“Áp chế tài chính và quan điểm tự do hóa lãi suất ở Việt Nam”

luongthanhtuyen

hoàn hảo a
Thành viên thân thiết
Tham gia
4/1/2012
Bài viết
179
MỤC LỤC
Lời mở đầu............................................................................................................................ i
Chương 1: Tổng quan về áp chế tài chính và vấn đề lãi suất ngân hàng ở Việt Nam
1.1. Tổng quan về áp chế tài chính........................................................................................ 1
1.1.1. Quan điểm về áp chế tài chính................................................................................... 1
1.1.2. Áp chế tài chính bằng công cụ lãi suất...................................................................... 2
1.1.2.1.Các chính sách kiểm soát lãi suất.............................................................................. 2
1.1.2.2.Áp chế tài chính và tiết kiêm đầu tư.......................................................................... 3
1.1.2.3. Áp chế tài chính và thị trường tài chính................................................................... 3
1.1.2.4. Áp chế tài chính và cung tiền tệ............................................................................... 5
1.1.3. Các mô hình áp chế tài chính..................................................................................... 5
1.1.3.1.Mô hình McKinnon.................................................................................................. 5
1.1.3.2. Mô hình Shaw........................................................................................................... 5
1.1.4. Các tác đông của áp chế tài chính................................................................................ 5
1.2. Tổng quan về tự do hóa lãi suất.................................................................................... 6
1.2.1. Khái niệm về lãi suất.................................................................................................... 6
1.2.2. Lãi suất cơ bản............................................................................................................. 7
1.2.2.1. Khái niệm về lãi suất cơ bản..................................................................................... 7
1.2.2.2. Các quan điểm về lãi suất cơ bản.............................................................................. 7
1.2.3. Vấn đề tự do hóa lãi suất ở Việt Nam......................................................................... 8
Chương 2: Thực trạng về áp chế tài chính và vấn đề lãi suất ở Việt Nam
2.1. Thực trạng về áp chế tài chính ở Việt Nam................................................................... 11
2.1.1. Quá trình phát triên của hệ thống tài chính việt nam................................................. 11
2.1.2. Chính sách lãi suất..................................................................................................... 11
2.1.2.1.Chính sách tín dụng tự do........................................................................................ 11
2.1.2.2.Chính sách trần lãi suất............................................................................................. 11
2.1.2.3.Chính sách lãi suất giai đoạn 2000 – 2002................................................................ 12
2.1.3. Thực trạng áp chế tài chính ở Việt Nam hiên nay..................................................... 12
2.1.3.1.Thực trạng tài chính Việt Nam khi thực hiện trần lãi suất........................................ 12
2.1.3.2.Vòng xoáy tăng trưởng kinh tế................................................................................ 16
2.2. Thực trạng tự do hóa lãi suất ở Việt Nam..................................................................... 18
2.2.1 Thực trạng thị trường................................................................................................... 18
2.2.2 Định hướng chính sách................................................................................................. 22
2.2.3 Định hướng điều hành lãi suất ở Việt Nam.................................................................. 24
Chương 3: Giải pháp hạn chế nhược điểm của áp chế tài chính và thực hiện quan điểm tự do hóa lãi suất ở Việt Nam
3.1. Giải pháp hạn chế nhược điểm của áp chế tài chính....................................................... 28
3.2. Biện pháp thực hiện quan điểm tự do hóa lãi suất có hiệu quả...................................... 28
Kết luận................................................................................................................................. iii
Danh mục tài liệu tham khảo................................................................................................. iv

LỜI MỞ ĐẦU
Ở hầu hết các nước đang phát triển, các chính phủ thường can thiệp hành chính vào hệ thống tài chính nhằm huy động và hướng vốn đầu tư mà các hoạt động mà chính phủ thấy cần thiết cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế cũng như đưa đất nước phát triển ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới. Một hệ thống tài chính bị chính phủ trực tiếp can thiệp hành chính khiến thị trường tài chính trong nước bị biến dạng được gọi là “sự áp chế tài chính”.
Trong 30 năm trở lại đây, hội nhập kinh tế thế giới ngày càng diễn ra mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực và trở thành xu thế của thời đại. Trong xu thế đó, Việt Nam đã chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế bằng nhiều con đường như: gia nhập khối ASEAN, tham gia vào khu vực mậu dịch tự do (AFTA), ký hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ, gia nhập WTO. Từ đây, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu chuyển qua giai đoạn mới – kinh doanh có tính toàn cầu; bản chất của nền kinh tế tương lai đã và đang chuyển sang nền kinh tế dịch vụ tạo ra giá trị gia tăng nhiều hơn so với hoạt động của nền hinh tế nông nghiệp và công nghiệp. Điều này thúc đẩy ngành dịch vụ tài chính – ngân hàng cũng phải có những thay đổi đáng kể để phù hợp với tiến trình phát triển của xã hội. tuy nhiên, chính phủ Việt Nam vẫn tiếp tục sử dụng áp chế tài chính đối với hệ thống tài chính ngân hàng, liệu chính sách này có còn phù hợp với thực trạng nền kinh tế nước ta hay không? Nếu thực sự áp chế tài chính không còn phù hợp thì nhà nước cần thay đổi chính sách như thế nào? Tự do hóa tài chính, tự do hóa lãi suất có phải là xu thế tất yếu mang tính chiến lược của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đối với hệ thống ngân hang Việt Nam?
Nhằm đánh giá đúng những khó khăn và thách thức mà việc thực hện áp chế tài chính mang lại, phân tích một cách toàn diện thực trạng nước ta khi áp dụng chính sách này đòng thời phân tích ảnh hưởng của quan điểm tự do hóa lãi suất đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam, em xin lựa chọn đề tài “Áp chế tài chính và quan điểm tự do hóa lãi suất ở Việt Nam” để trình bày trong bài viết này.
Đề tài được kết cấu thành 3 chương:
- Chương 1: tổng quan về áp chế tài chính và quan điểm tự do hóa lãi suất ở Việt Nam

- Chương 2: thực trạng về áp chế tài chính và vấn đề lãi suất ở Việt Nam hiện nay
-Chương 3: định hướng các chính sách, giải pháp nhằm giúp hoạtđộng trong lĩnh vực phát triển và hội nhập quốc tế cách tốt nhất
Em xin chân thành cả ơn Tiến sỹ Lê Thị Tuyết Hoa đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ ÁP CHẾ TÀI CHÍNH VÀ VẤN ĐỀ LÃI SUẤT NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM
1.1.TỔNG QUAN VỀ ÁP CHẾ TÀI CHÍNH
1.1.1. Quan điểm về áp chế tài chính
Hầu hết các nước đang phát triển không có thị trường vốn tự do, các công cụ tài chính thường không đa dạng và có tính thanh khoản thấp. Các chính phủ thường can thiệp hành chính vào hệ thống tài chính nhằm huy động và hướng vốn đầu tư vào các hoạt động mà cính phủ thấy cần thiết cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung và nền kinh tế nói riêng. Một hệ thống tài chính bị chính phủ đánh thuế hay can thiệp hành chính nặng nề khiến thị trường tài chính trong nước bị biến dạng goi là “sự áp chế tài chính”.
Áp chế tài chính bắt đầu từ các thị trường tài chính không hiệu quả hoặc ở trạng thái không cân bằng.
Nhìn chung, áp chế tài chính ở các nước đang phát triển thường gắn liền với kiểm soát về lãi suất. Thông thường những kiểm soát về tài chính được chính phủ đề ra, nhưng đôi khi cũng xuất phát từ những thỏa thuận giữa các tổ chức tài chính khu vực tư nhân nhằm hạn chế lãi suất. Kết quả là các mức lãi suất thực tế bị bóp méo khác với mức lãi suất cân bằng trong một thị trừng tiền tệ cạnh tranh. Sự áp chế có thể được mở rộng liên quan đến những hạn định của chính phủ dẫn đến cái giá phải trả là kìm h.ãm sự phát triển của các tổ chức và các công cụ tài chính; không những thế điều này còn có thể gây ra hậu quả là thị trường tài chính không đầy đủ và phân tán.
Quan điểm về áp chế tài chính được nhắc đến trong các lý thuyết kinh tế của McKinnon (1973), lý thuyết của Shaw (1973), Goldsmith (1969), Fry (1982)…
Các quan điểm về áp chế tài chính được biểu hiên như sau:
- Áp chế tài chính tương đương với sự kiểm soát của nhà nước, đặc biệt là những kiểm soát về lãi suất. Kết quả là lãi suất bị biến đổi so với lãi suất cân bằng trên thị trường tài chính cạnh tranh
- Áp chế tài chính tương đương với những hạn định của chính phủ nhằm kìm h.ãm sự phát triển của các tổ chức tài chính và các công cụ tài chính. Được mô tả như là “tài chính nông cạn” (shallow finance)
- Khu vực ngân hàng là trọng tâm của những lý thuyết về áp chế tài chình

