Hoàn Âm Mưu Ngày Tận Thế - Sidney Sheldon

CHƯƠNG 41 -
Họ đang đi vào vùng ngoại ô Naples. Những căn nhà cũ nằm dọc theo các đường phố chật hẹp, quần áo phơi hầu như khắp các mặt trước ngôi nhà, làm cho những toà nhà như thể là những quả núi bằng bê tông treo những lá cờ đầy màu sắc.
- Anh đã bao giờ đến Naples chưa? - Pier hỏi.
Có một lần. - Giọng Robert nghẹn lại. Susan đang ngồi bên anh, khúc khích. Em nghe nói Naples là một thành phố tinh quái. Chúng mình có thể làm nhưng điều tinh quái ở đây được không, anh yêu? - Chúng ta sẽ sáng tạo ra cái gì đó mới lạ, Robert hứa.
- Anh có sao không đấy? - Pier nhìn anh.
- Tôi không sao cả. - Robert trở lại với hiện tại.
Họ đang chạy dọc theo bờ vịnh, trước pháo đài Ovo một pháo đài cổ bỏ hoang nằm sát bên bờ biển.
Khi họ tới phố Toledo, Pier nói với vẻ hồi hộp.
- Rẽ chỗ nầy.
Họ đang hướng tới khu Spaccanapoli, khu phố cổ của Naples.
- Ngay trước mặt. Rẽ trái vào phố Benedetto Croce. - Pier nói.
Robert lái xe rẽ sang. Đường bắt đầu đông hơn và tiếng còi xe inh ỏi. Anh đã không nhớ là Naples ồn ào như thế nào. Anh cho xe chạy chậm lại để tránh đâm vào những người đi bộ và những con chó chạy ngang mũi xe như thể là chúng được phú cho sự bất tử vậy.
- Rẽ phải ở chỗ nầy. - Pier hướng dẫn, - Vào khu Plebiscito.
Giao thông ở đây còn tệ hơn và nhà cửa san sát.
- Dừng. - Pier kêu lên.
Robert dừng xe lại bên lề đường, trước một dãy những cửa hiệu tồi tàn.
- Đây là nơi mẹ cô sống à? - Robert nhìn quanh.
- Không. - Pier nói. - Tất nhiên là không.
- Cô ta nhoài người ra và nhấn còi xe. Một giây sau, một phụ nữ trẻ bước ra khỏi một cửa hiệu. Pier chạy đến chỗ chị ta. Họ ôm chầm lấy nhau.
- Trông em thật là tuyệt. - Người phụ nữ kêu lên. - Hẳn là em làm ăn được.
- Đúng thế. - Pier chia cổ tay ra. - Nhìn cái vòng mới của em nầy.
- Ngọc thật à?
- Tất nhiên là thế.
- Anna. Ra ngoài nầy. Xem ai đây nầy. - Người phụ nữ kia gọi ai đó trong cửa hiệu.
Robert nhìn, không thể tin được.
- Pier…
- Một phút thôi mà, anh yêu. - Cô ta nói. - Em phải chào bạn bè một chút.
Chỉ trong vài phút, gần một chục người phụ nữ đã vây quanh Pier, thán phục chiếc vòng đeo tay của cô trong khi Robert ngồi nghiến răng, bất lực.
- Anh ấy phát điên lên vì em. - Pier tuyên bố. - Cô ta quay về phía Robert.
- Đúng không anh?
Robert chỉ muốn bóp cổ cô ta, nhưng anh không thể làm gì được.
- Đúng thế. - Anh nói. - Pier, bây giờ chúng ta có thể đi được chưa hả?
- Một phút nữa.
- Ngay bây giờ. - Robert nói.
- Cũng được. - Pier quay sang đám phụ nữ. – Chúng tôi phải đi bây giờ. Chúng tôi có một cuộc hẹn quan trọng. Xin chào.
- Xin chào.
Pier chui vào trong xe ngồi cạnh Robert, và những người phụ nữ đứng nhìn theo họ.
- Họ là những người bạn cũ. - Pier nói một cách sung sướng.
- Tuyệt lắm. Nhà của mẹ cô ở đâu?
- Ồ, bà không ở trong thành phố.
- Cái gì?
- Bà sống ở bên phía ngoài thành phố, trong một trang trại nhỏ cách đây nửa giờ xe chạy.
Trang trại đó nằm ở ngoại ô phía nam Naples, một ngôi nhà xây bằng đá cách xa mặt đường.
- Nó đấy. - Pier kêu lên. - Có đẹp không?
