy bạn ấy hơi lên mặt, ra vẻ ta đây với cháu lắm. Cháuđã nghĩ thếđấy. Nhưng bạn ấy chẳng phải thế, đó chỉ là do bạn ấy rất độc đáo. Nhưng người ngoài thì không dễ gì nhận biết ngay được.

Bà Morrow không nói gì. Nh ưng trời ơi, giá lúc đấy các bạn cũng được nhìn thấy ét mặt bà ta! Bà ta sững sờ, ngồi bất động. Bà mẹ nào cũng thế hết, chỉ cần một lời khen con trai họ là xuất chúng. Đến đấy thì tôi chẳng còn e dè gì.

- bạn ấyc có kể với bác chuyện bầu bán ở lớp không ạ? - tôi hỏi - bầu lớp

tr ưởng lớp chúng cháu ấy mà?

Bà ta l ắc đầu máy cái liền. Chà, đúng là tôi đã thôi miên được bà Morrow tội nghiệp.

- Bcá biết đấy, nhiều đứa muốn bầu Ernest nhà bác làmđội trưởng. Đúng, cả

l ớp đều tán thành đề cử bạn ấy. bác biết đấy, làmg fi còn đứa nào cáng đáng nổi phận sựđó, hơn Ernest? - Toi nói. Ối giời, nói dóc vô tội vạ! - Nhưng rồi bọn cháu đã bầu đứa khác, thằng Harry Fencer, bác chắc cũng biết cậu ta? Bọn cháu làm vậy chẳng qua chỉ vì Ernest nhà bác không chịu để bọn cháu đề cử. mà chung quy chỉ vì bạn ấy quá khiêm tốn, quá cả thẹn, nên đã khước từ...Bác nên bảo bạn ấy bỏ cái tật đó , thật đấy! - tôi nhìn bà ta - chẳng lẽ bạn ấy lại chẳng hề kể gì với bác chuyện đó?

- Vâng, chẳng hề.

Tôi gật

- Tính bạn ấy vốn thếđấy. Phải, thiếu sót chính của bạn ấy là khiêm tốn quá,

r ụt rè quá. Bác phải bảo bạn ấy.

Đ úng lúc ấy, người soát vé bước vào kiểm tra vé bà Morrow nên tôi đành nín thinh. Tôi khoái chí vì nãy giờđã thao túng được bà ta. Những đứa như thằng Morrow vốn chỉ chuyên quật khăn ướt vào mặt chúng bạn và thậm chí còn cố quật thật đau, thì không chỉđốn mạt lúc bé dại, mà còn đốn mạt cho tới lúc về già, dĩ nhiên. Nhưng tôi thầm đánh cuộc với mình là sau lúc nghe tôi ba hoa xong, bà Morrow sẽđinh nhinh con mình là đứa hết sức khiêm tốn, rụt rè đến mức không chịu cho chúng tôi đề cử làm lớp trưởng. Rất có thể sẽ như thế lắm. Ai biết được họ? Về khoản này, các bà mẹ thường chẳng khôn ngoan mấy.

- Bác ghé xuống toa giải khát, uống với cháu mộtly cốc tai nhé! - Tôi mời,

bởi cũng đang khát khô cả cổ. Đằng toa bán hàng kia thôi. Bác vui lòng chứ?

- Nhưng, cậu bé dễ thương ơi, chắc gì họđã cho phép cậu gọi cốc tai? - bà ta

c ất tiếng hỏi. Không hề cao giọng. Bà ta tử tếđến mức không thể tự cho phép mình làm thế.

- Nói chung chẳng ai cho phép thế thật. Nhưng dẫu sao họ vẫn sẽ mang lên vì

cháu cao l ớn thê này kia mà! Với lại tóc cháu đã hoa râm già nửa, - tôi nghiêng đầu lại, chìa cho bà ta xem cái phần tóc lốm đốm bạc. bà ta sững người, - vì lẽ gì mà bác cháu ta lại không uốn với nhau một ly nhỉ? - tôi nói. Tôi thích được nhấm nháp tí gì cùng bà ta quá đi mất.

- Thôi, có lẽ chả nên đâu, cậu béạ. Cảm ơn cậu, nhưng đừng uống thì hơn.

V ả lại, giờ này toa bán hành chắc đã đóng của rồi. Khuya lắm còn gì, chắc cậu biết? Bà ta nói đúng. Tôi quen khuấy mất bây giờđã mấy giờ. Bỗng bà ta ngước nhìn tôi, rồi hỏi chính cái điều đang khiến tôi sợ nhất.

- Ernest có viết thư về cho tôi, bảo đến thứ tư mới về, vì mãi tối hôm đó, kỳ

ngh ỉ Giáng sinh mới bắt đầu. Còn cậu, tôi hy vọng cậu không phải là người nhà đau ppms mà về sớm đấy chứ? Trông cũng biết bà ta thực tình lo lắng

- Không ạ, ở nhà bố mẹ cháu vẫn bình yên, cháu về thế này chẳng qua vì

chính bản thân mình. Cháu sắp phải lên bàn mổ.

- Rõ khổ! - Tôi thấy bà ta thực sự ái ngại và thực lòng lấy làm tiếc là đã ăn

nói nhăng nhít. Nhưng hối hận thì đã muộn.

- Nhưng chẳng có gì trầm trọng lắm đâu ạ. Cháu cgỉ bị mộtkhối u bé tí trong

sọ não ấy mà.

- Không thể thếđược! - Bà ta hoảng hốt đưa tay lên che miệng.

- Ồ, một khối u xoàng thôi! Ngay dưới da đầu. Với lại nhỏ lắm, chả chắc đã

l ứon hơn một hạt đạu lép. Mất vài phút là gắp được ngay.

R ồi tôi lôi trong túi bẳng thời khoá biểu ra, đọc roc to lên để chấm dứt cái trò phét lác kia. Hễđã mở miệng nói láo là tôi sa đà hàng giờ, không sai câm miệng được nữa. Hàng tiếng liền, thật đấy!

Tôi v ới bà ta từđó chẳng cồn chuyện trò gì. Bà ta đọc tờ Vogue; còn tôi nhìn ra cửa sổ, ngắm cảnh vật. Đến Neweik, bà ta xuống tàu. Lúc chia tay, bà ta chúc tôi gặp nhiều may mắn trong ca mổ nay mai, cùng trăm thứ linh tinh. Và vẫn gọi tôi là Rudolf như trứoc. Cuối cùng, bà mời tôi hè nầy nhớ xuống chơi với Ernest dưới Massachusetts, làng Glaucester, bảo là nhà mình nằm ngay trên bãi biển, cạnh nhà còn có cả sân quần vợt. Nhưng tôi chỉ cảm ơn, bảo là phải sang Nam Mỹ với bà tôi ít lâu. Tôi nói dối đấy, chứ nà tôi đén nửa bước cũng chẳng rời khỏi nhà, trừ những hôm phải đi lễ sáng. Nhưng dù gì chăng nữa, tôi cũng chẳng đợi nào chịu thí một xu nhỏ, dẫu trong tay đang có bạc triệu, để xuống Massachusetts với cái thằng Ernest đốn mạt nọ.

Đế n ga Pensylvannia, tôi xuốn tàu, ghé ngay vào cái chòi điện thoại công cộng đầu tiên bắt gặp. Tôi muốn gọi điện quá, cho ai cũng được. Tôi đặt hai chiếc vali xuống bên chânđể dễ trông chừng. Nhưng đến lúc nhấc máy lên mới hiểu ra chẳng biết gọi cho ai. D.B thì ở tận Hollywood xa lắc xa lơ. Còn Phoebe, em gái tôi thì mới chín giờđã phải lên gi.ường, gọi cho nó cũng vô ích. Nó sẽ chẳng giận, nếu có bị tôi dựng dậy. Nhưng ác cái là nó không thểđến bên máy nên người nhấc ống nghe sẽ là bố hoặc mẹ tôi. Tóm lại là chẳng còn biết gọi cho ai. Tôi cũng đã tính quay số cho mẹ, Jane Gallagher, hỏi xem hôm nào thì cô về, nhưng rồi đâm chán chẳng buồn gọi nữa. Vả lại, bây giờ mà gọi cuống dưới đó thì khuya quá. Hay là gọi cho cô bé thinht thoảng tôi vẫn gặp - Sally hayes. Tôi biết nó đã về nghỉ Giáng Sinh, vì nó có gửi cho tôi một lá thư ngớ ngẩn, dài kinh người, mời tôi tới chơi, nhân thể giúp nó trang hoàng cây thông mừng lễ. Nhưng tôi lại sợ mẹ cảu Sally, chư không phải nó nhấc ống nghe.. Bà ta với mẹ tôi là chỗ quen biết, nên tôi hình dung rất dễ dàng cảnh bà ta vội vàng vồ lấy máy, gọi cho mẹ tôi, báp tin tôi hiện đangở New York. Ngoài ra, tôi cũng chẳng thích thú gfi cái khoản trò chuyện qua dây nói cùng bà khi nà ta đã có lần bảo với Sally rằng tôi là đúă bất trị. Một là bất trị, hai là sống không mục đích rõ ràng. Kếđó, tôi nghĩ tới một thằng bạn, trước cùng học trên trường Whooton, thằng Cảl Lưc, nhưng nó chẳng phải là đứa tôi quý mến lắm. Rốt cục, tôi chẳng gọi cho ai. Chừng hai mươi phút sau, tôi rời chòi điện thoại công cộn, băng xuống một dải đường ngầm, đến bến taxi.

Tôi đãng trí đến mức cứ quen mồm cho ông lái xe địa chỉ nhà tôi mà quên biến mất cái dựđịnh sẽ lưu lại khách sạn vài bữa nữa, rồi mới mò về nhà vào đầu dịp nghỉ Giáng Sinh. Tôi chợt nhớ ra điều đó khi xe đã chạy gần hết công viên rồi. Tôi liền bảo ông tài xế:

- bác làm ơn quay xe lại giúp, nếu được. Vì cháu cho nhầm địac hỉđấy ạ. Bây

gi ờ, cháu phải về lại khu trung tâm. Nhưng ông tài xế khá tinh ma.

- Chịu thôi, Mark ạ, vì đây là đường một chiều. Muốn quay lại phải chạy đến

cu ối đường Chín Mươi đã. Tôi chẳng buồn cãi

- Thôi, cũng được, - tôi nói. Rồi vụt nhớ, - bác có còn thất lũ vịt dưới hồ cạnh

c ủă Nam công viên Trung tâm không? Chắc bác biết lũ vịt ấy trốn đi đâu khi mặt hồđóng băng chứ? Tôi thừa biết, đó chẳng qua chỉ là chuyện hoàn toàn ngẫu nhiên. Nhưng ông tài ngoảnh lại nhìn tôi với anh mắt như thể tôi hơi "mát dây" rồi

nói:

- Này, cậu em, cậu giễu tôi đấy hả?

- Không ạ, cháu thực tình muón biết.

ông ta ch ẳng nói gì thêm. Cả tôi cũng vậy. Lúc rời khỏi công viên tại cuối

đườ ng Chín Mươi, ông ta ngoảnh lại hỏi:

- Này, bây giờ thì đi ngả nào đây, cậu cả?

- Bác biết đấy, tôi không muốn tới khách sạn trên đường East Side vì sợ

ch ạm trán với người quen. Tôi muốn đi vi hành một chuyến. Tôi chúa ghét những kiểu nói nhàm chán, nhe " vi hành ẩn danh".. Nhưng với những người ngốc nghếch như gã tài xế này, thì chẳng còn biết nói năng ra sao, - Chắc bác biết dàn nhạc nào đang diễn đằng Talf hay New York chứạ?

- Khoản ấy tôi mù ịt, cậu Mark ạ

- Thôi được. Đã thế bác cứ cho tôi đến Edmont đi, -tôi nói, Bác không từ

ch ối chứ, nếu ta dừng lại dọc đường, nhấp một ly cốc tai cho ấm bụng? Tôi xin thết bác. Tôi đang còn khối tiền trong túi. Đúng là một ông bạn đừơng hết ý. Một nhân cách tuyệt trần. Tôi xuống xe trướcEdmont, và thuê ngay một phòng riêng. Ngồi trong taxi, tôi vẫn đội cái mũ săn dỏ chói, cho lạ mắt chơi. Nhưng đến lúc đặt chân vào tiền sảnh, tôi phải vội bỏ ngay ra đẻ thiên hạ khỏi tưởng tôi là đứa mất trí. kể cũng nực cười ởi hồi ấy, tôi chưa biết, chứ trong cái khách sạn đốn mạt này vốn đầy rẫy một lũđiên loạn. Một nhà thương điên trá hình.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Căn phòng họ cho tôi thuê chán kinh người, chỉ nhìn cũng đủ thấy chán nản. Từ cửa sổ nhìn ra bạn chẳng thể thấy gì, ngoài mặt hậu của khách sạn. Nhưng tôi thây kệ. Khi tâm trạng đã chán ngán, thì cảnh vật bên ngoài thế nào đâu có nghĩa lý gì. Dẫn tôi lên phòng là một ông già khú đế, tuổi khéo không dưới bảy mươi. Nhìn ông lão, tôi còn chán hơn là nhìn căn phòng sắp trọ. Lắm người hói đầu cứ chải lật tóc sang bên, để che bớt chỗ hói đi. Tôi thì thà chịu hói chứ chẳng đời nào chịu làm như thế. Còn công việc người ta giao cho ông lại càng chán, xách vali cho khách và chờ nhận tiền puốc boa. Chắc ông ta chẳng còn biết làm gì khác nhưng dẫu sao tôi cũng thấy chán kinh khủng.

Ông ta đi rồi, tôi bèn đến bên cửa sổ nhìn tứ phía, trên người vẫn tùm hụp chiếc măngtô. Cũng chẳng còn biết làm gì khác hơn bởi các bạn thậm chí không thể nào hình dung nổi người ta làm gì trong toà nhà đối diện. Thậm chí họ cũng chẳng thèm cất công buông rèm xuống nữa. Tôi nhìn thấy một gã đàn ông, tóc hoa râm, trông cũng tử tế như ai, nhưng chỉ diện độc quần đùi, và đang làm cái trò mà nếu kể lại, chắc chẳng ai tin nổi. Mới đầu, lão đặt vali xuống gi.ường. Tiếp đến, lão lôi áo xống đàn bà trong ấy ra, rồi lần lượt diện hết lên người. Bít tất lụa, giầy cao gót, rồi yếm bó, rồi nịt vú, với dây treo bằng thun như phụ nữ vậy. Xong đâu đấy, lão bèn diện thêm chiếc áo dài thâm chật bó ra ngoài, thứ áo vẫn mặc buổi tối ấy, trời ạ! Đoạn, lão bắt đầu đi đi lại lại trong phòng, bằng những bước ngắn, hệt như phụ nữ, rồi vừa hút thuốc, vừa soi gương, ngắm vuốt hồi lâu. Trong phòng lão chẳng còn ai khác, trừ phi trong buồng tắm vẫn còn ai đó nữa, mà tôi chưa trông thấy mặt, từ lúc đứng ngắm. Cònở khung cửa sổ ngay trên đầu lão, tôi thấy một người đàn ông với một người đàn bà đang phun nước vào nhau. Chắc đó chẳng phải nước, mà là rượu côctai, có điều tôi không trông thấy tay họ cầm cốc. Lúc đầu, gã đàn ông ngậm đầy một mồm nước, rồi phun vào ả đàn bà! Kế đến, ả nọ phun trả lão ta. Họ cứ lần lượt thay phiên nhau, trời ạ! Chà, giá các bạn được chứng kiến nhỉ? Cả hai cứ cười như nắc nẻ, làm như thể chưa từng thấy trò gì nực cười hơn. Rặt một lũ dở người, trong khách sạn! Tôi chắc mình là khách trọ độc nhất bình thường. Suýt nữa tôi đã đánh điện cho thằng Stradlater dặn nó đến ngay bằng chuyến xe lửa đầu tiên bắt gặp. Bởi lẽ dầu sao nó vẫn là vua của cái xứ này, cái khách sạn thổ tả.

Khốn nỗi ai cũng phải dán mắt vào những cảnh ấy, cho dù chẳng muốn nhìn. Hơn nữa, cái ả bị gã kia phun nước đầy mặt lại là một cô rất xinh. Khốn khổ cho tôi chính là ở chỗ đó. Trong thâm tâm, tôi chắc mình là đứa trác táng kinh khủng. Lắm lúc, tôi tự thấy mình là kẻ cực kỳ đốn mạt, và chắc tôi cũng thừa sức làm như thế, nếu có dịp. Thậm chí, tôi bỗng có cảm giác có lẽ làm thế rất khoái, tuy có hơi đốn mạt chút đỉnh. Chẳng hạn, thậm chí tôi còn nghĩ rằng có lẽ tôi cũng sẽ làm cái trò ấy, nếu cả hai đều say, với cô gái tôi dắt theo. Nếu ngẫm nghĩ kỹ, đấy quả là trò đốn mạt. Theo tôi, nếu bạn đã thích một cô gái nào đó, thì không nên chòng ghẹo cô ta. Còn nếu đã thích cô ta, thì bạn không nên làm cho nó xấu xí, và nhổ vào gương mặt đó bất cứ thứ gì mà bạn ngậm trong mồm. Khốn nỗi, những trò ngu ngốc lắm khi lại khiến bạn thấy thích thú. Mà lắm đứa con gái cũng chẳng hơn gì, - chúng sẽ điên tiết, khi bạn cố tự ngăn mình giở những trò ngu ngốc kia ra vì sợ sẽ huỷ hoại mất một cái gì thực sự tốt dẹp. Tôi có một con bạn cũ, tôi quen nó cách đây hai năm. Nó còn tệ hơn cả tôi. Khiếp, đúng là thứ rác tưởi Nên thỉnh thoảng bọn tôi, cũng hay làm những trò vớ vẩn. Nói chung, tôi chẳng sành sỏi mấy về cái món t.ình d.ục và không bao giờ lường hết nó sẽ dẫn đến những gì. Chính tôi, tôi cũng đã tự đặt cho mình những qui tắc xử thế rất khôn ngoan, nhưng rồi tôi đã vi phạm chúng ngay. Năm ngoái, tôi tự đặt cho mình một cái lệ là không dan díu với những con bé khiến mình buồn nôn mỗi khi gần gũi chúng. Nhưng rồi chính lại tự vi phạm ngay cái lệ đó đúng vào cái tuần, thậm chí vào cái hôm mình vừa tự đề ra. Thật đấy, suốt tối, tôi đã ôm hôn một con bé đỏng đảnh kinh khủng, tên nó là Anne Louise Sherman. Ồ, không, tôi chẳng hiểu quái gì về t.ình d.ục.

Tôi đứng bên cửa sổ, ngẫm nghĩ cách làm thế nào để gọi điện cho Jane. Hay cứ gọi thẳng về trường, bằng điện thoại liên tỉnh, thay vì gọi cho bà mẹ, để hỏi Jane bao giờ thì về nhà? Dĩ nhiên, nữ sinh thường vẫn bị cấm gọi điện vào giữa đêm hôm khuya khoắt, nhưng tôi vẫn không sao xua đuổi được ý nghĩ đó. Tôi sẽ bảo họ rằng bà cô Jane vừa bị xe cán chết, nên tôi phải nói chuỵện với Jane gấp. Chắc họ sẽ đánh thức ngay cô ấy. Nhưng tôi vẫn không gọi cho Jane, bởi chẳng thấy thích. Mà khi đã chẳng thích, thì đừng hòng làm nổi trò trống gì.

Rồi tôi quay vào, gieo người xuống xalông và hút hai điếu thuốc liền. Tôi cảm thấy mình đáng ghét, tôi biết lắm. Bất thần tôi nghĩ được một cách. Tôi móc ngay ví, lục tìm địa chỉ một thằng bạn cũ, hiện đang học dưới Princeton mà tôi quen trong một buổi dạ hội vào dịp hè vừa qua. Rốt cục, cũng moi được mẩu giấy nó trao cho dạo đó, nát dưới đáy ví, nhưng dẫu sao vẫn còn đọc được. Đó là địa chỉ một cô ả không hẳn là gái làm tiền, nhưng thỉnh thoảng vẫn đi ăn mảnh, như lời thằng bạn dưới Princeton bảo tôi. Một lần, nó đã dắt ả dến trường khiêu vũ và suýt nữa thì bị đuổi vì chuyện đó, ả hiện đang làm gái nhảy tại một tửu điếm kiêm phòng gửi áo ngoài hoặc một cái gì đại để thế. Tóm lại, tôi nhấc máy, gọi ả, Faith Cavendish, trọ tại khách sạn Stanford, trên góc đường Sáu Sáu và đại lộ Broadway. Chắc đó cũng là một khách sạn tồi tệ, chẳng khác gì nơi tôi đang trọ.

Lúc đầu, tôi đinh ninh ả không có nhà, vì chẳng thấy ai trả lời. Nhưng sau rồi ả cũng nhấc máy lên:

- Allo! - Tôi lên tiếng, lấy giọng thật trầm đểả khỏi ngờ tôi là thằng nhóc.

Nhưng nói chung giọng tôi khá trầm, chẳng cần phải giả điếc gì lôi thôi.

- Allo! - Một giọng phụ nữ chẳng lấy gì làm niềm nở đáp lời.

- Cô Faith Cavendish đấy à?

- Đúng. Ai thế? - Ẳ hỏi - Ai mà lại dựng người ta dậy vào lúc nửa đêm thế này, h ở trời? Tôi hơi hoảng.

- Vâng, tôi biết, giờ này đã khuya. - Tôi lên giọng người lớn. - Hy vọng cô sẽ thứ lỗi cho, nhưng tôi có câu chuyện muốn nói với cô! - Tôi nói rất màu mè.

- Nhưng anh là ai mới được chứ? - Ẳ hỏi.

- Cô không quen tôi lắm, nhưng tôi là bạn của Eddi Birdsell. Cậu ấy bảo nếu có dịp về thành phố, thì nên gặp cô và ta cùng nhấm nháp với nhau vài ly cốc tai cho vui.

- Ai bảo? Anh là bạn của ai, hở? - Một con hổ cái, trời ạ! Ẳ quát tôi thiếu đường muốn vỡ cái ống máy tôi đang cầm.

- Của Edmund Birdsell, của Eddie, - tôi nhắc lại, không nhớ đích xác là

Edmund hay Edward. Tôi ch ỉ gặp cậu ấy đúng một lần, tại một cuộc dạ hội ngu ngốc năm ngoái.

- Tôi không quen biết người có cái tên đó. Và nếu anh tưởng tôi thích bị dựng dậy giữa đêm khuya...

- Eddi Birdsell, ở trường Princeton. Cô nhớ chứ? - Tôi cố gỡ gạc chút đỉnh.

Chỉ nghe ả nhắc lại họ tên kẻ tôi vừa dựng lên.

- Birdsell... Birdsell... trường Princeton à?

- Đúng, đúng! - Tôi cuống lên.

- Thế anh cũng học dưới đó?

- Đại để thế.

- À, Eddie thế nào? - Ẳ hỏi. - Dẫu sao cũng rất quái đản vì nhè giờ này mà gọi điện!

- Cậu ấy vẫn khoẻ. Có nhờ tôi chuyển đến cô lời hỏi thăm.

- Cảm ơn, nhắn giúp anh ấy tôi gởi lời thăm, nhé. - Ẳ tiếp - Anh ấy rất tuyệt.

Thế hiện anh ấy đang làm gì? - Ẳăn nói càng lúc càng thêm thân mật, quỉ bắt ả đi cho rảnh!

- Ồ, vẫn thế, cô biết cả đấy, - tôi đáp. Tôi làm sao biết hắn đang làm gì dưới đó? Tôi quen hắn rất lơ mơ. - Này, tôi tiếp, - ta gặp nhau, uống với nhau ly cốc tai được chứ, cô Faith quí mến?

- Anh biết mấy giờ rồi không? - Ẳ nói. - Xin lỗi anh tên là gì ấy nhỉ? - Ẳ bất thần chuyển sang dùng một thứ tiếng Anh ngọng nghịu kinh khủng - Giọng anh sao có vẻ rất con nít.

- Cảm ơn lời khen tuyệt vời của cô! - Tôi lại lấy giọng hết sức quí phái. - Tên tôi là Holden Caulfield - Đáng lẽ phải bịa một cái tên khác, nhưng tôi không tài nào nghĩ ra được một cái tên nào khả dĩ hơn.

- Ông biết đấy, ông Cawffle, tôi không quen hẹn hò giữa lúc nửa đêm. Ngày mai tôi phải đi làm.

- Mai là chủ nhật. - tôi nói.

- Dẫu sao tôi cũng phải ngủ thật đẫy giấc. Ông hiểu đấy.

- Chà, thế mà tôi cứ đinh ninh ta có thể uống với nhau một ly côctai! Bây giờ thì đã muộn gì.

- Ông rất khả ái, thật đấy, - ả nói. - Ông đang gọi từ đâu và hiện trọở đâu thế?

- Tôi ấy à? Từ một trạm điện thoại tự động.

- À, ra thế, - ả nói, rồi nín thinh một lúc mới tiếp. - Ông biết đấy, tôi rất sung sướng dược gặp ông, ông Cawffle. Nghe giọng ông, tôi nghĩ ông rất dễ thương. Nhưng bây giờ dẫu sao cũng khuya quá rồi.

- Tôi sẽ tự đến, cô đừng ngại.

- Ồ, giá lúc khác, tôi sẽ reo lên - tuyệt vời! Nhưng cô bạn cùng phòng vừa mới ốm. Côấy suốt từ tối giờ cứ vật vã suốt, chưa được chợp mắt chút nào. Mãi lúc này mới ngủ được một lát. Ông thông cảm nhé, ông Cawffle.

- Vâng, gay thật.

- Ông đang trọở đâu? Có lẽ mai ta hẵng gặp nhau thì hơn.

- Không, mai thì tôi bận mất rồi. Tôi chỉ được rảnh từ giờ tới sáng.

Ngốc quá đi mất! Ai lại đi ăn nói thế bao giờ.

- Ồ, rất tiếc!

- Tôi sẽ chuyển lời hỏi thăm của cô cho Eddie.

- Thật chứ? Ông chuyển giúp nhé! Hy vọng ông sẽ vui vẻ trong dịp lên New York lần này. Một thành phố tuyệt vời.

- Tôi biết. Cảm ơn. Chào cô, - tôi nói, rồi dập ống nghe.

Ngốc quá, tự mình làm hỏng hết mọi chuyện. Phải chi cứ hẹn mai gặp, thết ả một cốc rượu, thế có phải hơn không nào?
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Vẫn còn khá sớm. Tôi chẳng biết đích xác mấy giờ, nhưng đại để vẫn chưa khuya mấy. Tôi chúa ghét phải đi ngủ lúc chưa thấy mệt. Tôi mở va li, lôi ra một chiếc sơmi sạch rồi vào buồng tắm, rửa ráy và thay áo quần. Định bụng xuống dưới nhà, xem thiên hạ đang làm gì dưới "Phòng tử đinh hương" - Tầng dưới khách sạn này có một hộp đêm tên là như vậy.

Lúc đang thay áo, tôi bỗng nảy ra ý nghĩ: hay là cứ gọi điện cho Phoebe, em gái tôi. Tôi muốn nói chuyện với nó kinh khủng. Nó sẽ hiểu hết. Nhưng gọi về nhà thì hơi liều. Bởi dẫu sao Phoebe cũng còn bé,. nên chắc giờ này nó đang ngủ say, không thể ra trả lời ông anh. Có thể đặt ngay máy xuống nếu bố mẹ tôi chạy ra, thế thà đừng gọi cho rồi. Vì bố mẹ sẽ nhận ra mất. Nhất là mẹ. Mẹ giỏi đoán lắm. Bởi mẹ nhạy cảm kinh khủng. Nhưng dẫu sao tôi cũng vẫn muốn được bốc phét dăm câu với Phoebe ngay bây giờ.

Ồ , giá các bạn được nhìn thấy con bé. Kháu khỉnh và thông minh như nó thì tôi chắc các bạn chưa từng gặp bao giờ. Các bạn biết không, từ ngày cắp sách đi học tới giờ, nó toàn được điểm cao, chưa hề bị một điểm kém nào đâu. Nói thực, cả nhà chỉ mỗi tôi là dốt. Anh tôi, anh D.B. đang viết văn, còn em tôi, thằng Allie đã chết thì thần đồng chả chắc đã sánh nổi. Chỉ mỗi tôi là đần. Chà, phải chi các bạn được gặp Phoebe. Tóc nó cũng đỏ rực như tóc Allie vậy. Hè nào nó cũng cắt ngắn, rồi chải tém ra sau mép tai. Hai tai nó vừa nhỏ, vừa xinh. Còn mùa đông thì bỏ tóc xoã. Nhiều bữa, mẹ tôi cũng tết tóc cho nó. Nhưng lắm hôm vẫn cứ để xoã sau lưng. Thế mà vẫn đẹp. Nó mới lên mười, gầy như tôi, nhưng không khẳng khiu. Gầy kiểu các đối thủ trượt tuyết. Một hôm, tôi nhìn qua cửa sổ thì nhác thấy bóng nó băng qua đường phố, chạy ra vườn hoa. Lúc ấy tôi vụt có ý nghĩ, nó được trời sinh để trượt tuyết - mảnh dẻ, hoạt bát. Tôi biết thế nào các bạn cũng sẽ thích Phoebe. Nghe ai nói câu gì, dù rất mơ hồ, nó cũng hiểu ngay. Thậm chí có thể lôi nó đến bất cứ đâu chẳng hề sợ bẽ mặt. Chẳng hạn, nếu bạn đưa nó đến xem một cuốn phim nó sẽ biết ngay cuốn phimấy hay hoặc dở. Một hôm, tôi nói với anh D.B. có dắt nó đi xem phim Pháp, mang tựa đề Vợ bác thợ nướng bánh mì, do diễn viên Raimu đóng. Nó thích mê mẩn. Nhưng Phoebe thích nhất là Băm chín bước chân, có Robert Donat đóng. Nó gần như thuộc lòng cả cuốn phim, hai anh em phải xem tới xem lui đến cả chục bận còn gì? Chẳng hạn, khi chàng Donat bị cảnh sát lùng bắt, phải đến nương náu tại một nông trại, Phoebe đã nói ầm lên giữa rạp cùng lúc với ông chủ trại người Scotland: "Anh ăn được cá trích chứ nhỉ?" vì thuộc lòng tất cả các câu đối thoại. Còn khi lão giáo sư, nhưng thực ra là một gián điệp Đức, giơ ngón út bị cụt mất một đốt lên chỉ chỏ Robert Donat, thì Phoebe đã giơ ngón tay lên trước cả lão ta và chỉ thẳng vào mặt tôi. Nhất định các bạn sẽ thích nó. Nói của đáng tội, nó cũng hay bắt bẻ. Hiểu được mọi thứ đến nơi đến chốn, chẳng trẻ con chút nào, cứ cắm cúi viết sách suốt. Có điều chẳng chịu viết cái gì cho đến nơi đến chốn. Truyện nào cũng kể về một con bé, tên là Hazle Weatherfield. Có điều Phoebe không viết là Hazle, mà viết thành "Cazle", thế có lạ không? Chính con bé ấy là một gián điệp lợi hại. Mới đầu, cứ tưởng ả mồ côi cha mẹ, nhưng sau chẳng biết bốảở đâu tự dưng lại mò ra, "một trang thanh niên hai mươi cao lớn, lịch sự rất hấp dẫn". Ngộ nghĩnh không thể tưởng được! Thế nào các bạn cũng sẽ thích nó. Hồi nó còn nhỏ, chủ nhật nào tôi với Allie cũng dắt nó ra công viên đi dạo, Allie hồi đó có một chiếc thuyền buồm. Nó thích thả thuyền vào chủ nhật, nên lần nào hai anh em cũng dắt con bé theo. Nó diện đôi găng tay trắng đi giữa hai anh, em tôi, trông hệt như một tiểu thư đài các. Hễ thấy tôi với Allie trò truyện là nó dỏng tai lên xem cả hai nói gì. Lắm lúc bọn tôi quên mất Phoebe, vì dẫu sao nó cũng còn nhỏ, nhưng nó nhất định không chịu thế và cứ góp chuyện suốt dọc đường. Thúc tôi hoặc Allie, rồi hỏi to: "Nhưng ai bảo thế? Ai cơ? Bobby hay là cô kia?". Đến lúc nghe được câu trả lời nó liền đáp:"À, em hiểu!" rồi lại lắng tai nghe tiếp hệt như người lớn. Allie cũng rất thích nó. Tôi muốn nói, Allie cũng rất quý Phoebe. Năm nay, nó đã lên mười, chẳng còn bé như độ trước, nhưng vẫn rất ngộ khiến ai cũng thích - dĩ nhiên là nếu hiểu được tính nết nó.

Dẫu sao tôi cũng muốn gọi cho Phoebe quá. Có điều tôi sợ bố mẹ lại nhấc máy, biết ngay tôi đangở New York, và cả chuyện tôi bị đuổi học lần nữa. Bởi thế, tôi chỉ thay chiếc sơmi, rồi bước ngay vào thang máy, xuống phòng lớn, xem dưới ấy có gì.

Nhưng dưới đó chẳng có ai, ngoài mấy gã trông như ma cô với vài ba ả tóc sẫm, tựa như gái ăn sương. Từ "Phòng tử đinh hương" vọng ra tiếng nhạc, tôi rẽ ngay vào. Khách vắng ngơ vắng ngắt, nhưng người ta lại chỉ cho tôi một chiếc bàn ọp ẹp, kê tít trong góc xa nhất. Phải chi cứ dúi cho gã bồi bàn một đôla thì đâu đến nỗi. Ở New York này cứ có tiền là muốn gì được nấy, tôi chẳng lạ.