1.1.2. Áp chế tài chính bằng công cụ lãi suất
Công cụ áp chế tài chính là những biên pháp kiểm soát lãi suất chung, mặc dù việc kiểm soát tỷ giá hối đoái, những yêu cầu dự trữ cao đối với các ngân hàng thương mại và sự áp chế về tổ chức có thể đóng một vai trò quan trọng.
1.1.2.1.các chính sách kiểm soát lãi suất
- Trần lãi suất tiền gửi danh nghĩa;
- Trần lãi suất cho vay danh nghĩa;
- Trần cả lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay.
Cũng có sàn lãi suất tiền gửi và cho vay nhưng thực tế ít phổ biến.
Về tổng quát, kiểm soát lãi suất được áp đặt với mục đích khuyến khích đầu tư. Nếu lãi suất cho vay được giữ ở mức thấp, người ta cho rằng sẽ gia tăng số lượng các dự án có hiện giá ròng dương khi được chiết khấu ở mức lãi suất đi vay, và do đó sẽ gia tăng tỷ lệ đầu tư (trần lãi suất cho vay sẽ trực tiếp tạo ra tác động này). Trần lãi suất tiền gửi sẽ tạo ra tác động trên một cách gián tiếp, các ngân hàng có nguồn vốn rẻ sẽ cho vay rẻ. trần lãi suất cho cả tiền gửi lẫn đi vay có thể loại bỏ bất kỳ khả năng sai lầm nào từ phân tích trên.
Tuy nhiên lập luận kiểm soát lãi suất để kích thích đầu tư phát triển chỉ đúng với giả định có đủ vốn từ những người tiết kiệm để đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư.
1.1.2.2. Áp chế tài chính và tiết kiêm đầu tư
Tác động của việc kiểm soát lãi suất là hạ thấp cả tiết kiệm và đầu tư, hạn chế tốc độ tăng trưởng của nền kinh tê. Tuy nhiên, các trung gian tài chính sẽ thu được lợi nhuận cao hơn mặc dù khối lượng hoạt động thấp hơn
- Ưu ái những người đi vay có độ an toàn cao hay với uy tín đã được xác lập
- Chọn những dự án có độ rủi ro thấp với suất sinh lợi tương đối thấp
Tuy nhiên, chính sách này có thể khiến ta phải bỏ qua những dự án lớn có độ rủi ro cao nhưng mang lại lợi ích lớn cho nền kinh tế.
1.1.2.3. Áp chế tài chính và thị trường tài chính
Áp chế tài chính và thị trường tài chính được biểu hiện ở những quy định về tiền gửi ngân hàng như sau:
Ngân hàng trung ương thường đặt ra những yêu cầu về dự trữ đối với các ngân hàng thương mại, những yêu cầu này nhằm mang lại sự ổn định cho hệ thống ngân hàng. Phổ biến ở các nước công nghiệp hóa, tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể lên tới 15% tiền gửi ngân hàng, ở các nước đang phát triển con số này còn có thể lên tới 50%. Những khoản dự trữ này được đặt ở ngân hàng trung ương với mức lãi suất thấp (hap bằng 0), hoặc được đầu tư vào trái phiếu chính phủ có lãi theo mệnh giá thấp. Do đó chính phủ sử dụng hệ thống ngân hàng như một nguồn tài trợ, và trở thành người vay mượn chính, được ưu tiên trước những đối tượng vay mượn khác.
Tuy nhiên, quy định dự trữ bắt buộc gây ra tác hại đối với hệ thống ngân hàng:
- Thứ nhất: Một lượng vốn sẵn có đáng kể được chuyển khỏi người đi vay tiềm năng
- Thứ hai: Cơ cấu lãi suất của ngân hàng sẽ bị bóp méo. Nếu các ngân hàng vì lợi nhuận thì họ phải duy trì một khoản chênh lệch lớn giữa lãi suất đi vay và cho vay nhằm bù đắp phần thu nhập thấp mà họ nhận được từ lượng dự trữ bằng cách ép lãi suất tiền gửi xuống, hoặc nâng lãi suất cho vay (hoặc cả hai), so với trường hợp lãi suất cân bằng nếu không có dự trữ.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao cón kéo theo lạm phát:

clip_image007.gif


đồ thị quan hệ giữa chỉ số lạm phát (hay thuế đánh vào nhu cầu giữ tiền mặt),
clip_image008.gif
, và mức dự trữ bắt buộc (hay thuế đánh vào nhu cầu tiền gửi) k, có hình chữ U.