Đẹp. Ngôi nhà ở xa trung tâm thành phố làm cho Robert thấy thích. Sẽ không có lý do nào cho bất kỳ ai đến tìm anh ở đây. Pier nói đúng. Đó là một ngôi nhà tuyệt đối an toàn.
Họ bước đến cửa trước, và khi còn chưa tới thì cánh cửa bật mở và mẹ của Pier đứng đó, mỉm cười với cô gái. Bà ta là một hình mẫu khi về già của cô con gái, mảnh mai, tóc bạc và khuôn mặt đầy những nếp nhăn suy tư.
- Pier, con gái của mẹ. Mẹ nhớ con quá.
- Mẹ, con cũng nhớ mẹ. Đây là người bạn mà con đã gọi điện thoại báo cho mẹ là con sẽ mang về nhà.
Bà mẹ đã không hề ngập ngừng gì.
- A! Vâng, xin được đón tiếp anh.
- Jones. - Robert nói.
- Vào đi, vào đi!
Họ đi vào trong phòng khách. Đó là một căn phòng lớn tiện nghi và ấm cúng với đầy đồ đạc.
Một cậu bé chừng hai mươi bước vào phòng. Cậu ta thấp, với nước da thẫm và khuôn mặt gầy, ủ rũ, cặp mắt nâu buồn thảm. Cậu ta mặc quần bò và một cái áo khoác ngắn trên có hàng chữ Diavoh Rossi. Mặt cậu ta sáng lên khi nhìn thấy chị.
- Pier.
- Chào Carlo.
Họ ôm chầm lấy nhau.
- Chị về làm gì thế?
- Bọn chị về thăm nhà một vài ngày. - Cô quay sang Robert. - Đây là em trai em, Carlo. Đây là anh Jones.
- Chào Carlo.
- Xin chào. - Carlo tò mò nhìn khách.
- Ta sẽ dọn một cái buồng xin đẹp ở phía đằng sau cho cặp uyên ương. - Bà mẹ nói.
- Nếu như không phiền… nghĩa là, nếu bà còn có một phòng ngủ thừa thì tôi muốn có một phòng riêng cho mình. - Robert nói.
Có một thoáng lúng túng. Cả ba người nhìn Robert chòng chọc.
Bà mẹ quay sang Pier.
- Đồng tính luyến ái à?
Pier nhún vai. Con không biết. Nhưng cô ta biết rằng anh không phải là một người như vậy.
- Tuỳ anh thôi. - Bà mẹ nhìn Robert. Bà ta lại ôm lấy Pier. - Mẹ thật sung sướng là lại được thấy con. Đi vào trong bếp. Mẹ sẽ pha cà phê cho cả nhà.
Trong bếp, bà mẹ kêu lên:
- Tuyệt vời. Làm sao con lại gặp anh ta? Anh ta trông có vẻ rất giàu. Và cái vòng mà con đang đeo. Nó phải đáng cả một gia tài. Ơn Chúa. Tối nay, mẹ sẽ làm một bữa thịnh soạn. Mẹ sẽ mời tất cả hàng xóm để họ có thể gặp…
- Không, mẹ. Mẹ không được làm thế.
- Nhưng con ạ, vì sao chúng ta lại không báo tin mừng của con cho mọi người? Tất cả bạn bè của chúng ta sẽ hài lòng.
- Mẹ, anh Jones chỉ muốn nghỉ một vài ngày. Không tiệc tùng. Không hàng xóm gì hết.
- Cũng đành. Con muốn thế nào cũng được. - Bà mẹ thở dài.
Mình sẽ dàn xếp để ông ta bị bắt ở xa nhà để mẹ khỏi bị phiền phức.
Carlo cũng đã chú ý đến cái vòng.
- Cái vòng đó. Chúng là ngọc thật hả? Ông mua nó cho chị tôi à?
Ở thằng bé có cái gì đó mà cho Robert không thích.
- Hãy hỏi cô ấy.
Pier và bà mẹ từ trong bếp đi ra. Bà mẹ nhìn Robert.
- Anh thật không muốn ngủ với Pier à?
- Cám ơn. Không. - Robert lúng túng.
- Em sẽ chỉ phòng ngủ cho anh. - Pier nói.
Cô ta dẫn anh đi về phía cửa sau của ngôi nhà tới một phòng ngủ lớn, tiện nghi với một cái gi.ường đôi ở giữa phòng.
- Robert, anh ngại là mẹ sẽ nghĩ gì khi chúng ta ngủ với nhau à? Bà biết em làm gì mà.