Ban nhạc Buddy Singer chơi dở thậm tệ. Họ chơi ầm ĩ khủng khiếp, nhưng ầm đến mức quái đản, chứ không phải một cách điệu nghệ, như các ban nhạc danh tiếng. Nói trắng ra là chẳng có ai, - bởi phần đông đều là những lão già hợm hĩnh ngồi với bồ. Trừ chiếc bàn bên cạnh đang có ba cô gái tuổi suýt soát ba mươi. Cả ba đều khá xấu xí, và nhìn mấy chiếc mũ họ đội, khắc biết họ là dân ở xa tới. Nhưng trong đám ấy có một cô, cô tóc sẫm, trông cũng chẳng đến nỗi khó coi. Gương mặt cô có một vẻ gì ngồ ngộ rất khó tả, nhưng khi tôi bắt đầu thử phân tích, thì gã bồi bàn lại xuất hiện. Tôi gọi một ly Whisky soda, nhưng dặn đừng pha thêm gì hết. - Tôi cố nói thật nhanh, nếu trù trừ, gã nọ sẽ biết ngay bạn chưa tới tuổi, và bạn đừng hòng được uống một giọt rượu nào. Tuy thế, gã vẫn hạch ngay:

- Rất tiếc, thưa ông, nếu ông không đem theo giấy tờ xác nhận đã đủ tuổi.

Chắc ông có mang theo trong túi bằng lái xe chứạ?

Tôi ném về phía gã một cái nhìn lạnh như băng, như thể gã vừa sỉ nhục tôi không bằng, rồi nói lớn:

- Tôi thế này mà anh thấy chưa đến tuổi trưởng thành, hả?

- Rất tiếc, thưa ông, nhưng chúng tôi có lệnh.

- Được rồi, được rồi, - tôi nói vậy, nhưng thầm nghĩ: "Quỉ bắt anh đi!" - Cho tôi m ột chai côcacôla vậy. Gã bắt đầu trở gót, thì tôi gọi giật lại:

- Anh làm ơn cho thêm vài giọt rum, được không? - Tôi nói bằng một giọng hết sức lịch duyệt và mềm mỏng. - Không lẽ đã vào đây ngồi mà vẫn tỉnh táo được à? Thêm có vài giọt, chẳng lẽ cũng bị cấm?

- Rất tiếc, thưa ông, tôi không được phép! - Rồi gã quay đi. Nhưng lỗi đâu phải ở gã? Gã có thể mất việc tức khắc, nếu mang rượu lên cho những khách khứa chưa đến tuổi trưởng thành. Mà tôi, rủi thay lại đúng là loại khách đang ở độ tuổi vị thành niên.

Tôi lại quay về ngắm mấy ả phù thuỷ ngồi bàn bên kia. Đúng hơn là cô có mái tóc khá đen. Chứ hai ả kia thì khác nào loại ma chê quỉ hờn. Nhưng tôi không ngây ra như một tên ngốc. Trái lai, tôi ngắm họ hết sức lãnh đạm. Thế mà các bạn biết họ đã làm gì không? Bắt đầu khúc khích cười, như ba mụ dở hơi chính cống! Chắc họ đinh ninh tôi chưa đủ tuổi để làm cái trò ngắm nghía đàn bà, con gái. Tôi đâm điên tiết, họ làm như tôi đang muốn cưới họ làm vợ không bằng. Lẽ ra tôi phải làm ra bộ khinh thường cho họ biết thân, nhưng ác cái tôi đang muốn nhảy kinh khủng. Thỉnh thoảng, tôi thường thèm nhảy kinh khủng, như lúc này, chẳng hạn. Tôi chồm qua phía họ, mời:

- Các bạn, các bạn có thích nhảy chút đỉnh cho vui không? - Tôi nói rất lịch duyệt, giọng đặc quí phái. Thế mà cả ba ả ngốc lại đâm hoảng. Lại khúc khích cười. - Nào ta nhảy cho vui đi. - tôi tiếp. - Tôi sẽ lần lượt mời từng cô một. Thế nào? Các cô vui lòng chứ? - Tôi thích nhảy kinh khủng.

Mãi sau cô tóc sẫm mới chịu đứng lên. Trông cũng biết cô ta thừa hiểu tôi mời ai. Chúng tôi dìu nhau ra sàn nhảy. Còn hai ả nọ thì cười ngặt nghẽo như đang lên cơn động kinh. Quả tình, chỉ vì buồn nên tôi mới dây với lũ nỡm kia. Chứ vào lúc khác, dẫu có các vàng tôi cũng mặc xác họ.

Nhưng kể cũng chẳng hoài công lắm, cô tóc sẫm nhảy đẹp lạ lùng! Tôi chưa từng gặp trong đời một vũ nữ tuyệt hơn thế. Các bạn biết đấy: lắm ả rất ngốc, nhưng nhảy thì hết chê. Còn những cô thông minh thì hoặc là bạn phải miễn cưỡng dắt họ đi, hoặc là nhảy tồi tới mức thà cứ ngồi mọc rễở bàn mà nốc rượu cho bí tỉ với họ, còn hơn là lôi nhau ra sàn nhảy.

- Cô nhảy chúa thật! - tôi khen cô tóc sẫm. - Cô nên làm một vũ nữ chuyên nghi ệp mới xứng tài. Thật đấy! Tôi đã từng nhảy với một cô gái nhà nghề, nhưng còn mệt mới theo kịp cô. Chắc cô có nghe nói về đôi vũ Marco và Miranda chứ?

- Cái gì? - Thậm chí ả cũng chẳng buồn nghe tôi nói, mà cứ đảo mắt nhìn quanh thực khách trong phòng.

- Tôi hỏi, cô đã từng nghe nói tới Marco và Miranda bao giờ chưa?

- Chưa. Tôi không biết. Tôi chưa bao giờ nghe hai cái tên ấy.

- Họ là một đôi vũ chuyên nghiệp. Cô ấy là một nữ nhà nghề. Nhưng nhảy rất xoàng. Ngh ĩa là tuy vẫn hành nghề đấy, nhưng nhảy chẳng giỏi mấy. Chắc cô biết tâm trạng của cánh nam giới khi được khiêu vũ với một bạn nhảy tuyệt vời?

- Anh bảo gì? - Ẳ hỏi lại, bỏ ngoài tai chẳng buồn để ý những gì tôi nói.

- Tôi hỏi, cô có biết tâm trạng của cánh đàn ông chúng tôi, khi được nhảy với một bạn nhảy xuất chúng không?

- À, ra vậy...

- Cô thấy đấy, tuy đang ôm cô trong tay, nhưng nếu tôi lại có cảm giác như mình hoàn toàn ch ẳng còn giữ được thứ gì và chẳng còn biết chân tay lúc này đang ở đâu, thì đó mới đích thị là một bạn nhảy chúa tể.

Ẳ lại có vẻ không nghe thấy. Tôi quyết định nín thinh một lúc. Chỉ nhảy, thế thôi. Ngậm tăm. Buddy Singer đang chơi bài Chỉ có mỗi một điều... Bản nhạc tuyệt vời. Đến mức cả cái dàn nhạc thổ tảấy cũng không thể làm nó dở đi nổi. Tôi chỉ nhảy chứ không hề giở những trò quỉ quái, tôi chúa ghét những gã làm vậy. Tuy rằng tôi quay ả như chong chóng, khéo hoa cả mắt, nhưng ả vẫn ngoan ngoãn vâng theo, Tôi ngốc nghếch, đinh ninh rằng ả cũng thích nhảy, thì thình lình ả phun ra một điều khiến tôi ngao ngán quá:

- Tối qua, tôi với bọn bạn vừa được nhìn thấy Peter Lorrer xong. Một tài tử đ iện ảnh. Bằng xương bằng thịt nhé! Anh ấy đang mua một tờ báo. Bảnh trai khiếp lên được!

- Cô thật may mắn, - tôi nói, - phải, hết sức may mắn. Cô hiểu điều tôi nói ch ứ? - Một ả thộn đích danh. Nhưng nhảy thì tuyệt vô cùng! Tôi không kìm được, bèn cúi xuống đặt một nụ hôn lên đỉnh đẩu ả, ngay chính giữa đường ngôi của mái tóc đen. Khiếp, ả tức lồng lên, nhấm nhẳng:

- Lại còn trò gì nữa đây?

- Chẳng có gì. Tôi chỉ thán phục cô, thế thôi. - Tôi nói. - Tôi có một đứa em gái khiêu v ũ rất tuyệt. Nó chỉ mới học lớp bốn thôi và cô nhảy chẳng kém nó chút nào.

- Xin lỗi, cậu đừng có khoác loác quá thế!

Một tiểu thư chính tông! Ồ, không, một nữ hoàng, trời ạ!

- Cô từ đâu đến vậy? - Tôi hỏi. Nhưng ả không đáp lời. Cứ mắt trước mắt sau, trông cũng thừa biết ả đang mong Peter Lorrer hiện ra.

- Cô từ đâu đến thế? - Tôi lặp lại.

- Cái gì?

- Các cô từ đâu đến thế? Cô chẳng cần trả lời, nếu cảm thấy không thích lộ bí mật. Không việc gì phải cố cả, tôi van cô!

- Từ Seattle, bang Washington, - ả đáp. Giọng như thể hạ cố ban cho tôi một ân huệ lớn!

- Cô quả là một người trò chuyện có duyên - tôi bảo. - Cô biết thế chứ?

- Cái gì?

Tôi không nhắc lại, bởi có nhắc cũng chả chắc ả đã buồn để ý.

- Cô có thích đi vài vũ hình Jitterbug không, khi ban nhạc chơi một bài gì đó nhanh hơn? Nhảy Jitterbug mới đáng gọi là khiêu vũ. Hễ ban nhạc tấu một bản nhanh, thì ta sẽ tha hồ rộng chỗ mà quay, bởi ai nấy đều ngồi xuống cả, trừ mấy lão già dở hơi với lũ con gái béo ị. Cô hẳn vui lòng chứ?

- Tôi thì sao cũng được. - ả nói. - Này, anh mấy tuổi rồi, anh bạn?

Tôi bỗng thấy ấm ức kinh khủng.

- Quỉ thật, cô gặng hỏi chuyện đó làm gì cho mất vui đi? -Tôi bảo - Tôi mới mười hai. Chỉ được cái rất lớn xác.

- Mong anh đừng cáu. Nếu anh nổi cáu, tôi sẽ trở lại với mấy cô bạn kia ngay, anh hi ểu không?

Tôi liền rối rít xin lỗi như một gã dở hơi, vì ban nhạc bắt đầu chơi một điệu nhanh kinh khủng. Ẳ cuốn tôi ngay vào điệu Jitterbug - rất thanh thoát, nhịp nhàng. Ẳ nhảy tuyệt quá, thật đấy. Bạn chỉ cần đẩy khẽ là ả đã ngoan ngoãn lượn theo ngay, Còn khi quay, cặp mông ả cũng uyển chuyển quay theo, tuyệt vời. Nhảy thế mới đáng gọi là nhảy. Tôi hay dễ xiêu lòng với những thiếu nữ kiểu cô ta. Lắm lúc, đến liếc nhìn bạn cũng chả thiết, vì thấy chúng quá ngốc nghếch; nhưng hễ thấy chúng làm một trò gì đó đẹp mắt, là bạn chết mê chết mệt liền. Cầu mong quỉ sẽ lôi hết những cô ả kiểu ấy đi. Ai chứ bọn chúng thì thừa sức khiến bạn thất điên bát đảo.

Mấy ả nọ không mời tôi đến ngồi cùng bàn - vì thiếu giáo dục, dĩ nhiên - nhưng tôi chả trách, cứ sà xuống ngay. Cô tóc sẫm nhảy với tôi tên là Bernice Crabs hay Krebs gì đó. Còn hai ả xấu xí, thì tên là Marty và Laverne. Tôi tự xưng với họ là Jim Steele - tôi cố ý đánh lừa. Tôi cố khai mào một cuộc trò chuyện thật thông minh, thú vị nhưng bất lực. Không lẽ phải dùng vũ lực bắt họ mở mồm? Tôi tưởng Bernice đã ngốc lắm, nào ngờ còn thông thái hơn cả hai ả kia. Cả ba cứ mắt trước mắt sau, dáo dác nhìn quanh phòng, như thể đang chờ một lô một lốc minh tinh màn bạc. Khéo họ tưởng đã mò được tới New York, thì gã minh tinh nào cũng vác mặt lại "Phòng tử đinh hương", chứ chẳng phải "El Marcocco" hay "Stork - club". Mãi tôi mới dò biết được nghề nghiệp của họ trên Seattle. Hoá ra cả ba đều làm tại một hội bảo hiểm ở đấy. Tôi tính hỏi công việc họ đang làm hẳn thú vị lắm, nhưng vị tất đã dò hỏi được chuyện đó ở mấy ả ngốc nghếch này? Tôi tưởng hai cô xấu xí, Marty và Laverne, là hai chị em, nhưng họ cáu kinh khủng, khi nghe tôi hỏi câu đó. Tôi biết cô này cũng chẳng muốn mình giống với cô kia - kể cũng phải thôi - nhưng dẫu sao tôi vẫn thấy chết cười.

Tôi lần lượt nhảy với cả ba, cho họ khỏi ganh tỵ. Một trong hai cô xấu xí - cô Laverne - nhảy cũng chẳng tệ lắm; nhưng còn Marty thì chán không còn gì sánh bằng. Nhảy với ả thì thà cứ lôi quách Nữ thần Tự Do trên bệ xuống, kéo mụ già ấy đi quanh sàn nhảy còn hơn. Đành phải kiếm chuyện gì đó lừa ả, nếu không muốn chết gục vì buồn tẻ. Thế nên tôi bèn bịa: Tài tử Gary Cooper đang đến kia kìa!

- Đâu, đâu? - Ẳ xúc động kinh khủng. - Anh ấy đâu?

- Chết thật, cô không mê ngủ đấy chứ? Ông ấy lại vừa ra xong. Sao cô không nhìn ngay lúc tôi b ảo?

Ẳ , thậm chí còn dừng phắt lại, nhón gót nhìn qua đầu mọi người, có lẽ hy vọng còn được thấy phía lưng lão tài tử nọ.

- Anh ấy vừa ở đây bước ra thật chứ? - Ẳ suýt phát khóc, nên tôi đâm ân hận vô cùng. Tôi th ấy thương hại ả kinh khủng, vì đã lừa ả. Có những kẻ chẳng nên lừa gạt họ, dù họ rất đáng được hưởng cái ân huệ đó.

Nhưng buồn cười nhất là lúc tôi đưa ả về bàn. Marty bảo với mấy ả kia là Gary Cooper vừa mới ở đây xong. Hai cô bạn Laverne và Bernice suýt tự tử khi nghe tin đó. Họ rầu rĩ, hỏi Marty có trông rõ gã diễn viênấy không. Marty đáp có, nhưng chỉ trong thoáng chốc thôi. Đúng là một ả ngốc.

Quầy rượu sắp đóng cửa, nên tôi vội vã gọi hai suất Whitsky cho "anh tôi" với hai chai coca-cola cho "chính tôi". Trên bàn họ vốn đã đầy ly tách. Ẳ Laverne cứ giễu tôi suốt, vì tôi chỉ uống độc côca. Đến là khôi hài. Ẳ với Marty thì uống toàn Tom Collinses ướp lạnh trong khi đang sắp hết tháng Chạp, trời ạ! Họ chẳng hiểu quái gì. Còn Bernice thì uống Bourbon pha sôda.Ẳ uống rượu cứ như ngựa uống nước ao. Cả ba chốc chốc lại mắt trước mắt sau trông chừng đám tài tử. Thậm chí đến trò chuyện với nhau cũng chẳng dám, chỉ sợ bị lỡ mất dịp may. Marty nói nhiều nhất, nhưng toàn những chuyện chẳng đâu vào đâu và lời lẽ rất vô duyên, đại để như gọi hố xí là "chuồng tiêu", còn ông già hói đầu chơi clarinette trong ban nhạc là "bố trẻ", nhất là khi ông nọ đứng dậy, léo nhéo mấy câu gì đó rất chối tai. Còn kèn "cla", ả cứ một hai gọi là "sáo gỗ". Thật vô duyên kinh người! Laverne - Ẳ xấu xí thì cứ tưởng mình hết sức khôn ngoan. Cứ luôn mồm bảo tôi thử gọi dây nói cho bố, hỏi xem tối nay ông có rảnh không. Ẳ lải nhải hỏi rằng bố tôi có hay bỏ nhà, đi gặp đám nhân tình? Có mỗi câu ấy mà hỏi tới bốn bận, khôn ngoan thế đấy! Còn Bernice, cô tóc sẫm, thì lại câm như thóc. Hỏi gìả cũng hạch lại: "Cái gì?". Trò chuyện kiểu ấy chỉ tổ thêm bực, chứ chẳng đi đến đâu.

Rồi thình lình cả ba vội vàng uống nốt chỗ rượu cặn, đứng ngay dậy, bảo: phải về đi ngủ. Họ bảo mai còn phải dậy sớm, để đến xem suất diễn đầu tại một phòng hoà nhạc ở đằng Radio city. Tôi nài họ ngồi thêm chút nữa, nhưng họ khăng khăng từ chối. Đành phải chia tay họ. Tôi hứa nếu có dịp lên Seattle, tôi sẽ tìm gặp họ ngay. Hứa hão hứa huyền! Chứ gặp lại làm gì mấy cô nỡm ấy?

Mọi khoản mất gần 13 " đô", kể cả thuốc thơm. Theo tôi, lẽ ra họ nên tự trả lấy những gì họ đã uống trước lúc tôi sà vào. Dĩ nhiên, tôi chẳng đời nào chịu để vậy, nhưng đáng lý họ phải xử sự thế mới đúng. Vả lại, đó chỉ là chuyện vặt. Bởi lẽ họ đều ngốc nghếch, lại đội mấy chiếc mũ quê kệch thảm hại, thế thì chấp mà làm gì. Tôi ngao ngán quá, khi nghĩ họ muốn dậy sớm để đến xem buổi phát thứ nhất đằng Radio City. Chỉ cần hình dung môt ả diện chiếc mũ kinh tởm thế, ở mãi tận đẩu tận đâu trên Seattle lại lặn lội mà xuống New York chỉ để dậy thật sớm, cốt đến xem một chương trình phát thanh thổ tả là đủ nẫu ruột nẫu gan rồi. Giá họ đừng nói với tôi chuyện đó, tôi xin vui lòng biếu không mỗi ả một trăm cốc rượu ngay!

Họ ra về được một lúc thì tôi cũng rời "Phòng tử đinh hương". Dẫu sao, quầy rượu cũng đang dọn dẹp để đóng cửa, và ban nhạc đã ngừng trình tấu lâu rồi. Trước hết, đó là chỗ rất buồn tẻ, nếu chẳng có ai để nhảy vài vòng. Kế đến, gã bồi bàn chẳng chịu dọn ra một thứ đồ uống nào khác, ngoài thứ nhạt hoét là côca. Đố ai ngồi lâu được trong một tửu điếm, nếu chẳng gọi được rượu để uống cho say bí tỉ. Hoặc nếu không có một đứa bạn gái mà mình thực sự chết mệt chết mê.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Lúc rời "Phòng tử đinh hương", tôi lại chợt nhớ đến Jane. Chợt nhớ bởi không thể xua đuổi hình ảnh nàng ra khỏi tâm trí. Tôi gieo người xuống một chiếc xalông dưới đại sảnh, và nghĩ đến cảnh nàng ngồi với thằng Stradlater trong chiếc xe của lão chết rấp Ed Banky. Và mặc dầu tôi biết chắc giữa Jane với thằng thổ tả đó chẳng có chuyện gì - tôi vốn rõ bụng dạ Jane như một cuốn sách mở, nhưng vẫn không thể xua đuổi được hình ảnh nàng khỏi tâm trí. Các bạn phải nhớ kỹ: Jane chẳng những giỏi cờ nhảy, mà còn rất mê thể thao. Và hồi mới quen nhau, bọn tôi đã chơi quần vợt mỗi buổi sáng và chơi gôn mỗi chiều trong suốt cả dịp hè. Tôi thường xuyên gần gũi nàng. Nhưng đừng hiểu theo cái nghĩa thân xác, dĩ nhiên, chuyện đó chưa bao giờ xảy ra, vì chúng tôi chỉ thường xuyên có mặt bên nhau chứ chẳng bao giờ có chuyện gì hết. Và thường thường, bạn không cần phải tán tỉnh bọn con gái mới kết bạn được với bọn chúng.

Tôi quen Jane vì con doberman nhà nàng hay chạy qua ********* bậy bên bồn hoa nhà tôi, khiến mẹ tôi cáu tiết kinh người. Mẹ tôi liền gọi dây nói cho mẹ Jane, làm ầm ĩ một trận. Mẹ tôi vốn hay làmầm ĩ về những chuyện không đâu kiểu như thế. Nhưng rồi mấy hôm sau, tôi tình cờ nhìn thấy Jane bên cạnh bể bơi trong câu lạc bộ mà gia đình tôi vẫn thường lui tới lâu nay. Nàng nằm sấp, và tôi chào nàng. Tôi biết nàng mới dọn đến cạnh nhà, nhưng chưa bao giờ trò chuyện với nhau. Lúc tôi mới đánh tiếng chào hỏi, Jane tỏ ra hết sức lạnh nhạt. Tôi phải sống chết chứng tỏ cho Jane biết tôi nhổ toẹt vào chuyện con chó của Jane thích "bĩnh" ở đâu. Dẫu nó có bĩnh ngay giữa phòng khách, tôi cũng mặc xác nó. Đại để là sau lần ấy, tôi và Jane bắt đầu trở thành đôi bạn chí thân. Ngay hôm ấy, tôi bắt đầu chơi gôn với Jane. Nàng thua tám quả, bây giờ tôi vẫn còn nhớ rất rõ, những tám quả! Tôi phải cực nhọc mãi mới dạy được Jane cái chuyện cỏn con là phải mở mắt ra, khi đánh quả bóng đi. Nhưng rồi tôi cũng tập được cho nàng các xảo thuật chơi bóng. Tôi chơi gôn rất chúa. Chắc các bạn không thể nào tin nổi, nếu tôi kể với các bạn, chỉ cần vài keo là thừa sức xơi gọn một bàn. Một lần suýt nữa tôi đã bằng lòng để họ quay một cuốn phim ngắn về tài đánh gôn của tôi, nếu tới phút chót tôi không kịp nghĩ lại. Tôi nghĩ: một khi đã ghét điện ảnh đến thế, thì tốt hơn hết là đừng để cho bọn làm phim chường mặt mình lên màn ảnh, dẫu chỉ trong một cuộn phim cỏn con.

Nàng là một thiếu nữ rất ngộ nghĩnh, Jane của tôi. Tôi chẳng dám bảo Jane sắc nước hương trời. Nhưng nàng là cô gái tôi rất thích. Miệng hơi rộng. Nhất là khi nàng hồi hộp hoặc xúc động vì một chuyện gì đó và bắt đầu nói nhanh. Lúc ấy, môi Jane liền lượn quanh những bốn, năm chục hướng khác nhau. Tôi mê cặp môi ấy kinh khủng. Nàng vẫn chẳng bao giờ mím chặt được chúng nên miệng lúc nào cũng hé mở, nhất là khi đánh gôn hoặc đọc một cuốn sách hay. Nàng đọc chăm lạ thường, mà toàn những cuốn rất chúa. Nhất là thơ thì khỏi nói. Ngoài những người thân thích, Jane là cô giá độc nhất được tôi cho xem chiếc găng của Allie, chiếc găng chép đầy thơ. Nàng không được gặp bé Allie nhà tôi, bởi lẽ đây là mùa hè đầu tiên của nàng ở Maine. Trước, Jane thường nghỉ hè dưới mũi Cod. Nhưng tôi đã kể hết với nàng về bé Allie tội nghiệp. Nàng thích nghe, vì muốn biết rõ tuổi thơ thằng bé nhà tôi.

Mẹ tôi không thích Jane lắm. Chung qui chỉ vì cảm thấy hai mẹ con nhà Jane hay tỏ ra khủng khỉnh và chẳng chịu chào hỏi mẹ tôi bao giờ. Mẹ thường gặp họ trong làng, vì bao giờ Jane cũng phải lái xe cho mẹ xuống chợ dưới xóm mua thức ăn. Mẹ tôi thậm chí cũng chẳng thấy Jane đẹp. Tôi thì khác hẳn. Tôi thích cả dáng dấp, cả mặt mũi Jane. Tất cả.

Tôi nhớ nhất một buổi chiều. Đó là lần duy nhất tôi với Jane hôn nhau. Cũng chỉ hôn bình thường, như một đôi bạn thân. Hôm đó là thứ bảy, trời mưa như trút, còn bọn tôi thì ngồi ngoài hàng hiên nhà nàng. Nhà Jane có một dải hàng hiên rộng thênh thang, ba phía đều lắm kính. Lúc đó hai đứa đang chơi cờ nhảy. Chốc chốc, tôi lại chọc tức Jane, vì nàng không chịu xuất hậu khỏi hàng cuối cùng. Nhưng tôi chẳng cáu chút nào. Hơn nũa, tôi cũng chẳng muốn Jane bực tức. Tuy rằng tôi thường thích trêu bọn con gái cho chúng phát khóc lên, mỗi khi gặp dịp may. Nhưng buồn cười là hễ đã thực sự mến ai, tôi chẳng bao giờ còn thích làm điều đó nữa. Lắm lúc tôi nghĩ họ cũng thích được tôi trêu trọc; thậm chí biết mười mươi là họ thích thế, tôi vẫn không tài nào bắt mình giở những trò tinh quái ấy ra, nếu tôi với họ là chỗ quen thân và xưa nay chưa từng trêu ghẹo họ bao giờ.

Tôi đang kể với các bạn về buổi chiều tôi và Jane hôn nhau dạo nào. Trời vẫn mưa tầm mưa tã, và tôi với nàng đang ngồi ngoài hiên, thì thình lình lão dượng ghẻ nghiện ngập của Jane mò tới, hỏi nàng xem ở nhà có còn thuốc lá không. Về lão, tôi chỉ biết qua loa, nhưng lão là hạng người chỉ bắt chuyện với bạn khi nào thấy bạn là người cần cầu cạnh. Thứ người đến là đáng ghét. Jane thậm chí cũng chẳng buồn đáp lại cái câu hỏi lão hỏi. Lão phải hỏi lại lần nữa, nhưng Jane vẫn nín thinh. Thậm chí, chẳng thèm rời mắt khỏi bàn cờ. Thế nên lão đành quay trở vào. Khi lão đi rồi, tôi liền ướm hỏi Jane: sao vậy. Nàng vẫn không đáp mà làm ra vẻ như đang nghĩ nước đi. Bất thần một giọt nước mắt ứa ra, sa xuống bàn cờ. Rơi thẳng vào cái ô vuông màu đỏ. Trời ơi, bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ mồn một cảnh đó! Jane chỉ lấy ngón tay quệt giọt nước mắt trên cái ô vuông màu đỏấy, thế thôi. Chẳng hiểu sao, tự dưng tôi cảm thấy rất buồn. Tôi liền đứng dậy, đến bên nàng, đẩy khẽ nàng dịch ra để lấy chỗ, rồi ngồi xuống bên cạnh. Nàng tức thì khóc nấc lên và trước lúc kịp hiểu, tôi đã hôn lên khắp mặt nàng: cả đôi mắt, cả vầng trán, cả tinh mũi, cả đôi mi, thậm chí cả hai vành tai. Chỉ môi là không vì Jane cố tìm mọi cách lẩn tránh. Trước chúng tôi chưa hôn nhau bao giờ cả. Rồi nàng đứng dậy, vào phòng thay chiếc áo len sọc đỏ trắng mà tôi thích nhất, rồi hai đứa dắt tay nhau tới một rạp chiếu bóng thổ tả.

Trên đường tôi hỏi Jane có thường bị ông Cudahy - lão dượng nát rượu ấy - chòng ghẹo gì không. Jane tuy còn ít tuổi, nhưng thân hình trông đã rất nở nang và nói chung, tôi không dám bảo lãnh chút nào cho nhân cách cái lão chó đẻấy. Nàng bảo không bao giờ, thế nên tôi càng chẳng rõ vì cớ gì mà Jane lại khóc nấc lên thế!

Tôi không muốn các bạn lầm tưởng Jane lạnh lẽo như một cục nước đá, vì thế mà bọn tôi chẳng bao giờ ôm hôn nhau. Hoàn toàn chẳng phải thế đâu. Chẳng hạn, tôi với Jane vẫn cầm tay nhau suốt. Tôi biết chuyện đó chẳng có gì đáng kể, nhưng được cầm tay nàng là chuyện rất tuyệt vời. Cầm tay những đứa khác, bạn luôn có cảm giác như cầm một súc gỗ, hoặc bọn chúng cứ phải ngọ nguậy suốt, làm như thể sợ bạn phát ngấy, nếu cứ để yên. Còn Jane thì chẳng giống bọn ấy chút nào. Vào rạp là hai đứa liền cầm tay nhau, và để yên thế cho tới lúc hết phim. Với Jane, tôi chẳng bao giờ phải lo tay mình có rịn mồ hôi, có thô ráp không. Với nàng mọi thứ đều dễ chịu kinh khủng.

Tôi bỗng chợt nhớ một chuyện này nữa. Một lần, lúc xem phim. Jane đã có một cử chỉ khiến tôi vô cùng thích. Phim chiếu hômấy đâu như là một cuốn phim thời sự hoặc một cái gì đại để thế. Vậy mà bất chợt tôi bỗng thấy có ai đang xoa đầu mình. Ngoảnh lại - hoá ra Jane. Kỳ lạ thế đấy. Bởi lẽ nàng hãy còn nhỏ, mà phụ nữ thì thường chỉ xoa đầu người khác khi đã ngoài ba mươi, hoặc chỉ xoa đầu chồng, đầu con. Thỉnh thoảng, tôi cũng xoa đầu cô em gái nhưng cố nhiên là rất ít. Đằng này Jane hãy còn nhỏ, mà đã bất chợt xoa đầu bạn; cử chỉấy tôi cảm thấy đáng yêu quá, đến mức tưởng chừng như mê mẩn cả người!

Đấy, đó là hết thảy những gì tôi chợt nghĩ đến, lúc gieo người xuống chiếc xalông thổ tả dưới gian đại sảnh kia. Phải, tôi nghĩ về Jane. Hễ nghĩ đến chuyện nàng ngồi trong chiếc xe chết rấp với thằng mất dạy Stradlater là tôi chỉ muốn phát điên. Tôi biết nàng không đời nào lại để cho cái thằng khốn kiếp ấy giở trò, nhưng vẫn vô cùng bực bội. Nói thực, chứ cả chuyện buồn ấy, tôi cũng chẳng muốn nhớ nữa.

Dưới đại sảnh lúc này đã vắng. Thậm chí cả mấy ả tóc sẫm, trông như gái làm tiền, cũng đã cuốn xéo. Tôi bỗng muốn đi khỏi đấy ngay. Chán kinh người. Nhưng vẫn chưa thấy buồn ngủ. Thế là tôi liền trở lên phòng, choàng măng tô tử tế. Thử nhìn qua cửa sổ, xem bọn hoá rồ có còn phô bày tiếp những trò quái đản lúc nãy nữa không, nhưng đèn đóm phòng nào phòng nấy đều tắt ngấm. Tôi vào thang máy, xuống phố, gọi taxi, bảo chở tới Ernie - một hộp đêm ở Greenwich Villate. Đó là nơi anh D.B. thường lui tới hồi chưa mò sang Hollywood đánh ************** ngòi bút và từng dắt tôi tới đó một đôi bận. Ernie là tên một ông da đen hộ pháp, chơi dương cầm. Lão hách kinh khủng, và chẳng bao giờ thèm bắt chuyện nếu bạn không phải là một danh sĩ hoặc một yếu nhân; nhưng chơi đàn thì rất hay. Lão chơi khá đến mức lắm lúc bạn phải phát uất lên. Tôi không biết rõ đâu là ngọn nguồn của cảm giác đó, nhưng quả đúng như thế thật. Tôi rất thích nghe lão trình tấu, nhưng lắm lúc chỉ muốn lật úp chiếc đàn thổ tả của lão xuống cho nó nằm phơi bụng giữa sàn. Chắc vì lúc nghe lão chơi bạn vẫn không thể xua được cảm giác là lão hay lên mặt ta đây và chỉ bắt chuyện nếu bạn là một tay có vai vế.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Chiếc xe taxi cũ kỹ và nồng nặc một mùi tanh tưởi, như thể có ai đó vừa chui vào đấy ngốn ngấu bữa chiều xong. Tứ thời, tôi toàn vớ phải những chiếc taxi hôi hám, mỗi lúc có việc phải đi đâu khuya khoắt. Phố xá lúc này yên ắng nên vắng vẻ và càng quạnh hiu thêm. Không một bóng người, tuy rằng hôm nay là thứ bảy. Thỉnh thoảng mới gặp một đôi trai gái ôm nhau cất bước hoặc một tốp du đãng lê gót cùng với đám bồ tèo, vừa đi vừa cười hô hố như một lũ sói tham lam, tuy rằng chả chắc đã có gì đáng nực cười lắm. New York nói chung rất đáng ghét vào những lúc khuya khoắt và có tiếng cười hô hố của ai đó trong cảnh quạnh hiu. Đứng cách cả trăm dặm vẫn nghe rõ tiếng cười. Nên càng hiu hắt và quạnh quẽ. Tôi chẳng muốn gì hơn được bay ngay về nhà, tán gẫu với đứa em gái nhỏ. Nhưng rồi đành bắt chuyện với người lái xe. Tên lão là Horwitz. Lão dễ chịu hơn gã tài xế ban nãy. Thế nên tôi nghĩ bụng: chắc lão sẽ biết chút đỉnh về lũ vịt trời đằng công viên. Tôi bèn lên tiếng:

- Anh Horwitz, chắc thỉnh thoảng anh vẫn qua lại đằng mé hồ trong Công viên trung tâm? Cạnh cửa Nam ấy mà, anh nhớ chứ?