(k có thể là số bất kỳ giữa 0 và 1)
Nếu k được đặt bằng 0, thì chính phủ không thu được một đồng thuế nào từ nhu cầu gửi tiết kiệm; ngược lại, nếu k được đặt bằng 1, thì không một ai sẽ gửi tiết kiệm nữa, và do đó cũng chẳng có gì mà đánh thuế nữa. Trong cả hai trường hợp cực đoan đó, toàn bộ gánh nặng thuế khóa đổ lên vai những người giữ tiền mặt; hàm ý, mức độ lạm phát là cao nhất. Tức là mức lạm phát tối ưu sẽ nằm giữa 0 và 1.
Khi gánh nặng thuế có xu hướng giảm xuống, thì theo quan điểm tối ưu, sẽ phải có một sự giảm xuống đồng thời của cả suất thuế lạm phát,
clip_image008.gif
, lẫn suất thuế đánh vào tiền gửi, k. Vấn đề là ở chỗ, giả sử nếu chỉ có
clip_image008.gif
giảm mà k không giảm, thì gánh nặng thuế khóa sẽ bị dồn quá nhiều sang các tài khoản tiền gửi. Người dân sẽ phản ứng lại bằng cách chuyển tài sản của họ từ khu vực bị đánh thuế quá cao (các tài khoản tiền gửi) sang khu vực bị đánh thuế thấp hơn (tiền mặt); khiến cho nhà nước không còn có khả năng thu đủ mức thuế nữa, trừ phi có sự hiệu chỉnh lại về các thuế suất, theo đó, cả
clip_image008.gif
k cùng giảm. Sự kết hợp tối ưu của các suất thuế được biểu diễn bởi lược đồ trên.
Đồng thời, chính phủ còn yêu cầu các tổ chức tài chính hoặc thiết lập các tổ chức tài chính chuyên doanh để:
– thực hiện các chương trình cho vay bắt buộc.
– thường đi kèm với ưu đãi hay trợ giá về lãi suất, bảo lãnh tín dụng.
1.1.2.4. Áp chế tài chính và cung tiền tệ
Áp chế tài chính bằng công cụ lãi suất có thể giảm lãi suất thực khi lạm phát gia tăng, làm giảm tiết kiệm tài chính và làm cho cầu tiền tệ giảm. Khi cầu tiền tệ giảm, tỷ lệ lạm phát sẽ gia tăng đột biến có thể dẫn đến khủng hoảng nền kinh tế. do đó, vấn đề kiểm soát cung tiền tệ trong điều kiện kiểm soát lãi suất là rất quan trọng.
1.1.3. Các mô hình áp chế tài chính
1.1.3.1.Mô hình McKinnon
M­­[SUB]d[/SUB] /P=f(Y,v)
Trong đó: - M[SUB]d [/SUB]/ P là mức cầu tiền thực tế
- Y là tổng thu nhập quốc dân (GNP)
- v là chi phí cơ hội của giữ tiền
1.1.3.2. Mô hình Shaw
M­­[SUB]d[/SUB] /P=f(Y,v, d – p*)
Trong đó: - M[SUB]d [/SUB]/ P là mức cầu tiền thực tế
- Y là tổng thu nhập quốc dân (GNP)
- v là chi phí cơ hội của giữ tiền
- d là lãi suất tiền gửi danh nghĩa
- p* là mức lạm phát kỳ vọng.
1.1.4. Các tác đông của áp chế tài chính
Theo McKinnon và Shaw (1973) áp chế tài chính đã gây ra những tác động tai hại như sau:
- Các kiểm soát lãi suất ngặt nghèo, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao tương tác với lạm phát và thường làm cho lãi suất tiền gửi ở vào mức âm, từ đó cản trở phát triển mở rộng tài chính theo chiều sâu.
- Lãi suất thấp không làm tăng vốn đầu tư như dự kiến vì khả năng huy động tiết kiệm bị hạn chế.
- Đầu tư của cả hộ gia đình và doanh nghiệp được tập trung nhiều vào các tài sản có giá trị không bị tác động bởi lạm phát (như vàng hoặc bất động sản).
- Do vốn trong hệ thống tài chính chính thức bị giảm, các nhà đầu tư phải dựa nhiều hơn vào vốn tự có.
- Việc dựa vào vốn tự có làm cho tài sản nợ của các doanh nghiệp có tính thanh khoản rất thấp.
- Hoạt động đầu tư của các quỹ đầu tư và công ty bảo hiểm bị hạn chế khi tiền tệ bất ổn định và tài sản tài chính không có tính thanh khoản.
- Hoạt động phân bổ tín dụng đi kèm với những ưu đãi khác nhau về lãi suất tạo ra những khác biệt lớn về lãi suất giữa đối tượng ưu tiên và không ưu tiên.
Cũng trong công trình nghiên cứu của mình, McKinnon và Shaw đã phát triển mô hình về phát triển kinh tế trong đó giải thích tự do hóa tài chính thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế. lập luận này cho rằng khi trần lãi suất được xóa bỏ, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được giảm xuống và vấn đề chia cắt thị trường tài chính được giảm nhẹ thì tiết kiệm gia tăng, hiệu quả phân bổ vốn đầu tư của các tổ chưc và thị trường tài chính cũng được cải thiện.
1.2. TỔNG QUAN VỀ TỰ DO HÓA LÃI SUẤT
1.2.1. Khái niệm về lãi suất
Trong nền kinh tế thị trường còn tồn tại nhiều phạm trù kinh tế tài chính, trong đó tín dụng và lãi suất tín dụng là một trong những phạm trù quan trọng. Hoạt động tín dụng là hoạt động vay mượn, quan hệ sử dụng vốn giữa người đi vay và người cho vay theo nguyên tắc hoàn trả. Nhờ có hoạt động tín dụng mà một bộ phận lớn vốn của xã hội dưới dạng hiện kim hoặc hiện vật được vận động từ nơi tạm thời dư thừa sang nơi thiếu hụt để đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong nền kinh tế.
Đối với chủ thể “thừa” vốn, tín dụng tạo cho họ cơ hội không những bảo tồn mà còn có thêm thu nhập (thu lãi). Đối với các chủ thể “thiếu” vốn – tín dụng giúp cho họ bổ sung vốn để đáp ứng các nhu cầu sản xuất, kinh doanh hoặc đời sống.
Công cụ và đòn bẩy không thể thiếu được cho hoạt động tín dụng chính là lãi suất tín dụng. Chính nhờ lãi suất tín dụng tác động đến lợi ích của các chủ thể mà các quan hệ tín dụng được xác lập và vận động. Nếu không có lãi suất tín dụng, hoặc có nhưng kgoong hợp lý thì nó sẽ triệt tiêu các quan hệ tín dụng, làm giảm đi vai trò tích cực vốn có của tín dụng đối với sự phát triển của nền kinh tế.
Marx trong lý luận về tư bản cho vay đã khẳng định rằng: “tiền không đẻ ra tiền, tiền chỉ có thể đẻ ra tiền một khi tiền được đưa vào sử dụng để sản xuất, lưu thông hàng hóa”, ông khẳng định lợi tức tín dụng (tiền lãi) là một bộ phận của lợi nhuận mà người đi vay tạo ra trong quá trình sản xuất kinh doanh nhờ sử dụng vốn tín dụng, và phân phối lại cho người cho vay dưới hình thức lợi tức.
1.2.2. Lãi suất cơ bản
1.2.2.1. Khái niệm về lãi suất cơ bản
Lãi suất cơ bản là lãi suất có tác dụng chi phối tất cả các loại lãi suất khác hình thành trong nền kinh tế thị trường, đó là loại lãi suất chiếm vị trí quan trọng trong cơ chế thị trường nói chung và trong cơ chế thị trường có sự diều tiết quản lý của nhà nươc ở nước ta hiện nay nói riêng.
Lãi suất cơ bản do ngân hàng trung ương xác định và công bố trên cơ sở tình hình thực tế và mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia.
Khoản 12 điều 9 của Luật nhân hàng nhà nước Việt Nam (Luật số 01/1997/QH10) đã chỉ rõ:
“Lãi suất cơ bản là lãi suất do ngân hàng nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh”.
1.2.2.2. Các quan điểm về lãi suất cơ bản
Trong thực tế khi trao đổi về lãi suất cơ bản, có quan diểm cho rằng lãi suất cơ bản là một khái niện rộng lớn bao gồm nhều lãi suất cơ bản khác nhau như: lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu; lãi suất thị trường liên ngân hàng; lãi suất cho vay tối đa; lãi suất tiền gửi tối thiểu v.v…
Nói đến lãi suất cơ bản trước hết là nói đến sự chi phối, sự tác động một cách rõ ràng và dứt khoát dến các loại lãi suất khác, không đóng vai trò tác động chi phối rõ rệt như vậy thì chưa phải là lãi suất cơ bản. Tính chất cơ bản của lãi suất cơ bản được thể hiện qua các quan điểm sau:
Thứ nhất: Lãi suất cơ bản là lãi suất do ngân hành trung ương xác định và công bố, mang ý nghĩa chủ quan, thể hiện ý chí của chủ thể quản lý chứ không tự hình thành trên thị trường tiền tệ như các loại lãi suất khác.
Thứ hai: Khi lãi suất cơ bản đã được xác định và công bố, nó sẽ trở thành yếu tố bắt buộc mà các ngân hàng thương mại, ngan hàng đầu tư, ngân hàng phát triển và các loại hình tổ chức tín dụng khác phải tuân thủ mà không có một sự lựa chọn nào khác, bất kể lãi suất cơ bản đó có được xác định một cách hợp lý hay không.
Thứ ba: Lãi suất cơ bản là lãi suất tác động một cách trực tiếp đến các lãi suất khác trên thị trường, do đó nó được sử dụng như một công cụ quan trọng để điều hành chính sách tiền tệ quốc gia.
Chính vì lẽ đó, chúng ta có thể nhận định rằng: Lãi suất cơ bản là lãi suất được ấn định trực tiếp theo ý đồ chủ quan của cơ quan chức năng (Ngân hàng Trung ương) dưới nhiều góc độ khác nhau.
- Chẳng hạn nếu muốn bảo vệ lợi ích cho người gửi tiền, Ngân hàng Trung ương sẽ ấn định tiền gửi tối thiểu.
- Nếu muốn bảo vệ lợi ích cho người đi vay (các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế…) Ngân hàng Trung ương sẽ ấn định lãi suất cho vay tối đa.
- Nếu muốn bảo vệ lợi ích cho các ngân hàng, nhằm tạo an toàn cho hệ thống ngân hàng, Ngân hàng Trung ương sẽ ấn định lãi suất tiền gửi tối đa và lãi suất cho vay tối thiểu.