- Không phải thế. - Robert nói. - Đó là… - Anh không có cách nào để giải thích. - Tốt xin lỗi, tôi…
- Không sao cả. - Giọng Pier lạnh tanh.
Cô ta cảm thấy bị xúc phạm một cách vô lý. Đến giờ là hai lần ông ta từ chối ngủ với cô. Mình nộp ông ta cho cảnh sát cũng đáng, cô nghĩ. Song tuy vậy cô vẫn cảm thấy hơi tội lỗi. Thực sự là ông ta tử tế.
Nhưng năm mươi nghìn đôla là năm mươi nghìn đôla.
Trong bữa ăn tối, bà mẹ nói nhiều, còn Pier, Robert và Carlo thì im lặng và mải theo đuổi những ý nghĩ riêng.
Robert thì khẩn trương tính toán kế hoạch trốn chạy của mình. Ngày mai, anh nghĩ, mình sẽ ra bên cảng và tìm một con tàu rời khỏi đây.
Pier thì nghĩ tới cú điện thoại mà cô ta đang tính gọi. Mình sẽ gọi từ trong thành phố để cảnh sát không thể tìm tới đây được.
Carlo thì quan sát người lạ mặt mà chị cậu ta đã lôi tha về nhà. Hẳn là có thể kiếm chác chút gì.
Sau bữa ăn, hai người phụ nữ đi vào trong bếp.
Robert ngồi một mình với Carlo.
- Ông là người đàn ông đầu tiên mà chị tôi đưa về đây. - Carlo nói. - Chị ấy chắc phải thích ông lắm.
- Tôi rất thích cô ấy.
- Thế hả? Ông sẽ chăm sóc chị ấy chứ?
- Tôi nghĩ là chị cậu có thể tự chăm sóc lấy mình.
- Phải. Tôi biết. - Carlo cười.
Người lạ ngồi trước mặt cậu ta ăn mặc rất lịch sự và rõ ràng là giàu. Vì sao ông ta lại ở đây trong khi ông ta có thể ở một khách sạn đàng hoàng nào đó? Lý do duy nhất mà cậu ta có thể nghĩ tới là người đàn ông nầy đang lẩn trốn. Và điều đó mang lạ một điểm thú vị. Khi một người người giàu có đang lẩn trốn, dù là thế nào, cách nào, thì cũng có thể kiếm tiền từ chuyện đó.
- Ông từ đâu tới thế? - Carlo hỏi.
Chẳng từ nơi nào cụ thể cả. - Robert nhẹ nhàng đáp. Tôi đi lại rất nhiều.
- Tôi hiểu. - Carlo gật đầu.
Mình sẽ tìm hiểu qua Pier xem ông ta là ai. Có thể ai đó sẽ sẵn sàng trả nhiều tiền để đổi lấy ông ta, và mình cùng Pier có thể chia chác số đó.
- Ông có làm việc không? - Carlo hỏi.
- Nghỉ hưu.
Cũng không khó khăn gì để buộc người đàn ông phải mở miệng, Carlo nghĩ. Lucca, lãnh tụ của băng Diavoli Rossi, có thể nghiền nát ông ta một cách nhanh chóng.
- Ông sẽ ở với chúng tôi bao lâu?
- Thật khó nói.
Sự tò mò của thằng bé bắt đầu làm cho Robert để ý.
Pier và bà mẹ từ trong bếp đi ra.
- Anh có muốn uống thêm chút cà phê không? - Bà mẹ hỏi.
- Không, cảm ơn. Một bữa tối thật là ngon.
- Có gì đâu Ngày mai tôi sẽ chuẩn bị cả một bữa tiệc cho anh. - Bà mẹ mỉm cười.
- Tuyệt. - Lúc đó thì anh đã đi rồi. Anh đứng dậy. - Nếu bà không phiền, tôi muốn đi nghỉ, tôi hơi mệt.
- Tất nhiên. - Bà mẹ nói. - Chúc ngủ ngon.
- Chúc ngủ ngon.
Họ nhìn theo Robert đi về phía phòng ngủ.
- Ông ta không nghĩ là chị đáng ngủ với ỏng ta, phải không? - Carlo cười.
Lời nhận xét đó làm cho Pier đau nhói, đúng với nghĩa đen của nó. Cô ta sẽ chẳng bận lòng nếu như Robert là một kẻ đồng tính luyến ai nhưng cô ta nghe thấy anh nói chuyện với Susan và cô ta biết rõ. Mình sẽ thử xem.