- Cái gì?

- Mé hồ nước. Cái hồ nhỏ, nơi người ta vẫn thả bầy vịt trời. Chắc anh biết cái hồấy?

- Biết. Nhưng sao kia?

- Anh có còn thấy lũ vịt trời dưới ấy không? Dạo mùa xuân và hè, chúng vẫn nhởn nhơ dưới đó. Chẳng biết mùa đông chúng sẽ đi đâu nhỉ?

- Ai đi đâu, hả?

- Lũ vịt trời! Chắc anh có nghe nói? Không biết người ta mang xe tới chở chúng hay chúng t ự bay về miền Nam.

Horwitz tức thì quay ngoắt lại, nhìn tôi. Trông cũng biết lão nóng tính kinh khủng, tuy rằng nhìn chung lão chẳng có gì đáng ghét lắm.

- Làm sao tôi biết đươc? - Lão nói - Mà biết làm cóc gì những chuyện vớ vẩn ấy cho mệt người?

- Thì thôi. Nhưng anh đừng bực mình. - Trông cũng biết lão đang cáu tiết.

- Ai bực mình, hả? Tôi thèm vào để tâm mấy cái chuyện bá láp của cậu!

Tôi nghĩ bụng: thôi, đừng trò chuyện nữa, một khi lão đã nóng tính đến thế.

Nhưng rồi chính lão lại mở mồm. Lão quay ngoắt lại, nói lớn:

- Cá chẳng phải đi đâu hết. Chúng vẫn ở lại dưới hồ. Sống ngay dưới hồ, cóc phải đi đâu.

- Cá thì nói làm gì. Tôi hỏi là hỏi lũ vịt kia!

- Thì khác gì nhau? Chẳng khác quái gì nhau hết - Horwitz đốp chát và nghe giọng, tôi biết lão đã nổi cáu thực sự - Trời ơi, thực ra, cá còn khốn đốn hơn vịt trong mùa đông. Cậu phải động não một chút chứ, quỉạ! Tôi nín thinh một lúc lâu. Mãi mới lại lên tiếng tiếp:

- Thôi được. Thế lũ cá sẽ xoay xở ra sao, khi nước hồ đóng cứng băng, đến mức người có thể chạy nhảy hoặc trượt băng trên ấy? Nghe tôi bảo thế, lão lại lập tức quay ngoắt xuống, nói như quát vào mặt tôi:

- Sao? Cậu hỏi lũ cá sẽ làm gì dưới ấy à? Chúng cứở yên dưới ấy, chứ còn biết làm gì nữa, trời đất!

- Chúng phải cảm thấy quanh chúng mọi thứ đếu đóng băng. Gì chứ chuyện đó chúng không thể không nhận thấy.

- Ai bảo cậu chúng không biết? - Horwitz hét lớn. Lão cáu tiết tới mức tôi sợ lão s ẽ lao thẳng xe vào cột đèn. - Chúng cứ việc sống trong băng, hiểu chưa? Trời sinh ra thế. Nên chúng cứ nằm yên một chỗ suốt mùa đông, ngay trong băng, hiểu chưa?

- Thật thế à? Thế chúng ăn gì? Nếu cứ bị giam trong băng, thì chúng sẽ làm thế nào mà bơi? Thức ăn đâu để sống?

- Cậu chẳng hiểu cóc gì cả, quỉ thần ạ! Cơ thể chúng tự nuôi chúng, hiểu ch ưa? Trong băng dưới hồ vẫn có các thứ rong rêu. Lỗ chân lông của chúng sẽ mở rộng, để qua đó, chúng hút thức ăn thức uống. Cậu hiểu chưa nào?

- Ừm. - Tôi không muốn tiếp tục cãi vã vì sợ lão sẽ húc chiếc xe thổ tả đang lái vào m ột của nợ gì đó thì khốn to. Với lại dễ cáu như lão thì có tranh luận cũng vô bổ. - Này, anh thấy sao? Ta ghé vào đâu đó, uống tí gì cho ấm bụng đi, được không? - tôi ướm hỏi lão.

Nhưng đến trả lời, lão cũng chẳng thèm nhếch mép. Chắc vẫn còn đang nghĩ tới lũ cá dưới hồ. Tôi nhắc lại lời đề nghị. Nói chung, lão còn khá hơn lão trước.

- Tôi không có thời giờ, anh bạn trẻạ! - Lão nói. - Vả lại, cậu bao tuổi? Sao giờ này còn chưa lên gi.ường đánh một giấc tới sáng mai?

- Tôi chưa buồn ngủ.

Lúc tôi xu ống xe trước Ernie, rút ví ra trả tiền, lão Horwitz còn bổ sung về lũ cá:

- Này, nếu cậu cũng là cá, chắc trời cũng chẳng bỏ mặc cậu đâu, đúng không? Đã thế sao cậu còn lo lũ cá sẽ chết cóng, mỗi khi đông tới.

- Không, chúng chẳng chết cóng, nhưng...

- Đúng! Nghĩa là chúng sẽ không bao giờ chết cóng! - Horwitz hét lớn thế rồi phóng xe đi tiếp, như một gã rồ. Người dễ cáu như lão, thực tôi chưa từng gặp bao giờ. Động mở miệng là gắt ỏm tỏi.

Khuya khoắt thế, nhưng Ernie vẫn còn chật như nêm. Khách chơi phần lớn đều là bọn đầu trộm đuôi cướp ở các trường trung học và cao đẳng các nơi. Trường nào cũng đều cho học trò nghỉ lễ sớm, trừ cái nơi thổ tả Pencey tôi đang học. Phòng giữ áo khoác chẳng còn một số nào dư cả vì khách đông nghịt. Nhưng rất trật tự bởi chính lão Ernie đang chơi piano. Lão ngồi hết sức uy nghiêm, như thể đang ngồi sau chiếc đại phong cầm giữa một thánh đường bề thế. Ánh mắt mọi người đều đổ dồn vào lão, như thể đang chiêm ngưỡng một bản thánh ca. Kỳ thực, theo tôi cóc có kẻ nào chiêm ngưỡng lão. Chứng cớ, cạnh tôi có mấy cặp thấp thỏm đứng chờ một chiếc bàn trống; bọn họ cứ xô đẩy nhau suốt, gã nào cũng nhón gót, nên trông tưởng như để cố nhìn lão Ernie chơi đàn. Trên đầu lão, người ta treo một chiếc gương rõ to. Lão còn được một ngòn đèn pha rọi thẳng vào, để ai nấy đều nhìn rõ mặt, lúc lão đang trình tấu.

Tôi không nhìn thấy hai tay lão lướt trên dãy phím thế nào, mà chỉ nhìn thấy thân người lão thôi. Khiếp, da lão cứ đen nhẫy như thịt nướng quá lửa! Tôi không biết lão đang tấu bài gì lúc mới bước chân vào tiệm, nhưng nghe giai điệu, tôi biết chắc lão đang tàn sát toàn bộ nền âm nhạc từng có xưa nay. Bởi lẽ lão cứ nện chí tử cả mười ngón tay ngu ngốc của mình xuống dãy phím bên âm vực cao, khiến dòng âm thanh phát ra méo mó cả đi đến mức tôi thấy bụng đau quặn, nhưăn phải những thứ thiu thối. Nhưng giá các bạn cũng được nghe những gì đám đông la hét lúc lão kết thúc. Chắc các bạn phải nôn thốc nôn tháo cả mật xanh mật vàng, phải mất trí ngay, chứ chả chơi. Thật hệt như lũ ngu ngốc lúc xem phim ấy, chúng cứ cười như nắc nẻở những chỗ chẳng có gì đáng cười. Thề có Chúa, tôi sẽ tự coi là kẻ bị sỉ nhục, nếu chơi đàn hoặc diễn kịch mà lại được lũ nỡm ấy tán thưởng. Tôi cần quái gì những tràng vỗ tay ấy khi toàn vang lên vào những chỗ chẳng đáng vỗ tay. Nếu là danh cầm, nhất định tôi sẽ khoá trái cửa, rồi ngồi chơi một mình trong phòng. Biểu diễn xong bản nhạc và được mọi người vỗ tay như điên dại, lão Ernie liền xoay ghế, đứng dậy, cúi chào đúng kiểu kép hát. Làm ra vẻ ta đây không những là một danh cầm, mà còn là một nghệ sĩ hết sức khiêm tốn. Nhất nhất đều ra vẻ vậy nhưng kỳ thực, tôi chưa từng thấy ai hách bằng lão. Tuy thế, chẳng hiểu sao tôi vẫn thấy lão rất đáng thương bởi chính lão cũng chẳng biết mình chơi dở hay chơi hay. Nhưng ngẫm cho cùng, lão chẳng có tội tình gì. Lỗi là ở cái bọn vô công rồi nghề vỗ tay tán thưởng lão, bọn chúng thì hễ h.ãm hại được ai là ra tay ngay, cóc cần biết hậu quả ra sao. Chứng kiến cảnh ấy, tôi lại thấy ngao ngán, bực dọc kinh khủng, chỉ muốn vớ lấy áo khoác trong phòng gửi rồi về ngay khách sạn cho xong. Nhưng khốn nỗi hãy còn sớm, và tôi lại chẳng muốn thui thủi một mình trong căn phòng đằng ấy.

Mãi họ mới thu xếp được cho tôi một chiếc bàn chết rấp, kê sát vách tường, khuất sau một chiếc cột rõ to nên chẳng còn thấy quái gì. Đã thế, kích thước nó lại quá nhỏ, chỉ ba góc chứ chẳng được vuông, và nếu muốn vào chỗ ngồi, thì đám kháchở bàn bên phải đứng cả dậy nhường lối, bạn mới len vào nổi. Mà đám khách chó chết kia thì đừng hòng chịu làm thế với những ai chậm chân. Tôi gọi một cốc Whitsky pha sôda - thứ thức uống tôi ưa thích nhất sau Daiquiris pha đá. Ở Ernie, bạn muốn gọi gì tuỳ thích, cho dù chỉ mới lên sáu, vì ở đó đèn đóm rất tù mù. Hơn nữa, cũng chẳng ai thèm bận tâm tuổi bạn bao nhiêu.Đến tụi nghiện xì ke, họ cũng chẳng thèm ngó ngàng, huống hồ chuyện tuổi tác.

Quanh tôi rặt một lũ mất dạy. Bên cái bàn nhỏ mé tay trái, tôi thấy một gã xấu xí đến phát khiếp chễm chệ cạnh một ả cũng xấu xí đến phát kinh. Chấc cả hai đều cùng tuổi tôi, mà cũng có thể lớn hơn. Nhìn chúng, ai cũng phải chết cười. Có mỗi cốc rượu mà cứ rề rà mãi, chẳng dám uống hết. Vì chẳng có việc gì làm, nên tôi thử nghe xem hai đứa trò chuyện những gì. Anh thì kể với ả một trận bóng vừa xem chiều nay. Kể tỉ mỉ, từng phút một, toàn bộ trận đấu. Diễn biến nghe tẻ đến mức tôi chưa từng thấy ai kể dở hơn thế. Trông cũng biết ả nọ chẳng chút bận tâm tới câu ch.uyện ấy nhưng ả xấu kinh khủng, thậm chí còn tởm hơn gã nọ, nên nếu không nghe kể thì cũng chẳng còn biết làm gì cho qua thời giờ. Làm con gái mà xấu xí thì thường vẫn khốn khổ thế đấy. Lắm lúc, tôi thấy tội nghiệp tới mức không thể đành lòng nhìn họ, nhất là lúc họ phải ngồi với một gãưa khoe mẽ, động mở miệng là lôi ngay chuyện bóng đá ngu ngốc ra.

Bên phải tôi còn thảm hại hơn. Thằng ngồi bên ấy là một gã công tử bột, học đằng Yale (một viện đại học nổi tiếng của Hoa Kỳ, từng đào tạo được nhiều học giả xuất sắc - ND), diện một bộ vettông xám bên ngoài chiếc gilê rất mốt. Đám con nhà dòng dõi quí phái trói gà không chặt bên ấy, gã nào trông cũng giống hệt nhau. Bố tôi cũng thích gửi tôi xuống ăn học dưới Yale Princeton. Nhưng tôi thề thà chết chứ không đời nào lại để cho ai lôi mình vào nhập bọn với lũ quí phái rởm bên đó. Thì các bạn cứ nhìn con bé đẹp tuyệt vời ngồi với gã quí phái nọ khắc biết. Đúng là một giai nhân. Nhưng cứ thử nghe câu chuyện giữa hai người xem! Một là cả anh lẫn ả đều đã ngà ngà. Hắn cứ luồn tay dưới gậm bàn sờ soạng cô gái suốt, trong khi miệng vẫn ba hoa đủ thứ về một thằng bạn học đã xơi gọn cả một vỉ Aspirine, nên suýt nữa thì đi đời. Còn cô gái cứ luôn mồm: "Trời, khiếp quá. Kìa anh, đừng thế... Em van anh... Có điều đừng thếở đây".Các bạn thử hình dung xem, người gì mà tay cứ làm trò khỉ, trong khi mồm vẫn thao thao bất tuyệt về một đứa bạn định tự vẫn! Thật đến chết cười!

Tôi ngồi chưa ấm chỗ đã thấy nẫu ruột vì buồn. Và chẳng biết làm gì hơn, tôi đành đánh bạn cùng cốc rượu với gói thuốc lá thơm. Nói của đáng tội, tôi có bảo cậu bồi bàn, tới hỏi đích thân Ernie, xem ông ta có vui lòng chạm cốc với tôi không. Tôi cũng dặn hắn nói hộ tôi là em ruột anh D.B. Nhưng tôi đoán: gã này chắc chẳng thèm chuyển giúp tôi lời mời ấy.Đám súc sinh đó thì có bao giờ làm được gì tử tế cho người khác đâu. Thình lình có một cô cất tiếng gọi lớn tên tôi:

- Holden Caulfield! - Cô ấy tên là Lilian Simmons. Trước, cô ấy là bồ của anh D.B. Khiếp, tôi chưa thấy ai có bộ ngực phổng phao đến mức ấy.

- Chào chị, - tôi nói. Dĩ nhiên, tôi cố đứng dậy, nhưng chật kinh khủng. Cùng đế n với cô ấy là một sĩ quan hàng hải, gã ưỡn hẳn ngực ra trước, như thể đang bị ai đó thọc vào chính giữa mông một chiếc que thông lò.

- Gặp lại cậu, tôi mừng quá! - Lilian Simmons nói. Ẳ nói dối, tôi biết. - Thế anh cậu hồi này thế nào? - Ẳ chẳng cần biết gì hơn ngoài cái điều vừa hỏi tôi xong.

- Vẫn khoẻ. Anh ấy đang ở bên Hollywood.

- Hollywood ư? Tuyệt nhỉ? Thế anh ấy đang làm gì bên ấy?

- Làm sao em biết được? Đang viết, chắc vậy. - tôi nói. Tôi không muốn ba hoa. Trông c ũng biết ả coi chuyện anh ấy sang Hollywood là một thành đạt lớn lao. Ai cũng nghĩ thế, nhất là những người chưa đọc văn chương của anh ấy bao giờ. Chuyện đó khiến tôi cáu tiết kinh khủng.

- Tuyệt nhỉ! - Lilian tiếp, rồi giới thiệu tôi với gã sĩ quan. Gã là đại uý Blop, hoặc một âm gì đại để thế. Gã thuộc loại người luôn sợ bị thiên hạ chê là bà già, nếu không bẻ gãy của bạn chừng bốn chục ngón khi bắt tay bạn. Trời, sao mà tôi ghét gã đến thế không biết! - Cậu ngồi một mình hả, cậu bé? - Lilian hỏi. Ẳ án ngữ mất lối đi, nhưng trông cũng biết ả chẳng thích có thêm ai khác vào ra. Anh chàng bồi bàn cứ đứng đực ra đó chờả nhường lối, nhưng ả chẳng buồn nhận thấy. Ngốc kinh khủng. Trông cũng biết anh bồi nọ chẳng ưa gì ả, cả viên sĩ quan chắc cũng thế, tuy rằng chính gã đã dắt ả tới đây. Tôi, tôi cũng chẳng ưa ả chút nào. Ẳ chẳng được ai cảm tình.

- Không đi cùng với cô bé nào cảư? Holden? - Ẳ hỏi tiếp.

Tôi đứng đã mỏi cả chân, thế nhưng ả vẫn chẳng thèm nhắc tôi ngồi. Loại nhưả có thể thừa sức bắt bạn đứng cả giờ để tiếp chuyện cùng. - Trông cậu ấy cũng đã ra dáng rồi đấy, anh nhỉ? - Ẳ quay sang phía gã sĩ quan hàng hải. - Holden, càng lớn. cậu trông càng xinh trai thêm!

Ẳ nói đến đó thì gã nọ liền bảo ả đứng tránh sang một bên, chứả choán hết lối đi.

- Lại đây ngồi với bọn này đi, - ả rủ. - Cầm cả cốc tới luôn thể, Holden nhé.

- Em sắp phải về rồi, - tôi đáp. - Em có hẹn.

Trông cũng biết ả muốn quấn lấy tôi, để moi thêm tin tức về anh D.B.

- Thôi được, quỉ con! Muốn tránh mặt chị chứ gì? Gặp anh ấy nhớ bảo chị rất ghét cái m ặt anh ấy, nhé.

Chưa dứt câu, ả đã quay ngoắt đi. Tôi với gã sĩ quan hàng hải thi nhau đấu hót: "Rất sung sướng được làm quen". Tôi toàn gặp chuyện nực cười. Luôn phải nói: "rất hân hạnh được làm quen với anh", khi chẳng thấy hân hạnh chút nào hết. Khốn nỗi, muốn được lòng thiên hạ bao giờ bạn cũng phải nói những chuyện rất bá láp mới ăn thua.

Tôi chỉ còn nước đứng dậy ra về, bởi vừa bảo với Lilian Simmons phải đến ngay chỗ hẹn. Có thể rốn lại để xem Ernie còn tấu thêm bài gì khá hơn chút đỉnh. Nhưng thà chết rầu còn hơn phải ngồi với ả Lillian Simmons cùng gã sĩ quan hàng hải kia? Thế nên tôi đứng dạy ra về. Nhưng ấm ức kinh khủng trong lúc chờ lấy áo khoác. Thói thường vẫn thế: bạn đang thích thì thế nào cũng bị thiên hạ báo đời!
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Tôi cuốc bộ về tận ngôi khách sạn thổ tả đang trọ. Qua những bốn mốt dãy phố, chứ đâu phải đùa! Tôi cuốc bộ, chẳng phải vì thích hóng mát, mà chỉ vì chán cái cảnh phải ngồi taxi. Lắm lúc bạn chẳng thiết đi taxi, thậm chí cả đến thang máy cũng thế. Bỗng dưng bạn muốn cuốc gộ hoặc leo thang gác, dù xa đến mấy hoặc cao đến mấy, mặc lòng. Hồi nhỏ, tôi thường leo bộ lên tận phòng mình. Tít trên tầng mười hai. Nhưng tôi thích thế. Tuồng như tuyết đã ngừng rơi từ lâu. Hè phố không còn một bông tuyết nào. Nhưng rét như cắt, nên tôi đành phải lôi chiếc mũ săn trong túi ra, chụp lên đầu, bất chấp diện mạo mình lúcấy ra sao. Thậm chí tôi còn phải kéo sụp cả hai cái tai che xuống. Chà, ước gì biết được thằng ôn nào đã thó mất đôi găng của tôi trên Pencey! Hai tay tôi đang tê cóng trong túi áo khoác. Nói thế chứ dẫu có biết đích xác đứa ăn cắp, tôi cũng chẳng biết dám làm gì. Tôi vốn nhát gan lắm. Không dám để lộ ra, nhưng tôi non gan. Chẳng hạn, nếu biết đích xác cái đứa thó đôi găng, tôi cũng chỉ dám đến bảo thằng bịp ấy câu này là cùng: "Này, trả tao đi!". Và nếu thằng bịp ấy đáp: "Găng nào?" bằng giọng bình thản, thì tôi cũng chỉ dám mở tủ, lục tìm đôi găng ấy. Còn nếu nó giấu trong ủng đi tuyết, mà tôi moi ra được, thì tôi cũng chỉ dám bảo: "Đôi này mà mày dám nói là của mày, hả?". Lúc đó, chắc thằng vịt ấy sẽ làm ra vẻ như trẻ mới đẻ, đáp rằng: "Tao chưa từng thấy đôi găng ấy bao giờ. Nếu đúng của mày, thì mày cứ việc lấy đi. Ngữấy, mày tưởng báu lắm hả?".

Còn tôi, chắc sẽ đứng đực trước mặt nó chừng năm phút. Giữ đôi găng trong tay, và cảm thấy phải quại cho nó vỡ mõm ra và chừa cái thói đó đi. Nhưng tôi không có gan làm. Chỉ đành đứng yên đó, cau mắt giận dữ. May lắm, tôi cũng chỉ dám mắng thẳng vào mặt nó một câu thật cay độc thay vì nện nó vỡ mặt. Nhưng nếu bị tôi mắng, mà thằng ấy lại đứng phắt dậy, tiến thẳng đến trước mặt tôi, quát to: "Này, Caulfield, mày vừa bảo tao là thằng ăn cắp hả?", thì thay vì mắng tiếp: 'Đúng đấy, tao bảo mày là thằng súc sinh đấy, thằng khốn!" - chắc tôi chỉ dám thốt lên: "Thì tao vừa tìm thấy đôi găng phải gió của tao trong ủng đi tuyết của mày là gì". Thằng bịp ấy lập tức hiểu ngay tôi không dám đánh nó, nên sẽ gân cổ lên quát: "Này, nói thật đi, mày đổ thừa tao là đồăn cắp, đúng không?". Lúc ấy, chắc tôi sẽ đấu dịu: "Chả ai gọi ai là đồăn cắp. Tao chỉ bảo: đôi găng của tao nằm trong ủng đi tuyết của mày thế thôi". Và cuộc đấu khẩu sẽ cứ thế mà tiếp diễn.

Rốt cục, chắc tôi đành bước ra khỏi phòng thằng bịp ấy, mà chẳng dám làm gì, chứ đừng nói tới chuyện quại nó vỡ quai hàm. Rồi chắc tôi sẽ lẻn vào phòng vệ sinh, hút vụng một điếu thuốc, vừa soi gương, thử ngắm gương mặt giận dữ của mình ra sao. Đại để tôi đã nghĩ thế suốt dọc đường về, cho tới lúc mò tới khách sạn mình trọ. Làm kẻ nhút nhát, tôi chẳng thích gì lắm. Có lẽ, tôi chưa hẳn đã là đứa như thế. Đúng sai thế nào, tôi chưa biết thật đích xác. Cũng có thể tôi chỉ nhát gan một phần, còn một phần nữa, tôi nhổ toẹt vào chuyện đôi găng mất hay còn. Đó là tật xấu nghiêm trọng nhất, tôi nhổ toẹt vào mọi thứ mình đã đánh mất. Tật ấy đã khiến mẹ tôi rất điên tiết ngay từ hồi còn ở nhà. Bởi lẽ những đứa trẻ khác có thể bỏ ra cả mấy ngày trời để tìm những thứ bị thất lạc. Còn tôi, quả thật tôi chưa bao giờ có một thứ gì đáng gọi là quí giá để đến nỗi phải tiếc rẻ, một khi đã đánh mất. Có lẽ vì thế nên tôi đâm ra non gan. Vả chăng, cũng không thể gọi thế là non gan, nếu phải quại vào mõm đứa nào đó mà bạn thì lại không muốn. Với tôi, thà cứ quẳng ai đó qua cửa sổ hoặc chém bay đầu hắn bằng rìu còn hơn là đấm vào giữa mặt hắn. Tôi chúa ghét chuyện trừng trị nhau bằng quả đấm, cho sướng tay. Thôi thì thà cứ để cho người ta đánh mình, tuy rằng chuyện đó chẳng thích chút nào, như các bạn biết đấy, tôi rất ngại chuyện đấm vào mặt kẻ khác, tôi sợ bộ mặt kẻ đó.

Tôi không thể nhìn thẳng vào mặt kẻ đó, khốn khổ thế đấy. Vì khi đã chịu nhìn vào mắt nhau, thì tức là đã chẳng ghét bỏ gì nhau nữa rồi. Một lối sợ đến là lạ đời, nếu ngẫm cho cùng, nhưng đã sợ thì dẫu sao cũng tức là nhát gan. Gì chứ chuyện đó tôi chẳng bao giờ nên dối mình, tôi biết.

Rồi càng nghĩ nhiều về chuyện đôi găng và thói nhút nhát, tôi càng thấy ngao ngán thêm, nên bụng bảo dạ phải ghé vào đâu đó tìm chút gì nhấm nháp cho khuây. Ở đằng Ernie tôi chỉ mới uống ba cốc, và lại, cốc thứ ba tôi còn chưa kịp uống nốt. Có thể nói chắc điều này, tửu lượng tôi rất khá. Tôi có thể uống suốt đêm mà đầu óc vẫn tỉnh, nhất là đang phấn chấn. Hồi còn đi học dưới Whooton, tôi với một đứa bạn, thằng Raymond Goldfarb, đã mua cả nửa lít Scotch, rồi lôi vào nhà nguyện thù tạc suốt cả buổi tối thứ bảy mà chẳng bị ai bắt gặp hết. Nó thì say lử cò bợ, nhưng tôi vẫn tỉnh như không. Chỉ thấy người lâng lâng và tay chân như nhẹ hẳn đi. Tôi đã nôn thốc nôn tháo lúc lên gi.ường đi nằm, nhưng đó là cố ý, chứ kể cố nhịn, chắc cũng chẳng làm sao.

Tóm lại, trên đường về khách sạn, tôi đã toan ghé vào một cái bar nào đó làm thêm vài ly, nhưng bỗng gặp hai người say bí tỉ từ trong đó bước ra, hỏi tôi ga tàu điện ngầm ở ngả nào. Một người, trông thì đích thị là dân Tây Ban Nha, cứ phả vào mặt tôi hơi rượu chua lòm trong lúc tôi chỉ đường cho ông ta. Thành thử tôi chẳng thèm ghé vào cái bar trời đánh đó nữa, mà cứ xăm xăm cuốc bộ về khách sạn.

Dưới đại sảnh không còn một bóng người. Ngự trị trong phòng chỉ có cái mùi tởm lợm của hơn năm chục triệu đầu thuốc xì gà hạng bét vứt đi. Khó ngửi kinh khủng. Tôi vẫn chưa thấy buồn ngủ nhưng mệt bã người. Tâm trạng chán ngán không biết để đâu cho hết. Chẳng thiết sống nữa. Đúng lúc ấy, tôi bỗng vướng phải một chuyện khó chịu kinh khủng. Tôi chưa kịp lách người vào thang máy, thì lão gác thang máy đã gọi giật lại:

- Này, muốn giải buồn chút không, anh bạn trẻ? Hẳn anh bạn tưởng khuya quá rồi chứ gì?

- Ông định nói gì? - Tôi hỏi lão, chẳng hiểu chút gì điều lão ám chỉ.

- Có thích được một thiếu nữ đầu ấp tay gối qua đêm không?

- Tôi ấy à? - Câu hỏi thật ngốc nghếch. Nhưng ai mà chẳng ngớ người ra thế, khi bị hỏi thẳng cái chuyện vớ vẩn ấy, như chuyện lão hỏi tôi.

- Cậu bao nhiêu tuổi rồi, cậu cả? - Lão bất chợt hỏi.

- Gì kia? - Tôi nói. - Hăm hai.

- Thế rồi kia à? Gật chứ? Chỉ chốc lát thôi, 5 " đô". Còn 15 " đô" thì suốt từ giờ tới sáng. 5 tờ - chốc lát - 15 tờ - suốt đêm. Lão nhắc lại.

- Được thôi. Về nguyên tắc, tôi chống lại những trò bẩn thỉu kiểu ấy. Nhưng tôi đang chán tới mức chẳng còn thiết để đầu óc phải bận tâm tới chuyện đó. Tai họa là ở chỗ: khi đã ngao ngán, thì đến nghĩ ngợi, bạn cũng chả muốn chút nào.

- Được là thế nào? Chốc lát hay suốt đêm?

- Chốc lát thôi.

- Xong ngay. Anh bạn trọ phòng nào đấy?

Tôi nhìn hàng chữ số đỏ chót chạm trên chuôi chìa khóa:

- Mười hai - hăm hai - Nói xong, tôi đâm ân hận ngay, vì đã để cho cơ sự xoay chuyển ra thế này. Nhưng hối thì đã muộn.

- Được, mười lăm phút nữa, cô ấy sẽ có mặt trên phòng anh. - Lão mở cửa thang máy cho tôi b ước vào trong. Nhưng tôi gọi giật lão lại liền.

- Này, khoan đã, cô ấy mặt mũi có kháu không hả? Tôi không cần bà già đâu đấy, hiểu chưa!

- Già là thế nào! Đừng lo, anh bạn trẻ!

- Thế tiền thì trả cho ai?

- Cô ấy, - lão đáp. - Thôi, lên phòng đi, cậu cả! - Rồi lão đập mạnh cửa thang máy ngay trước mũi tôi.

Tôi trở lên phòng, dấp nước lên tóc, nhưng tóc tôi cứng quá lông nhím, nên có chải mấy cũng chẳng chịu mượt cho. Rồi tôi thử hà hơi, xem mồm miệng có còn mùi thuốc lá với Whitsky pha soda đằng Ernie không. Tôi áp tay vào miệng, cho hơi thở bay lên mũi. Mùi rượu với thuốc lá chẳng còn mấy nữa, nhưng tôi vẫn cứ đánh răng. Rồi thay sơmi sạch vào cho tươm tất.

Tôi chẳng biết có cần phải sửa soạn mẽ ngoài không, mỗi khi đi chơi gái, nhưng dẫu sao cũng lăng xăng thế cho đỡ bồn chồn. Của đáng tội, tôi không hồi hộp lắm, nhưng dẫu sao vẫn cứ lo lo. Chẳng giấu gì các bạn, tôi đã mười sáu, nhưng vẫn trong trắng. Thật đấy. Đã bao lần, tôi cố tìm cơ hội để đánh mất sự trong trắng đó, nhưng chẳng ăn thua. Chẳng hạn, sợ bố mẹ con bé ấy về không đúng lúc, đúng hơn là sợ họ về đúng lúc. Còn nếu đang ngồi với một đứa khác đằng ghế sau xe hơi, thì ghế trước lại có một đứa khác, chốc chốc cứ ngoái lại xem hai đứa đằng sau đang làm gì. Tóm lại, cứ trắc trở hoài, không thế này thì thế nọ. Dẫu sao tôi cũng đã gặp hai dịp khá may mắn, suýt nữa thì đã thành công, nhất là cái lần mà tôi còn nhớ như in sau đây. Vẫn bị trắc trở, có điều tôi quên biến đi là bị cái gì cản mũi. Cái chính là khi sắp sửa hành sự, thì con bé thế nào cũng bảo bạn: "Đừng, anh", - nếu nó không phải là đứa ************** tính hoặc phường bán phấn buôn hương. Và khốn khổ cho tôi là bao giờ tôi cũng lập tức chấp thuận lời cầu xin đó. Với bọn con trai khác thì đừng hòng nhé, chúng cứ mặc tất! Nhưng tôi không nỡ lòng nào. Tôi đã ngoan ngoãn vâng theo. Và chẳng bao giờ biết rõ - con bé ấy không thích thực, hay nó chỉ sợ thế thội, hoặc cố ý bảo " đừng" để nếu cơ sự xảy đến thì người có lỗi là tôi, chứ chẳng phải nó. Tóm lại, tôi ngoan ngoãn vâng theo tức khắc, khi nó vừa mở miệng cầu khẩn. Cái chính là bao giờ tôi cũng thấy thương hại bọn con gái. Bọn chúng vốn rất ngốc nghếch, khổ thế đấy, chuyện đó chắc các bạn chẳng lạ. Hễ được hôn một cái là mụ đầu mụ óc đi ngay. Thì bạn cứ thử âu yếm một đứa mà xem thì khắc biết chúng ngốc đến mức nào: hễ được vuốt ve chút đỉnh là đã phát cuống phát cuồng, y như một con mụ dại! Tôi không biết chúng bảo " đừng" là vờ hay thực, nhưng bao giờ tôi cũng thôi ngay.

Rồi tíếc ngẩn tiếc ngơ, sau khi tiễn chúng về nhà, nhưng dẫu sao vẫn tiếp tục ngoan ngoãn nghe theo lời bọn chúng.