1.2.3. Vấn đề tự do hóa lãi suất ở Việt Nam
Cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam gồm 3 phương pháp:
Phương pháp 1: Cơ chế ấn định lãi suất – Nhà nước quản lý trực tiếp lãi suất bằng cách công bố tất cả các loại lãi suất. Các ngân hàng và các tổ chức tín dụng đều phải thực hiện một cách tuyệt đối – cơ chế này tồn tại ở Việt Nam trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
Phương pháp 2: Cơ chế khống chế lãi suất – nhà nước không ấn định các mức lãi suất, mà chỉ quy định các mức lãi suất tối đa gọi là lãi suất trần (interest rate caps), mức lãi suất tối thiểu gọi là lãi suất sàn (interest rate floor) tạo thành khung giới hạn để trong đó các ngân hàng, các tổ chức tín dụng xác định lãi suất kinh doanh.
Phương pháp 3: Cơ chế tự do hóa lãi suất – Nhà nước không ấn định các mức lãi suất đồng thời cũng không khống chế lãi suất, mà để cho lãi suất tự hình thành theo cơ chế thị trường, các ngân hàng được quyền xác định công bố lãi suất kinh doanh để đem áp dụng trong việc huy động vốn cho vay.
Tự do hoá lãi suất là để cho lãi suất hình thành trên thị trường trên cơ sở: (1) cung cầu về vốn, (2) mức tiết kiệm, (3) thu nhập và chi tiêu cá nhân cùng những nhân tố khác.
Trong cơ chế tự do hóa lãi suất, nếu nhà nước hoàn toàn không can thiệp đến hệ thống lãi suất thị trường thì đó là cơ chế tự do hóa hoàn toàn (thả nổi hoàn toàn). Nếu nhà nước có tham gia can thiệp gián tiếp theo một hướng xác định thì đó là cơ chế tự do hóa lãi suất có quản lý. Tự do hóa lãi suất được coi là hạt nhân của tự do hóa tài chính trong đó bãi bỏ hoặc làm giảm bớt sự kiểm soát của nhà nước về hạn mức tín dụng và lãi suất, với trọng tâm là tự do hóa lãi suất sẽ làm cho các luồng tài chính đối nội lưu thông thông suốt.
Những điều kiện cần phải có để tự do hóa lãi suất:
(1) Môi trường kinh tế vĩ mô đã ổn định và khá chắc chắn;
(2) Hành lang pháp lý đã tương đối đồng bộ và hoàn chỉnh;
(3) Hệ thống ngân hàng ổn định, hoạt động hữu hiệu;
(4) Thị trường tài chính (bao dồm thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán) đã hình thành và vận hành có hiệu quả;
(5) Các nguồn lực trong nước đã được phân phối và sử dụng hợp lý;
(6) Các tổ chức kinh tế đều đảm bảo khả năng sử dụng vốn triệt để, có hiệu quả.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VỀ ÁP CHẾ TÀI CHÍNH VÀ VẤN ĐỀ LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM
2.1. THỰC TRẠNG VỀ ÁP CHẾ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM
2.1.1. Quá trình phát triên của hệ thống tài chính việt nam
Trước năm 1945, Việt Nam có hệ thống Ngân hàng Đông Dương do Pháp quản lý vừa đóng vai trò là Ngân hàng Trung ương vừa là Ngân hàng Thương mại.
Sau Cách Mạng Tháng 8/1945, ngày 6 tháng 5 năm 1951, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được thành lập, đến năm 1960 đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, hệ thống Ngân hàng Nhà nước chuyển sang hoạt động theo nguyên tắc thị trường, thực hiện tách dần chức năng quản lý nhà nước ra khỏi chức năng kinh doanh tiền tệ tín dụng.
Ngân hàng Nhà nước thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng, thực thi nhiệm vụ của Ngân hàng Trung ương.
Cấp ngân hàng kinh doanh thuộc lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và dịch vụ ngân hàng trong nền kinh tế quốc dân do các Định chế tài chính Ngân hàng và Phi ngân hàng thực hiên.
Cùng với quá trình đổi mới về cơ chế vận hành trong hệ thống ngân hàng là quá trình ra đời của các ngân hàng chuyên doanh với các loại hình sở hữu khác nhau gồm Ngân hàng thương mại quốc doanh, cổ phần, Ngân hàng liên doanh, chi nhánh hoặc đại diện của ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính…
2.1.2. Chính sách lãi suất
2.1.2.1.Chính sách tín dụng tự do
Chính phủ tách bạch hoạt động quản lý kinh doanh.
Trong thời kỳ này, lãi suất tiền gửi và cho vay của các ngân hàng đều do Ngân hàng Nhà nước quy định. Các Ngân hàng thương mại duy trì các mức lãi suất cho vay khác nhau với các ngành nghề khác nhau, thay vì mức lãi suất cho vay phải phản ánh mức độ rủi ro tương xứng.
Năm 1988 đánh dấu nỗ lực tự do hóa tài chính đầu tiên của Việt Nam bằng quyết định cho phép tất cả các tổ chức kinh tế được vay tiền và huy động vốn từ công chúng.
2.1.2.2.Chính sách trần lãi suất
Từ năm 1994, Ngân hàng nhà nước sử dụng trần tín dụng áp dụng cho từng ngân hàng để duy trì các chỉ tiêu tăng trưởng tổng cung tiền và tín dụng. Các tiêu chi để xác định trần tín dụng cho mỗi ngân hàng không được công bố.
Ngân hàng nhà nước vẫn tiếp tục duy trì trần lãi suất cho vay. Từ năm 1995, Ngân hàng nhà nước cho phép các ngân hàng thương mại được tự do dịnh giá mức lãi suất tiền gửi với mục tiêu tăng cường cạnh tranh trong huy động vốn. tuy nhiên, mức chênh lệch lãi suất cho vay và mức lãi suất tiền gửi tối đa được phép là 0,35%/tháng.
2.1.2.3.Chính sách lãi suất giai đoạn 2000 – 2002
Trong năm 2000, Ngân hàng nhà nước đưa ra một cơ chế lãi suất mới trong đó lãi suất cho vay nội tệ của ngân hàng được điều chỉnh theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố. Tuy nhiên, các ngân hàng không được tính lãi suất cho vay vượt quá 0,3%/tháng đối với vốn ngắn hạn và 0,5%/tháng đối với vốn dài hạn. Cơ chế giới hạn biên độ lãi suất so với trần lãi suất về cơ bản không khác gì so với chính sách trần lãi suất.
Năm 2002, Chính phủ có chính sách tự do hóa lãi suất tiền gửi và tiền cho vay đối với các tổ chức tín dụng: Khách hàng và các tổ chức tín dụng tự thỏa thuận lãi suất theo cơ chế thị trường. Lãi suất dược xem là giá cả hàng hóa tiền tệ trên thị trường.
2.1.3. Thực trạng áp chế tài chính ở Việt Nam hiên nay
2.1.3.1.Thực trạng tài chính Việt Nam khi thực hiện trần lãi suất
Khi tiết kiệm dài hạn không được khuyến khích thì chắc chắn nguồn vốn dành cho tăng trưởng dài hạn sẽ bị ảnh hưởng. Cần khuyến khích nền kinh tế gia tăng tiết kiệm dài hạn thông qua mức lãi suất thực dương có so sánh và cạnh tranh chứ không phải lãi suất danh nghĩa cao.
Theo logic thông thường, khi lãi suất tiền gửi giảm thì lãi suất cho vay cũng giảm theo. Tuy nhiên, trong bối cảnh Việt Nam hiện nay thì điều này chưa hẳn đã đúng.
Trước khi ngân hàng Nhà nước (NHNN) áp dụng trần lãi suất tiền gửi 14%/năm vào đầu tháng 3/2011, lãi suất huy động được các ngân hàng cạnh tranh đẩy lên trên dưới 17%/năm và lãi suất cho vay cũng dao động mạnh khoảng 19 – 23%/năm tuỳ theo tính chất khoản vay. Từ khi trần lãi suất tiền gửi được áp dụng đến nay, lãi suất cho vay vẫn không thấy có dấu hiệu suy giảm một cách rõ ràng. Ngay cả lãi suất trần 14%/năm hiện nay cũng không hẳn có hiệu lực, mặc dù có vẻ như mọi thứ đang được tuân thủ tốt. Thay vào đó, trạng thái thanh khoản của hệ thống ngân hàng bị sụt giảm một cách nghiêm trọng, đặc biệt đối với những ngân hàng quy mô nhỏ và có năng lực quản trị yếu kém.
Bài toán đặt ra trong bối cảnh này là trần lãi suất tiền gửi có nên tiếp tục giảm xuống 12%/năm như một số tin đồn gần đây hay nên bỏ trần lãi suất để thị trường tự quyết định việc phân bổ nguồn lực?
Khi lãi suất tiền gửi giảm 2 điểm phần trăm thì điều mà Chính phủ kỳ vọng là lãi suất cho vay cũng giảm tương ứng. Tuy nhiên, cần phải nhận thức được rằng chênh lệch lãi suất cho vay và huy động (NIS) không phải bao giờ cũng là một hằng số tại mọi thời điểm và trong mọi hoàn cảnh. NIS luôn phản ánh các lợi ích, chi phí và rủi ro kỳ vọng của ngân hàng gắn với các điều kiện vĩ mô nhất định như tăng trưởng, lạm phát, cấu trúc của thị trường tài chính và môi trường cạnh tranh.
Khi thị trường chứng khoán chưa phát triển, lại đang bị suy giảm sâu, thì kênh huy động và phân bổ vốn chủ yếu trong nền kinh tế vẫn là hệ thống ngân hàng. NIS của hệ thống ngân hàng cao và có xu hướng dãn ra trong vài năm gần đây đã phản ánh tương đối phù hợp những rủi ro kinh tế và cấu trúc của hệ thống tài chính Việt Nam. Khi trần lãi suất tiền gửi được khống chế nhưng NIS hầu như không giảm đã thể hiện những rủi ro mà ngân hàng gặp phải đang tăng lên, trong đó nổi bật là rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng. Khi những rủi ro này chưa được xử lý thì việc tiếp tục giảm trần lãi suất tiền gửi xuống sẽ càng làm cho vấn đề trở nên trầm trọng hơn.