Nằm trong gi.ường, Robert nghĩ về bước đi tiếp theo của mình. Tạo ra một cái đuôi giả cộng với cái thiết bị dấu trong tấm thẻ tín dụng kia sẽ dành cho anh thêm một chút thời gian, nhưng anh không quá trông vào điều đó. Bây giờ hẳn là họ đã tìm được chiếc xe tải màu đỏ kia rồi. Những kẻ săn đuổi anh rất tàn nhẫn và thạo nghề. Liệu những người đứng đầu các chính phủ có dính vào vụ bưng bít lớn nầy không? Hay đó là một tổ chức bên trong một tổ chức, một nhóm cao cấp trong cộng đồng tình báo đang tự tiện hành động một cách bất hợp pháp. Robert càng nghĩ thì càng thấy rằng có nhiều khả năng là nhưng người đứng đầu các chính phủ có thể không hề biết chuyện gì đang xảy ra. Một ý nghĩ loé lên trong anh.
Dường như anh luôn luôn thấy kỳ quặc với việc Đô đốc Whittaker đột nhiên phải rời khỏi Cục Tình báo hải quân và bị đưa tới một nơi kiểu như Siberia. Nhưng nếu như có ai đó buộc ông ta phải nghỉ bởi vì họ biết rằng ông ta sẽ không bao giờ dính vào một âm mưu, thì điều đó bắt đầu có ý nghĩa. Mình phải liên hệ với đô đốc, Robert nghĩ. Ông ta là người duy nhất anh có thể tin cậy để lần tới sự thật về những gì đang xảy ra. Ngày mai, anh nghĩ. Ngày mai. Anh nhắm mắt lại và thiếp đi.
Tiếng kẹt của cánh cửa phòng ngủ đã làm anh thức giấc Anh ngồi dậy trên gi.ường, lập tức đề phòng.
Có ai đó đang đi lại phía gi.ường. Robert căng người ra, sẵn sàng bật dậy. Anh ngửi thấy mùi nước hoa và cảm thấy cô gái trườn vào gi.ường, bên cạnh anh.
- Pier… Cô làm gì?
- Yên nào. - th.ân thể cô áp chặt vào người anh. Cô hoàn toàn trần truồng. - Em cô đơn quá. - Cô thì thầm, và áp sát vào anh hơn nữa.
- Tôi xin lỗi, Pier, tôi không thể làm gì cho cô được.
- Không ư? Vậy thì để em làm gì đó cho anh. - Pier nói. Giọng cô ngọt ngào.
- Không ích gì đâu. Cô không thể. - Robert chán chường ghê gớm. Anh muốn tránh cho cả hai người sự lúng túng về cái điều sẽ không xảy ra nầy.
- Anh không thích em ư, Robert? Anh không nghĩ là em có một tấm thân đẹp à?
- Có chứ.
Và cô bắt đầu. Anh cảm thấy th.ân thể nóng ấm của cô ta áp lên anh chặt hơn.
Cô bắt đầu vuốt ve anh một cách dịu dàng, những ngón tay cô ta mơn trớn trên ngực anh, và nhẹ nhàng lần xuống phía dưới.
Anh phải chặn cô lại trước khi sự thất bại đầy xúc phạm kia được lặp lại.
- Pier, tôi không thể làm tình. Tôi đã không thể gần một người đàn bà kể từ… một thời gian dài.
- Anh không phải làm gì cả, Robert. - Pier nói. - Em chỉ muốn chơi một chút. Anh có thích được cùng chơi với em không?
Anh không cảm thấy gì cả. Quỷ tha ma bắt Susan. Cô ta đã rời bỏ anh không chỉ với bản thân mình mà cả một phần đàn ông của anh nữa.
Pier đang trườn xuống phía th.ân thể anh.
- Nằm sấp xuống đi - Cô nói.
- Pier, không ích gì Tôi…
Cô ta lật anh lên, và anh nằm đó nguyền rủa Susan, nguyền rủa sự bất lực của chính mình. Anh có thể cảm thấy đầu lưỡi của Pier đang lần dọc trên sống lưng anh, mơn trớn và dịch dần xuống thấp mãi, thấp mãi.
Những ngón tay của cô ta vuốt ve trên d.a thịt anh.
- Pier…
- Yên nào.
Anh đành nằm im, mắt nhắm lại, thấy đầu lưỡi của cô mềm và ấm, thấy đôi vú cô rà lướt trên d.a thịt mình. Rồi anh bắt đầu thấy bị kích thích hơn.