Như vậy là vừa thay áo, tôi vừa nghĩ: rốt cục, cơ hội rồi cũng đã tới tìm tôi. Tôi nghĩ, dẫu ả là gái giang hồ thì cũng chẳng sao vì đằng nào mình cũng phải học ít nhiều, biết đâu mai mốt mình lại chẳng lấy vợ? Chuyện đó lắm lúc khiến tôi thấy băn khoăn. Hồi còn học dưới Whooton, tôi có vớ được một cuốn sách mỏng nói về một gã rất trác táng nhưng rất sành điệu về khoản làm tình. Tên gã là Monsieur Blanchard, bây giờ tôi vẫn nhớ rất rõ. Cuốn sách rất đáng tởm, nhưng lão Blanchard ấy thì không sao cả. Lão có một lâu đài khá bề thếở Rivera, bên châu Âu, và những lúc rảnh rỗi lão chẳng còn biết làm gì ngoài chuyện dùng batoong nện hết bà này tới bà khác. Nhìn đại thể, lão rất can đảm này nọ, nhưng cũng rất hay đánh đàn bà, con gái đến quẫn trí. Trong sách có một đoạn lão nói về đàn bà. th.ân thể đàn bà, theo lời lão cũng như một chiếc violon, phải vào tay một nhạc sĩ điêu luyện mới khiến được nó réo rắt. Cuốn sách thổ tả đó nói chung rất dở, tôi biết, nhưng hình ảnh chiếc violon ấy thì chẳng lúc nào rời khỏi tâm trí tôi. Vì thế, tôi muốn tập sự chút đỉnh, để phòng ít nữa còn có cái đem ra thi thố lúc lập gia đình. Caulfield và chiếc violon thần kỳ, trời ạ! Đại để, tôi cũng là đứa rất lớ ngớ, nhưng chắc cũng chưa đến nỗi vứt đi. Thành ra tôi muốn mình thật sành sỏi trong bất cứ thứ gì động vào. Bằng không, khi gặp một đứa con gái, thực tình tôi vẫn chưa biết phải xoay sở thế nào với nó. Chẳng hạn, tôi đã phải chật vật cả tiếng đồng hồ với cô ả mà tôi sắp kể, cô ả tôi sắp ăn nằm tại khách sạn, mà vẫn chẳng đi đến đâu, cho tới lúc lão gác thang máy chết rấp ấy mò tới lôi ả đi. Cuối cùng, trước khi cuốn xéo đi, ả ta thiếu đường muốn nhổ toẹt nước bọt vào mặt tôi cho hả giận.

Trở lại chuyện tôi thay xong chiếc áo rồi đi đi lại lại trong phòng chờ cô gái giang hồ nọ mò lên. Tôi cứ khấn thầm suốt, cầu mong sao cho ả thật kháu khỉnh. Nhưng rồi lại bất chấp tuốt. Chỉ mong sao mọi chuyện sớm kết liễu cho rảnh nợ đi. Rốt cục rồi cũng có tiếng gõ cửa phòng. Tôi tiến vội ra mở cửa nhưng lại vấp phải chiếc vali nằm ngay giữa đường, suýt nữa thì gãy đời nó một cẳng. Số tôi thật hẩm, toàn chọn những lúc như thế để vấp ngã!

Tôi mở cửa thì thấy ả giang hồ nọ đã đứng đấy rồi. Đầu không mũ, người choàng một chiếc áo măng-tô thể thao, tóc sáng màu, nhưng chắc đó là tóc nhuộm. Và chẳng già lão chút nào hết.

- Xin chào! - Tôi dùng cái giọng đài các nhất mà mình có được chào ả ta.

- Anh là người Moris bảo tôi lên gặp? - Ẳ hỏi, chẳng lấy gì làm niềm nở.

- Ông giữ thang máy?

- Đúng, - ả đáp.

- Phải, chính tôi. Cô vào đi! - Giọng tôi rất ỡm ờ, nói có trời chứng giám!

Càng nói, càng ỡm ờ kinh khủng.

Ẳ tiến vào, cởi phăng áo măngtô, vất lên gi.ường. Trên người chỉ còn độc chiếc áo dài xanh. Ẳ gieo người đánh phịch xuống chiếc xalông kê sát bên bàn viết, và bắt đầu đung đưa một bên chân, lúc xuống, lúc lên. Có vẻ hồi hộp, chẳng giống chút nào với gái bán hoa. Chắc vì ả chỉ là gái mới lớn, quỉ thần ạ. Tuồng như còn ít tuổi hơn cả tôi. Tôi bèn ngồi xuống chiếc ghế lớn kế bên và, rút thuốc mời ả.

- Tôi không biết hút, - ả nói, giọng thanh kinh khủng. Nói khẽ nghe cũng rõ ràng. Ẳ thậm chí cũng chẳng thèm cảm ơn, khi tôi rộng rãi mời điếu thuốc thơm. Hẳn ả chưa được ai dạy về chuyện đó.

- Cho phép giới thiệu, - tôi nói, - tôi là Jim Stale.

- Anh hẳn có đồng hồ đấy chứ? - Ẳ nhổ toẹt vào chuyện tôi là Jim hay John - Anh bao tuổi, anh bạn?

- Tôi ấy à? Hăm hai.

- Nói dối nhé!

Câu ả nói khiến tôi sững sờ. Nghe như từ miệng một nữ sinh chính tông chứ chẳng phải từ miệng đám gái làm tiền trơ tráo: "Bịp đời, đồ quỉ đói!" hoặc: "Thôi đi, đừng phịa, ranh con!"

- Thế thì cô bao nhiêu? - Tôi hỏi.

- Anh muốn chừng nào, được chừng nấy! - ả đáp. Thậm chí mồm mép nữa là khác! - Anh có đồng hồ đấy không? - Ẳ hỏi, rồi đứng bật dậy, cởi nốt chiếc áo màu xanh nọ qua đầu, vứt bừa bên cạnh chiếc áo khoác.

Tôi phát ho ảng khi thấy ả cởi nốt chiếc áo cuối cùng. Tôi biết con trai đứa nào cũng phải thấy thèm muốn, nhột nhạt hoặc một cảm xúc gì đại để thế, khi được chứng kiến một thiếu nữ tốc áo, kéo ngược vạt qua đầu. Thế nhưng tôi chẳng hề có một cảm xúc nào loại đó trước cảnh tượng xảy ra kia. Trái lại tôi chỉ thấy bối rối và cụt hứng.

- Anh có đồng hồ đấy chứ?

- Không, không, tôi không mang theo. - Tôi đáp ngay. Trời, tôi thấy lúng túng kinh khủng! - Cô tên gì? - Tôi hỏi. Trên thân thểả chỉ còn trơ một chiếc áo lót cánh sen. Lúng túng kinh khủng.

- Sunny, - ả đáp nhanh. - Thôi, mau lên nào, để người ta còn đi làm ăn nữa...

- Thế cô không muốn trò truyện chút đỉnh trước khi vào cuộc? - Đến là trẻ nít, d ĩ nhiên. Nhưng khốn nỗi tôi cứ rối tung cả đầu. - Việc gì cô lại phải hấp tấp vậy? Ẳ nhìn tôi, như nhìn một gã hoá rồ.

- Nhưng biết nói chuyện gì bây giờ? - Ẳ hỏi.

- Tôi cũng chẳng biết nữa. Chỉ muốn trò chuyện chốc lát. Tôi nghĩ, chắc cô cũng thích vậy.

Ẳ lại gieo người xuống chiếc ghế bên bàn. Nhưng trông cũng biết ả chẳng thích thế. Lại đung đưa chân, đích thị là một cô ả nóng nảy.

- Chắc cô thích hút thuốc? - Tôi hỏi. Quên biến là ả vừa bảo không biết hút.

- Tôi có biết hút đâu. Này, nếu anh có chuyện cần nói, thì nói nhanh đi, tôi nghe đây. Chứ tôi ít thì giờ lắm.

Nhưng khốn nỗi tôi không còn biết nói gì hơn với ả. Tính tôi hỏi ả sao lại đi làm gái giang hồ; nhưng lại sợả khùng lên. Mà dù không nổi khùng, thì chắc gì ả đã chịu tâm sự.

- Cô hình như chẳng phải người New York? - Tôi chẳng còn nghĩ được chuyện gì thú vị hơn.

- Đúng, tôi quê tận Hollywood kia, ả nói. Rồi đứng dậy, bước lại gi.ường cạnh chỗ chiếc áo dài đang vứt chơ chỏng. - Anh còn chiếc mắc áo nào rảnh rỗi không nhỉ? Kẻo áo tôi lại nhàu nát mất bây giờ. Tôi vừa lấy đằng hiệu giặt là về xong.

- Có chứ, dĩ nhiên.

Tôi mừng quýnh bởi có việc để làm. Tôi cầm ngay chiếc áo lên lồng vào một cái mắc trong tủ. Kể cũng lạ, nhưng chẳng hiểu sao tôi bỗng thấy buồn quá khi treo giúp ả chiếc áo dài. Tôi hình dung cảnh ả ghé vào đó là gái ăn sương. Người bán áo chắc nghi ả là con gái nhà lành, đi mua sắm. Buồn kinh khủng, mà chẳng hiểu tại sao.

Rồi tôi lại ngồi xuống ghế, cố khơi chuyện. Nhưng gặp một cô gái nhưả, mời các bạn cứ thử trò chuyện?

- Tối nào cô cũng phải đi làm cả sao? - tôi hỏi tiếp, và thấy ngay câu vừa hỏi là thất sách.

- Ừm, - ả đáp giữa lúc đang đi tới đi lui trong phòng. Rồi ả cầm tờ thực đơn lên lẩm nhẩm đọc chơi.

- Thế ban ngày thì cô làm gì?

Ẳ nhún vai. Đôi vai gầy, ngọn hoắt.

- Ngủ. Đi xem chiếu bóng. - Ẳ đặt tờ thực đơn xuống, rồi ngước nhìn tôi -

Này, sao anh c ứ đà đận mãi vậy? Tôi chẳng có nhiều thời giờ để mà cà kê dê ngỗng với anh...

- Mong cô hiểu cho... Tôi cảm thấy hơi khó ở trong người. Suốt ngày hôm nay, tôi toàn v ướng phải chuyện rất dở. Nói có trời làm chứng. Nhưng tôi sẽ trang trải mọi thứ cho cô. Chỉ xin cô đừng bực mình, nếu ta không làm chuyện đó. Cô không bực mình chứ?

Khốn khổ cho tôi là tôi chẳng thấy tí chút hứng thú nào. Thực thà mà nói, tôi đang bị xâm chiếm bởi nỗi buồn bã, chứ chẳng phải sự thèm muốn. Ẳ khiến tôi buồn rầu rĩ. Nhất là lúc nhìn thấy chiếc áo dài màu xanh lục treo trong tủ. Vả lại, làm sao vui thú nổi với một kẻ suốt từ sáng tới tối cứ ngồi lì trong các rạp chiếu bóng ngu xuẩn và mê mải xem phim? Ai chẳng biết, chứ phải thú thực tôi là xin hàng đấy.

Ẳ bước tới và ngước nhìn tôi với ánh mắt kỳ dị, như thể không còn tin nổi mắt mình.

- Sao vậy, anh bạn? - Ẳ hỏi.

- Chả sao cả, - tôi đáp. Và tới lượt tôi phát hoảng. - Nhưng của đáng tội, tôi vừa mới mổ xong.

- Thế à? Thế anh có bị cắt mất thứ gì không, hả?

- Chính thế đấy - bị cắt mất một thứ gọi là clavicorde!

- Thật chứ? Thế thứ đó nó nằm ở đâu trong người?

- Cái clavicorde ấy à?Ồ, cô biết đấy, thứấy vốn nằm rất sâu, tận đáy tuỷ sống kia. Sâu lắm, cô biết đấy, tít trong tiểu não.

- Thế hả? Thế thì phiền thật! - Rồi thình lình ả ngả người, sà vào tôi. - Kể ra anh ngộ thật đấy! Tôi phát hoảng. Nên lại nói dối tràn lan.

- Tôi vẫn chưa bình phục hẳn, - tôi bảo.

- Anh trông giống một diễn viên điện ảnh quá đi mất. Anh biết chứ? Sao không nhớ à? Anh phải biết chứ, tên anh ta là gì ấy nhỉ anh chàng tài tửấy mới phải chứ nhỉ.

- Chịu, tôi không tài nào nhớ nổi. Thực tình, tôi gần như chẳng đi xem phim bao giờ... Nghe câu ấy, ả lập tức phá lên cười. Dáng điệu trông sỗ sàng hết chỗ nói.

- Thôi đi, tôi van cô. Tôi đang thấy mệt trong người. Tôi vừa bảo cô ấy: Tôi mới bị mổ.

Thế nhưng ả vẫn chẳng chịu đứng dậy, mà còn lườm tôi, hai mắt long lên sòng sọc.

- Này, nghe tôi bảo đây: tôi đã ngủ rồi, nhưng lão Moris quỉ sứ cứ một hai lôi tôi dậy, bắt đi. Nếu anh mà giở...

- Thì tôi đã bảo sẽ trả tiền sòng phẳng rồi còn gì! Tiền, tôi hiện còn cả đống, chứ có nghèo túng gì cho cam. Ác cái tôi vừa bị mổ, nên chưa lại sức hẳn.

- Đã thế sao còn mở mồm bảo lão Moris ngu ngốc là đang cần gái, hả? Nếu đã bị cắt mất cái của nọ gì đó... trong tuỷ sống... thì còn sai hắn đi kiếm làm gì?

- Tôi tưởng sức khoẻ sẽ khấm khá lên. Nào ngờ chỉ hy vọng hão huyền. Tôi nói tử tế đấy. Cô đừng giận. Bây giờ, cô làm ơn đứng dậy một phút! Nào...

Ẳ lồng lộn như con quỉ cái, nhưng rồi vẫn đứng dậy, để tôi chạy đi lấy chiếc ví, vất trong cái tủ đứng đằng góc phòng. Rồi tôi rút ví, lôi ra năm tờ, trao tận tay.

- Cảm ơn - tôi nói - Đa tạ, cô bạn.

- Sao đây có 5? Giá những 10 " đô" kia mà.

Trông cũng biết ả đang tính giở quẻ. Tôi đã lo từ ban nãy, biết tỏng thế nào rồi cũng gặp chuyện tương tự.

- Lão Moris bảo: chỉ 5 " đô" thôi. Lão nói: 15 - thì suốt đêm, còn chốc lát - chỉ 5 " đô" là cùng.

- Không, giá cả xưa nay vẫn là 10.

- Lão chỉ bảo 5 thôi. Nói cô bỏ quá, chứ tôi không thể nào đưa hơn cái mức đó. Ẳ lại nhún vai, nhưng lần này đầy vẻ khinh bỉ.

- Làm ơn lấy giúp tôi cái áo. Nếu anh không thấy quá vất vả, dĩ nhiên!

Một cô ả thật xấu. Nói năng thì thánh thót, mà hay cáu gắt kinh khủng. Giá là một mụ già phì nộn, mặt trát bự phần, chắc ả chẳng đến nỗi bẳn tính thế! Tôi lôi chiếc áo dài lụa ra. Ẳ thong thả mặc vào, rồi cầm nốt chiếc măng tô trên gi.ường.

- Thôi, anh bạn ngốc, tôi chuồn nhé!

- Đi nhé! - tôi nói. Tôi cũng chẳng buồn cảm ơn. Cũng may là tôi đã chẳng c ảm ơn...
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Ẳ vừa ra khỏi là tôi gieo ngay người xuống ghế, hút hai điếu thuốc liền. Mé ngoài cửa sổ, trời đã hửng sáng. Trời ơi, tôi thấy ngao ngán đến cùng cực... Đầu óc trống rỗng tới mức các bạn không thể hình dung. Thế là tôi bắt đầu trò chuyện thành tiếng với Allie, như vẫn thường làm thế mỗi khi thấy mình trống trải. Tôi bảo nó cứ dắt xe ra sẵn, đợi tôi đằng góc nhà thằng Bobby Fallon. Bobby Fallon là hàng xóm của tôi, hồi tôi còn ở dưới Maine. Số là có lần hai đứa trót hẹn nhau: đạp xe lên hồ Sedebego chơi còn định mang theo cả bữa sáng cùng hết thảy những thứ cần thiết, kể cả hai khẩu súng săn cỡ nhỏ của hai đứa. Vốn còn nhỏ, bọn tôi tưởng loại súng ấy cũng săn được chim muông như ai. Allie nghe lỏm được chuyện hai đứa tôi hò hẹn, nên bắt đầu nài nỉ xin đi theo bằng được, nhưng tôi khước từ. Tôi bảo, em hãy còn bé. Lúc này, khi tôi bị nỗi buồn xâm chiếm, tôi lại bảo nó: "Được, em cứ dắt xe ra sẵn, chờ anh trước nhà Bobby Fallon. Nhớ là đừng có lề mề đấy!"

Chẳng phải là tôi không bao giờ cho Allie đi theo. Ồ, không, tôi vẫn thường lôi nó đi cùng. Nhưng bữa đó, tôi lại không chịu đem nó theo trong chuyến phiêu lưu. Vậy mà Allie chẳng giận, nó có giận ai bao giờ! Nhưng chuyện đó cứ ám ảnh tôi suốt, nhất là những lúc buồn nản.

Mãi sau tôi mới thay quần áo ngủ, định đi nằm. Tôi nằm yên, nghĩ miên man một lúc lâu xem có nên cầu nguỵện chút đỉnh không? Nhưng rốt cục chẳng ăn nhằm gì cả. Tôi không thể cầu nguyện được, ngay cả khi rất muốn làm thế. Trước hết, tôi là đứa vô thần. Chúa Cơ đốc đại để tôi rất quí, nhưng lai chẳng ưa toàn bộ những đoạn kinh bổn rất chi là khó hiểu còn lại trong Kinh Thánh. Còn các đấng tông đồ chẳng hạn, lắm lúc họ khiến tôi bực kinh khủng. Dĩ nhiên, khi Chúa đã chết, kể ra họ cũng chẳng đến nỗi nào. Nhưng lúc Chúa còn sống thì họ chẳng giúp ích được gì hệt như một đám vô tích sự chính cống.Đã thế lại cứ chơi khăm Chúa hoài. Những gì khiến tôi chán nhất trong Kinh Thánh thì đó chính là các đấng tông đồ. Sau Chúa CơĐốc, người mà tôi thích nhất trong Kinh Thánh chính là cái ông gàn dở, chuyên sống trong hang và cứ toàn lấy đá nhọn rạch nát người để sám hối. Cái ông ngờ nghệch ấy, khiến tôi còn thích gấp trăm lần mười hai vị thánh tông đồ kia. Hồi còn học dưới Whooton, tôi cứ cãi nhau suốt với một thằng bạn ở cùng tầng, thằng Arthur Childs. Nó là tín đồ phái Quaker, nên cứ lẩm nhẩm đọc Kinh Thánh suốt hết ngày này sang ngày khác. Nó là đứa rất tử tế, tôi rất quý nó, nhưng tôi với nó chẳng bao giờ chịu nhau về Kinh Thánh, nhất là về các đấng tông đồ của Chúa Cứu Thế. Arthur cứ một hai với tôi rằng, nếu tôi đã không coi trọng các đấng tông đồấy, thì tức là cũng chẳng quí mến gì Chúa Cơ đốc. Nó bảo: một khi Chúa đã tự chọn ra thì có nghĩa là ta phải quí mến các đấng tông đồ. Nhưng tôi bảo, tôi biết là chính Chúa đã chọn họ, nhưng Ngài chọn chẳng qua chỉ vì tình cờ thôi. Tôi bảo nó, Chúa không có đủ thời giờ để suy xét cặn kẽ, nên tôi chẳng nỡ trách Chúa. Vị tất Ngài đã có lỗi, nếu Ngài không đủ thời giờ? Tôi nhớ có hỏi Arthur: ý cậu ra sao - Giu đa có phản Chúa không, có phải xuống hoả ngục sau lúc tự vẫn? Arthur bảo, dĩ nhiên. Tôi không đồng tình với nó chính là ở chỗ ấy. Tôi bảo, tớ dám đánh cuộc một ngàn dollar ăn một là Chúa Cơ đốc chẳng bao giờ nỡ đuổi cái ông Giu đa khốn khổấy xuống hoả ngục! Ngay cả bây giờ nữa, tôi cũng dám đánh cuộc từng đó, nếu trong túi tôi có đủ một ngàn. Những ông thánh tông đồ kia thì chắc sẽ đày Giu đa mà chẳng chút phân vân! chứ Chúa Cơ đốc thì không đời nào! Gì chứ chuyện đó tôi dám đưa đầu ra bảo đảm. Thằng Arthur bảo, tôi nghĩ thế vì tôi chẳng bao giờ đi lễ. Cũng đúng, mà cũng không. Quả tôi chẳng đi lễ bao giờ. Trước hết, vì bố mẹ tôi mỗi người theo một đạo, thành thử mấy anh chị em tôi, chẳng ai theo đạo nào. Thêm nữa, tôi chẳng đi lễ vì không chịu nổi mấy ông linh mục. Tại những trường tôi từng theo học, giọng ông linh mục nào cũng trơn như bôi mỡ, mỗi khi khởi sự giảng giáo lý, nghe đến là chướng tai. Tôi chẳng ghét gì bằng cái giọng trơn tru ấy. Tôi chẳng hiểu, sao họ không chịu dùng cái giọng mọi người vẫn nói, thế có phải dễ nghe không nào. Đằng này, cứ động mở miệng rao giảng là uốn a uốn éo đến phát lợm!

Tóm lại, khi tôi lên gi.ường đi ngủ, trí não tôi vẫn chẳng tài nào nhớ nổi một câu kinh. Tới lúc bắt đầu nhớ được một câu thì ngoài cửa đã nghe léo nhéo giọng Sunny, ả mắng mỏ tôi đủ điều, thậm chí còn gọi tôi là thằng nỡm. Rốt cục, tôi đành ngồi dậy, hút thêm điếu nữa và chờ xem. Chắc tôi đã đốt sạch gần hai gói thuốc kể từ lúc rời khỏi Pencey.

Rồi thình lình có tiếng gõ cửa, lúc tôi vừa ngả lưng xuống, rít điều thuốc mới châm lửa. Tôi hy vong kẻ nào đó gõ nhầm, nhưng chỉ một thoáng tôi đã hiểu ngay, kẻ đó là ai. Linh cảm tôi kể ra chẳng đến nỗi nào.

- Ai đó? - Tôi hỏi. Rồi đâm hoảng. Tôi vốn rất nhát gan với những vụ rắc rối kiểu này. Lại có tiếng gõ cửa. Có điều lần này to hơn. Tôi đành chồm dậy, và cứ mặc nguyên đồ ngủ, ra mở cửa. Chẳng cần phải bật đèn nữa vì trời đã sáng rõ từ lâu. Trước cửa lù lù hai bóng người: Sunny và Moris, lão giữ thang máy.

- Gì thế? - Tôi hỏi. - Các người cần gì? - Giọng tôi run run.

- Chuyện vặt thôi, - Lão Moris lên tiếng. Còn thiếu 5 " đô" nữa. - Lão nói thay cho cả Sunny, còn ả thì đứng đực ra đấy, miệng há hốc.

- Tôi đưa cho côấy rồi còn gì? Tôi đưa cô ấy đúng 5 tờ. Ông cứ hỏi cô ấy khắc biết. - Chà giọng tôi run mới khiếp chứ.

- Phải 10 "đô" kia, cậu cả. Tôi chả bảo cậu thế là gì? 10 " đô" - chốc lát, 15 "đô" - suốt đêm. Cậu lú lấp rồi, hả?

- Nói dối. Lúc nãy ông bảo chốc lát thì 5 dollar. Đúng, ông bảo suốt đêm mới 10, tôi nghe rõ ràng, còn hạch gì nữa...

- Xuỳ tiền ra đi, cậu cả!

- Tiền gì? Tim tôi đập loạn xạ, như muốn vọt ra khỏi lồng ngực. Phải chi tôi đã ăn mặc hẳn hoi. Đằng này trên người vẫn chỉ bộ quần áo ngủ mà gặp những chuyện như thế này thì bực thật.

- Thôi, xuỳ ngay đi cho được việc. Moris nói. Rồi ẩy mạnh tôi một cái, khiến tôi suýt ngã ngửa dưới sàn. Lão khoẻ khiếp, cái gã chó đẻấy. Và tôi còn chưa kịp ngoảnh lại, lão với cô ả nọ đã vào hẳn phòng. Dáng điệu ngang nhiên, cứ như đây là phòng họ. Sunny ngồi lên bậc cửa sổ. Còn Moris thì gieo người xuống ghế, mở phanh cúc áo cổ, lão đang diện bộ đồng phục của đám giữ thang máy, bó sát người. Trời, tôi tức quá đi mất.

- Thôi, xuỳ tiền ngay đi! Để tôi còn đi làm, kẻo trễ.

- Tôi đã bảo các người rồi: tôi chẳng nợ nần ai, dù một xu. Tôi đã trả cô ấy 5 đô tử tế.

- Câm mồm đi. Rồi để tiền lên bàn kia!

- Tại sao tôi lại phải trả thêm 5 dollar nữa? - Tôi nói. Giọng càng run. - Ông đị nh bịp tôi à?

Moris đã cởi nốt chiếc cúc áo chót cùng. Lão không mặc áo sơmi lót trong, nên phô hết cái bụng phệ đấy lông lá, khoẻ khoắn.

- Chẳng ai định bịp ai hết, - lão nói - Tiền đâu xuỳ ra, cậu cả, xuỳ ra!

- Tôi không đưa!

Tôi vừa dứt câu thì lão đã đứng dậy, đến bên tôi. Mặt lão có cái vẻ như thể đã mệt phờ người hoặc chán chường tới mức chỉ chực nôn thốc nôn tháo. Tôi hoảng quá, trời ạ. Tôi nhớ tôi đã phải bắt chéo hai tay trước ngực. Vì hoảng quá. Tệ nhất là tôi lại đang diện bộ quần áo ngủ trên người.

- Xuỳ ra đi, cậu cả! - Lão tiến tới sát bên tôi. Nhắc đi nhắc lại, độc một câu:

Xuỳ tiền ra đi, cậu cả! - Quân đê tiện diện đồng phục.

- Tôi không trả.

- Này, cậu buộc tôi phải xử tệ với cậu. Tuy tôi chẳng muốn hạ nhục cậu chút nào. Thế mà đành phải giở những trò như cậu vừa thấy. Cậu còn nợ bọn này 5 " đô".

- Tôi chẳng nợ nần ai hết. Ông mà động đến tôi, tôi sẽ gào tướng lên cho xem. Tôi s ẽ dựng cả khách sạn này dậy. Gọi cảnh sát, gọi cả thiên hạ tới! - Tôi nói cứng thế mà giọng vẫn run, như thể đang sốt cao.

- Thì cậu cứ gào đi! Gào cho thật to vào. Tuỳ thích! Nếu cậu muốn bố mẹ biết cậu ăn nằm suốt đêm với bọn gái làm tiền tuy vốn con nhà tử tế - Lão láu cá thật, gã chó đẻấy. Láu cá kinh khủng.

- Thôi để cho tôi yên! Phải chi ông nói cái giá 10 dollar ngay từ đầu thì đó lại là chuyện khác. Đằng này ông dám chắc với tôi...

- Sao, có đưa không thì bảo? - Lão dồn tôi vào sát bên cửa ra vào và dùng chính cái bụng phệ lông lá ấy ẩy tôi vào sát cửa.

- Đừng động đến tôi! Xéo ngay đi! - Tôi nói. Trong khi hai tay vẫn bắt chéo trước ngực, không nhúc nhích. Trời, đến con sâu, cái kiến chắc trông cũng chẳng thảm hại bằng. Thình lình, Sunny bỗng khai khẩu, tuy nãy giờ vẫn nín thinh:

- Moris này, tôi tìm cái ví nhé? Nó nằm kia kìa, ngay trên...

- Phải đấy, lấy đi!

- Đây rồi! - Sunny nói. Và huơ huơ trước mắt tôi tờ giấy bạc 5 dollar. - Thấy rõ r ồi chứ? Tôi chỉ lấy chỗ anh nợ, không hơn. Tôi chẳng thèm trấn lột ai bao giờ. Bọn này chẳng phải kẻ cướp! Thế là tôi oà khóc. Bởi tôi không muốn, mà cứ phải nhè thêm 5 đô.

- Chẳng phải kẻ cướp! Thế mà đi thó của người ta 5 dollar, các người rõ là quân...

- Câm ngay! - Moris quát, rồi ẩy mạnh tôi một cái.

- Mặc hắn đấy, Moris!- Sunny bảo. - Ta đã đòi được nợ rồi. Ra thôi. Nghe rõ chứ, ta về thôi!

- Ừ! - Moris đáp. Nhưng vẫn đứng đực ra đấy.

- Moris, anh điếc hả? Thôi, mặc xác hắn!

- Thì ai thèm động tới hắn? - Lão đáp bằng một giọng tỉnh bơ như không.

Nhưng rồi thình lình búng đánh bốp một cái vào chiếc áo ngủ của tôi. Không phải búng vào tôi, mà vào chiếc áo ngủ, nhưng tôi vẫn điếng người. Tôi mắng lão là đồ mất giống, quân chó đểu, bẩn thỉu.

- Mày bảo gì? - Lão hỏi. Rồi khum tay, đưa lên vành tai, như kẻ nghễnh ngãng. - Mày b ảo gì, hả? Tao là quân gì, nhắc lại xem. Tôi đứng yên đấy, gào to. Tôi đang điên, hắn làm tôi phải điên tiết.

- Phải, tao bảo mày là đồ mất giống, là quân chó đểu bẩn thỉu đấy. Đồ mất giống bẩn thỉu, đồ bịp bợm. Vài năm nữa rồi mày sẽ khánh kiệt, sẽ phải bị gậy đi ăn mày. Áo xống mày rồi sẽ xác xơ, người mày rồi sẽ hôi như cú, bẩn như chó đói...

Tức thì hắn cho tôi một quả thụi khủng khiếp! Tới mức tôi chưa kịp né đã cảm thấy bụng dưới đau điếng người.

Tôi không bất tỉnh, bởi lẽ từ dưới sàn nhìn lên tôi vẫn còn nhìn thấy hai đứa xăm xăm bước ra, rồi khép cửa lại tử tế. Mãi tôi vẫn không sao gượng dậy được, hệt như hômẩu đả với thằng Stradlater trên Pencey... Nhưng lần này tôi có cảm giác như mình đang sắp lìa đời. Thật đấy, tôi tưởng mình sắp ngộp thở, như đang chới với dưới nước, không tài nào hớp được lấy một hớp khí trời. Khi đã ngồi dậy được, lê vào phòng tắm, tôi không thể nào thẳng người lên nổi. Hai tay cứ phải ôm ghì lấy bụng dưới lúc đi.

Nhưng chắc tôi là kẻ bất bình thường. Phải, tôi có lẽ là thằng điên, các bạn ạ. Trên đường vào phòng tắm, tôi bỗng tưởng tượng mình bị ghim một phát đạn vào giữa bụng, tưởng tượng gã Moris ấy đã bắn tôi. Tỉnh lại, tôi lần vào buồng tắm, tợp một ngụm Whitsky rõ lớn để trấn an thần kinh cho có sức mà khởi sự hành động. Tôi hình dung mình rời phòng tắm sau lúc đã ăn mặc tử tế, súng ngắn trong tay, chân cẳng chỉ hơi run. Tôi lần xuống thang gác - thang máy tôi nhổ toẹt vào, dĩ nhiên, tay bám vào hàng lan can, trong khi máu chốc chốc lại trào ra nơi khoé mép. Tôi xuống thêm mấy tầng nữa, tay vẫn ôm chặt bụng dưới, còn máu vẫn nhỏ giọt dưới sàn, rồi lên tiếng gọi thang máy. Lúc Moris vừa mở cửa, hắn đã rú lên, giọng khiếp đảm và man dại, cầu xin tôi tha chết, bởi lẽ thấy ngay khẩu súng ngắn trong tay tôi. Nhưng tôi liền cho hắn biết tay. Sáu phát cả thảy, tất cả đều nhằm thẳng vào cái bụng phệ đầy lông lá của hắn! Rồi tôi quẳng khẩu súng vào góc buồng thang máy, dĩ nhiên là đã chùi sạch mọi dấu tay. Xong, tôi lại bò lên phòng mình, gọi điện cho Jane tới để băng bó giúp các vết thương đang rỉ máu. Tôi hình dung cả cảnh nàng giữ giúp tôi điếu thuốc để tôi rít vài hơi trong lúc máu vẫn chưa thể cầm. Điện ảnh kể đáng nguyền rủa thật! Nó xô đẩy người ta tới chỗấy đấy. Chính các bạn cũng biết... Tôi ngồi trong buồng tắm cả tiếng đồng hồ, ngâm mình trong nước chốc lát rồi mới trở về gi.ường. Mãi vẫn không chợp mắt được, tôi chẳng thấy nhọc mệt mấy, nhưng rốt cục rồi cũng ngủ thiếp đi. Tôi lại càng muốn tự vẫn hơn hồi sáng. Nhảy quách qua cửa sổ. Và chắc tôi đã nhảy thật, nếu tôi biết đích xác có ai đó sẽ tới kịp phủ lên người tôi một tấm chăn, khi tôi vừa ngã gục dưới kia. Tôi chẳng thích bị những kẻ ngốc tò mò dòm ngó cảnh mình nằm giữa vũng máu.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Tôi ngủ chẳng được mấy và hình như đã thức giấc lúc mới 10 giờ. Hút xong điếu thuốc, tôi cảm thấy đói bụng kinh khủng. Bữa ăn gần đây nhất, tôi chỉ nuốt vội có hai chiếc hamburger, và thấy như đã xa cách hàng nửa thế kỷ! Sẵn có máy điện thoại bên cạnh, tôi toan nhấc máy, gọi xuống dưới nhà, bảo dọn cho một bữa sáng tại phòng. Nhưng rồi lại sợ họ sai chính lão Morisấy bưng lên, nên tôi từ bỏ ý định đó ngay. Các bạn sẽ nhầm, nếu tưởng tôi ước ao tái ngộ với hắn. Tôi nằm yên một lúc nữa, hút thêm điếu thuốc thứ hai. Chỉ muốn gọi điện cho Jane, hỏi xem Jane đã về nghỉ lễ chưa, nhưng lòng chẳng phấn chấn mấy, nên lại từ bỏ ý định đó.