Hệ quả trực tiếp của nó là sẽ có nhiều ngân hàng hơn nữa rơi vào vùng xám rủi ro thanh khoản và chắc chắn rằng chi phí đối phó rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại sẽ tăng lên, chưa kể chi phí mà Ngân hàng hà nước phải bỏ ra để tiếp tục hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng yếu kém. Diễn biến thời gian qua cho thấy, tình trạng thiếu hụt thanh khoản của một số ngân hàng có lúc đạt đến đỉnh điểm khi lãi suất liên ngân hàng lên đến trên 35%/năm. Tệ hại hơn, một số ngân hàng còn không thể trả được nợ vay liên ngân hàng và buộc phải né tránh các cuộc đòi nợ. Điều này cũng có nghĩa là các ngân hàng này đã bị tước đi quyền tiếp cận thị trường liên ngân hàng – nơi có thể giúp giải toả các áp lực thanh khoản tạm thời và không bị áp trần lãi suất.
Trong khi nguồn vốn huy động bị sụt giảm hoặc chững lại thì cùng với việc khống chế tăng trưởng tín dụng sẽ càng làm cho nguồn quỹ cho vay trở nên khan hiếm hơn. Sự khan hiếm vốn cho vay cùng với chi phí đối phó rủi ro thanh khoản tăng cao sẽ chỉ khiến các ngân hàng dồn gánh nặng sang người đi vay.

Nếu điều này xảy ra thì lãi suất cho vay không những không giảm mà còn có khả năng tăng lên. Hệ quả là mong muốn cắt giảm lãi suất để giảm lạm phát (?) của Chính phủ khó lòng đạt được. Cái giá của sự bình ổn vĩ mô (giảm lạm phát) theo kiểu như vậy chỉ có thể được đánh đổi bởi sự bất ổn tài chính không ngừng của hệ thống ngân hàng.
Đứng ở phương diện người gửi tiền thì khi lãi suất giảm đòi hỏi ngân hàng phải bù đắp bằng một lợi ích khác. Lợi ích đó không còn là tiền khuyến mãi của ngân hàng - thứ mà Ngân hàng nhà nước cấm - mà chính là lợi ích thanh khoản - thứ mà Ngân hàng nhà nước khó cấm. Cơ cấu tiền gửi sẽ lệch về các tài khoản tiền gửi siêu ngắn hạn cũng như tiền gửi không kỳ hạn. Nếu các tài khoản này được tạo ra thì lãi suất hiệu dụng sẽ vượt trên mức lãi suất trần danh nghĩa 14%/năm của Ngân hàng nhà nước. Tăng lợi ích thanh khoản cho người gửi tiền cũng đồng nghĩa với việc tăng chi phí thanh khoản cho ngân hàng, tức tăng độ bấp bênh tài chính.
Ở phương diện quản trị ngân hàng, khi nguồn vốn tiền gửi bị lệch về ngắn hạn thì cấu trúc các khoản cho vay cũng phải là ngắn hạn, bởi nếu không ngân hàng sẽ gặp rủi ro kỳ hạn mà biểu hiện trực tiếp chính là rủi ro kép (thanh khoản và tín dụng). Động cơ cho vay ngắn hạn của ngân hàng còn nhằm đối phó với yêu cầu tăng trưởng tín dụng trong năm của Ngân hàng nhà nước. Nghĩa là, các ngân hàng sẽ cân đối kỳ hạn các khoản cho vay sao cho đến thời điểm báo cáo dư nợ nằm trong giới hạn cho phép.