Rồi, anh nghĩ. Rồi. Ôi, rồi. Và anh bắt đầu cứng đơ ra, cho đến khi anh không còn chịu được nữa, anh túm lấy Pier và lật ngửa cô ra.
Cô sờ vào đó và kêu lên.
- Lạy Chúa, thật đáng nể. Em muốn có anh ở trong em.
Robert đi vào trong cô và rồi nữa, nữa. Anh dường như thấy mình được hồi sinh. Pier rất thành thạo, đầy cuồng nhiệt, và Robert miệt mài với cái phần th.ân thể mềm mại như nhung của cô đêm đó. Đêm đó họ làm tình với nhau đến ba lần. Sau cùng, họ ngủ thiếp đi.
Ngày thứ mười tám Naples, Italia.
Sáng ra, khi luồng sáng nhẹ chiếu qua cửa sổ, Robert thức giấc. Anh ôm Pier chặt trong vòng tay mình và thì thầm.
- Cám ơn em.
- Anh thấy thế nào? - Pier mỉm cười ranh mãnh.
- Tuyệt vời. - Robert nói. Và thực là như vậy.
- Anh là một con thú. - Pier rúc vào người anh.
Robert cười.
- Em hợp với điều đó. - Anh nói.
Pier ngồi thẳng dậy và nói với vẻ nghiêm túc:
- Anh không phải là một kẻ buôn lậu ma tuý chứ?
- Không. Một câu hỏi ngây thơ.
- Nhưng Cảnh sát Quốc tế truy lùng anh?
- Đúng. - Điều đó có ý nghĩa hơn.
- Mắt cô ta sáng lên.
- Em biết. Anh là một điệp viên. - Cô ta hồi hộp cứ như một đứa trẻ. -Thật à?
Robert phải bật cười. Và anh nghĩ. Từ miệng của những cô gái trẻ…
- Thú nhận đi. - Pier khăng khăng. - Anh là một điệp viên phải không?
- Phải. - Robert trầm giọng nói. - Anh đúng là một điệp viên.
- Em biết mà. - Mắt Pier sáng lên. - Anh có thể kể cho em nghe một vài bí mật được không?
- Loại bí mật gì hả?
- Anh biết đấy, những bí mật gián điệp - mật mã, và những thứ như thế. Em thích đọc truyện tình báo lắm. Và em chỉ đọc loại đó.
- Thế hả?
- Ồ, vâng. Nhưng đó chỉ là những chuyện bịa. Anh biết những chuyện thật, phải khỏng nào? Chẳng hạn những tín hiệu mà các điệp viên hay dùng. Anh có được phép nói cho em biết một tín hiệu không?
Robert nói một cách nghiêm túc:
- Ồ, thực ra là không nên, nhưng anh cho rằng một thì được. Mình có thể nói điều gì để cô ta tin nhỉ? - Đó là cái tín hiệu rèm cửa cũ kỹ.
- Tín hiệu rèm cửa cũ kỹ à? - Cô ta tròn mắt.
- Phải. - Robert chỉ vào một cái cửa sổ phòng ngủ. - Nếu mọi thứ bình thường thì người ta sẽ để tấm rèm treo lên. Nhưng nếu rắc rối người ta hạ một tấm rèm xuống. Đó là một tín hiệu báo đề đồng nghiệp của mình tránh đi.
- Tuyệt thật. Em chưa bao giờ đọc được điều đó trong một cuốn tiểu thuyết nào. - Pier nói một cách sôi nổi.
- Tất nhiên. - Robert nói. - Đó là điều rất bí mật.
- Em sẽ không nói với ai. - Pier hứa. - Còn gì nữa?
- Gì nữa hả? Robert nghĩ một chút.
- Ồ có một trò chơi điện thoại.
- Kể cho em nghe đi. - Pier xích lại bên anh.
- Ồ giả dụ một bạn điệp viên gọi điện thoại cho em để biết mọi chuyện có ổn thoả không. Anh ta sẽ hỏi gặp Pier. Nếu như mọi chuyện đều ổn, em nói: "Đây là Pier". Nhưng nếu có bất kỳ trục trặc gì thì em nói: ông nhầm số máy rồi.
- Kỳ diệu thật. - Pier kêu lên.
Những huấn luyện viên của mình ở Trang trại hẳn là sẽ đau tim nếu họ nghe thấy mình nói ra thứ ngớ ngẩn nầy.
- Anh có thể kể cho em gì nữa không? - Pier hỏi.