Nhưng rồi buồn quá, tôi đành nhấc máy, gọi cho Sally Hayes. Hồi này, Sally đang học trên trường nội trú Mary A Woodruff. Tôi biết chắc nó đã về nhà, vì mới nhận được thư nó cách đây chưa đến tuần lễ. Thực thà mà nói, tôi chẳng mê gì nó, nhưng vì đã quen biết nhau quá lâu, và lúc xưa, do ngờ nghệch, tôi cứ tưởng nó cũng thông minh. Tôi ngộ nhận thế chẳng qua chỉ vì Sally am hiểu sân khấu kinh khủng và nói chung cả văn chương nữa. Gặp một người uyên bác thế, bạn chẳng dễ gì biết ngay được họ thông minh hay ngu đần. Với Sally Hayes, tôi đã phải mất mấy năm trời mới rõ được chân tướng. Vả lại, chắc chẳng cần phải lâu đến thế mới biết nó ngốc nghếch, nếu hai đứa chẳng hôn nhau bao giờ, tuy đã quen biết nhau lâu đến thế. Khổ một nỗi là khi đã hôn đứa nào, bao giờ tôi cũng nghĩ là nó rất thông minh. Đó là hai chuyện chẳng hề dính dáng gì đến nhau, nhưng tôi vẫn bất chấp, cứ tưởng chúng phải liên can mật thiết lắm.

Tóm lại, tôi đã nhấc máy gọi điện cho Sally. Đầu tiên cô hầu phòng nhấc máy lên. Tiếp đến là ông bố. Mãi, tôi mới thấy nó lên tiếng trong ống nghe.

- Cậu đấy hả, Sally? - Tôi hỏi khẽ.

- Tớ đây, ai ở đầu dây thế? - Nó hỏi. Vờ vĩnh kinh khủng. Vì tôi đã xưng tên với ông bố hẳn hoi rồi.

- Holden Caulfield đây. Khoẻ chứ?

- A. Holden! Khoẻ, cảm ơn. Thế còn cậu?

- Rất tuyệt. Này, sống trên ấy dễ chịu chứ? Trường lớp thế nào?

- Cũng như mọi trường khác thôi, cậu thừa biết rồi đấy.

- Tuyệt. Tớ chỉ muốn hỏi, cậu có rỗi không? Hôm nay tuy là chủ nhật, nhưng chắc các rạp vẫn mở cửa đấy. Cậu có thích đi xem không?

- Ồ, thích chứ, lại còn phải hỏi! Tuyệt diệu thế còn đòi gì hơn!

"Tuyệt diệu!". Tôi ghét hai chữ đó! Nghe tầm thường hết chỗ nói! Tôi suýt bảo nó thôi đừng đi đâu nữa cho rồi. Nhưng lại vẫn tiếp tục tràng giang đại hải một lúc qua đường dây. Đúng hơn thì nó mới là đứa làm vậy, còn tôi, tôi nín thinh. Nó chẳng bao giờ để cho ai mở mồm. Mới đầu, nó kể chuyện một thằng đê tiện, bên Havard, chắc mới vào năm thứ nhất, (nhưng nó ỉm khoản đó đi, cố nhiên), tuồng như đang chạy ngược chạy xuôi, mong được lọt mắt xanh. Và gọi điện cho nó suốt cả đêm lẫn ngày. Đúng, cả đêm lẫn ngày, tôi suýt phá lên cười khi nghe câu ch.uyện ấy. Rồi nó kể tiếp chuyện một thằng nữa, hiện học bên West Point, cái trường võ bị danh tiếng. Gã này thì lúc nào cũng có thể tự thọc dao vào cổ họng, nếu không lấy được cô bạn lòng, khiếp thế đấy. Tôi dặn nó cứ chờ tôi bên cột đồng hồ, cạnh khách sạn Bilmore, lúc hai giờ. Vì các vở diễn suất ban ngày thường mở màn lúc hai rưỡi. Mà nó thì nhiễm phải cái tật quanh năm trễ hẹn. Rồi hai đứa tạm biệt nhau. Trò chuyện với nó khiến tôi thấy ngao ngán, nhưng nó là đứa xinh không thể tả.

Hẹn hò với Sally xong, tôi liền ngồi ngay dậy, thay quần áo, thu xếp vali và các thứ đồ đạc mang theo. Lúc ra khỏi phòng, tôi có thử nhìn vào khung cửa sổ, xem bọn động cỡn hiện đang làm gì bên ấy, nhưng bọn họ đã buông kín rèm. Ban ngày, bọn họ đều hoá thành những kẻ hết sức tử tế. Rồi tôi xuống phòng quản trị, thanh toán các khoản với gã gác cổng. Moris, may quá, chẳng thấy đâu. Tôi thì cũng chẳng hơi đâu tìm gặp, để từ giã cái gã đê tiện ấy.

Tôi vẫy taxi ngay trước cửa khách sạn, nhưng hoàn toàn chẳng biết đi đâu. Hoá ra chẳng còn chốn nào để ghé tới lúc này. Hôm nay, chỉ mới chủ nhật, mà tôi thì không thể vác mặt về nhà trước thứ tư, hoặc cùng lắm là trước tối thứ ba. Trọở khách sạn khác? Thôi, chuyện đó, tôi xin đủ, bởi chẳng muốn vỡ sọở đấng ấy, nên đành bảo ông tài xế cho tới ga trung tâm. Nhà ga vốn kế bên khách sạn Bilmore, nơi tôi hẹn gặp Sally - cứ đến đó là hay nhất. Tôi sẽ đem gửi hành trang vào phòng gửi hành lý, giữ lấy chìa khoá, rồi đi tìm món gì đó điểm tâm vì bụng đang đói cồn cào. Ngồi trên taxi, tôi thử rút ví, kiểm xem tiền còn nhiều ít. Tôi cũng chẳng nhớ mình có được bao nhiêu trước lúc từ giã Pencey nhưng thừa biết chẳng lấy gì làm phong lưu. Nội trong hai tuần mà tôi đã tiêu mất vô khối tiền. Tính tôi vẫn coi tiền như rác. Nếu không vung tay quá trán, thì cũng đánh mất lung tung. Lắm khi tôi quên cả việc lấy tiền thối lại trong các nhà hàng hoặc các tiệm rượu. Bố mẹ tôi thường điên đầu với tôi về thóiấy. Tôi hiểu lòng bố mẹ, nên chẳng chút phàn nàn. Tuy bố tôi khá dư dả, nhưng tôi chẳng biết đích xác các khoản thu nhập hàng tháng của ông là bao nhiêu. Tứ thời bố toàn tung tiền vào các vở diễn này nọ đằng Broadway do bố dàn dựng. Đã kể cũng nên kể hết, là những lần đó phần nhiều đổ bể, và hễ bố tôi dính tới chuyện đó là mẹ tôi liền nổi trận lôi đình. Nhưng rồi mẹ cũng đã đầu hàng, sau ngày gia đình mất Allie. Cũng chính vì chuyện đó mà tôi rất ngại báo cho mẹ biết tôi lại bị đuổi học chuyến nữa.

Tôi gửi hai chiếc vali vào phòng gửi hành lý, rồi ghé vào một cửa hiệu ngay trong khuôn viên nhà ga, điểm tâm. Tôi ăn khá nhiều: nước cam, trứng tráng, bánh mì rán và cả cà phê. Thường tôi chỉ lót dạ một ly nước quả ép. Tôi ăn rất ít, ít lạ lùng. Vì thế nên gầy. Mấy ông thầy thuốc dặn phải tọng thật nhiều các thứ bổ béo, cho chóng lên cân, nhưng tôi chẳng ham. Vào những dịp đi đây đi đó, tôi thường chỉăn một mẩu xăng đuých kẹp phó mát Thuỵ Sĩ, rồi uống một cốc sữa chua, thế là xong. Ăn vậy, tôi biết là đạm bạc quá, nhưng sữa vốn lắm vitamine.

Tôi đang ăn trứng tráng thì có hai nữ tu sĩ, tay vali tay túi xách đi vào, chắc họ chuyển tu viện và đang đợi tàu. Họ ngồi xuống sau quầy, kế bên chỗ tôi. Họ chẳng biết đặt hành lý vào đâu cả, nên tôi bèn đứng ngay dậy giúp họ. Vali của họ đều là loại rẻ tiền, xấu xí, chẳng phải bằng da thật, mà chỉ là những thứ chả ra sao. Tôi thừa biết chuyện đó chẳng hệ trọng gì, nhưng tôi không thể chịu nổi khi nhìn thứ vali cà khổ đó. Nói ra thì ngượng, nhưng tôi rất khó chịu mỗi lần trông thấy ai đó tay mang xách những loại vali rẻ tiền kia. Tôi bất giác nhớ tới một chuyện, từ hồi còn học dưới Elkton Hill. Dạo đó, tôi sống cùng phòng với một đứa, tên nó là Dick Slagle, cũng có mấy chiếc vali cà khổ như thế. Nó luôn nhét mấy chiếc vali ấy xuống gậm gi.ường chứ chẳng chịu để lên giá, để đừng ai trông thấy chúng bên cạnh mấy chiếc vali bảnh bao của tôi. Chuyện đó khiến tôi áy náy tới mức sẵn lòng quẳng hết cả mấy cái của tôi hoặc thậm chí đổi ngang cho nó, để nó đỡ tủi. Mấy chiếc của tôi là loại mua đằng cửa hiệu Mark Cross tử tế, bằng da thật, trong ngoài chẳng thiếu một bộ phận nào, và giá có trời biết là bao nhiêu. Nhưng điều kỳ lạ chẳng phải chuyện đó, mà là chuyện thằng Dick Slagle gàn dở. Khi tôi vất vả lôi vali mình, tống xuống gậm gi.ường cho thằng bạn đỡ tủi bởi những mặc cảm ngu ngốc về gia cảnh khốn quẫn, thì nó, lại lôi mấy chiếc vali thổ tả của cha nó ra, rồi để lên trên giá, cạnh chỗ tôi vừa lấy xuống xong. Tới lúc đó tôi mới hiểu nó làm thế để làm gì? Ra nó muốn ai nấy tưởng đó là những chiếc vali của chính nó! Đúng, đúng như thế đấy. Các bạn thấy có kỳ quặc không? Nó cứ chế giễu mấy chiếc vali của tôi suốt, nào là quá mới, nào là quá trưởng giả. Đó là mấy chữ nó thích nhất trần đời. Chẳng biết nó học lỏm được ở đâu, tôi đến chịu thua. Cái gì của tôi cũng bị nó gọi là "trưởng giả" tất. Thậm chí cả đến chiếc bút máy nữa. Thế nhưng nó vẫn mượn luôn tuy rằng vẫn luôn mồm chê bai. Tôi chỉở chung với nó đúng hai tháng. Rồi cả hai đều đâm đơn xin ban giám hiệu tách ra. Và buồn cười nhất là khi xa nhau rồi, tôi lại thấy thiếu nó kinh khủng. Vì nó ăn đứt tụi ở đây về tài châm biếm, và hai đứa đã có những giờ phút vui đùa thoả thích bên nhau. Tôi nghĩ, vắng tôi chắc nó cũng vậy. Hồi mới xa nhau, nó toàn chọc tức tôi, gọi những đồ dùng của tôi là trưởng giả, nhưng tôi mặc kệ, thậm chí còn về hùa với nó nữa. Nhưng ít lâu sau, tôi thấy nó chẳng đùa bỡn bao giờ. Chung qui chỉ vì khó chung sống với một kẻ mà vali anh to hơn hẳn vali nó, và anh thì có những chiếc vali hảo hạng, còn nó lại không. Chắc các bạn sẽ bảo, nếu có đầu óc và có khiếu châm biếm, thì phải nhổ toẹt vào những chuyện vớ vẩn ấy chứ. Chính vì lẽ đó mà tôi đã dọn sang ở với một đứa súc sinh ngu độn, với thằng Stradlater. Dẫu thế nào chăng nữa, thì vali nó cũng chẳng kém vali tôi nhiều lắm.

Tôi trở lại với chuyện hai cô tu sĩ, họ ngồi xuống bên cạnh và chúng tôi bắt đầu trò chuyện linh tinh. Cô ngồi gần tôi hơn cầm trên tay một cái giỏ đan, thứ giỏ mà các nữ tu sĩ và tụi con gái thuộc Giáo đoàn Cứu rỗi vẫn thường cầm đi quyên tiền vào dịp Giáng Sinh hoặc các ngày lễ lớn. Tứ thời, họ toàn đứng ở những góc đường dọc Đại lộ số 5, hoặc các cửa hiệu tạp hoá cực sang. Khi cô bất chợt đánh rơi, tôi vội cúi xuống nhặt giúp. Rồi hỏi: hẳn họ đi quyên tiền để lo quà cáp cho dịp Noel nay mai. Nhưng nữ tu sĩ đáp, không phải. Chẳng qua chỉ vì vali họ chật quá, hết cả chỗ cất nên phải để ngoài. Cô ta niềm nở, ngước nhìn và cười mỉm rất tươi. Mũi cao, đeo chiếc kính cận gọng sắt, tuy cô không xinh lắm, nhưng gương mặt phúc hậu.

- Tôi t ưởng nếu các chị đi quyên tiền, tôi có thể đóng góp chút đỉnh, - tôi nói. - Đây, xin cô nhận giúp, rồi lúc nào phải quyên tiền thì bỏ vào giỏ sau.

- Ôi, cậu tử tế quá! - Cô đeo kính nói. Cô bạn kia cũng ngước mắt nhìn. Cô ta đang uống cà phê, nhẩm đọc một cuốn sách khổ nhỏ, từa tựa Kinh Thánh tuy có hơi mỏng. Nhưng chắc cũng là một quyển kinh. Bữa điểm tâm của họ chỉ tách cà phê với mấy lát bánh mì suông. Tôi thấy rất ái ngại cho họ nên đâm căm ghét đĩa trứng tráng với các thức ăn khác, khi người ngồi cạnh chỉ dám lót dạ có vậy.

Họ cầm tờ mười dollar tôi quyên. Nhưng cứ hỏi đi hỏi lại, liệu tôi có đủ tiền để chi tiêu các thứ không. Tôi bảo vẫn còn ít nhiều trong túi, nhưng họ không tin lắm. Tuy thế, vẫn cứ giữ tờ giấy bạc trên tay. Rồi cả hai thi nhau cảm ơn tôi, đến mức tôi đâm ngượng vì thấy mình đâm ra quá hào phóng. Tôi chuyển đề tài câu, hỏi họ định đi đâu. Họ là giáo viên, vừa từ trên Chicago xuống và đang tính tìm chỗ làm tại một trường nội trú, nằm đâu như trên đường Một trăm sáu tám hay gì đó, đại để là một xó xỉnh phải gió nào đó ở tận đầu đằng kia New York. Cô ngồi cạnh, đeo kính, hoá ra là giáo viên tiếng Anh, còn cô kia chuyên dạy sử và hiến pháp Hoa Kỳ. Vì thế, tôi đâm tò mò, chẳng hiểu sao một cô giáo dạy Anh ngữ lại bỏ đi tu, và đã vậy thì có còn được phép thưởng thức các tác phẩm trong văn chương Anh nữa không. Những cuốn thô lỗ thì chẳng nói làm gì. Nhưng những cuốn tỏ tình, tả về các đôi trai gái đắm đuối yêu nhau, hoặc đại để thế, thì sao? Như nàng Eustacia Vye trong The Return of the Native của Thomas Hardy chẳng hạn. Lòng họ cố nhiên chẳng còn bợn một h.am m.uốn nào mãnh liệt nữa, nhưng dẫu sao tôi cũng muốn biết một nữ tu sĩ nghĩ gì khi đọc những trang diễm tình về cô thiếu nữ đa cảm Eustacia. Tuy thế, tôi vẫn chẳng dám hỏi gì, dĩ nhiên. Mà chỉ nói: trong các môn, tôi học trội nhất là Anh ngữ.

- Ồ, thế hả? Tuyệt quá! - cô giáo viên Anh ngữ, reo lên - Thế năm vừa rồi cậu đã đọc được những cuốn nào? Ước gì được cậu tâm sự vài điều nhân gặp gỡ hôm nay. Quả là một thiếu nữ nhân hậu, niềm nở.

- Thực tình, chỉ có các nhà văn Anh , Mỹ là nhiều. Đại để như Bewulf, rồi Randal, con ta, với lại... nghĩa là vớ được gì đọc nấy. Nhưng phần lớn là những thứ thường bắt đọc thêm để cho điểm riêng - điểm ngoại khoá. Năm rồi, tôi có đọc thêm The Return of the Native của Thomas Hardy, Romeo và Juliet, Julius Cesa...

- Ồ, cả Romeo và Juliet nữa! Tuyệt! Hẳn cậu thích lắm? - Câuấy cô ta nói bằng cái giọng chẳng có vẻ nữ tu sĩ chút nào.

- Vâng, tôi rất thích. Có đôi chỗ tôi chẳng thích mấy, nhưng trên đại thể rất xúc động.

Nói th ực, tôi rất bối rối khi phải bàn luận về Romeo và Juliet với một nữ tu sĩ. Vì vở kịch đó toàn nói về chuyện yêu đương và những thứ gần như là vậy. Nhưng vì cô ấy đã hỏi, nên tôi vẫn phải trả lời, tuy cô ấy là tu sĩ.

- Cô biết đấy, tôi không thích Romeo và Juliet lắm, nghĩa là tôi chẳng mê họ.

Tại sao ư?... Cũng chẳng biết! Thậm chí có lúc tôi còn bực nữa là khác. Tôi muốn nói, - tôi xúc động hơn khi Mercutio bị giết, tôi thương họ hơn là thương hai nhân vật kia. Cô hiểu đấy, tôi hết thấy xót anh chàng Romeo ấy, sau lúc Mercutio tội nghiệp bị đâm chết. Vì kẻ đâm vào ngực chàng trai đó chính là anh họ cô Juliet, tên gã đó là gì tôi quên mất rồi...

- Tybalt.

- Đúng, Tybalt. Chẳng hiểu sao tôi cứ quên mất. Nhưng Romeo mới là người có lỗi. Nên người tôi thích hơn cả chính là chàng trai ấy, Mercutio. Người của hai dòng họ Montague và Capulet, dĩ nhiên, tôi chẳng có cảm tình, ngoại trừ Juliet, nhưng Mercutio thì... không, tôi chịu chết, không thể cắt nghĩa tại sao cả. Chắc vì anh ấy thông minh, vui tính. Cô biết đấy, tôi rất ức khi thấy người ta giết chết như vậy hơn nữa họ lại chẳng hề có tội tình gì. Còn Romeo và Juliet lại là chuyện khác, vì chính họ có lỗi.

- Cậu học trường nào thế, anh bạn? - Cô đeo kính hỏi, chắc thấy chán những điều tôi nói về vở kịch của Shakespeare.

Tôi đáp - trường Pencey. Hoá ra cô ấy biết tiếng cái trường thổ tả này và bảo đó là nơi rất danh tiếng. Tôi nín thinh. Đúng lúc ấy thì cô dạy sử và hiến pháp chen vào, - đã đến lúc phải lên đường. Tôi giành lấy hai tấm phiếu ghi tiền, nhưng họ nhất định không chịu để tôi trả thay hai tách cà phê với đĩa bánh. Cô đeo kính nhanh nhẹn giằng lấy tấm phiếu từ tay tôi:

- Cậu đã quá hào phóng với chúng tôi rồi. Cậu quả là một cậu bé đáng mến.

Chính cô ấy mới đáng mến. Rất giống mẹ thằng Ernest Morrow tôi gặp trên chuyến tàu đêm. Nhất là lúc mỉm cười - Trò chuyện với cậu thật lý thú, - cô ấy tiếp.

Tôi bảo tôi rất lấy làm thích thú được tiếp chuyện cùng họ. Tôi nói rất thực bụng. Nhưng chắc hẳn sẽ thấy thú vị hơn, nếu không nơm nớp sợ họ bất chợt hỏi tôi có theo công giáo nào không. Tín đồ công giáo nào thường bao giờ cũng cố dò hỏi điều đó. Tôi hay gặp chuyện đó lắm, chủ yếu vì cái họ tôi vốn gốc Ái Nhĩ Lan; mà phàm đã là dân Ái Nhĩ Lan thì ai cũng đều là tín đồ công giáo. Bố tôi trước cũng là người công giáo. Đến lúc lấy mẹ, bố mới bỏ đạo cũ đi. Những người công giáo bao giờ cũng thích dò hỏi bạn có phải là tín đồ cùng dòng đạo, ngay cả khi họ chưa hay biết gì họ tên bạn. Hồi còn học dưới Whooton độ trước, tôi có quen thằng bạn cùng lớp theo đạo, thằng Louis Gorman. Nó là đứa tôi biết trước tiên. Tôi nói với nó tình cờ đã ngồi cùng dãy hôm đến khám sức khỏe, việc đầu tiên trước ngày nhập học, và hai đứa thủ thỉ trò chuyện về quần vợt, trong lúc chờ bác sĩ gọi vào. Nó mê quần vợt kinh người, y hệt tôi. Nó khoe với tôi, hè nào nó cũng thi đấu trên những sân cỏở Forest Hill. Còn tôi bảo nó cũng đã từng lên đó. Rồi hai đứa bắt đầu bàn nhau xem ai là cây vợt hay nhất mùa thi đấu vừa qua. Tuy còn ít tuổi, nhưng nó đã sành sỏi về quần vợt kinh người và thật sự say mê quả bóng nỉ. Rồi giữa chừng câu chuyện, nó bất chợt hỏi: "Mày có biết nhà thờ công giáo thành phố nằm ở ngả nào không?". Tôi thừa biết nó muốn hỏi dò, tôi có phải là tín đồ công giáo không? Nó chỉ muốn biết thế, chứ chẳng phải thích người theo công giáo hơn các giáo phái khác. Nó vẫn say sưa trò chuyện về quần vợt, nhưng tôi đoán biết câu chuyện về quả bóng nỉ sẽ khiến nó thích thú hơn, nếu biết đích xác tôi cũng cùng đạo với nó. Những khoản đó chỉ khiến tôi thêm bực mình. Tuy chẳng nói ra mồm, nhưng điều đó đã khiến toàn bộ câu chuyện giữa hai đứa đâm nhạt nhẽo hẳn: cả tôi lẫn nó đều cụt hứng, mặc dầu vẫn tiếp tục câu chuyện bỏ dở. Bởi vậy, tôi rất mừng là hai cô tu sĩ nọ không đả động gì tới chuyện tôi có phải là tín đồ công giáo không. Câu hỏi ấy chắc cũng chẳng khiến cuộc trò chuyện giữa ba chúng tôi kém mặn mà đâu, nhưng dẫu thế nào chăng nữa tình thế chắc cũng đổi khác. Tôi chẳng trách cứ gì người công giáo cả. Ví thử tôi là người như vậy, có lẽ tôi cũng sẽ hỏi chính câu kia. Chuyện này, đại để cũng rất giống chuyện mấy chiếc vali tôi vừa kể xong. Điều tôi muốn nói ở đây chung qui là: những thứ đó thường chỉ khiến cuộc trò chuyện kém lí thú. Có vậy thôi, chứ chẳng ngụ ý gì.

Lúc hai cô tu sĩ đứng dậy, thình lình tôi đã phạm phải một chuyện ngu ngốc và khó xử kinh người. Vì đang hút thuốc, nên lúc đứng dậy từ biệt, chẳng may tôi đã phả khói vào giữa mặt hai cô bạn mới mà hoàn toàn chẳng chủ tâm. Tôi rối rít xin lỗi họ như một thằng rồ. Họ lịch sự và khoan dung bỏ qua cái cử chỉ khiếm nhã ấy của tôi, nhưng dẫu sao vẫn hết sức bối rối.

Lúc họ đã đi hẳn, tôi đâm hối là chỉ quyên cho họ có 10 dollar. Nhưng thực tình, tôi không thể hào phóng hơn, vì đã trót hẹn với Sally Hayes đi xem kịch, nên không thể tiêu hết chỗ tiền còn lại trong ví. Dẫu sao tôi cũng thấy buồn. Chính vì ba đồng tiền chết giẫm ấy mà chẳng bao giờ thấy vui.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Ăn xong bữa sáng thì đã gần 12 giờ trưa, nhưng đến hai giờ mới gặp Sally nên tôi quyết định đi dạo. Hình ảnh hai cô tu sĩ vẫn ámảnh. Tôi nhớ hoài cái giỏ đan cũ kỹ mà họ dùng để quyên tiền, khi họ không kiếm được việc làm. Tôi cố hình dung mẹ tôi hoặc một ai đó trong số người quen, cô tôi hay như cái bà khinh khỉnh, mẹ của Sally Hayes đứng gần cửa hàng bách hóa tổng hợp quyên tiền cho người nghèo khổ rồi nhét vào những cái giỏ mây đan đã sờn kia. Thậm chí ngay cả hình dung cũng khó. Mẹ tôi còn tưởng tượng ra nổi, chứ hai bà kia thì đừng hòng. Mặc dù, cô tôi cũng làm nhiều việc từ thiện ra phết, tỉ như cho Hội chữ thập đỏ, nhưng bao giờ cô cũng mặc rất chỉnh tề, tô môi và trang điểm cẩn thận. Tôi sẽ không thể tượng tượng nổi cô tôi làm việc từ thiện mà lại khoác áo choàng tu sĩ và không tô môi. Còn mẹ của Sally, bà ta có thể đồng ý đi quyên tiền lắm chứ, nhưng chỉ với điều kiện người nào đưa tiền cũng phải xun xoe bợ đỡ mình. Còn nếu như mọi người chỉ im lặng thả tiền vào giỏ rồi đi ngay, không nói câu nào, không để ý gì đến bà, thì có lẽ chỉ sau một giờ bà cũng biến luôn. Bà ta sẽ chán ngay lập tức. Sẽ trả lại giỏ rồi đi ăn sáng ngay tức thì ở một nhà hàng nào đó. Chính vì thế mà tôi thấy thích hai cô tu sĩ kia. Có thể nói ngay là họ chả bao giờăn sáng ở những nơi sang trọng. Và tôi chợt thấy buồn khi nghĩ họ sẽ không bao giờ đủ điều kiện vào một nhà hàng sang trọng nào. Tôi hiểu chuyện đó chả có gì quan trọng, nhưng dẫu sao cũng thấy buồn.

Tôi đến Broadway chỉ để giải sầu, dường như cả trăm năm rồi tôi chưa đến đó. Ngoài ra, tôi còn muốn tìm một hiệu bán đĩa hát mở cửa vào chủ nhật vì muốn mua cho Phoebe đĩa Cô bé Chirley Beans. Cái đĩa này rất khó kiếm. Đĩa hát về một cô bé ngượng không muốn ra khỏi nhà vì bị sún răng. Tôi đã nghe bài hát này ở Pencey, của một thằng nhóc sống ở tầng trên. Tôi rất muốn mua lại vì biết Phoebe sẽ sướng điên người, nhưng thằng nhóc đó không chịu bán. Đĩa hát ấy gây xúc động mãnh liệt, dù đã cách đây hai chục năm, do ca sĩ da đến Estelle Fletcher hát. Cô hát theo kiểu miền Nam, thậm chí pha trộn cả phong cách hát rong nữa, thế mà chẳng sướt mướt, sầu thảm chút nào. Nếu một cô ca sĩ da trắng tầm thường nào hát, có lẽ đã nhổ đầu dãi ra rồi, còn Estelle Fletcher này lại biết rõ việc của mình. Trong đời tôi chưa từng nghe một đĩa hát nào tuyệt đến thế. Tôi quyết định sẽ mua cho được tại một cửa hàng nào đó bán cả vào chủ nhật, sau đó sẽ đem vào công viên. Chủ nhật Phoebe rất hay đến đó trượt băng.

Trời ấm hơn hôm qua, nhưng vẫn không có nắng, đi dạo thật chả thú chút nào, tôi chỉ khoái mỗi một điểm. Phía trước tôi, có một gia đình - bố, mẹ, một thằng bé chứng sáu tuổi, trông như vừa ở nhà thờ ra. Nhìn họ cũng biết là khá nghèo túng. Ông bố đội một chiếc mũ màu xám nhạt, như bất cứ người nghèo nào khi muốn trưng diện. Anh ta đi bên vợ, trò chuyện với chị ta và chả để ý gì đến thằng con. Còn thằng bé thật ngoan. Nó không đi trên vỉa hè mà đi trên mặt đường nhựa dọc sát lề đường. Nó cố đi thật thẳng, chính xác, tụi con nít thường vậy. Nó đi và hát thầm bằng giọng mũi suốt. Tôi cố ý tiến lại gần hơn để nghe nó hát gì. "Nếu bạn tóm được con gì đó trong đồng lúa mạch đen buổi chiều..." Giọng nó thật nực cười. Nó hát chỉ để vui riêng mình, cái đó thì rõ ngay từ phút đầu. Xe cộ qua lại nườm nượp, phanh lại ken két, bố mẹ chả bận tâm gì đến thằng con, còn nó vẫn đi riêng một mình sát lề đường và hát "Buổi chiều trong đồng mạch đen...", tôi thấy vui lây. Tâm trạng chán chường biến mất.

Ở Broadway, ai cũng xô đẩy, gào thét. Chủ nhật, 12 giờ trưa nhưng vẫn cứồn ào. Mọi người vào các rạp xi nê: Paramnount hay Astor và Strand Capitol, tóm lại, lao tới bất cứ một đám đông chen chúc nào. Ai cũng mặc diện, chủ nhật mà! Thật kinh tởm. Nhưng khó chịu nhất là họ rất nóng ruột chui vào rạp. Nhìn họ mà phát lộn mửa. Tôi hiểu họ đi xem phim khi chả có việc gì để làm, nhưng đơn giản là tôi thấy tởm khi nhớ đến cảnh họ chạy, vội vã cuống cuồng đi xem phim, rằng họ thực sự muốn chui được vào rap. Nhất là đứng sau cả tỉ người xếp hàng dài bằng cả dãy phố để mua vé, cần phải kiên nhẫn nhường nào! Tôi thì không thể chờ nổi, chỉ muốn mau chóng tếch khỏi Broadway chết tiệt này.

Nhưng tôi gặp may, ngay ở hiệu đĩa hát đầu tiên tôi đã tìm được Cô bé Chirley Beans. Họ lột của tôi năm đô, đĩa hát hiếm nên tôi cũng chẳng tiếc. Tôi bỗng sung sướng đến mức không thể chờ đợi được nữa, phải nhanh chóng đến ngay công viên, tặng đĩa hát này cho bé Phoebe của tôi.

Tôi ra kh ỏi hiệu, thấy ngay một quán cà phê và rẽ luôn vào đó. Tôi nghĩ, có tiện gọi cho Jane không nhỉ, có thể nàng đã về nhà nghỉ đông. Tôi chui vào trạm điện thoại tự động và gọi. Thật hẩm hiu, mẹ nàng cầm máy. Tôi buộc lòng phải treo ống nghe lên. Tôi chẳng muốn rơi vào những cuộc nói chuyện dài lòng thòng. Nói chung, tôi không ưa trò chuyện với mẹ của bọn con gái. Lẽ ra cũng nên hỏi Jane có nhà không. Tôi sẽ chẳng chết vì câu hỏi ấy. Nhưng chả hiểu sao lại không muốn. Cần phải có hứng mới nói được những câu chuyện loại này.