Trong khi đó, các doanh nghiệp cũng chỉ có nhu cầu vay ngắn hạn để tránh rủi ro lãi suất khi Ngân hàng nhà nước được kỳ vọng sẽ tiến hành giảm lãi suất trong tương lai. Tất cả các kỳ vọng này sẽ càng gây áp lực hơn nữa lên lãi suất ngắn hạn, làm cho đường cong lãi suất thêm méo mó.

Lãi suất dài hạn sẽ càng giảm sâu nếu trần lãi suất tiền gửi tiếp tục bị áp ở mức quá thấp. Khi tiết kiệm dài hạn không được khuyến khích thì chắc chắn nguồn vốn dành cho tăng trưởng dài hạn sẽ bị ảnh hưởng. Tiết kiệm trong nước không đủ thì phải vay mượn thêm ở nước ngoài mà điều này thì đồng nghĩa với việc gia tăng thâm hụt thương mại.
Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp chủ yếu đi vay ngắn hạn để tài trợ nhu cầu vốn lưu động trong khi rất ít các doanh nghiệp vay để đầu tư phát triển. Thực trạng này cảnh báo rằng mức tăng trưởng hiện nay là không bền vững và nguồn cho tăng trưởng trong 5 - 10 năm tới đang bị thiếu hụt.

Bên cạnh đó, các chính sách áp chế tài chính (áp trần lãi suất, kiểm soát tăng trưởng tín dụng khu vực tư nhân) đã gây biến dạng nghiêm trọng chức năng phân bổ vốn của thị trường tài chính. Khi lãi suất cho vay bị đẩy lên quá cao thì không hẳn sẽ giúp loại bỏ các dự án xấu như kỳ vọng.

Ngược lại, do tình trạng bất cân xứng thông tin nên ngân hàng không thể phân biệt được khách hàng tốt với khách hàng xấu, kết quả là ngân hàng sẽ gặp tình thế lựa chọn bất lợi (adverse selection). Thực tế trong bối cảnh hiện nay, vẫn có lựa chọn có lợi cho ngân hàng, đó là tăng cường cho vay các doanh nghiệp thân hữu (chi phối bởi các cổ đông lớn) và doanh nghiệp nhà nước (chi phối bởi Chính phủ).

Quyết định cho vay của ngân hàng trong những tình huống như vậy là quyết định phi kinh tế và có thiên hướng chính trị. Khi nguồn vốn vẫn tiếp tục chảy vào khu vực kém minh bạch và kém hiệu quả như vậy thì không khó để lý giải vì sao kinh tế Việt Nam mãi tăng trưởng dưới mức tiềm năng mà lạm phát cứ tăng cao.
Hàm ý của phân tích này là Chính phủ cần phải khuyến khích nền kinh tế gia tăng tiết kiệm dài hạn thông qua mức lãi suất thực dương có so sánh và cạnh tranh chứ không phải lãi suất danh nghĩa cao. Mức lãi suất thấp nhất phải đảm bảo không làm dịch chuyển dòng tiết kiệm từ khu vực ngân hàng sang khu vực phi chính thức và đặc biệt là không để rò rỉ tiết kiệm ra nước ngoài.

Quan trọng hơn, Chính phủ cần phải xoá bỏ triệt để các biện pháp áp chế tài chính nhằm hướng dòng vốn đến các hoạt động đầu tư hiệu quả, có tính dài hạn và có khả năng tạo ra tăng trưởng bền vững cho nền kinh tế. Chính phủ không đủ quyền năng để nhận biết đâu là nơi có hiệu quả nhất cho đồng vốn sinh lời và cũng không thể làm thay thị trường. Thay vào đó, Chính phủ nên đóng vai trò tạo điều kiện để lãi suất thực hiện tốt chức năng phân bổ vốn của mình một cách tối ưu nhất cho nền kinh tế.
2.1.3.2.Vòng xoáy tăng trưởng kinh tế
Việc chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 2010 của nền kinh tế Việt Nam tăng gần 12% so với cùng kỳ năm trước đã cho thấy dấu hiệu lạm phát bắt đầu quay trở lại ngay khi tăng trưởng kinh tế chớm phục hồi.
Bên cạnh đó, kinh tế vĩ mô vẫn trong tình trạng mất cân đối. Cụ thể là thiếu hụt tiết kiệm nội địa (so với tổng đầu tư xã hội) ở mức trên 10% GDP, thâm hụt ngân sách khoảng 6% GDP, chênh lệch tỷ giá trong - ngoài ngân hàng lên trên 10%...
Những dấu hiệu này cho thấy, tăng trưởng kinh tế thường xuyên phải trả giá bằng lạm phát và mất cân đối vĩ mô. Có thể cho rằng, nguyên nhân quan trọng gây ra tình trạng lạm phát là chính sách nới lỏng tiền tệ, nguyên nhân trung gian là chính sách tài khóa mở rộng, song nguyên nhân cơ bản là tăng trưởng dựa vào đầu tư, trong khi đầu tư kém hiệu quả.
Mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư
Nhìn từ góc độ thống kê, việc không ngừng tăng vốn đầu tư là nguyên nhân chính góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong thập niên vừa qua. Nếu trong thập niên 90 của thế kỷ trước, nhân tố vốn chỉ đóng góp 34% cho tăng trưởng GDP thì trong giai đoạn 2000-2008, tỷ lệ này lên tới 53%. Đáng lo ngại là trong khi vai trò của vốn ngày càng tăng thì vai trò của năng suất ngày càng giảm. Bằng chứng là trong cùng thời kỳ, tỷ lệ đóng góp của nhân tố năng suất tổng hợp vào nền kinh tế Việt Nam giảm từ 44% xuống còn 26%, thấp hơn hầu hết các đối thủ cạnh tranh trong khu vực.
Từ góc độ chính sách, Chính phủ đặt ra mục tiêu đến năm 2020, về cơ bản, Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Và mục tiêu này, trên thực tế, được thực hiện thông qua việc mở rộng đầu tư của các doanh nghiệp công nghiệp nhà nước nhằm thay thế hàng nhập khẩu. Ví dụ điển hình là chính sách phát triển công nghiệp đóng tàu và lọc hóa dầu. Vấn đề nằm ở chỗ, chiến lược này đòi hỏi một lượng vốn rất lớn vì nói chung, các ngành công nghiệp nặng thường thâm dụng vốn. Điều này mâu thuẫn trực tiếp với tình trạng thiếu hụt tiết kiệm ngày càng nghiêm trọng ở Việt Nam.
Mâu thuẫn này có thể được giải quyết bằng việc thu hút tiết kiệm nước ngoài (thông qua vay nợ hoặc tiếp nhận đầu tư, viện trợ nước ngoài) và/hoặc tăng tích lũy trong nước (thông qua các biện pháp áp chế tài chính). Thế nhưng, hệ quả tất yếu của việc thu hút tiết kiệm nước ngoài (cùng với thâm hụt ngân sách) là thâm hụt thương mại. Bên cạnh đó, tăng tích lũy trong nước thông qua các biện pháp áp chế tài chính và chủ yếu phục vụ cho các doanh nghiệp nhà nước sẽ làm thị trường vốn trở nên biến dạng và do vậy, không thực hiện được chức năng phân bổ vốn đến tay người sử dụng hiệu quả nhất.
Nguyên nhân của lạm phát
Thoạt nhìn, lạm phát dường như bắt nguồn từ chính sách tiền tệ và tài khóa mở rộng. Điều này tuy đúng nhưng chưa đủ. Về phương diện tiền tệ, trong giai đoạn 2006-2010, cả cung tiền và tín dụng của Việt Nam tăng tới 400%, trong khi GDP chỉ tăng 40%. Hệ quả là lạm phát cao, tiền đồng mất giá, thâm hụt thương mại tăng chóng mặt, dự trữ ngoại hối cạn ...
Nhìn vào hiện tượng này, có thể dễ dàng kết luận rằng, lạm phát ở Việt Nam có nguyên nhân tiền tệ. Thế nhưng, sở dĩ cho rằng, điều này đúng nhưng chưa đủ là vì ở Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước không được hoạt động độc lập nên chính sách tiền tệ thường phải chạy theo chính sách tài khóa.
Về phương diện tài khóa, khi nhu cầu chi tiêu công nhằm phục vụ các mục đích khác hay để hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhà nước có quy mô rất lớn nhưng kém hiệu quả ngày một tăng cao, trong khi nguồn thu ngân sách không theo kịp tất yếu sẽ khiến thâm hụt ngân sách trở nên nặng nề. Vì không thể tăng thuế một cách tùy ý nên để tài trợ thâm hụt ngân sách, Chính phủ hoặc phải đi vay, hoặc phải tiền tệ hóa thâm hụt ngân sách. Biện pháp thứ nhất làm tăng gắng nặng nợ công, còn biện pháp thứ hai gây ra lạm phát.
Không những thế, cả hai chính sách tiền tệ và tài khóa cùng phải chạy theo mục tiêu tăng trưởng đầy tham vọng, chủ yếu dựa vào gia tăng đầu tư. Nhưng vì đầu tư kém hiệu quả nên nền kinh tế phải đầu tư rất nhiều chỉ để đạt được một tốc độ tăng trưởng GDP vừa phải, trong khi đưa tới hệ lụy là lạm phát luôn thường trực và trở thành cái bóng theo sau tăng trưởng.
Nguyên nhân của mất cân đối vĩ mô
Như đã phân tích, Việt Nam đi theo mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư, nhưng đầu tư lại kém hiệu quả. Mặc dù kém hiệu quả, nhưng nền kinh tế luôn chịu sức ép phải tăng trưởng cao. Hệ quả là tỷ lệ vốn đầu tư/GDP của Việt Nam rất cao, trung bình lên tới 35% GDP trong giai đoạn 2000 - 2009.
Để hỗ trợ cho khối lượng đầu tư rất lớn này, trong đó khu vực nhà nước được coi là "chủ đạo", chính phủ thường xuyên phải thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ mở rộng. Nhưng vì đầu tư kém hiệu quả (thể hiện qua hệ số ICOR tăng rất nhanh trong 10 năm trở lại đây), nên thâm hụt ngân sách và lạm phát trở thành nỗi lo thường trực. Không những thế, vì sản xuất và tiêu dùng ở Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nên thâm hụt thương mại đi theo tăng trưởng như hình với bóng. Lạm phát cao, thâm hụt ngân sách và thương mại lớn khiến đồng nội tệ luôn chịu rủi ro giảm giá.
2.2. THỰC TRẠNG TỰ DO HÓA LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM
2.2.1 Thực trạng thị trường
- Nền kinh tế nước ta hiện đang phải đối mặt với áp lực lạm phát và với sự phục hồi còn thiếu vững chắc: mặc dù tăng trưởng kinh tế quí 1-2010 đạt 5,83%, cao hơn nhiều so với mức tăng trưởng quí 1-2009, vốn đầu tư toàn xã hội tăng 26,23% cao hơn rất nhiều so với mức tăng 9% của quí 1-2009, song nhập siêu vẫn ở mức đáng lo ngại (xuất khẩu 14 tỉ đô la Mỹ, nhập khẩu 17,5 tỉ đô la Mỹ, nhập siêu 3,5 tỉ đô la Mỹ), lạm phát tuy vẫn trong tầm kiểm soát nhưng đang có xu hướng tăng trở lại.
- Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc về nhiều mặt, đặc biệt trong việc ứng dụng các công nghệ ngân hàng mới. Tuy nhiên, năng lực tài chính, năng lực quản trị, khả năng cạnh tranh của các thành viên trên thị trường tài chính không đồng đều, tính bền vững trong phát triển chưa cao: xét trong hệ thống các tổ chức tín dụng với 73 ngân hàng và tám tổ chức tín dụng phi ngân hàng chỉ có một số ít các ngân hàng thương mại có vốn điều lệ và tài sản có lớn.
Riêng khối Ngân hàng thương mại nhà nước (hai Ngân hàng thương mại nhà nước, ba Ngân hàng thương mại mà trong đó Nhà nước chiếm cổ phần chi phối, một ngân hàng chính sách xã hội) vốn điều lệ đã chiếm 27,28% tổng vốn điều lệ của cả khối, thị phần huy động vốn và cung cấp tín dụng khoảng 60%; mức chênh lệch về thị phần chiếm lĩnh của một ngân hàng lớn nhất với một ngân hàng lớn kế tiếp là tương đối lớn. Mức độ lớn về vốn điều lệ và tài sản có quyết định khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
Những ngân hàng có vốn nhỏ vẫn có sức mạnh trong cạnh tranh thị trường, song với một cấu trúc thị trường còn tồn tại nhiều Ngân hàng thương mại có vốn và thị phần thấp thường nảy sinh những hành vi hạn chế cạnh tranh hay cạnh tranh không lành mạnh. Mặt khác, nhóm ngân hàng lớn, thông qua thế mạnh của mình trong hệ thống, có thể gây ảnh hưởng tới chính sách của Ngân hàng nhà nước nói chung và chính sách lãi suất nói riêng thông qua các hành vi chi phối thị trường.
clip_image001.jpg