Dẫu sao cũng phải cố mà mua được hai cái vé chết tiệt vào nhà hát, trước tiên là phải mua một tờ báo xem hôm nay diễn vở gì. Vì là chủ nhật nên chỉ diễn có ba vở. Tôi mua hai vé ở tầng dưới cùng, xem Tôi biết tình yêu. Vở kịch này khá từ thiện, có ích ở mặt nào đó. Tôi thì chả có h.am m.uốn đặc biệt đối với vở này, nhưng tôi biết, Sally không sống nổi nếu thiếu những thói rởm - nó sẽ sướng phát cuồng lên khi tôi có vợ chồng Lunt diễn trong vở này. Sally sùng bái những vở kịch được coi là thanh tao, nghiêm chỉnh, có sự tham gia của hai vợ chồng Lunt và đại loại như vậy. Còn tôi thì không. Tóm lại, tôi không khoái đi nhà hát lắm. Dĩ nhiên, phimảnh còn tồi tệ hơn, nhưng trong nhà hát cũng chả có gì hay hớm cả. Thứ nhất, tôi căm ghét bọn nghệ sĩ. Họ cư xử trên sân khấu chả ra mẽ người. Chỉ tượng tượng là giống. Những nghệ sĩ khá thỉnh thoảng cũng diễn đạt giống hơn, nhưng không đến mức gây thú vị. Ngoài ra nếu có người nào khá một chút, lập tức rõ ngay là anh ta tự nhận thức được điều ấy, mà cái đó sẽ làm hỏng bét mọi sự tức thì. Tỉ dụ như ngài Laurence Olivier chẳng hạn. Tôi thấy ông ta trong phim Hămlét mà anh D.B dẫn tôi và Phoebe đi xem hồi năm ngoái. Thoạt đầu anh ấy dẫn tụi tôi đi ăn sáng, sau đó đi xem phim. Anh ấy đã xem Hamlet rồi và kể về nó trong bữa sáng hay đến mức tôi cuồng phát lên vì muốn xem phim. Nhưng, nói chung tôi lại không ưa lắm. Chả hiểu ngài Laurence Olivier này đặc biệt ở chỗ nào. Giọng ông ta gây xúc động và ông ta đẹp trai ghê gớm, nhìn ông ta đi lại hoặc đấu súng cũng khá thú vị, nhưng hoàn toàn khác Hamlet, theo lời anh D.B. Có vẻ giống một lão tướng nào đó hơn là một gã kỳ dị hơi điên điên. Trong phim này, tôi thích hơn cả là lúc anh trai của Ophelia, người đấu kiếm với Hamlet ở đoạn kết, ra đi, còn ông bố khuyên anh đủ mọi điều. Trong lúc ấy, Ophelia cứ nũng nịu suốt. Lúc thì tuốt dao của anh khỏi bao, lúc lại chọc tức anh, còn người anh thì cố tỏ ra vẻ lắng nghe những lời khuyên ngu xuẩn kia. Cảnh đó thật tuyệt. Nhưng những cảnh như vậy thật hiếm. Còn con em gái Phoebe của tôi chỉ thích mỗi cảnh Hamlet xoa đầu chó, chắc nó nói thật. Dẫu sao tôi cũng phải đọc Hamlet. Đáng ghét ở chỗ tôi nhất định phải đọc kịch đó, đọc thầm. Khi nghệ sĩ diễn xuất, tôi hầu như không nghe nổi. Lúc nào tôi cũng lo hắn ta bắt đầu làm bộ và nói chung, làm mọi cử chỉ để khoa trương.

Tôi mua vé xem vở kịch có vợ chồng Lunt diễn rồi ngồi taxi đến công viên. Lẽ ra, phải đi tàu điện ngầm, tiền còn ít quá, nhưng tôi lại rất muốn cuốn xéo khỏi Broadway chết dẫm này càng nhanh càng tốt.

Trong công viên khó ch ịu ghê người. Không lạnh lắm nhưng cũng chẳng có nắng, và chẳng có ai xung quanh hết, chỉ toàn phân chó, đờm và những mẩu xì gà hút dở bên cái ghế băng, nơi các cụ già vẫn ngồi. Dường như tất cả ghế đều ẩm ướt, nếu bạn ngồi xuống đó thì sẽ bịướt sũng. Tôi bỗng thấy buồn, đôi lúc còn run cả người lên, chả biết vì đâu. Không có gì gợi nhớ lễ Giáng sinh sắp đến. Tóm lại, dường như sẽ chẳng bao giờ có cái gì cả. Nhưng dù sao tôi cũng đến gần con đường chạy đua nho nhỏ. Phoebe luôn đến đấy, cô bé thích trượt băng gần dàn nhạc. Thật nực cười, chúng tôi cùng đã thích trượt băng ở đó hồi còn nhỏ.

Nhưng khi tôi đến con đừơng đua nhỏ, em tôi không có đó. Một lũ nhóc con nào đó đang trượt băng, còn mấy thằng nhóc chơi bóng, nhưng chả thấy Phoebe đâu cả. Bỗng tôi thấy một con bé trạc tuổi em tôi, nó ngồi bên ghế băng một mình kẹp giày trượt. Tôi nghĩ có lẽ nó biết Phoebe và sẽ bảo tôi tìm cô bé ở đâu. Tôi lại gần ngồi xuống bên cạnh, hỏi:

- Em có biết Phoebe Caulfield không?

- Ai cơ?- Con bé hỏi. Nó mặc quần và có lẽ đến hai chục cái áo len. Rõ ràng là nó được người nhà đan áo cho, nhưng chiếc áo thô kệch, to xù.

- Phoebe Caulfield ấy. Sống ở đường Bảy mươi mốt. Nó học lớp 4.

- Thế anh biết Phoebe ư?

- Đúng thế. Anh là anh nó mà. Em có biết nó đang ở đâu không?

- Bạn ấy học lớp cô Callon à?- Con bé hỏi.

- Anh không biết, có lẽ đúng vậy.

- Vậy thì bây giờ họ đang ở viện bảo tàng. Lớp em đến đó thứ bảy tuần trước.

- Bảo tàng nào?- Tôi hỏi.

Con bé nhún vai.

- Em không biết,- nó nói.- Đơn giản là ở viện bảo tàng

- Anh hiểu, nhưng đó là viện bảo tàng treo tranh hay viện bảo tàng có người da đỏ?

- Có người da đỏ.

- Cám ơn em nhiều.

Tôi đứng dậy, muốn đi, nhưng chợt nhớ hôm nay là chủ nhật.

- Nhưng hôm nay là chủ nhật cơ mà!- Tôi nói với con bé.

- À. Thế thì họ không cóở đó.

Nó không sao k ẹp đựơc giày trượt. Tôi giúp nó kẹp chặt giày. Thật quái đản, đến cả trăm năm rồi tôi không động đến khóa. Nhưng cái đó chẳng có nghĩa l ý gì. Có thể năm mươi năm sau, đặt khóa kéo vào tay tôi, dù vào ban đêm, trong bóng tối, tôi cũng nhận ra ngay rằng đó là khóa giày trượt băng. Con bé cảm ơn tôi, khi tôi vặn chặt giày. Một đứa lịch sự, niềm nở đấy chứ. Thật thú vị khi bạn giúp một con bé và nó nói với bạn câu cảm ơn lịch sự, đáng yêu đến vậy. Bọn nhóc, nói chung, rất khá. Tôi hỏi con bé có muốn uống chút đỉnh sôcôla nóng không nhưng nó đáp: "Cám ơn, em không muốn". Nó nói một cô bạn gái đang đợi nó. Cái lũ nhóc con này tứ thời có ai đó chờ đợi. Thật nực cười.

Dù là chủ nhật, Phoebe với lớp học của nó không đến viện bảo tàng và dù thời tiết xấu tồi tệ, ướt át, tôi vẫn cứ cuốc bộ qua suốt công viên đến Viện bảo tàng dân tộc học. Con bé với cái khóa giày trượt băng đã nói về chính nơi này. Tôi chả lạ lẫm gì với các cuộc viếng thăm kiểu đó. Phoebe đang theo học ở trường tiểu học, nơi tôi cũng từng chạy đến đó hồi nhỏ. Cô giáo của chúng tôi, cô Aigletinger hầu như thứ bẩy nào cũng lôi học sinh đến đó. Lúc thì tụi tôi ngắm những con vật, lúc thì xem tất tật sản phẩm của người da đỏ cổ đại: chén, bát, giỏ đan và nhiều đồ khác. Đến giờ tôi vẫn khoái nơi này. Tôi nhớ, sau mỗi lần thăm các đồ vật của người da đỏ, tụi tôi lại được xem phim trong hội trường lớn. Gần như lần nào người ta cũng cho chúng tôi xem Columb, người khám phá ra châu Mỹ, đau khổ dằn vặt vì không vòi được tiền của Ferdinand và Isabella để đòng tàu, rồi sau đó thủy thủ còn nổi loạn chống lại ông ta. Cái ông Columb này chả có gì thú vị đặc biệt cả, nhưng bọn tôi thường đem kẹo caramen và kẹo gôm nên trong hội trường có mùi rất dễ chịu. Dễ chịu như đang mưa ngoài phố, còn bạn thì ngồi đấy, ngồi tại một nơi ấm áp khô ráo duy nhất trên đời. Tôi rất thích viện bảo tàng đó, thật đấy. Tôi nhớ, thoạt đầu tụi tôi đi ngang qua gian da đỏ, rồi từ đó vào hội trường. Đó là một gian phòng dài kinh khủng, nói chuyện ở đó cứ phải thì thầm. Cô giáo đi trước, cả lớp theo sau. Đi từng đôi, tôi cũng có đôi. Thường người ta xếp tôi đi với con bé Gertrude Levine. Tứ thời nó túm tay tôi, mà tay nó thì nhớp nháp đầy mồ hôi. Sàn ở đó lát gạch hoa, nếu bạn có những quả cầu thủy tinh trong tay và bạn đánh rơi chúng, thì tiếng động sẽ rất chúa, rồi cô giáo bắt cả lớp đứng lại và đến gần xem có chuyện gì xảy ra. Nhưng cô chả bao giờ nổi giận cả, cô Aigletinger của bọn tôi ấy. Sau đó, bọn tôi lại đi ngang qua một cái thuyền dài phát khiếp của dân da đỏ - bằng cả ba chiếc Cadillac nối đuôi nhau. Trong thuyền có đến hai chục người da đỏ, người cầm mái chèo, người chỉ đứng không, dáng vẻ thật hung tợn. Ở đuôi thuyền có một người rất khiếp đảm trong chiếc mặt nạ. Đó là thầy phù thủy của họ. Nhìn lão, tôi sợ lạnh sống lưng, nhưng dẫu sao cũng thích lão. Và còn nữa, nếu bạn đi ngang qua gian này mà đụng vào bất cứ vật gì, mái chèo hay cái gì đó đại loại, ngay lập tức người trông coi sẽ cất giọng: "Các cháu, không được động vào!", nhưng giọng của ông ta hiền lành chứ không ghê gớm như bất cứ một gã cảnh sát nào. Bọn tôi tiếp tục đi qua những tủ kính khổng lồ, trong có những người da đỏ đang cọ sát gậy để lấy lửa, có cả một người đàn bà dệt thảm nữa. Đúng, người đang dệt thảm là đàn bà, vì bà ta cúi xuống, ngực lộ rõ. Tất tất tụi tôi đều ngó bà ấy, cả bọn con gái - dù chúng còn bé xíu và chưa có ngực, phẳng lì như bọn con trai. Ngay dưới cửa vào hội trường, tụi tôi đi ngang qua một người Eskimo. Hắn ta ngồi trên mặt hồ, cạnh một lỗ đục xuyên mặt băng, câu cá. Ngay cạnh lỗ đục ấy có hai chú cá hắn đã câu được. Viện bảo tàng có nhiều vô kể những tủ kính như vậy! Ở tầng trên còn nhiều hơn, có cả những con hươu uống nước bên suối, cả chim chóc bay về miền Nam trú đông. Những con gần hơn là chim nhồi treo trên dây thép mảnh, còn lũ chim phía sau chỉ là những hình vẽ trên tường nhưng có cảm giác như tất cả chúng đang thực sự bay về miền Nam, còn nếu nhìn chúng từ dưới lên thì tưởng như chúng đang lao vụt về phía Nam vậy. Nhưng cái hay nhất của viện bảo tàng là tất cả lúc nào cũng ở nguyên chỗ cũ. Không xê dịch gì cả. Nếu có đến đó cả trăm ngàn lần đi chăng nữa thì vẫn thấy cái gã người Eskimo câu cá, chim chóc vẫn suốt đời bay về phía Nam, hươu uống nước bên suối, sừng vẫn đẹp, chân vẫn thanh mảnh và cả mụ đàn bà da đỏ với bộ ngực trần vẫn triền miên đan mãi tấm thảm. Chả có gì thay đổi hết. Chỉ có bạn là thay đổi. Và chẳng phải vì bạn già đi rất nhiều. Bạn thay đổi, chỉ vậy thôi. Lúc thì mặc áo bành tô mới, lúc thì cặp kè với một đứa khác vì thằng bạn cũ của bạn bị sốt phát ban. Mà cũng có lúc, một bà giáo khác thế chỗ vào chỗ cô Aigletinger dẫn lớp đến viện bảo tàng. Hoặc là buổi sáng bạn thấy ngoài phố có một vũng nước với những vết xăng loang loáng đủ sắc màu như cầu vồng. Tóm lại, bạn đã khác trước, vì cái gì đó, tôi không biết đường cắt nghĩa. Mà có lẽ tôi biết đấy, nhưng chả hiểu sao lại không muốn giải thích.

Trên đường đi, tôi lôi cái mũ săn trong túi ra rồi đội nó lên. Tôi biết sẽ chẳng gặp ai quen biết đâu, và trời thì ẩm ướt quá. Tôi cứ đi và nghĩ triền miên rằng em gái tôi thứ bảy nào cũng đến chính cái viện bảo tàng này, giống tôi thuở bé. Tôi nghĩ, nó cũng nhìn đúng những gì tôi đã từng nhìn và bản thân nó sau mỗi lần ấy cũng trở nên khác đi. Vì những ý nghĩấy, tâm trạng tôi không đến nỗi tồi tệ nhưng cũng chả có chút niềm vui nào. Giá như có một số vật đừng thay đổi. Nếu có thể đặt chúng vào tủ kính và không động đến thì tốt hơn. Tôi biết, không thể thế được, nhưng chính điều đó mới tồi tệ. Tôi cứ nghĩ mãi điều này khi đi trong công viên.

Ngang qua sân ch ơi nhỏ, tôi dừng lại nhìn hai đứa bé bập bênh trên tấm ván. Một đứa béo phị, tôi đặt tay vào đầu ván, chỗ thằng gầy ngồi để chúng được cân bằng, nhưng ngay lập tức hiểu rằng đang quấy rầy chúng, tôi bỏ đi.

Rồi sau đó xảy ra một chuyện ngu xuẩn nhất trần đời. Tôi lại gần viện bảo tàng và cảm thấy ngay tức thì: các vàng tôi cũng sẽ không vào đó. Không muốn vào đó, chỉ thế thôi. Vậy mà tôi đã đi qua suốt công viên và đã nóng lòng chờ đợi! Dĩ nhiên, nếu Phoebe ở đó, có lẽ tôi sẽ rẽ vào, nhưng chắc chắn nó không có đó. Tôi gọi taxi ở lối vào viện bảo tàng đến khách sạn "Biltmore". Chả muốn đi chút nào, nhưng tôi đã hẹn gặp Sally ở đó.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Tôi đến khách sạn khá sớm, ngồi xuống xalông bọc da kê ngay dưới đồng hồ rồi bắt đầu ngó bọn con gái. Ở nhiều học xá, trường bắt đầu nghỉ đông, nên có đến cả ngàn đứa tụ tập, chờ đợi bồ mình đến đón. Một số đứa ngồi chân bắt chéo nhau, những đứa khác giữ thẳng chân. Một số có chân rất tuyệt, những đứa khác - chân xấu như quỷ, có những đứa ngay từ cái nhìn đầu tiên đã thấy đẹp, có những đứa xấu như ma, chả cần nhìn gần mới biết. Tóm lại, nhìn bọn con gái này thật thú vị, bạn hiểu tôi chứ. Thú vị, nhưng đồng thời lại cảm thấy buồn, vì lúc nào cũng có ý nghĩ: cái gì sẽ đến với tất cả bọn chúng? Phải, chúng sẽ tốt nghiệp trường cao đẳng. Tôi nghĩ, có lẽ phần lớn bọn chúng sẽ lấy chồng, lấy những loại thối tha tồi tệ. Thằng thì chỉ sống bằng mỗi việc khoe khoang đi được bao nhiêu dặm trên cái xe thổ tả của mình mà chỉ tốn có một gallon xăng. Thằng thì tự ái như con nít khi thằng bạn không chỉ trong trò golf mà trong bất cứ trò chơi ngu xuẩn nào, tỉ như bóng bàn chẳng hạn. Lũ con gáiấy sẽ lấy những thằng đểu cáng nhất. Những thằng cả đời chả động đến một cuốn sách mỏng. Những thằng chán mớ đời. Nhưng dĩ nhiên. Khái niệm này cũng tương đối thôi, thằng nào có thể coi là chán ngấy, thằng nào không. Khi còn học ở Elkton Hills, hai tháng liền tôi sống cùng phòng với một thằng nhóc, tên là Harris Maclin. Nó rất thông minh và mồm mép nhưng tôi chưa từng thấy có ai đáng chán như nó. Giọng thì the thé phát khiếp, vậy mà nó nói suốt ngày không nghỉ, và cái khủng khiếp nhất là nó chả bao giờ nói được điều gì hay hớm. Nhưng nó lại biết làm một việc, biết huýt sáo hay không ai bằng. Khi xếp dọn gi.ường hay treo đồ trong tủ- nó tứ thời treo đồ của nó khắp trong tủ làm tôi bực điên người, tóm lại, nó sẽ vừa làm vừa huýt sáo, nếu không đầu độc bạn bằng cái giọng the thé của mình. Thậm chí, nó biết huýt cả nhạc cổ điển, nhưng hay hơn cả là nhạc jazz. Một bản nhạc jazz tồi tệ nào đó như kiểu Blues trên mái nhà trong lúc nó treo đồ, được thể hiện tuyệt vời đến mức bạn chỉ có thể cảm thấy sung sướng mà thôi. Dĩ nhiên, tôi chả bao giờ lại đi nói cho nó biết điều đó. Ai lại đi nói thẳng vào mặt người ta: "Mày huýt sáo hay lắm!". Nhưng dù sao tôi đã suýt phát rồ lên vì cái thằng chán mớ đời ấy, tôi vẫn sống cùng phòng với nó được những hai tháng liền, chỉ vì chưa từng được nghe trong đời ai huýt sáo tuyệt như nó. Vậy là vấn đề: thằng nào chán ngấy, thằng nào không. Có thể chẳng việc gì phải quá thương xót nếu một con bé kháu khỉnh nào đó lấy phải thằng chồng thuộc loại chán ngắt khi nói chung, chúng khá vô hại, mà không chừng, lại âm thầm biết huýt sáo hay tuyệt hoặc giỏi làm cái gì đó. Có trời mà biết được, tôi chẳng có quyền xét đoán điều đó. Cuối cùng, con bé Sally của tôi cũng xuất hiện dưới cầu thang, tôi bước xuống gặp nó. Ồ, nó đẹp mê hồn! Nó mặc áo bành tô đen và đội chiếc bêrê nhỏ cùng màu. Thường nó không đội mũ, nhưng xem ra bêrê hợp với nó kinh khủng. Thật nực cười là vừa trông thấy nó, tôi đã muốn lấy nó ngay. Không, tôi dẫu sao cũng là một thằng không bình thường. Thậm chí tôi thấy thích nó, rồi bỗng cảm thấy phải lòng và sẵn sàng lấy nó. Trời, tôi đúng là bất bình thường.

- Holden!- Nó nói.- Em sung sướng quá. Dễ đến trăm năm rồi, bọn mình chả nhìn thấy nhau!- Giọng nó to phát khiếp, thậm chí tôi thấy gặp nó ở đâu cũng thấy bất tiện. Nó thì thế nào cũng được, vì nó đẹp, còn tôi, ruột gan cứ lộn tùng phèo vì ngượng.

- Anh cũng mừng được gặp em,- tôi nói và không hề xạo, thề có trời.- Thế em sống ra sao?

- Tuyệt vời! Em không đến muộn chứ?

- Không, - tôi nói. Thực ra nó muộn đến mươi phút, nhưng tôi nhổ toẹt vào cái đó. Tất cả đều là vớ vẩn, những bức tranh châm biếm ở Saturday Evening Post về một gã thanh niên đứng ở góc phố với bộ mặt thảm hại vì bồ đến muộn, chỉ là bịa đặt. Nếu một cô gái đẹp tuyệt đến nơi hẹn thì ai còn bực vì cô đến muộn nữa chứ? Chẳng ai cả!

- Phải đi taxi thôi.- Tôi nói.- Kịch bắt đầu vào 2 giờ 40.- Chúng tôi xuống cầu thang đến bên taxi.

- Bọn mình sẽ xem gì?- Nó hỏi.

- Không biết. Có vợ chồng Lunt đóng. Anh chẳng thể mua nổi vé nào khác.

- Ôi, vợ chồng Lunt, tuyệt làm sao!

Tôi đã nói với các bạn là nó sẽ phát rồ lên khi nghe đến cặp diễn viên này. Chúng tôi hôn nhau chút đỉnh trên đường đến nhà hát, trong taxi. Thoạt đầu nó không muốn, vì sợ hỏng môi son, nhưng tôi xử sự như một thằng tán gái có nghề và nó chẳng thể từ chối được. Hai lần xe dừng lại trước đèn đỏ, tôi suýt ngã. Bọn tài xế khốn kiếp, chẳng bao giờ chịu để mắt nhìn mình làm gì. Tôi thề là họ không biết lái xe. Nhưng các bạn có muốn biết tôi điên rồ đến mức nào không? Vừa mới ôm nhau chặt hơn một chút, tôi đã thao thao bất tuyệt với nó đủ điều rằng tôi yêu nó. Dĩ nhiên, đó chỉ là dối trá, nhưng thú vịở chỗ chính tôi vào phút đó lại rất tin tưởng điều này. Tôi đúng là thằng khác thường! Lạy Chúa, tôi điên rồi!

- Ôi anh yêu, em cũng yêu anh!- Nó nói và ngay lập tức bổ sung thêm, cũng bằng cái giọng ấy.- Chỉ có điều, anh hãy hứa sẽ để tóc dài đi. Bây giờ đầu nhím hết mốt rồi, mà tóc anh dễ thương quá. "Tóc dễ thương".- đến nổ tung mất! Vở kịch không đến nỗi vứt đi như những thứ tôi đã xem trước đây. Nhưng nói chung cũng là điều vớ vẩn. Hai vợ chồng già nào đó sống bên nhau lâu đến cả ngàn năm trời. Kịch bắt đầu khi họ còn trẻ, bố mẹ cô gái không muốn cô lấy gã kia. Nhưng cô ta vẫn làm theo ý mình. Rồi sau đó họ trở nên già cả. Ông chồng ra trận, bà vợ có một người em trai nghiện ngập. Nói chung, chả thú vị, tôi thì thế nào cũng xong, ai trong gia đình ấy chết hay không cũng mặc. Chả có quái gì sự thực ở đó cả, chỉ là diễn xuất mà thôi. Thực ra, hai vợ chồng này cũng khá, hóm hỉnh, nhưng họ chẳng khiến được tôi bận tâm. Thứ nhất là suốt vở kịch mọi người cứ triền miên uống trà. Màn vừa mở, gã hầu đã dâng trà cho ai đó hoặc bà vợ rót trà cho người nào đó. Rồi suốt buổi họ cứ ra rồi vào, chóng cả mặt vì họ đứng lên ngồi xuống không ngừng. Alfred Lunt và Lina Fontain đảm nhiệm hai vợ chồng già, họ đóng rất khá, nhưng tôi chả khoái. Tôi hiểu, họ không giống các nghệ sĩ còn lại. Họ diễn xuất như những người bình thường ngoài đời chứ không phải là diễn viên, tôi thấy khó giảng giải điều này. Tuồng như họ lúc nào cũng hiểu rằng mình là những người nổi tiếng. Bạn hiểu không, họ diễn được, chỉ có điều quá được. Một người còn chưa kịp nói hết, người kia đã nhanh chóng hòa theo. Cứ như những người thực sự đang nói chuyện cứ ngắt lời nhau và vân vân. Tất cả đều quá giống cảnh mọi người nói chuyện và ngắt lời nhau ngoài đời, chính cái đó làm hỏng bét vở kịch. Họ thủ vai của mình gần giống Ernie ở Greenitch Village chơi đàn dương cầm vậy. Khi bạn có thể làm một việc gì đó quá đạt, thì nếu bạn không chịu theo dõi mình, bạn sẽ bắt đầu phô trương bản thân mình. Và khi ấy thì chả tốt đẹp gì. Tóm lại, dù sao chăng nữa, trong vở này chỉ có họ- tôi nói vợ chồng Luntcòn có vẻ giống người biết nghĩ, phải công nhận điều đó.

Sau giờ nghỉ đầu tiên, tôi cùng một lũ công tử bột đi hút thuốc. Quang cảnh mới khiếp chứ! Chưa bao giờ tôi thấy lắm kẻ õng ẹo, phô trương đến thế! Chúng hút thuốc cật lực, cố tình nói về vở kịch thật to, để tất cả đều có thể thấy chúng thông minh nhường nào. Một gã tài tử xinê giả mạo nào đó đứng cạnh bọn tôi cùng hút thuốc. Tôi không biết tên, nhưng trong các phim về chiến tranh, gã tứ thời đóng vai một tên vô lại run như cầy sấy ngay trước trận đánh. Một cô gái tóc vàng kỳ dị đứng cùng gã, cả hai đều làm ra vẻ thân thiện, làm ra vẻ không nhận ra mình đang được ngắm nhìn. Khiêm tốn gớm, rõ lũ quỷ! Tôi thấy nực cười. Con bé Sally của tôi hầu như không trò truyện gì, có lẽ vì không có thì giờ. Nó đưa mắt cho tất cả, làm điệu làm bộ. Bỗng nó nhìn thấy người quen ở đầu kia phòng hút thuốc, một công tử bột mặc comple xanh sẫm và gilê kẻ. Một con sư tử lịch duyệt. Một tay qu ý tộc. Hắn đứng, rít đến tận cùng điếu thuốc, mặt hắn buồn bã, khinh khỉnh, Sally lặp đi lặp lai:

- Em đã làm quen với anh ta ở đâu rồi, em biết anh ấy!

Lúc nào nó cũng nói, nó biết tất tật mọi người. Tôi phát chán tận cổ khi thấy nó cứ nhai mãi câu ấy.

- Em biết không, em cứ việc đến đó, hôn hắn ta, có lẽ, hắn sẽ mừng đấy.

Con bé gi ận tôi khủng khiếp. Cuối cùng gã kia cũng nhận ra nó, gã lại gần chúng tôi chào hỏi. Giá bạn thấy cảnh hai đứa chào nhau. Làm như hai chục năm nay không hề được gặp nhau. Mà cũng có thể nghĩ là hồi còn nhỏ chúng đã từng tắm chung trong một bồn tắm. Bạn bè cái kiểu thế, nhìn mà phát khiếp. Nực cười nhất là chúng có lẽ chỉ gặp nhau mới có một lầnở buổi dạ hội chết tiệt nào đó. Cuối cùng, khi đã xả hết lòng vui sướng, Sally giới thiệu tôi với hắn. Tên hắn là George, tôi không nhớ họ. Hắn học ở Andover, đúng là một gã qu ý tộc! Giá bạn thấy hắn lúc Sally hỏi có thích vở kịch không. Một kẻ như hắn lúc nào cũng phô trương, thậm chí còn dọn sạch chỗ cho mình trước khi trả lời. Hắn lùi một bước- và giẫm phải chân một bà đứng sau. Có lẽ, hắn làm bà ta khuỵu cả chân! Hắn thốt lên: Vở kịch không phải là kiệt tác, nhưng dĩ nhiên, vợ chồng Lunt là những thiên thần thực sự. Thiên thần- quỷ hành tội hắn! Có thể tắt thở được.

Sau đó, hắn bắt đầu cùng Sally hồi tưởng lại tất tật người quen của cả hai. Cảnh làm bộ làm tịch ấy, tôi chưa từng thấy trong đời. Hai đứa tranh nhau gọi tên một thành phố nào đó, rồi lập tức nhớ ngay những ai quen chúng sống ở đó. Khi hết giờ nghỉ, tôi phát lộn mửa vì chúng. Đến giờ nghỉ sau, chúng lại tiếp tục dằng dai chủ đề này. Lại ra sức hồi tưởng địa danh và tên những người nào đó. Tồi tệ hơn cả là gã công tử bột này có cái giọng rất giả tạo, ra vẻ qu ý tộc, bạn biết đấy, cái giọng nhát gừng, õng ẹo ấy mà. Hệt như bọn con gái. Và hắn, cái thằng đê tiện ấy, cướp bồ của tôi mà chẳng biết ngượng. Thậm chí tôi còn nghĩ, hắn sẽ vào ngồi cùng chúng tôi trong một taxi, bởi lẽ, sau buổi diễn, hắn dẫn xác theo bọn tôi suốt hai dãy phố. Nhưng hắn phải đến gặp những thằng công tử bột khác ở một tiệm coctail. Tôi hình dung lũ chúng ngồi trong một cái bar nào đó, mặc những chiếc gilê sọc kiểu công tử bột, và phê phán các vở kịch, sách vở, cả đàn bà nữa, giọng tất tật đều nhát gừng, õng ẹo như nhau. Có thể chết vì những loại người như vậy.

Tôi thấy buồn nôn cả khi ngó sang Sally, lúc bọn tôi đã ngồi vào taxi. Việc gì nó phải nghe cái thằng công tửở Andoverấy đến cả chục tiếng đồng hồ? Tôi quyết định đưa nó về nhà, thực đấy! Nhưng bỗng nhiên nó nói:

- Em có một ý nghĩ tuyệt diệu!- Lúc nào nó cũng có sẵn những ý nghĩ tuyệt diệu.

- Này anh, - nó nói, - khi nào anh phải về nhà ăn trưa? Anh có vội lắm không? Có ai đợi anh ở nhà không?

- Anh ấy à? Không, chả có ai đợi anh hết!- Tôi nói. Và đó là sự thật hiển nhiên.- Thế sao?

- Bọn mình đi trượt băng ở Radio City đi.- Đấy, những ý nghĩ tuyệt diệu của nó là như vậy đấy.

- Trượt băng ở Radio City ư? Ngay bây giờ?

- Một tiếng thôi cũng được, không hơn đâu. Anh không muốn sao? Dĩ nhiên, nếu anh không muốn...

- Chả có lẽ anh đã nói không muốn?- Tôi nói.- Tốt thôi. Nếu em muốn.

- Anh thực sự có muốn không? Nếu không thì thôi, không cần. Em thì thế nào cũng được. Cái đõ rõ quá!

- Ở đó, họ cho mượn những chiếc váy ngắn tuyệt vời.- Sally nói.- Tuần trước Janne Kalts đã mượn rồi đấy.

Hóa ra vì vậy mà nóng ruột đến đó. Nó muốn khoe mẽ trong cái váy ngắn chết dẫm chỉ che vừa đủ mông.

Tóm lại, bọn tôi tới đó, mượn giày trượt, Sally mặc váy xanh, che mỗi cái mông, nhún nhảy. Nhưng cái váy lại hợp với nó hết sức, phải công nhận như vậy. Và bạn đừng có nghĩ là nó không hiểu điều đó. Nó cố tình đi phía trước tôi để tôi thấy nó có bộ mông tròn đẹp ra sao. Phải công nhận là mông nó đúng như vậy.

Nhưng nực cười nhất là ở cái sân trượt khốn kiếp này, bọn tôi trượt tồi hơn tất cả. Đúng vậy, tồi nhất! Thật kinh khủng! Sally bị sái mắt cá chân, vì quệt vào mặt băng. Có lẽ, không chỉ dáng vẻ nó trông cực kỳ ngu xuẩn mà nó còn rất đau đớn, có trời biết được. Ít nhất tôi cũng bị điều đó hành hạ. Giá các bạn thấy bọn tôi lúc đó! Tởm lợm hơn là có đến cả hai trăm đứa khốn kiếp đứng nhìn- lũ chúng thì chả có gì để làm, chỉ đứng nhìn kẻ khác ngã.

- Có lẽ, nếu em muốn, chúng ta vào bar kiếm cái bàn nhỏ và uống gì đó chút đỉnh đi, - cuối cùng tôi bảo nó.

- Ồ, anh nghĩ hay đấy!- Đơn giản là nó bị hành hạ khiếp quá. Hành hạ dã man, tôi th ấy thương hại nó.

Bọn tôi cởi đôi giày trượt chết tiệt ra, chui vào bar ngồi không giày và nhìn bọn trượt băng từ xa. Sally cởi bao tay, tôi đưa nó một điếu thuốc. Mặt nó khá thảm hại. Người hầu bàn lại gần, tôi gọi một ly côca-côla cho nó, whisky cho mình, nhưng gã đểu cáng này từ chối mang rượu cho tôi, đành uống côca-côla vậy. Sau đó tôi đốt diêm. Tôi thường chơi trò này mỗi khi thấy chán chường. Tôi để diêm cháy đến hết, tới mức không thể giữ thêm được nữa, rồi ném vào gạt tàn. Một thói quen nóng nảy. Bỗng nhiên, chẳng có đầu đũa gì hết. Sally hỏi:

- Anh nghe này, em muốn biết chính xác anh có đến nhà em trang hoàng hộ cây thông hôm trước lễ Giáng Sinh hay không. Em cần biết trước. Rõ ràng nó đang bực mình vì đau chân do đôi giày trượt chết tiệt kia.

- Anh đã viết cho em là sẽ đến mà. Em hỏi anh dễ đến hai chục lần rồi. Chắc chắn anh sẽ đến.

- Anh hiểu không, em cần biết chắc,- nó nói, nhưng lại đảo mắt tứ phía xem có ng ười quen ở đây không.

Bỗng tôi ngừng đốt diêm, và cúi người qua bàn về phía nó. Tôi cần nói với nó rất nhiều.

- Em nghe này Sally!- Tôi nói.

- Gì cơ?- Nó hỏi, nhưng vẫn cứ nhìn một con bé nào đó ở góc phòng.

- Đã bao giờ xảy ra trường hợp bỗng nhiên em thấy chán ngấy mọi sự chưa?-

Em hiểu không, có lúc nào em cảm thấy mọi cái em làm đều hỏng sạch và thấy khủng khiếp không? Nói đi, em có yêu trường không?

- Không, dĩ nhiên, ở đó buồn muốn chết.

- Nhưng em có căm thù nó không? Anh biết, ở đó chán lắm, nhưng em có căm ghét tất cả những cái đó không?

- Biết nói với anh thế nào? Mọi sự đâu phải ở chỗ ghét. Vì lúc nào cũng phải...

- Còn anh thì anh căm thù. Lạy Chúa, anh căm ghét tất cả mọi thứở đó một cách ghê g ớm. Và không riêng trường học. Anh ghét sống ở New York. Thù ghét taxi, xe bus, nơi lão bán vé thường gào anh phải xuống cửa sau, anh căm thù phải làm quen với lũ õng ẹo gọi vợ chồng Lunt là "thiên thần", anh căm ghét đi thang máy khi chỉ muốn ra góc phố, anh ghét thử quần áo liên miên ở chỗ Brooks, khi anh phải...

- Xin anh đừng có gào lên! Sally ngắt lời.

Thật ngu xuẩn, tôi thậm chí cũng chả nghĩ đến việc đó.

- Ví như, xe hơi chả hạn,- tôi nói bằng một giọng nhỏ đến phát khiếp.- Em nhìn xem, m ọi người phát cuồng lên vì nó. Đối với họ, sẽ là cả một thảm họa nếu xe bị xước dù chỉ một vết nhỏ, rồi họ tứ thời kể lể một gallon xăng chạy được mấy dặm, còn nếu có thể mua được xe mới, ngay lập tức họ vò đầu bứt tai ngẫm nghĩ nên đổi nó lấy kiểu nào mới nhất. Anh thì cả xe cũ cũng không ưa. Em hiểu không, anh chả quan tâm đến. Thà anh cưỡi ngựa còn hơn, quỷ tha ma bắt. Ngựa còn có chút giống người. Với ngựa còn có thể nói được dăm ba câu...

- Em không hiểu, anh nói gì... Anh cứ nhảy từ chuyện này sang chuyện khác...

- Em biết anh sẽ nói gì với em không!- Nếu không có em, thì anh đã chẳng ngồi ở New York lúc này. Nếu như không có em, có lẽ anh đã cuốn xéo đi nơi nào không biết. Vào rừng hoặc xa hơn. Em là lý do duy nhất khiến anh còn láng cháng ở đây.

- Anh thật đáng yêu.- Nó nói. Nhưng thấy rõ ngay là nó muốn nói sang chuyện khác.

- Giá em học ở trường con trai. Giá em được thử một lần!- tôi nói- Rặt những phường giả tạo. Mà học cũng chỉ để trở thành những kẻ ranh vặt, để kiếm tiền mua lấy một chiếc Cadillac chết tiệt nào đó, lại còn tứ thời giả bộ coi trọng đội bóng của chúng thắng hay thua. Tối ngày tán gẫu về rượu chè, đàn bà, t.ình d.ục, đứa nào cũng có hội hè cũng có một bè lũ đê tiện nào đó. Cầu thủ bóng rổ người theo đạo Thiên Chúa cả cái bọn tri thức trời đánh này lẫn lũ chơi bridge cũng có hội hè cả. Thậm chí đến cả bọn mượn sách của câu lạc bộ sách ngu xuẩn này cũng có hội. Cứ thử nói chuyện tiệc tùng với một đứa nào xem...

- Không, điều đó không đúng!- Sally nói.- trường học làm cho nhiều người khá hơn chứ.

- Đồng ý! Anh đồng ý, nhiều đứa cũng khá hơn đấy. Còn anh- chẳng đượ c gì cả? Hiểu không? Anh nói điều đó. Chính về cái đó, quỉ tha ma bắt! Anh chẳng nhận được gì sất. Anh đang ở trong một tình cảnh tồi tệ, vô cũng tồi tệ!

- Đúng, em cũng nghĩ vậy.

Một ý nghĩ chợt lóe lên trong óc tôi.

- Nghe đây!- Tôi nói- Em có muốn biến khỏi đây không? Anh đã nghĩ ra điều này. Anh có m ột người quen ở Greenwich Village, và có thể mượn xe hơi của nó hai tuần. Nó học ở trường anh, đến giờ vẫn còn nợ anh 10 đô. Chúng ta có thể đi du lịch. Sáng mai, hai ta có thể đến Massachusetls, tới Vermont, đi xem mọi thứở đó. Ở đó đẹp kinh khủng, em hiểu không? Mê hồn!- Tôi càng nói, càng hồi hộp. Thậm chí tôi còn cúi xuống, nắm tay Sally, đúng là thằng đại ngốc! - Không, anh không đùa, anh có gần 180$ trong sổ. Sáng mai, khi nhà băng vừa mở cửa, anh sẽ lấy số tiền đó, rồi ta có thể đi và mượn xe thằng bạn anh. Không đùa đâu. Chúng ta sẽ sống trong các trại du lịch, và mọi nơi tương tự cho đến lúc hết tiền. Khi nào tiền hết, anh có thể kiếm được việc làm, sẽ sống đâu đó gần suối, rồi lúc nào đó bọn mình có thể lấy nhau, mọi sự sẽ đâu vào đó. Anh sẽ tự bổ củi cho tới mùa đông. Chúng ta sẽ rất thoải mái, vui vẻ! Thế nào! Em sẽ đi chứ! Sẽ đi với anh chứ? Em sẽ đi, phải không?

- Lại có thể thế được ư? - Sally nói, giọng nó phát bẳn.

- Sao lại không? Sao nào, quỷ tha ma bắt?

- Xin đừng có quát em! - Thật ra nó nói dỗi thế thôi chứ tôi chả hề quát nó.

- Tại sao?

- Vì không thể, - Vậy thôi. Thứ nhất, anh với em thực chất vẫn là trẻ con.

Anh nghĩ bọn mình sẽ làm gì khi tiền hết, mà anh không có cửa nào kiếm được. Bọn mình sẽ chết đói. Mà tóm lại, đó chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng, chả có gì đáng nói...

- Không đúng. Đó không phải là tưởng tượng. Anh sẽ tìm được việc. Em đừ ng lo! Chả việc gì em phải lo ch.uyện ấy! Vậy thì tại sao? Em không muốn đi với anh chứ gì? Cứ nói thẳng đi!

- Vấn đề không phải ở chỗ đó. Hoàn toàn không phải thế - Sally nói. Tôi cảm thấy bắt đầu căm thù nó - Chúng ta sẽ còn khối thì giờ, khi đó mọi sự sẽ đâu vào đó. Anh hiểu không? Sau khi anh tốt nghiệp trường tổng hợp, bọn mình sẽ lấy nhau. Chúng mình có thể đến hàng nghìn nơi kỳ lạ. Còn bây giờ thì...

- Không, chúng ta không thể, chả thể đi đâu hết, chả đến nghìn nơi nào hết. -

Tôi chán nản hoàn toàn.

- Gì cơ? Em không nghe rõ. Lúc thì anh gào lên với em, lúc lại thầm thì...

- Anh nói là không, bọn mình sẽ không đi đâu cả, không đến "Những nơi kỳ lạ " nào hết, khi anh tốt nghiệp trường tổng hợp. Em hãy căng tai ra mà nghe! Mọi sự sẽ khác đi. Bọn mình sẽ phải xuống bằng thang máy với một đống vali đồ đạc. Sẽ phải gọi điện cho tất tật họ hàng, phải tạm biệt rồi sau đó gửi cho họ bưu thiếp từ mỗi khách sạn. Anh sẽ làm việc ở một văn phòng nào đó, sẽ kiếm ra vô số tiền, sẽ đi làm bằng xe hơi hoặc xe buýt theo đại lộ Madison, sẽ đọc báo, sẽ chơi bridge mỗi chiều, sẽ đến rạp xinê xem những bộ phim ngắn chết tiệt, xem quảng cáo phim hay và cả phim thời sự. Cả phim thời sự nữa! Ôi trời! Thoạt đầu là bãi công, tiếp đó là một bà ném chai lọ lên tầu, sau đó là con khỉ mặc quần đùi đi xe đạp. Không, mọi sự sẽ không thế! Mà dù thế nào thì em cũng quái hiểu gì cả.

- Có thể là em không hiểu. Mà cũng có thể, chính anh cũng chả hiểu gì hết! - Sally nói. Hai đứa đã bực tức nhau ghê gớm, rõ ràng nói chuyện kiểu người với người chỉ vô ích. Tôi giận mình kinh khủng vì đã dính vào câu chuyện này.

- Thôi được, hãy cuốn xéo khỏi đây! - Tôi nói. - Và nói chung, hãy cút đi cho rảnh...

Ôi trời, khi tôi nói câu đó, nó nổi khùng lên mới khiếp! Tôi biết là không được nói vậy, và tôi chưa bao giờ chửi rủa phụ nữ như thế, nếu nó không làm tôi bực. Thường thì với bọn con gái, tôi chả bao giờ cư xử như thế cả. Ôi, nó phát khùng kinh khủng. Tôi xin lỗi như điên, nhưng nó chả thèm nghe. Thậm chí còn khóc lóc. Thật ra mà nói, tôi cũng hơi hoảng, sợ nó sẽ chạy về nhà mách bố nó rằng tôi chửi rủa nó hết lời. Bố nó là một gã cao lêu đêu, im lặng suốt ngày, lão ta hoàn toàn không ưa gì tôi, cái lão đểu cáng ấy. Lão nói với Sally rằng tôi rất ồn ào.

- Không, nghiêm chỉnh đấy, hãy tha lỗi cho anh! - Tôi ra sức thuyết phục nó.

- Tha thứ! Tha thứ cho anh! Đến là lạ! - Nó vẫn khóc sướt mướt. Bỗng tôi thấy tiếc vì đã chọc tức nó.

- Chúng ta đi đi, anh sẽ tiễn em về nhà. Thật đấy.

- Tôi tự về được! Cảm ơn. - Nếu anh nghĩ là tôi cho phép anh tiễn tôi, có nghĩa anh là thằng ngốc. Suốt đời chả có một anh chàng nào dám chửi rủa tôi như vậy.

Có gì đó thật nực cười trong chuyện này, nếu ngẫm nghĩ và tôi bỗng làm cái điều khiếm nhã mà nhẽ ra không nên làm. Tôi cười phá lên. Tiếng cười của tôi to phát khiếp và ngu xuẩn. Bạn hiểu không, nếu như chính tôi ngồi sau tôi trong rạp xinê hay một nơi nào đó, có lẽ tôi đã cúi xuống và tự bảo mình là đừng có hô hố lên như vậy. Sally lúc ấy nổi khùng thật sự.

Tôi không bỏ đi, vẫn xin nó tha lỗi, nhưng nó không hề có ý định làm vậy với tôi. Cứ một mực, hãy để tôi yên. Cuối cùng tôi bỏ đi. Thu nhặt giầy dép, quần áo rồi bỏ đi không có nó. Lẽ ra không được bỏ nó lại đấy nhưng tôi cũng đã chán ngấy tất cả rồi.

Thực ra, ngay chính tôi cũng không hiểu nổi, mình nói tất cả những điều đó với Sally để làm gì. Cả chuyến đi Massachusetts, đi Vermont, tóm lại là tất cả, có lẽ, tôi không nên rủ nó đi theo, thậm chí nếu tự nó có xin xỏ đi chăng nữa. Không có lẽ, với những đứa như nó, lại có thể chu du khắp thiên hạ được? Nhưng điều gớm ghiếc nhất là tôi thực lòng đề nghị nó đi với tôi. Đó mới là điều khủng khiếp. Không, có lẽ tôi là một đứa không bình thường.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Khi ra khỏi bãi trượt băng, tôi bỗng thèm ăn nên chạy vào quán, xơi một miếng bánh mỳ kẹp pho mát, uống một cốc sữa, sau đó chui vào trạm điện thoại. Tôi nghĩ - có lẽ vẫn nên gọi cho Jane lần nữa xem nàng đã về nhà chưa. Tôi còn cả một buổi chiều rảnh rỗi kia mà, và tôi nghĩ - nếu nàng ở nhà, tôi sẽ mời nàng đi nhảy ở đâu đó. Tôi chưa nhảy với nàng lần nào từ hồi quen nhau đến giờ. Đó là ngày mồng bốn tháng bảy ở câu lạc bộ. Khi đó chúng tôi mới quen nhau sơ sơ và tôi không dám cướp nàng từ vòng tay của gã kia. Nàng nhảy cùng một gã rất tởm, với El Paik học ở Choate. Tôi cũng biết gã chút đỉnh, từ thời lượn lờ cạnh bể bơi. Gã mặc quần tắm nilông trắng muốt và tứ thời nhảy từ cầu nhảy. Ngày nào gã cũng nhảy đúng một điệu chết tiệt nào đó. Gã chả biết gì hơn, nhưng rõ ràng tự coi mình là vận động viên loại cừ. Toàn những cơ với bắp, và chả có chút chất xám nào hết. Tóm lại, Jane nhảy với gã cả buổi chiều hômấy. Tôi chả hiểu gì chuyện này. Khi đã kết bạn với nhau, tôi hỏi sao nàng có thể hẹn hò với loại đê tiện tự cao tự đại như gã El Paik ấy. Nhưng Jane nói, gã hoàn toàn không thế và ngược lại, gã chính là một tổng thể chưa hoàn thiện. Đại để, tôi thấy rõ ràng là nàng thương hại hắn, mà thương thực sự chứ không hề giả bộ. Bọn con gái đúng là loại người kỳ quặc. Lần nào cũng vậy, hễ bạn nhắc đến một gã đê tiện chính cống nào đó, một gã đểu cáng hoặc rất huênh hoang, thể nào chúng cũng nói ngay rằng gã là một tổng thể chưa hoàn thiện. Có thể, điều đó đúng, nhưng cũng chẳng thể giúp gã kia hết đê tiện được. Phải, cái bọn con gái ấy. Bạn sẽ chả bao giờ hiểu nổi đầu óc chúng. Một lần, tôi giới thiệu con bạn gái của Roberta Walsh với một thằng bạn tôi. Tên thằng đó là Bob Robinson, nó đúng là một tổng thể chưa hoàn thiện. Thấy ngay là nó ngượng cho bố mẹ nó vì họ nói "muốn" là "mốn" và đại loại như vậy, ngoài ra, họ lại còn rất nghèo. Nhưng bản thân nó chả hề thua kém ai. Một thằng nhóc rất khá, nhưng con bạn của Roberta Walsh hoàn toàn không ưa nó. Con bé nói với Roberta là thằng kia tự cao tự đại, nó nghĩ vậy vì thằng cha kia tình cờ tự gọi mình là thủ lĩnh một nhóm của câu lạc bộ tranh luận. Mỗi cái chuyện cỏn con ấy mà con bé đã quy chụp cho thằng kia ngay cái tội ấy. Mọi bất hạnh đối với bọn con gái đều ở chỗ, nếu chúng thích một thằng nào đó thì dù thằng kia đê tiện trăm lần, chúng sẽ nói ngay, thằng ấy là tổng thể chưa hoàn thiện, còn nếu chúng không ưa thì dù thằng ấy có giỏi trai nhất thế giới với một tổng thể hoàn thiện, nhất đi nữa, chúng vẫn nói là hắn tự cao. Thậm chí với cả bọn con gái đầu óc thông minh cũng vậy.

Tóm lại, tôi gọi điện cho Jane, nhưng không ai trả lời nên đành phải treoống nói. Tôi đọc lướt qua cuốn sổ ghi chép, tìm người có thể đánh bạn với mình buổi chiều nay. Thật vô phúc, trong sổ tôi chỉ có ba số điện thoại: của Jane, của ông Antolini, thầy giáo của tôi ở trường Elkton Hills, và nơi làm việc của bố tôi. Suốt đời tôi quên ghi số điện thoại. Cuối cùng, đành phải gọi cho thằng Carl Luce. Nó đã tốt nghiệp trường Whootton khi tôi đã rời nơi đó. Nó hơn tôi ba tuổi, tôi không thích nó lắm, nhưng nó thông minh khiếp vì có chỉ số phát triển trí tuệ cao nhất trường. Tôi nghĩ có thể nó sẽăn trưa cùng tôi, cả hai sẽ nói về chuyện gì thông thái một chút. Đôi lúc nó kể chuyện rất hay. Tôi quyết định gọi điện cho nó. Hiện giờ nó học ở trường tổng hợp Columbia nhưng sống ở phố Sáu mươi lăm, và tôi biết nó có nhà. Khi tôi gọi được nó, nó nói sẽ bận vào bữa trưa, nhưng có thể gặp tôi vào 10 giờ tối ở Wikerbar, phố Năm mươi tư. Có vẻ như nó rất ngạc nhiên khi nghe thấy giọng tôi. Một lần tôi đã chửi nó là đồ õng ẹo to mông.

Cần phải giết thời gian cách nào đó cho đến 10 giờ, tôi đành đi xem ở Radio City. Chả còn nghĩ ra điều gì tồi tệ hơn thế, nhưng tôi ở ngay cạnh đó và hoàn toàn không biết chui vào đâu khác.

Tôi vào rạp khi đã bắt đầu phần diễn phụ. Nhóm nhạc Rokett diễn trò gì có trời biết được. Bạn biết họ nhảy ra sao không, tất cả xếp thành hàng ôm eo nhau. Dân chúng vỗ tay như phát cuồng, một gã sau lưng tôi cứ lặp đi lặp lại mãi: "Bạn có biết điệu đó gọi là gì không? Chính xác toán học!". Đến chết mất. Sau nhóm Rokett, một tay bận áo đuôi tôm trượt pa tanh ra sân khấu rồi bắt đầu chui xuống dưới mấy cái bàn con pha trò. Gã trượt rất khá, nhưng tôi thấy chán, vì hình dung thấy gã ngày nào cũng luyện tập để có thể trượt điệu đàng quanh sân khấu. Một việc làm ngu xuẩn. Sau gã là kịch câm về lễ Giáng sinh, năm nào họ cũng diễn cái này ở Radio City vào dịp lễ. Thiên thần chui ra từ cái thùng, rồi những kẻ nào đó vác hình người bị đóng đinh trên cây thánh giá vòng quanh sân khấu, sau đó ra sức gào lên bài Hãy đến đây, hỡi các đấng tin. Thật vướng mắt! Tôi biết, tất cả cảnh ấy được coi là ngoan đạo và đẹp, nhưng quỷ tha ma bắt, ở đây thì tôn giáo và vẻ đẹp ở chỗ quái nào cơ chứ, khi mà cả một đám diễn viên lôi cây thánh giá đi lòng vòng trên sân khấu. Sau khi hát xong, họ rẽ đi các ngả, thấy rõ là đang nóng ruột cuốn xéo đi hút thuốc và nghỉ thả sức. Năm ngoái, tôi đã xem cảnh này cùng Sally Hayes. Nó hân hoan suốt buổi - ôi, đẹp quá, ôi, quần áo mới tuyệt làm sao! Còn tôi thì bảo, chúa Giêsu tội nghiệp chắc sẽ phát buồn nôn khi nhìn vào mấy miếng giẻ hoá trang ấy. Sally nói tôi là kẻ nhạo báng Chúa và là kẻ vô thần. Có lẽ, đúng vậy thật. May ra có một thứ, mà có lẽ là chúa Giêsu có thểưa được - đó là gã đánh trống của dàn nhạc. Tôi nhớ gã từ lúc mới lên tám tuổi. Khi bố mẹ dẫn tôi và em Allie đến đây, bọn tôi thường ngồi sát dàn nhạc để nhìn gã này. Tôi chưa được thấy ai hay hơn gã. Thực ra, trong suốt tiết mục, gã chỉ được động đến trống có hai lần, nhưng trên mặt chả bao giờ buồn bã vì chờ đợi. Nhưng cuối cùng khi gã đánh vào mặt trống tất cả mới tốt đẹp, trong lành làm sao, thậm chí qua nét mặt cũng thấy rõ gã rất cố gắng. Khi chúng tôi cùng cha đến Washington, Allie gửi cho gã đánh trống này một tấm bưu ảnh, nhưng có lẽ gã chẳng nhận được. Chúng tôi không biết ghi địa chỉ như thế nào cho đúng mà.

Cuối cùng thì kịch câm Giáng Sinh cũng kết thúc và họ bắt đầu chiếu bộ phim chết tiệt ấy. Nó bỉổi đến mức tôi không thể rời mắt khỏi nó được. Phim về một gã người Anh tên là Alec, tôi không nhớ họ. Hắn ra trận rồi bị mất trí nhớở quân y viện. Xuất viện với cây gậy trong tay, hắn đi khập khiễng, khắp thành London và không biết mình đang ở đâu. Thực tế, hắn là một quận công, nhưng hắn chả nhớ điều đó. Rồi hắn gặp một cô gái không đẹp lắm, giản dị, trung thực, khi cô ấy leo lên xe buýt. Hắn nhặt cho cô cái mũ bị bay, rồi họ cùng nhau leo lên tầng trên và bắt đầu trò chuyện về Charles Dickens. Hoá ra họ cùng yêu thích nhà văn này. Hắn thậm chí còn mang theo cuốn Oliver Twist, cô gái cũng vậy. Tôi suýt nữa phát mửa. Tóm lại, họ phải lòng nhau ngay tức thì, vì cả hai cùng say đắm Dickens, rồi hắn giúp cô gái thu xếp công việc ở nhà xuất bản. Tôi quên nói, cô gái làm nghề xuất bản, nhưng công việc rất tồi tệ vì lão anh trai nghiện ngập, bao nhiêu tiền đều đem đi nốc hết. Gã này rất độc ác, đã từng là bác sĩ phẫu thuật trong chiến tranh và bây giờ không còn mổ được nữa.

Thần kinh gã rã rượi, chính thế mà gã nốc rượu như ngựa nốc nước ao, cả đêm lẫn ngày, mặc dù nhìn chung, gã cũng khá thông minh. Tóm lại, Alec viết một cuốn sách nhỏ, còn cô gái xuất bản nó, và họ hốt được cả đống tiền. Họ gần như đã định lấy nhau thì bỗng nhiên xuất hiện một cô Marcia nào đó. Cô này là vợ chưa cưới của Alec trước khi hắn bị mất trí nhớ, nhận ra khi hắn ký tặng cuốn sách nhỏ cho những người hâm mộ mình tại một cửa hiệu. Marcia nói với Alec khốn khổ rằng hắn là quận công thực sự, nhưng hắn không tin và cũng không muốn cùng cô đến thăm mẹ đẻ mình, một người đàn bà mù loà như chuột chũi vậy. Nhưng cô gái kia, cái cô không đẹp ấy, bắt hắn đi. Cô ta tốt bụng kinh khủng. Hắn đi, nhưng trí nhớ chẳng thèm trở về với hắn, thậm chí cả khi con chó gốc Đan Mạch khổng lồ nhảy lên mừng như hoá dại, còn bà mẹ ôm mặt hắn trong đôi tay và mang đến con gấu nhung mà hắn đã từng hôn hít suốt ngày hồi còn nhỏ. Nhưng rồi vào một ngày đẹp trời, bọn trẻ con chơi cricket trên bãi cỏ và đá một cú trời giáng, bóng rơi đúng đầu Alec. Tức thì trí nhớ trở lại, hắn chạy về nhà, hôn trán bà mẹ. Hắn lại trở thành quận công thực sự và quên hẳn cô gái giản dịở nhà xuất bản kia. Tôi muốn kể tiếp cho các bạn nghe sự việc tiếp theo, nhưng sợ mình phát lộn mửa. Vấn đề không phải chỗ tôi sợ làm hỏng ấn tượng của các bạn, chả có gì ở đó để có thể làm hỏng hết. Mọi sự kết thúc ở cảnh Alec cưới cô gái giản dị kia, còn gã anh của cô ta, lão bác sĩ phẫu thuật nghiện rượu ấy, sắp xếp lại bộ thần kinh của mình và phẫu thuật mắt cho mẹ Alec để bà già nhìn lại được, rồi cái lão nghiện ngập trước kia ấy và Marcia yêu nhau. Cảnh cuối là tất cả ngồi quanh một cái bàn dài khủng khiếp, cười đến vỡ bụng vì con chó Đan Mạch bỗng lôi đến cả một bầy chó con. Ai cũng nghĩ nó là chó đực, hoá ra là chó cái. Tóm lại, tôi có thể khuyên các bạn một lời: nếu các bạn không muốn nôn thẳng vào những người ngồi cạnh thì đừng đi xem phim này.

Nhưng có một người tôi không tài nào hiểu nổi là cái bà ngồi cạnh tôi, bà ta khóc suốt phim. Và càng lắm cảnh giả tạo bao nhiêu, bà ta càng khóc sướt mướt bấy nhiêu. Có thể nghĩ bà ta giàu lòng thương hại, tốt bụng, nhưng tôi ngồi cạnh nên thấy rõ bà ta nhân hậu thế nào. Đi với bà ta có đứa con trai nhỏ, nó chán đến mụ cả người và khóc nhè suốt buổi đòi ra nhà vệ sinh, nhưng bà ta không dẫn nó đi mà cứ luôn miệng nhắc - ngồi yên, cư xử cho phải lẽ. Chó sói có lẽ còn tốt bụng hơn. Tóm lại, nếu có chục người trong số khán giả khóc như cha chết, có thể nói như vậy, khi xem bộ phim giả tạo ấy, thì đến chín kẻ trong bụng lại là đồ súc sinh nhất. Tôi nói với bạn nghiêm chỉnh đấy.

Khi hết phim, tôi đến Wicker bar, nơi hẹn gặp thằng Carl Luce, và nghĩ về chiến tranh. Các phim chiến tranh thường gợi lên sự suy nghĩ. Có lẽ, tôi sẽ không chịu nổi, nếu phải ra trận. Nói chung tôi không thấy sợ nếu bị tống đi đâu và bị giết, nhưng phải vật vờ trong quân đội mất bao nhiêu thì giờ, có trời biết được. Bất hạnh chính là ở chỗ đấy. Anh trai tôi, D.B đã phải vật vờ như một thằng đốn mạt suốt bốn năm liền trong quân đội. Anh ấy đã từng tham gia mặt trận thứ hai, nhưng theo tôi, anh ấy căm thù việc đi lính hơn cả chiến tranh. Hồi đó, tôi còn rất nhỏ, nhưng tôi nhớ khi về nhà nghỉ phép, anh nằm trên gi.ường suốt buổi. Thậm chí anh cũng chả mấy khi bước ra phòng khách. Sau đó anh ấy lại rơi vào chiến tranh châu Âu nhưng không bị thương, thậm chí anh ấy cũng chả phải bắn vào ai hết. Ngày nào cũng chỉ làm mỗi một việc là chở ông tướng cao bồi nào đó trên chiếc xe tham mưu. Có lần, anh ấy nói với tôi và Allie là nếu buộc phải bắn, có lẽ anh ấy cũng không biết nhả đạn vào ai. Anh ấy nói, trong quân đội đầy kẻ súc sinh đê tiện, chẳng kém gì lũ phát xít. Tôi nhớ, Allie hỏi anh- có thể việc anh ấy ra trận là có ích vì bây giờ, anh là nhà văn, có quyền để viết. Thế là anh ấy bắt Allie mang đến cái bao tay chơi quần vợt có chép thơ trên đó rồi hỏi: ai viết về chiến tranh hay hơn: Rupert Brooke hay Emily Dickinson? Allie nói: Emily Dickinson. Tôi không nói được điều gì về chuyện này vì hầu như chả bao giờ đọc thơ. Nhưng tôi biết chắc một điều, tôi chắn chắn sẽ hoá điên nếu phải đi lính cùng những thằng giống Ackley, Stradlater và lão gác thang máy Moric, phải đi đều bước cùng bọn chúng, sống cùng chúng. Có lần phải làm hướng đạo sinh suốt một tuần, tôi bị dằn vặt khốn khổ khi cứ phải nhìn vào gáy thằng đứng trước. Mà lúc nào họ cũng bắt buộc bọn tôi phải nhìn gáy đứa đứng trước. Nói thật chứ, nếu có chiến tranh, hãy cứ để họ lôi tôi ra rồi xử bắn còn hơn. Tôi sẽ chống cự. Nhưng có một điều làm tôi bực mãi ông anh mình: anh ấy căm thù chiến tranh, vậy mà mùa hè năm ngoái lại đưa tôi đọc cuốn Giã từ vũ khí. Anh ấy bảo cuốn sách đó rất xúc động. Tôi không tài nào hiểu nổi truyện này. Có một nhân vật, tay trung uý Henry được coi là người rất tốt. Tôi không hiểu, tại sao anh D.B căm thù chiến tranh, căm thù quân đội mà lại vẫn khâm phục tay làm bộ làm tịch này. Không thể hiểu được tại sao anh ấy lại thích loại giả tạo ấy và đồng thời cũng thích cả Ring Lardner, cả Bố già nữa.

Tóm lại, tôi mừng vì loài người đã chế được bom nguyên tử. Nếu chiến tranh bắt đầu, tôi sẽ ngồi vào chính quả bomấy. Tình nguyện ngồi, tôi nói thành thực và đầy thiện chí đấy!
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Có lẽ bạn chưa từng sống ở New York nên không biết Wiker bar nằm trong một khách sạn rất sang trọng - Seton Hotel. Trước đây, tôi thường xuyên đến đó, nhưng sau lại thôi. Giờ thì tôi hoàn toàn không lai vãng tới đó nữa. Mọi người cho rằng đó là một khách sạn cực kỳ tao nhã nên tất tật bọn công tử bột đều mò đến. Chiều nào cũng có hai phụ nữ Pháp, Tina và Janine biểu diễn đến ba bận, họ chơi đàn dương cầm và hát. Một ả chơi đàn thối không tưởng được, còn ả kia hát toàn những bài bỉổi, không thì lại bằng tiếng Pháp. Ẳ Janine, ả hát ấy, thoạt đầu bước đến micro nói đớt một hồi, "Còn bây giờ chúng tôi gửi tới các bạn một bài hát nho nhỏ: Voulez-vous France. Bài này nói về một cô gái Pháp nhỏ bé đến một thành phố rất lớn, như Nu Oóc này, và yêu một cậu bé từ Brookeen đến. Chúng tôi tin rằng các bạn sẽ rất thít". Ẳ ngọng nghịu chán, rồi sau đó hát một bài chết giẫm nửa bằng tiếng Anh, nửa bằng tiếng Pháp, còn bọn công tử bột thì tất tật cả lũ bắt đầu phát cuồng lên vì khoái chí. Giá bạn ngồi đó lâu hơn một chút, nghe cái lũ không kiếp ấy vỗ tay rầm rập, bạn sẽ thấy căm thù cả cái thế giới này, tôi xin lấy danh dự ra thề như vậy. Cả bản thân lão chủ quán bar cũng đểu cáng tuy là một tay tốt mã khủng khiếp. Lão sẽ chẳng thèm nói với bạn câu nào, nếu bạn không phải là một nhân vật quan trọng hoặc nổi tiếng. Còn nếu ngược lại thì lão sẽ chạy ngược chạy xuôi long cả tóc gáy, nhìn mà phát buồn nôn. Hắn sẽ lại gần, cười ngoác miệng, thật hồn nhiên rồi hỏi: "Ở Connecticut các ngài thế nào?" hoặc "Thế còn Florida của ngài ra sao?" Một quán bar đê tiện, thực thế. Tôi hầu như không còn đến đó, cho tới hôm nay. Vẫn còn khá sớm, tôi ngồi xuống bên quầy bán đồăn- đông người quá, rồi uống một cốc whisky pha sô đa, không buồn đợi Luce. Tôi đứng lên khỏi ghế, khi kêu rượu cho họ thấy tôi cao lớn thế nào để khỏi coi tôi là thằng chưa đủ tuổi. Sau đó tôi nhìn quanh một lượt bọn công tử bột. Thằng ngồi cạnh tôi đang ra sức tán tỉnh cô bồ. Nó quả quyết là con bé có đôi tay quý tộc. Tôi nực cười quá thể. Còn ở góc kia của bar, một lũ tâm thần đang ngồi tụ lại. Dáng vẻ của chúng thực ra cũng không điên loạn lắm, không tóc dài, không có gì đại loại như thế, nhưng có thể xếp ngay vào chúng vào loại nào. Cuối cùng, Luce cũng dẫn xác đến.

Luce cùng một duộc. Loại như nó có thể vơ được cả mớ. Hồi bọn tôi còn học ở trường Whootton, nó được coi là đàn anh lớp lớn, phụ đạo tôi. Nhưng nó chỉ làm mỗi một việc là cho đề cập tới đủ thứ chuyện về t.ình d.ục lúc đêm khuya, khi bọn nhóc con chúng tôi tụ tập ở phòng nó. Nó biết rất rõ về mọi thứ, nhất là về bọn tâm thần. Tứ thời, nó kể cho tụi tôi nghe về bọn đồi bại nào đó chạy theo mấy con cừu cái hoặc dính quần lót đàn bà vào tấm lót mũ. Cái thằng Luce này thuộc lòng đứa nào pê đê, nửa con trai nửa con gái, biết gần như khắp nước Mỹ. Bạn cứ thử nêu ra một cái tên bất kỳ nào đó xem, Luce sẽ nói cho bạn ngay tức thì người đó có pê đê không. Nhiều lúc cũng thật khó tin rằng tất tật bọn tài tử xinê và bọn người đại loại đều là vậy. Vì nhiều người trong số bọn họ có gia đình. Có quỷ mới hiểu được, nó bịa chuyện đó từ đâu ra. Bạn cứ căn vặn nó đến cả trăm bận: "Không có lẽ Joe Blow cũng thuộc loại này! (Joe Blow một gã cao lớn, lực lưỡng, thường đóng vai một tên gangster hoặc cao bồi). Luce trả lời bạn ngay: "Hẳn thế rồi!". Nó tứ thời nói vậy. Nó bảo, lấy vợ hay không cũng chả có ý nghĩa gì hết. Rằng một nửa số người đã lập gia đình là đồi bại và chính bản thân họ cũng chẳng nghi ngờ gì. Nó nói, ai cũng có thể bất ngờ trở thành pê đê nếu đã tiềm ẩn tư chất đó. Nó doạ bọn tôi sợ gần chết. Nhiều đêm tôi không ngủ cứ sợ hoài, tự dưng tôi thành kẻ tâm thần thì sao? Nhưng nực cười nhất là, theo tôi, chính Luce cũng không được bình thường lắm. Nó ba hoa triền miên những gì có trời biết được, nó sẵn sàng ép chặt bạn đến chảy mỡở hành lang cho đến lúc nào bạn chết ngạt mới thôi. Tứ thời nó để ngỏ cửa nhà vệ sinh vào phòng rửa mặt, bạn đánh răng hay rửa tay, còn nó thì tán chuyện với bạn từ đó vọng ra. Theo tôi, đó cũng là một kiểu đồi bại nào đó, lạy Chúa. Trong các trường học, tôi thường gặp bọn tâm thần thực sự, và chúng tứ thời làm đủ trò kỳ cục. Bởi vậy, tôi mới nghi ngờ chính Luce cũng thuộc loại tâm thần. Nhưng nó thông minh cực kỳ, thực thế. Nó chả bao giờ chào hỏi, chả thèm "Hello". Còn lúc này, ngay lập tức nó tuyên bố, rằng nó chỉ đến một phút, rằng nó có hẹn. Sau đó nó tự gọi cho mình rượu Martini. Nó bảo người hầu bàn đừng pha loãng và đừng cho thêm bơ.