Tình trạng đua nhau tăng lãi suất cho vay và lãi suất huy động trong năm 2008, và những tháng đầu năm 2010 là biểu hiện rõ nét của tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh.
- Trong cấu trúc thị trường hiện nay, còn có một đặc điểm ảnh hưởng không nhỏ đến tính hiệu quả của tự do hóa lãi suất, đó là thị phần tín dụng áp dụng mức lãi suất chính sách là không nhỏ. Dư nợ tín dụng loại này chiếm khoảng 12% tổng dư nợ. Ngoài các khoản vay áp dụng cơ chế hỗ trợ lãi suất trong thời gian qua, chúng ta cũng có không ít các dự án, các lĩnh vực sản xuất được áp dụng lãi suất ưu đãi thực hiện thông qua Ngân hàng Phát triển, Ngân hàng Chính sách xã hội, các dự án đầu tư phát triển được sử dụng các nguồn vốn ưu đãi ODA khác nữa...
Các chính sách ưu đãi này là cần thiết trong quá trình phát triển nền kinh tế hiện nay, nhưng ở chừng mực nào đó nó làm giảm hiệu quả của chính sách tự do hóa lãi suất, vì khi đó lãi suất hình thành trên thị trường chưa phản ánh đúng cung cầu vốn nên việc phân bổ nguồn vốn qua công cụ lãi suất cũng bị méo mó.
- Các nhà đầu tư nắm bắt thông tin thị trường không đầy đủ, dẫn đến phản ứng theo “bầy đàn” - là đặc điểm nổi bật trong thị trường tài chính của Việt Nam hiện nay. Đặc điểm này dễ gây nên những kỳ vọng về lạm phát trước bất cứ một động thái chính sách kinh tế vĩ mô nào tạo tín hiệu áp lực lạm phát, nhất là chính sách tiền tệ.
- Về lý thuyết, khi cân nhắc lợi ích thu được từ các quyết định đầu tư, kinh doanh, các chủ thể trong nền kinh tế thường sẽ quan tâm đến mức lãi suất thực mà mình nhận được là bao nhiêu. Nhìn vào thực tế của Việt Nam hiện tại mức lãi suất thực mà người gửi tiền nhận được là mức lãi suất thực dương, trung bình trong ba tháng đầu năm 2010 khoảng 2,8% - chưa kể đến các hình thức khuyến mãi khác.
Tuy nhiên lãi suất thực đang có xu hướng giảm xuống bắt đầu từ tháng 2 do ảnh hưởng của tốc độ gia tăng CPI. Và trong trường hợp này, thường để theo đuổi mục tiêu lãi suất thực dương thì lãi suất danh nghĩa sẽ được tăng dần lên. Như vậy có nghĩa là các Ngân hàng thương mại sẽ vẫn có thể tăng lãi suất huy động để cạnh tranh thu hút vốn nếu như Ngân hàng nhà nước dỡ bỏ trần lãi suất huy động. Hơn nữa, với xu hướng này, một tín hiệu nâng lãi suất chính sách có thể tạo ra kỳ vọng về lạm phát.
Mặt khác, xét về góc độ lãi suất thực tác động đến tăng trưởng kinh tế, thì hiện nay các nhà đầu tư vay vốn ngân hàng đang chịu một mức lãi suất thực tương đối cao. Đánh giá tác động của lãi suất thực đến tăng trưởng kinh tế, theo kết quả ước lượng mô hình đánh giá tác động của lãi suất thực lên tăng trưởng kinh tế theo phương pháp OLS (41 quan sát từ quí 1-2000 đến tháng 3-2010 với mức ý nghĩa 10%) cho thấy khi lãi suất thực cho vay ngắn hạn tăng 1% sẽ làm tăng trưởng kinh tế giảm 0,04% so với quí trước.
Điều này là hoàn toàn phù hợp với lý thuyết về mối quan hệ ngược chiều giữa lãi suất, đầu tư và tổng sản lượng trong nền kinh tế. Tuy nhiên ngoài lãi suất thực còn nhiều yếu tố khác tác động lên tăng trưởng kinh tế vì vậy mức độ biến động của lãi suất thực mới chỉ giải thích được 12,3% biến động của tăng trưởng kinh tế.
- Là một nền kinh tế đô la hóa, lãi suất đồng nội tệ, lãi suất ngoại tệ và tỷ giá có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, với mức chênh lệch quá lớn giữa lãi suất nội tệ với lãi suất đồng ngoại tệ cộng với mức kỳ vọng về tỷ giá sẽ làm dịch chuyển sự nắm giữ giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ của các thành viên trong thị trường, điều này sẽ gây ra những rối loạn thị trường tạo áp lực lên tỷ giá.
clip_image002.jpg