- Nghe này, nhắm cho ông anh một tên tâm thần cực kỳ, - tôi nói, - kia kìa, ở góc quầy bán đồăn ấy. Ông anh đừng nhìn vội. Em sẽ chỉ nó cho.

- Thật sắc sảo, - nó nói, - Mày vẫn là thằng Caulfield như xưa. Khi nào mày mới lớn, hả?

Rõ ràng là tôi kích động nó. Còn bản thân thì bắt đầu thấy nực cười. Loại người như nó bao giờ cũng làm tôi thấy vậy.

- Thế nào, cuộc sống riêng tư của ông anh ra sao? - Nó rất căm, khi nghe hỏi về vấn đề đó.

- Câm đi, - nó nói, - vì Chúa, mày hãy ngồi yên và đừng có ba hoa nữa.

- Em vẫn ngồi yên đấy chứ, - tôi nói. - Columbia thế nào, ông anh vẫn thích ở đó chứ?

- Hẳn thế rồi. Rất thích. Nếu không, tao đã chẳng đến đó, - nó nói. Đôi khi nó cũng khích được tôi.

- Thế ông anh chọn chuyên ngành nào? - tôi hỏi - Ông anh vẫn nghiên cứu mấy thứ đồi bại đấy chứ? - Tôi muốn trêu chọc nó.

- Hình như mày muốn pha trò phải không? - Nó cáu kỉnh.

- Không đâu, em chỉ hỏi vậy thôi, - tôi nói. - Luce, nghe này, ông anh vốn thông minh h ọc rộng. Em cần một lời khuyên. Em đang lâm vào cảnh khủng khiếp... Nó rống lên:

- Ồ, Caulfield, im đi! Chả lẽ mày không thể ngồi yên một chút, nói...

- Thôi được, thôi được, - tôi nói. - Ông anh đừng lo!

Rõ ràng nó không mu ốn nói chuyện nghiêm chỉnh với tôi. Thật khốn khổ với những thằng thông minh. Chúng chẳng bao giờ có thể làm được điều đó, dù chỉ một chút với người khác nếu không có tâm trạng phấn khởi. Đành phải tán những chủ đề chung chung với nó vậy.

- Không, em hỏi nghiêm chỉnh đấy, cuộc sống riêng của ông anh dạo này thế nào? Ông anh v ẫn cặp kè như trước với con búp bê ấy chứ hồi còn ở Whootton ấy? Con bé có...

- Ôi lạy Chúa, dĩ nhiên là không!

- Sao lại thế? Thế bây giờ nó ấy ở đâu?

- Tao chả biết tí tẹo nào hết. Nếu mày muốn biết, thì nó, theo tao, đã trở thành loại điếm lang thang của New Hamsphire rồi.

- Thật đê tiện! Nếu nó đã cặp kè với anh lâu đến vậy, ít ra ông anh cũng không nên nói những lời đểu cáng về nó!

- Ôi thằng quỷ! - Luce nói. - Không có lẽ lại sắp sửa bắt đầu cuộc nói chuyện đặc kiểu Caulfield ư? Ít ra mày cũng nên báo trước cho tao chứ...

- Chả bắt đầu gì hết. - tôi nói, - nhưng dù sao cũng thật đê tiện. Nếu con bé đã đối xử với ông anh tốt như vậy, đã cho phép anh...

- Không lẽ mày buộc phải tiếp tục bài diễn văn không ngửi nổi này mãi sao?

Tôi không nói gì n ữa. Tôi sợ nếu không im, nó sẽ đứng dậy bỏ đi mất. Đành phải gọi thêm một cốc whisky nữa. Tự dưng tôi muốn nói quá trời.

- Hiện giờ ông anh cặp bồ với ai? Có thể kể cho em nghe được không? Dĩ nhiên nếu anh muốn!

- Mày không biết cô ta đâu.

- Thế bỗng nhiên em biết thì sao? Cô ấy là ai vậy?

- Một nhân vật từ Greenwich Village. Nhà điêu khắc, nếu mày nóng lòng muốn biết.

- Rồi sao? Có nghiêm chỉnh không? Cô ấy bao nhiêu tuổi?

- Trời ơi, chả lẽ tao lại đi hỏi tuổi cô ấy!

- Thế độ khoảng bao nhiêu?

- Ừ, có lẽ khoảng ngoài ba mươi, - Luce nói.

- Ngoài ba mươi? Thật ư? - tôi hỏi - Anh thích già? - Tôi hỏi nó chủ yếu là vì nó thực sự hiểu biết vấn đề này. Ít người hiểu biết được như nó. Nó đã mất trong trắng từ hồi mười bốn tuổi ở Nantucket, thật đấy!

- Mày muốn biết, tao có thích loại đàn bà chín chắn không ư? Hẳn thế rồi!

- Vậy à? Tại sao? Không lẽ với họ lại thú vị hơn?

- Nghe này, tao nhắc lại cho mày một lần nữa, chấm dứt ngay lối lục vấn Caulfield này đi, ít nhất trong tối nay. Tao không thèm trả lời nữa đâu. Bao giờ mày mới người lớn được chứ, quỷ tha ma bắt?

Tôi không tr ả lời. Tôi quyết định im một phút. Sau đó, Luce gọi thêm Martini không pha.

- Ông anh nghe này, dẫu sao cũng nói đi chứ, ông anh sống với côấy lâu chưa, cái cô nặn tượng ấy? - Tôi thực sự thích thú chuyện này. - Anh quen với cô ấy từ thời ở trường Whootton chứ?

- Không. Nàng mới đến Hoa Kỳ cách đây vài tháng.

- Thật à? Cô ấy từ đâu đến?

- Hãy tưởng tượng xem- từ Thượng Hải đấy.

- Đừng xạo! Người Hoa ư?

- Hẳn thế rồi!

- Ông anh thích thế à? Thích cô gái người Hoa ấy ư?

- Thích chứ, hẳn thế rồi.

- Nhưng tại sao? Em rất muốn biết, tại sao nào?

- Đơn giản là triết học Đông phương làm tao thoả mãn hơn triết học Tây phương, nếu mày nhất định cần phải biết.

- Triết học nào? t.ình d.ục ư? Thế nào, chả lẽ cái đó ở Trung Hoa lại hay hơn sao? Ông anh nói về cái đó phải không?

- Không, tao chẳng nói về Trung Quốc. Tao nói chung về phương Đông. Trời ơi! Không lẽ cứ phải tiếp tục câu chuyện vô lý này sao?

- Ông anh nghe này, em hỏi nghiêm chỉnh đấy - tôi nói. - Em không đùa đâu.

Sao ở phương Đông cái đó lại hay hơn?

- Giải thích rất khó, mày hiểu không? - Luce nói. Đơn giản là họ cho rằng tình yêu - đó là sự giao tiếp không chỉ thể xác mà cả tâm hồn. Ồ, mà tại sao tao lại bắt đầu nói cho mày...

- Nhưng em cũng cho là vậy! Em cũng cho cái đó là, ông anh nói thế nào nhỉ? - cả tâm hồn, lẫn thể xác. Thật đấy, em cũng cho là vậy. Nhưng tất cả đều phụ thuộc vào người mà mình yêu. Nếu với một ai đó mà mình tuỵêt nhiên...

- Mày đừng có rống lên như thế, lạy Chúa! Nếu mày không thể nói nhỏ được thì ta sẽ dừng cuộc...

- Thôi được, thôi được, chỉ có điều ông anh hãy nghe hết đã? - Tôi hơi xúc độ ng một chút và đúng là đã nói khá to. Thường khi bị xúc động tôi nói rất to. Ông anh hiểu em muốn nói gì không: em biết, sự giao tiếp cần phải cả thể xác lẫn tâm hồn, và đẹp, nói chung là vậy. Nhưng ông anh hiểu cho, không thể như thế với tất cả bọn con gái mà mình hôn, không thể được! Còn ông anh có thể không?

- Chúng ta dừng lại ở đây nhé, - Luce nói. Mày không phản đối chứ?

- Được thôi, nhưng dẫu sao ông anh hãy nghe hết đã! Ví như cô người Hoa này. Giữa ông anh với cô ấy có cái gì đặc biệt hay nào?

- Tao đã bảo thôi ngay cơ mà!

Dĩ nhiên, không nên thọc vào chuyện đời tư của nó. Tôi biết điều này. Nhưng Luce là thằng quỷ cực kỳ khó chịu. Khi bọn tôi còn học ở Whootton, nó bắt tôi tả những day dứt, ưu tư thầm kín nhất của tôi, vậy mà vừa mới hỏi lại, nó đã nổi khùng. Những thằng thông thái lại hoá ra không thích nói chuyện thông thái chút nào, chúng chỉ thích ba hoa rỗng tuyếch thôi. Chúng cho là, nếu chúng im, bạn cũng phải vậy, nếu chúng bỏ vào phòng mình, thì bạn cũng nên biết điều bỏ đi. Hồi tôi còn học ở Whootton, Luce rất căm, nếu bọn tôi tự mở đầu câu chuyện sau khi nó kể cho tất cả một chuyện gì đó. Thậm chí, nếu bọn tôi tụ tập ở phòng khác, tôi và lũ bạn của mình, Luce cũng không chịu nổi điều đó. Nó tứ thời đòi hỏi tất cả giải tán về phòng mình và ngồi lì ở đó, một khi nó đã thôi ba hoa. Nguyên do là ở chỗ nó sợ bỗng ai đó nói được câu gì thông thái hơn mình. Dẫu sao, nó cũng là loại lố bịch hết sức.

- Có lẽ phải đến Trung Quốc thôi, - tôi nói.- Đời tư của em chẳng ra quái gì hết.

- Đúng thôi. Đầu óc mày chưa được chín chắn.

- Đúng. Rất đúng, tự em biết, - tôi nói.- Nhưng ông anh có hiểu khốn khổở chỗ nào không? Em không thể có được hưng phấn thực sự, ông anh hiểu không, hưng phấn thực sựấy, nếu em không thấy thích đứa con gái ấy, nó phải làm em thích. Còn nếu không thích thì em không thể thèm muốn dù chỉ chút ít. Lạy Chúa! Địa ngục chứ không phải đời!

- Ồ, dĩ nhiên rồi, quỉ tha ma bắt! Tao đã bảo mày từ lần trước rằng mày phải làm gì rồi.

- Đến bác sĩ tâm lý à? - Tôi nói. Lần trước nó khuyên tôi như vậy. Bố nó là bác sĩ phân tích tâm lý.

- Đó là việc của mày, ôi trời! Việc gì tao phải bận tâm về những việc mày làm? Tôi không nói gì hết. Tôi nghĩ.

- Thôi được, cứ cho là em sẽ đến chỗ bố anh và đề nghị bác phân tích tâm lý cho em, - tôi nói. - Thế bác sẽ làm gì em nào? Anh nói đi, bác sẽ làm gì?

- Ông ấy chả làm quái gì mày sất. Sẽ chỉ hỏi chuyện mày, và mày cũng nói với ông ấy. Thế nào, mày không hiểu gì sao? Chủ yếu là ông ấy sẽ giúp mày hiểu được cấu trúc những ý nghĩ của mày.

- Cái gì, cái gì kia chứ?

- Cấu trúc ý nghĩ. Mày bị rối trí trong một mớ bòng bong những cái phức tạp.

Ôi quỷ thần! Chả lẽ tao lại phải giảng lại chương trình phân tích tâm lý cho mày hay sao? Nếu muốn, đến mà ghi tên ở phòng tiếp bệnh nhân của bố tao, còn không muốn thì thôi! Tao không chút bận tâm đến, nói thực tình đấy. Tôi đặt tay lên vai nó. Tôi cảm thấy nực cười kinh khủng.

- Ông anh là một thằng bạn chân chính đấy, đồ chó đẻạ? - Tôi nói. - Ông anh biết điều đó chứ? Nó nhìn đồng hồ.

- Tao phải biến đây! - Nó nói rồi đứng lên - Rất hân hạnh gặp mày. - Nó gọi hầu bàn đến tính tiền.

- Nghe này!- tôi nói - Thế ông bô đã bao giờ phân tích tâm lý cho ông anh chưa?

- Tao á? Thế mày hỏi làm gì?

- Hỏi vậy thôi. Đã bao giờ chưa?

- Biết nói thế nào. Không hẳn vậy. Ông ấy chỉ giúp tao tiếp cận với đời thôi, còn phân tích sâu thì chả cần. Thế sao mày lại hỏi vậy?

- Hỏi chơi thôi. Em thấy thú vị.

- Thôi, từ biệt! Chúc hạnh phúc!- Luce đặt tiền xuống bàn, định bỏ đi.

- Uống thêm với em chút nữa! - Tôi năn nỉ. - Xin ông anh đấy. Em đang sầu muốn chết đây. Ở lại đây đi, em nói nghiêm chỉnh đấy!

Luce nói là không thể được, rằng đến bây giờ là nó cũng đã bị muộn mất rồi, sau đó bỏ đi.

Phải, Luce, nó chán chết nhưng có vốn từ thật khổng lồ. Trong tất cả học sinh trường tôi, nó có kho ngôn từ giàu nhất. Người ta đã tiến hành những kiểm nghiệm đặc biệt đối với bọn tôi, và đưa ra kết luận đó.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Tôi ngồi, nốc rượu không ngừng, đợi Tina và Janine bước ra nhưng hoá ra họ không còn ở đây. Một gã giống hệt đàn bà, tóc uốn xoăn tít bắt đầu chơi đàn dương cầm, sau đó một cô nàng duyên dáng, Valencia, bước ra hát. Chả có gì tốt đẹp ởả cả, nhưng dù sao ả vẫn còn hơn hai chị người Pháp kia, ả còn hát được những bài tử tế. Dương cầm ở sát quầy bán thức ăn, nơi tôi ngồi, và cái ả Valencia ấy đứng khá gần tôi. Tôi nháy mắt với ả chút đỉnh, nhưng ả làm ra vẻ không nhận thấy. Có lẽ bình thường tôi cũng chẳng thèm làm điều đó nhưng tôi đã say mèm. Hát xong ả biến nhanh đến mức tôi không kịp mời ở lại uống chút đỉnh cùng tôi. Tôi gọi đầu bếp đến, bảo gã hỏi xem mụ già Valencia có muốn đi uống với tôi không. Hắn nói, sẽ hỏi ngay tắp lự, nhưng có lẽ hắn chẳng thèm chuyển lời đề nghị của tôi. Chẳng ai buồn chuyển hộ điều gì bao giờ, nếu bạn đề nghị.

Tôi ngồi trong cái bar chết giẫm ấy đến tận một giờ đêm, nốc vô tội vạ như một con sâu rượu. Tôi hoàn toàn say. Nhưng có một điều mà tôi vẫn nhớ rõ, không được làm ồn, không được gây lộn. Tôi không muốn mọi người chú ý đến tôi rồi lại hỏi bao nhiêu tuổi, chả hay ho quái gì hết. Nhưng tôi say quá chừng, thật khủng khiếp! Mà khi đã say thực sự thì tôi lại bắt đầu nghĩ ra cái tích chết giẫm này, cứ như có viên đạn nằm trong ruột tôi. Tôi ngồi ở bar với viên đạn găm trong ổ bụng. Lúc nào tôi cũng để một tay dưới áo để máu không nhỏ xuống sàn vì không muốn để lộ việc mình bị thương. Tôi giấu kín điều tôi, một thằng ngốc, bị thương. Rồi bỗng nhiên tôi muốn gọi điện cho Jane kinh khủng, để biết xem nàng đã về nhà chưa. Tôi bước đi tay vẫn cứ giữ chặt vết thương để máu khỏi nhỏ giọt. Tôi uống đến mức như vậy đấy!

Nhưng khi đã vất vả chui được vào một trạm điện thoại, tôi chẳng còn tâm trạng gọi cho Jane nữa. Có lẽ, tôi đã quá say. Thế vào đó, tôi gọi cho Sally.

- Allo! - Tôi la lên, khi thấy có người nhấc cái máy chết dẫm ấy lên. Thậm chí không phải là la nữa, mà là rống lên, tôi say quá mà.

- Ai gọi đó? - Một giọng đàn bà lạnh ngắt hỏi.

- Cháu đây. Holden Caulfield đây. Làm ơn gọi hộ Sally...

- Sally ngủ rồi. Bà nó đang nói đây. Tại sao anh gọi khuya vậy, Holden? Anh có biết mấy giờ rồi không?

- Cháu biết. Cháu cần nói chuyện với Sally. Rất quan trọng. Bà gọi côấy cho cháu.

- Sally ngủ rồi, anh bạn trẻạ. Mai gọi lại nhé. Chúc ngủ ngon!

- Đánh thức cô ấy dậy. Này, đánh thức cô ấy dậy. Bà nghe thấy không!

Rồi bỗng nhiên một giọng khác vang lên.

- Holden, tôi đây. - Hoá ra là Sally. - Lại một trò gì nữa đấy?

- Sally? Em đấy ư?

- Phải. Phải. Xin đừng có gào lên! Anh say phải không?

- Aha! Em nghe này! Nghe này, ê! Anh sẽ đến vào ngày trước lễ Giáng Sinh, đồ ng ý không? Anh sẽ cùng em chuẩn bị cái cây thông chết giẫm ấy.Được không? Này, Sally, được không?

- Được. Anh say quá rồi. Đi ngủ đi. Anh đang ở đâu, và đi với ai?

- Sally? Anh sẽ đến chuẩn bị cây thông, được chứ? Em nghe thấy không? Được chứ? Hả?

- Được mà. Còn bây giờ, anh đi ngủ đi. Anh ở đâu? Anh đi với ai vậy?

- Không ai cả. Anh, con người anh và chính bản thân anh. - Chà! Tôi say quá chừng! Tôi đứng ôm bụng: - Anh bị bắn lén! Bọn cướp Rocky giết anh. Em nghe thấy không. Sally! Sally! Sally này, em nghe thấy anh nói chứ!

- Em chả hiểu gì cả. Em cũng cần đi ngủ. Mai anh gọi lại nhé.

- Nghe này, Sally! Em có muốn anh đến tân trang cây thông không? Muốn không hả?

- Vâng! Vâng. Chúc anh ngủ ngon!- Rồi nó treo ống nói.

- Chúc ngủ ngon! Chúc ngủ ngon, Sally, em thân yêu! Mặt trời bé nhỏ của anh, cô bé đáng yêu của anh! - Tôi rên rỉ. Bạn có hình dung nổi tôi say đến mức nào không?

Sau đó, tôi đành treo ống nghe lên và nghĩ, có lẽ nó mới đi chơi về. Tự nhiên tôi tưởng tượng nó vui vẻở nơi nào đó cùng vợ chồng Lunt và thằng công tử bột từ Andover kia. Hình như chúng tụ trong một cái ấm trà khổng lồ và chuyện trò bằng thứ giọng cố tình thanh tao, điệu bộ phô trương, uốn éo. Tôi nguyền rủa mình vì đã gọi điện cho nó. Nhưng khi đã nốc say, tôi cứ như thằng không bình thường vậy.

Tôi đứng trong trạm điện thoại chết giẫm ấy khá lâu, ôm chặt máy để khỏi bất tỉnh. Nói thật, tôi cảm thấy trong người mệt quá chừng. Cuối cùng, tôi cũng ra khỏi được chỗ đó và vào nhà vệ sinh nam, chuệnh choạng như một thằng ngốc. Ở đó, tôi mở nước lạnh chảy đầy bồn rồi chúi đầu xuống cho nước ngập đến tận tai. Sau đó tôi cũng chả thèm lau đầu. Kệ thây nó, tôi nghĩ, cho nước chảy ướt rườn rượt như chuột lột. Sau đó, tôi lại gần máy thông hơi, bên cửa sổ, ngồi lên nó. Nó ấm áp quá chừng. Ngồi đó thật dễ chịu và tôi thì đang lạnh run như chó sói. Thật nực cười, nhưng cứ mỗi lần uống say, tôi lại lên cơn sốt.

Chả có việc gì làm cả, tôi ngồi trên cái máy thông hơi đếm gạch hoa trắng dưới sàn. Tôi ướt quá trời. Nước từ đầu chảy xuống cổ, cà vạt ướt sũng, cả cổ áo nữa, nhưng tôi nhổ toẹt vào chuyện đó. Bỗng gã đệm đàn cho Valencia, cái thứ công tử bột chết giẫm giống hệt đàn bà, có bộ tóc xoăn tít, bước vào, tay vuốt vuốt mái tóc quăn vàng của hắn. Tôi nói chuyện trong lúc gã chải đầu, dù gã chẳng niềm nở với tôi mấy.

- Nghe này, anh sẽ thấy cô Valencia khi trở về gian phòng chính chứ?- Tôi hỏi.

- Không loại trừ khả năng đó! - Gã trả lời. Gã khích đấy, rõ đồ ngu. Tôi thật may với mấy thằng ngu hóm hỉnh.

- Nghe này, anh chuyển hộ lời chào của tôi đến cô ấy nhé. Hỏi hộ xem lão đầu bếp đểu cáng đã chuyển lời của tôi đến cô ấy chưa, được không?

- Sao cậu chưa về nhà hả Mac. Của đáng tội, cậu bao nhiêu tuổi hả?

- Tám mươi sáu. Nghe này, hãy chuyển lời chào của tôi đến cô ấy nhé. Được không?

- Sao cậu không về nhà hả Mac?

- Không về! Ồ anh chơi đàn dương cầm tuyệt thật, quỷ tha ma bắt!

Tôi cố tình nói dối. Thực ra, gã chơi thối không ngửi nổi.

- Lẽ ra anh phải biểu diễn trên Đài mới đúng. - Anh lại đẹp nữa. Tóc vàng quăn tít, và đại loại như vậy. Anh cần người chủ thầu tổ chức biểu diễn hả?

- Về nhà đi, Mac. Hãy tỏ ra thông minh một chút, về nhà đi ngủ đi.

- Tôi chả có nhà cửa nào hết. Thực đấy, anh cần người chủ thầu tổ chức biểu diễn phải không?

Gã thậm chí không buồn trả lời. Gã bước ra, ép mớ tóc quăn xuống rồi bỏ đi. Giống hệt thằng Stradlater. Tất tật lũ chó má đẹp mãấy giống hệt nhau. Chúng chải tóc, tỉa tót xong rồi bước đi bỏ lại bạn một mình.

Cuối cùng khi rời máy thông hơi về phòng gửi áo ngoài, tôi khóc rống lên. Chả có lý do nào hết, cứ đi và gào lên. Có lẽ, đó là vì tôi rất cô đơn và rầu rĩ. Khi lại gần phòng gửi áo ngoài, tôi không sao tìm được số của mình. Nhưng bà giữ áo hoá ra rất tốt. Bà ấy trả bành tô cho tôi mà không cần số. Và cả chiếc đĩa hátCô bé Chirley Beans, tôi cứ thế cầm nó theo. Tôi muốn cho bà giữ áo một đô vì lòng tốt của bà, nhưng bà ấy không nhận. Bà ấy ra sức thuyết phục tôi lập tức về nhà đi ngủ. Tôi cố hẹn gặp bà, nhưng bà không muốn. Bà nói bà đáng tuổi mẹ tôi. Lúc đó, tôi cho bà xem túm tóc bạc trắng của mình rồi nói, tôi đã bốn mươi tư tuổi - tôi đùa, dĩ nhiên rồi. Bà ấy thật tốt bụng. Thậm chí bàấy thích cả cái mũ thợ săn chết dẫm của tôi và nhắc tôi đội vào vì tóc đang ướt đẫm. Một phụ nữ tuyệt vời.

Ngoài trời, cơn say của tôi biến sạch. Lạnh khủng khiếp, răng tôi không đập nổi vào nhau. Tôi run rẩy toàn thân, không sao ghìm được. Tôi đến đại lộ Medison đợi xe buýt, tôi gần như hết sạch tiền nên không thể gọi taxi được. Nhưng tôi ghét lên xe buýt quá chừng. Ngoài ra, chính tôi cũng không biết mình sẽ phải đi đâu. Thế nên thử đi qua cái hồ nhỏ xem lũ vịt quái quỉ có đó không. Đến giờ tôi vẫn chưa biết điều đó. Công viên ở gần đây, mà tôi cũng chả có nơi nào để đi, thậm chí không biết sẽ ngủ đêm ở đâu, nên cắm đầu chạy thẳng đến đó. Tôi không thấy mệt, nói chung, chả cảm thấy gì hết ngoài nỗi buồn khủng khiếp.

Tôi vừa vào công viên thì xảy ra một việc khốn kiếp. Tôi đánh rơi đĩa hát của em tôi. Nó vỡ tan thành nghìn mảnh, tuy vẫn nằm trong cái bao giấy rộng nhưng đã nát vụn. Tôi suýt khóc rống lên, tôi tiếc cái đĩa quá chừng, nhưng chỉ móc những mảnh vụn ra khỏi bao giấy, nhét vào túi áo. Chả còn gì cứu vãn được nữa, nhưng tôi không muốn vứt đi. Tôi đi dọc công viên. Bóng tối ở đây thật khủng khiếp.

Cả đời tôi sống ở New York và biết rõ công viên trung tâm này như lòng bàn tay mình. Từ nhỏ tôi đã trượt băng trên đôi giày trượt có bánh, rồi đi xe đạp ở đấy - thế mà tôi không tài nào tìm nổi cái hồ nhỏ. Tôi biết rành rành - nó ở gần Cửa Nam, nh ưng không sao tìm ra nổi. Có lẽ tôi say hơn mình tưởng. Tôi cứ đi mãi, trời tối hơn, và mỗi lúc càng khủng khiếp. Tôi không gặp phải ai hết, lạy Chúa, có lẽ tôi sẽ nhảy dựng lên vì sợ nếu chẳng may gặp phải kẻ nào. Cuối cùng tôi cũng tìm ra được cái hồ. Nhưng chả có lũ vịt nào ở đó. Tôi đi vòng quanh hồ suốt lượt, thiếu chút nữa thì ngã xuống đó, nhưng không thấy một con nào. Tôi nghĩ, có thể chúng đang ngủ bên bờ, trong các lùm cây, nếu vẫn còn ở đây. Chút nữa tôi lộn cổ xuống nước, vậy mà chả tìm ra nổi con vịt nào.

Cuối cùng tôi ngồi xuống ghế băng, chỗ đó không đến nỗi tối tăm lắm. Tôi run như một thằng khốn nạn, tócở gáy biến thành những que băng nhỏ dù đã đội mũ săn. Tôi phát hoảng, bỗng nhiên tôi bị sưng phổi rồi chết thì sao? Tôi hình dung cả triệu thằng giả đối đến dự đám tang tôi. Cả ông nữa, ông từ Detroit đến, ông thường gào lên tên đường phố, khi tôi đi xe buýt cùng ông, còn các bà cô sẽ chạy lại - chỉ riêng các bà cô tôi đã có đến năm chục người, và tất tật đều là cặn bã. Sẽ có một đám đông khổng lồ, chả có thể nói thêm được điều gì nữa. Tất tật bọn họ đã bổ nhào đến khi Allie chết, cái lũ chết giẫm ấy. Anh D.B kể, có một bà cô ngu xuẩn, mồm tứ thời bốc mùi, cứ khóc mãi rằng thằng bé nằm ngoan quá. Tôi không có ở đó, lúc đó tôi nằm viện vì cứa phải tay sâu quá, buộc phải chữa chạy.

Còn lúc này tự nhiên tôi lại nghĩ mình sẽ bị sưng phổi, tóc hoá thành băng hoàn toàn và tôi sẽ chết. Tôi thấy thương bố mẹ. Nhất là mẹ, bà vẫn chưa kịp trấn tĩnh sau cái chết của Allie. Tôi hình dung bà đứng mãi không biết cất quần áo và đồ thể thao của tôi vào đâu. Chỉ có một điều an ủi tôi, người ta sẽ không để em gái tôi đến dự đám ma chết giẫm của tôi, vì nó còn quá nhỏ. Một sự an ủi duy nhất. Nhưng rồi tôi lại hình dung thấy cả đoàn người quái quỷấy vùi tôi trong nghĩa địa, đặt tôi lên tảng đá có khắc tên. Xung quanh rặt thây ma. Phải, vừa mới chết, họ đã vùi ngay bạn xuống đất! Chỉ còn một hy vọng, khi tôi chết sẽ tìm được một người thông minh và hắn sẽ quẳng tôi xuống sông. Quẳng đâu cũng được, miễn là đừng có bị ném vào cái nghĩa địa ngàn lần đáng nguyền rủa ấy. Lại còn đến viếng thăm bạn mỗi chủ nhật, đặt hoa lên bụng bạn nữa. Cùng một trò vớ vẩn chết giẫm! Người chết thì cần quái gì hoa cơ chứ? Ai còn cần đến chúng?

Lúc trời đẹp, cha mẹ tôi thường ra nghĩa địa đặt hoa lên mộ Allie. Tôi đi cùng họ hai lần rồi thôi. Thứ nhất chả vui vẻ gì khi phải thấy nó trong cái nghĩa trang đê tiện này. Nó nằm đó, xung quanh toàn thây ma cùng bia kỷ niệm. Khi có nắng thì không sao, nhưng cả hai lần, chúng tôi ở đó, tự nhiên trời bắt đầu mưa. Không thể chịu nổi. Mưa rơi thẳng xuống mộ, xuống đám cỏ mọc trên bụng thằng bé. Mưa như trút nước. Tất cả những người thăm mộ bỗng chạy ra xe như phát cuồng, bật ra điô rồi phóng đến một nhà hàng khá giả nào đó ăn trưa. Với ai cũng có thể làm như vậy được, trừ Allie của tôi. Thật đê tiện không chịu nổi. Tôi biết, ở ngoài đó, chỉ có thân xác nó, còn linh hồn nó đã lên trời, nhưng tôi vẫn không chịu đựng nổi. Tôi không muốn nó nằm đó chút nào. Các bạn không biết nó chứ, nếu biết thì đã hiểu cho tôi. Khi trời nắng, thì không đến nỗi não, nhưng trời chỉ nắng khi trời muốn mà thôi.

Rồi bỗng nhiên, để khỏi nghĩ đến chứng sưng phổi, tôi móc tiền ra đếm, dù đèn đường hầu như chả có. Tôi còn cả thảy ba đô, tôi đã phung phí cả một gia tài từ lúc rời Pencey. Tôi lại gần hồ, lần lượt thả từng đồng xuống chỗ nước không đóng băng. Tôi không biết mình làm thế để làm gì, có lẽ để lãng quên mọi ý nghĩ về bệnh sưng phổi và cái chết. Nhưng tôi không quên nổi.

Tôi lại nghĩ, chuyện gì sẽ xảy ra với Phoebe khi tôi có kết cục khủng khiếp thế. Dĩ nhiên, nghĩ đến chuyện này thật ấu trĩ. Nhưng tôi đã không thể dừng lại được. Con bé đối xử với tôi rất tốt. Nó yêu tôi thực sự. Tôi không tài nào vứt bỏ được những ý nghĩ ngu xuẩn chết giẫm ấy ra khỏi đầu óc và cuối cùng quyết định làm việc này, về nhà nhìn nó dù sau đó có thể thực sự bị sưng phổi rồi chết. Chìa khoá nhà tôi có mang theo người, và tôi định hành động như sau, mò vào nhà thật khẽ rồi nói với Phoebe dù chỉ một lời. Chỉ có một điều làm tôi lo ngại, cửa chính nhà tôi cứ rít lên cọt kẹt suốt. Toà nhà ấy khá cũ, người quản lý lười như quỷ. Cửa vào tất cả các hộ đều cọt kẹt. Tôi sợ bỗng cha mẹ tôi nghe thấy tôi về thì sao. Nhưng tôi vẫn quyết thử xem sao.

Tôi ra khỏi công viên, đi về nhà. Tôi đi bộ suốt. Chúng tôi sống không xa công viên lắm, và tôi chẳng mệt mỏi chút nào, cả cơn say cũng biến mất. Chỉ có điều, tôi đang lạnh ghê người và xung quanh chả có ma nào hết.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
×
Quay lại
Top