2.2.2 Định hướng chính sách
Chính sách lãi suất là một công cụ của chính sách tiền tệ, vì vậy mục tiêu theo đuổi của chính sách lãi suất phải nằm trong mục tiêu của chính sách tiền tệ, quá trình hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất trong từng thời kỳ luôn phải đảm bảo mục tiêu bao trùm của chính sách tiền tệ là ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Điều đó có nghĩa, sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất không được gây ra những cú sốc thị trường, đảm bảo tính ổn định và thực hiện các mục tiêu kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế. Đây là nguyên tắc cơ bản trong hoạch định chính sách lãi suất từng thời kỳ.
Trên nguyên tắc đó, trong năm 2010 hai vấn đề nổi lên mà chính sách lãi suất cần hướng tới nhiều hơn, đó là áp lực lạm phát gắn với hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô, theo đó chính sách này phải giải quyết được những mối quan hệ ràng buộc và bất cập hiện nay trên thị trường tiền tệ, nhưng đồng thời cùng với các công cụ chính sách khác thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển.
Do vậy, tự do hóa lãi suất là mục tiêu cần hướng tới để đảm bảo sự vận hành của thị trường về cơ bản tuân theo quy luật cung cầu, phân bổ nguồn vốn hợp lý. Song, với thực trạng nền kinh tế đang phải đối mặt cùng với những bất cập của thị trường tiền tệ thì áp dụng cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp là cần thiết, trong khi từng bước tạo dựng những điều kiện cần thiết để tự do hóa lãi suất.
- Trước mắt, cần thiết lập một mức lãi suất cơ bản định hướng được lãi suất thị trường. Theo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, để có thể phát huy được tốt vai trò định hướng của lãi suất cơ bản thì bản thân Ngân hàng trung ương của quốc gia đó phải xác định được những mục tiêu điều hành cụ thể trên cơ sở định lượng cụ thể về lạm phát, tăng trưởng, hoặc lãi suất ngắn hạn mà tại đó nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng. Vì vậy, việc hoàn thiện cơ chế hình thành lãi suất cơ bản - làm cơ sở định hướng chuẩn mực cho lãi suất thị trường liên ngân hàng, thị trường tiền tệ là một việc cần thiết phải thực hiện trong thời gian này.
- Trên cơ sở mức lãi suất cơ bản, hình thành đồng bộ các mức lãi suất chỉ đạo, như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở nhằm chủ động điều tiết lãi suất thị trường và các hành vi cho vay, đi vay của các thành viên trên thị trường tiền tệ. Lượng tiền cung ứng sẽ được điều tiết hợp lý để đảm bảo các mức lãi suất mục tiêu.
- Đối với lãi suất huy động, do những bất cập về cấu trúc thị trường hiện nay làm nảy sinh tình trạng cạnh tranh lãi suất thiếu lành mạnh, cũng như là diễn biến của lãi suất thực huy động có thể làm kỳ vọng lạm phát gia tăng nên việc thực hiện duy trì mức lãi suất trần trong giai đoạn này là cần thiết để bình ổn mặt bằng lãi suất.
Đồng thời trong thời gian này Ngân hàng nhà nước cũng sẽ tích cực hỗ trợ thanh khoản đối với Ngân hàng thương mại với kỳ hạn dài hơn, khối lượng lớn hơn so với trước đây, hỗ trợ thông qua tái cấp vốn và hoán đổi ngoại tệ và chỉ đạo các Ngân hàng thương mại nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong cung ứng vốn và điều chỉnh lãi suất giảm dần phù hợp diễn biến nền kinh tế.
Quá trình tự do hóa lãi suất và hội nhập phải là một quá trình chuyển đổi từng bước để không gây tác động đột biến. Điều này thể hiện qua việc chuyển đổi cơ cấu điều hành lãi suất, đặc biệt năm 1999 đã diều hành lãi suất nhiều làn. Tuy tác dụng của các đợt điều chỉnh lãi suất đó chưa hoàn toàn tốt nhưng đó là diều kiện cần thiết để sẵn sàng bước vào cơ chế tự do hóa lãi suất.
Tuy nhiên, các điều kiện thực hiện tự do hóa lãi suất ở Việt Nam chưa đày dủ và còn nhiều yếu kém (chưa chủ động kiểm soát lạm phát, tốc độ tăng GDP chưa thật ổn định, nhân sách còn mát cân đối, hệ thống ngân hành còn bộc lộ nhiều yếu kém…) nhưng về lâu dài, khi các xu hướng đầu tư đã rõ nét, nền kinh tế dần ổn định thì việc tháo dỡ trần lãi suất huy động cũng sẽ được thực hiện nhằm tuân thủ các nguyên tắc trên con đường tự do hóa lãi suất đã lựa chọn.
2.2.3 Định hướng điều hành lãi suất ở Việt Nam
Tự do hóa lãi suất là một xu thế để góp phần thúc đảy hội nhập, nhưng bước đi và cách làm thì phải thận trọng và hợp lý mới có thể mang lại kết quả như mong muốn. Trong điều kiện hiện nay ở việt nam, cần áp dụng cơ chế lãi suất linh hoạt trên cơ sở lãi suất cơ bản (lãi suất trần) do Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố một cách hợp lý. Ngân hàng nhà nước với tư cách là người điều hành chính sách tiền tệ quốc gia sẽ sử dụng các lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn để tham gia điều chỉnh gián tiếp các mức lãi suất thị trường nhằm phát huy vai trò của lãi suất đối với sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Bởi vậy, chúng ta dần chuyển qua cơ chế tự do hóa lãi suất nhưng vẫn có sự điều tiết gián tiếp của Ngân hàng nhà nước để đảm bảo giữ vững định hướng cho hoạt động của hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam.
Thả nổi lãi suất, tại sao không?"Nếu quý II/2011, dòng vốn không được lưu thông, tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế thì nên cân nhắc thả nổi lãi suất trong quý III/2011", một chuyên gia nhận xét.
Thời gian qua, để cạnh tranh huy động vốn, nhiều ngân hàng cố tình lách quy định trần lãi suất huy động vốn tối đa 14%/năm của Ngân hàng Nhà nước, đẩy lãi suất huy động thực tế lên tới 15 - 17%/năm.
Thực tế này khiến nhiều chuyên gia kinh tế băn khoăn, phải chăng mức trần lãi suất 14%/năm đã không còn phù hợp và Ngân hàng nhà nước nên bỏ mức trần lãi suất huy động, trả lãi suất về cho thị trường.
Thực ra, một giai đoạn dài trước đây, Ngân hàng nhà nước đã áp dụng cơ chế trần lãi suất với việc quy định khung lãi suất tối thiểu về tiền gửi và lãi suất tối đa về tiền vay. Tuy nhiên, tới tháng 6/2002, lãi suất được tự do hóa hoàn toàn với việc các ngân hàng được phép xác định lãi suất cho vay trên cơ sở tự thẩm định và thương lượng với khách hàng.
Ông Lê Đức Thúy - Thống đốc Ngân hàng nhà nước khi đó cho rằng, ưu điểm lớn nhất của tự do hóa lãi suất là tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng mở rộng mạng lưới để huy động, cho vay vốn với mức lãi suất phù hợp; đáp ứng đầy đủ và nhanh hơn vốn cho người cần vay...
Một tác động khác của cơ chế này là: tạo thuận lợi cho việc cải cách hệ thống ngân hàng theo định hướng thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh và khả năng hội nhập với thị trường tài chính tiền tệ quốc tế.
Tuy nhiên, ngày 16/5/2008, trước những bất ổn của thị trường tiền tệ, để ngăn chặn cuộc đua lãi suất, Ngân hàng nhà nước đã ban hành Quyết định 16/2008/QĐ-NHNN yêu cầu các Tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh bằng VND không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản.
Đến đầu năm 2010, Ngân hàng nhà nước lại gỡ bỏ trần lãi suất cho vay khi cho phép các Tổ chức tín dụng được cho vay theo cơ chế lãi suất thỏa thuận, song không đả động gì đến trần lãi suất huy động. Và đến thời điểm hiện tại, Ngân hàng nhà nước lại quay trở về việc quy định trần lãi suất huy động không chỉ VND mà còn cả với USD.
Nhiều chuyên gia tài chính - ngân hàng trong và ngoài nước nhận xét, việc khống chế trần lãi suất và các biện pháp điều chỉnh trần lãi suất không theo cơ chế thị trường khiến Ngân hàng nhà nước đến thời điểm hiện tại vẫn rất lúng túng trong việc điều chỉnh lãi suất nên như thế nào?
Theo TS. Cấn Văn Lực - Cố vấn cao cấp Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, trong thời điểm nước sôi lửa bỏng, thị trường có quá nhiều biến động mà Ngân hàng nhà nước thì bắt buộc phải sử dụng biện pháp hành chính. Tuy nhiên, không nên lặp lại quá nhiều và tần suất quá gần nhau.
Bên cạnh đó, sự không nhất quán trong điều hành chính sách tiền tệ sẽ đưa đến 3 điểm: Thứ nhất, tạo nên khó khăn trong dự báo, dự trù kinh phí kinh doanh của Doanh nghiệp; thứ hai, niềm tin đối với chính sách tiền tệ sẽ mất dần; thứ ba, sự phối kết hợp giữa các ban ngành với nhau sẽ khó khăn hơn.
TS. Lê Xuân Nghĩa, Phó chủ tịch Uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia cũng cho rằng, lạm dụng các biện pháp hành chính sẽ làm thị trường trở nên méo mó, gây trở ngại cho công việc giám sát cũng như tạo ra nhiều rủi ro đạo đức trong khu vực ngân hàng.
"Thực tế cho thấy, tự do hoá lãi suất đã được thực thi một thời gian dài. Khi đó, các Ngân hàng thương mại có cơ hội cạnh tranh nhau để giảm lãi suất cho vay và kéo lãi suất huy động giảm xuống. Tự do hoá lãi suất là vấn đề cốt lõi của toàn bộ chính sách tiền tệ. Nó không chỉ ảnh hưởng đến nền tảng tài chính của các Ngân hàng thương mại mà ảnh hưởng đến ngay chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước", ông Nghĩa nói.
Đồng quan điểm trên, TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính - ngân hàng nhận xét, các biện pháp hành chính, phi thị trường khó đem lại kết quả như mong đợi, bởi các biện pháp lách luật ngày càng tinh vi hơn. Đồng thời, vừa qua kết quả chưa như mong đợi có thể do chính sách tiền tệ chưa được phối hợp với các chính sách vĩ mô khác như chính sách tài khoá, vấn đề nợ công, chi phí công…
"Ngân hàng nhà nước nên có sự nhất quán trong việc điều hành và thả nổi lãi suất theo cơ chế thị trường. Đặc biệt, nếu quý II/2011, dòng vốn không được lưu thông, tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế thì nên cân nhắc thả nổi lãi suất trong quý III/2011", ông Hiếu nhấn mạnh.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP HẠN CHẾ NHƯỢC ĐIỂM CỦA ÁP CHẾ TÀI CHÍNH VÀ THỰC HIỆN QUAN ĐIỂM TỰ DO HÓA LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM
3.1. Giải pháp hạn chế nhược điểm của áp chế tài chính
Điều chỉnh mô hình tăng trưởng để ổn định vĩ mô và tăng năng suất: Là một nền kinh tế nhỏ và rất mở, Việt Nam không có nhiều không gian trong việc sử dụng chính sách tiền tệ để kích thích tăng trưởng. Việc nới lỏng tiền tệ chưa chắc đã kích thích được tăng trưởng vì khi ấy, một tỷ lệ lớn vốn đầu tư và tiêu dùng tăng thêm sẽ rơi vào hàng nhập khẩu. Không những thế, dưới cơ chế tỷ giá gần như cố định, chính sách nới lỏng tiền tệ còn có thể dẫn đến lạm phát, bong bóng tài sản và đô-la hóa như đã xảy ra do tác dụng của gói kích cầu năm 2009.
Về lý thuyết, trong một nền kinh tế nhỏ, mở như Việt Nam thì chính sách tài khóa có hiệu lực hơn so với chính sách tiền tệ trong việc kích thích tăng trưởng. Tuy nhiên, dư địa của chính sách mở rộng tài khóa ở Việt Nam rất hạn chế vì hai nguyên nhân.
Thứ nhất, thâm hụt ngân sách của Việt Nam đã rất cao và trở nên gần như kinh niên.
Thứ hai, dưới cơ chế tỷ giá cố định, kích thích ngân sách sẽ làm tăng tổng cầu nhờ thu hút được các dòng vốn nước ngoài. Tuy nhiên, khi ấy, để duy trì tỷ giá, Ngân hàng nhà nước thường phải tăng cung tiền và có thể dẫn đến lạm phát.
Như vậy, không nên lạm dụng chính sách tiền tệ và tài khóa mở rộng để kích thích tăng trưởng kinh tế. Thay vào đó, chính sách thích hợp hơn mà Chính phủ có thể và nên làm là thực hiện một chính sách vĩ mô cẩn trọng nhằm duy trì nền tảng vĩ mô ổn định. Cần nhấn mạnh là, những lệch lạc trong chính sách vĩ mô chỉ là những biểu hiện bên ngoài của những trục trặc sâu sắc trong hệ thống thể chế và trong cấu trúc kinh tế. Khắc phục những trục trặc về thể chế và cấu trúc, ổn định kinh tế vĩ mô và tăng năng suất cho nền kinh tế sẽ là cơ sở cho tăng trưởng bền vững, có thể giúp kinh tế Việt Nam thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.
3.2. Biện pháp thực hiện quan điểm tự do hóa lãi suất có hiệu quả
Để tự do hóa lãi suất có hiệu quả cần những điều kiện tiên quyết sau:
+ Lãi suất phải do thị trường quyết định.
+ Lãi suất phải là lãi suất thực dương.
+ Phải gắn liền với cải cách cơ cấu.
- Tự do hoá lãi suất được coi là “hạt nhân” của tự do hoá tài chính:
+ Phải cân nhắc thời điểm bắt đầu, tiến độ tự do hoá lãi suất cho phù hợp.
+ Trình tự, phương thức tiến hành tự do hoá lãi suất của các công cụ tài chính hợp lý.
+ Tự do hoá lãi suất phải:
. Thúc đẩy và kiểm soát quá trình luân chuyển vốn.
. Nâng cao hiệu quả phân bổ và sử dụng vốn.
. Chính phủ phải kiểm soát quá trình tự do hoá lãi suất.
. Cần phát triển một thị trường tiền tệ hiệu quả.
Để làm được điều này, bước đầu nhà nước nên nới lỏng sau đó thực hiện áp chế tài chính ở mức độ vừa phải kế đến thực hiện tự do hóa theo các cam kết của các tổ chức đa phương trên thế giới (ví dụ WTO):
+ Áp chế tài chính ở mức độ vừa phải để tạo nguồn thu bù đắp thâm hụt chính sách trong điều kiện chính phủ không đảm bảo được khả năng thu thuế đầy đủ
+ kiềm chế tài chính để kiểm soát thông tin bất cân xứng và hiệu chỉnh thất bại thị trường trong các giao dịch tín dụng.
Để hệ thống tài chính nói chung và hệ thống ngân hàng Việt Nam nói riêng phát triển, trong thời gian tới chính phủ không nên can thiệp vào bộ máy tổ chức, chính sách quản lý tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước – Ngân hàng nhà nước không còn phải lệ thuộc vào chính phủ. Bản thân Ngân hàng nhà nước cần tạo các chính sách phù hợp để định hướng cho các định chế tài chính thực hiện: tạo sự bình đẳng giữa các tổ chức trong hệ thống tài chính; cần có chính sách mở để các tổ chức, cá nhân trong nước cũng như nước ngoài dễ dàng tham gia vào lĩnh vực tài chính – ngân hàng; thành lập công ty quản lý quỹ đầu tư…
Chính phủ cũng không nên can thiệp quá sâu vào hoạt động sản suất kinh doanh của các doanh nghiệp, hạn chế các doanh nghiệp nhà nước, Chính phủ chỉ nên nắm giữ các ngành trọng điểm và các ngành có lợi thế cạnh tranh mà tư nhân không đủ các điều kiện tham gia.
KẾT LUẬN
Xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa đã và đang trở thành tất yếu trong tiến trình phát triển kinh tế thế giới. Để tiếp cận thành công những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến thế giới đang ngày càng gia tăng ở các quốc gia phát triển, chúng ta phải nỗ lực hết mình để hội nhập vào xu thế đó. Có thể nói việc chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội để phát triển nền kinh tế một cách nhanh chóng
và bền vững. Tuy nhiên, những thách thức đối với nền kinh tế cũng là một vấn đề đáng quan tâm, trong đó có ngành ngân hàng. Trng môi trường cạnh tranh hết sức gay gắt như hiện nay, việc nhà nước áp dụng các chính sách quản lý tài chính có ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với sự phát triển của ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam. Đặc biệt, ảnh hưởng của áp chế tài chính là vô cùng to lớn. theo cam kết hội nhập, từ 01/04/2007 Việt nam sẽ cho phép các ngân hàng 100% vốn nước ngoài được hoạt động và thực hiện hầu hết các như một ngân hàng nội địa, được đối xử ngang bằng theo đúng quy tắc tối huệ quốc gia của WTO. Điều này có nghĩa là việc chính phủ áp chế tài chính quá nặng nề sẽ “góp phần không nhỏ” vào việc kiềm chế khả năng hoạt động giao dịch của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Do đó, để hệ thống tài chính – đặc biệt là hệ thống ngân hàng Việt Nam – phát triển, hạn chế tài chính rồi dần đi tới xóa bỏ áp chế tài chính ra khỏi lĩnh vức tài chính ngân hàng là một yêu cầu cấp bách. Đồng thời, chúng ta cần phát triển thêm quan điểm tự do hóa lãi suất và dần đưa quan điểm này vào thức hiện trong thực tế. Để làm được điều này, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các ban ngành cần có sự phối hợp chặt chẽ để tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng.




TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. website: https://www.tailieu.vn
2. áp chế tài chính và quản lý vĩ mô. Xuân Thành, Trọng Hoài. https://www.fetp.edu.vn
3. các công cụ áp chế tài chính. Richard L.Kitchen
4. tự do hóa tài chính. Xuân Thành
5. tự do hóa tài chính và tình trạng mỏng manh về tài chính. Asli Demirguc-Knut và Enrica Detragiache, tháng 3/1998
6. Fulbright Economics Teaching Program học kỳ Xuân 2003
7. https://www.industry.gov.vn/
8. https://www.mof.gov.vn/
9. https://www.vnn.vn/kinhte/
10. https://www.tuoitre.com.vn/
11. https://www.dddn.com.vn/
 
Hình như thiếu định nghĩa Áp chế tài chính?:KSV@02::KSV@02::KSV@02:
 
×
Quay lại
Top