- Anh nghĩ thế là đủ những điều bí mật cho một buổi sáng rồi.
Robert cười lớn.
- Thôi được.
Cô cọ th.ân thể mình dọc theo người Robert.
- Anh có thích tắm một chút không? - Pier hỏi.
- Thích.
Họ xoa xà phòng cho nhau dưới làn nước ấm và khi Pier dang chân Robert ra để rửa cho anh, anh thấy mình lại cứng lên.
Họ làm tình dưới vòi hoa sen.
Trong lúc Robert mặc quần áo, Pier khoác lên người chiếc váy mặc ở nhà và nói:
- Em sẽ gặp anh vào lúc ăn sáng.
Carlo đang đợi chị ở trong phòng ăn.
- Hãy nói với tôi về người bạn của chị đi. - Cậu ta bảo.
- Về cái gì?
- Chị gặp ông ta ở đâu?
- Ở Rome.
- Chắc ông ta rất giàu nên mới mua cho chị cái vòng kia.
- Ông ta thích tao. - Cô nhún vai.
Carlo nói:
- Chị có biết tôi nghĩ gì không hả? Tôi nghĩ là người bạn chị đang lẩn trốn điều gì đó. Nếu chúng ta nói ra đúng chỗ, có thể có một khoản tiền thưởng lớn.
Pier bước lại gần thằng em trai, mắt cô ta long lên:
- Đừng có dính vào chuyện nầy, Carlo.
- Vậy là ông ta đang chạy trốn…
- Thằng nhóc con nghe đây, tao cảnh cáo mầy. Hãy lo việc của mầy ấy.
Cô ta không có ý định chia phần tiền thưởng với bất kỳ ai.
Carlo nói với vẻ trách móc:
- Bà chị nhỏ bé, chị định vơ cả cho mình chứ gì?
- Không. Mầy không hiểu, Carlo.
- Không à?
Pier nói với vẻ nghiêm chỉnh:
- Nói thật với mầy, anh Jones đang lẩn tránh bà vợ của anh ấy. Bà ta thuê một thám tử để săn lùng. Đó là tất cả câu chuyện.
- Sao chị không nói trước? Vậy thì chẳng phải thứ to tát tôi sẽ quên chuyện nầy đi. - Carlo mỉm cười.
Tốt. - Pier nói và Carlo nghĩ, mình sẽ phải tìm hiểu xem thực sự ông ta là ai.
Janus đang nói chuyện điện thoại.
- Các anh có tin tức gì chưa?
- Chúng tôi biết rằng sĩ quan Bellamy hiện ở Naples.
- Các anh có người ở đó không?
- Có. Lúc nầy họ đang tìm kiếm hắn ta. Chúng tôi có một manh mối. Hắn ta đang đi cùng với một con điếm có gia đình ở Naples. Chúng tôi nghĩ chúng có thể đến đó. Chúng tôi đang theo sát.
- Báo cáo kịp thời cho tôi.
Tại Naples, Phòng Nhà cửa đô thị đang bấn bíu tìm kiếm nơi ở của bà mẹ Pier Valli.
Hơn một chục nhân viên an ninh và lực lượng cảnh sát Naples đang lộn trái thành phố ra để tìm kiếm Robert.
Carlo thì mải miết tính các kế hoạch đối với Robert.
Pier thì chuẩn bị gọi lại cho Interpol.
 
CHƯƠNG 42 -
Mối hiểm hoạ treo lơ lửng đâu đây dường như thật rõ ràng, và Robert cảm thấy như anh có thể với tay ra và chạm vào nó. Khu bến cảng tấp nập hoạt động như một cái tổ ong với nhan nhản những con tàu bốc và dỡ hàng. Nhưng thêm vào đó còn có một điểm khác nữa: Những chiếc xe cảnh sát chạy lên chạy xuống với những cảnh sát mặc thường phục và những thám tử trông thật lộ liễu thẩm vấn nhưng công nhân và những thuỷ thủ. Cuộc săn người khẩn trương nầy làm cho Robert hoàn toàn ngạc nhiên. Dường như thể họ đã biết anh ở Naples, bởi lẽ nếu không thì họ không thể nào cùng lúc ráo riết như thế nầy trong việc săn lùng anh ở tất cả các thành phố lớn của Italia. Thậm chí anh đã chẳng buồn ra khỏi xe.
- Anh quay xe lại và rời khỏi khu cảng. Điều mà anh đã nghĩ là một kế hoạch đơn giản - lên một chiếc tàu hàng đi Pháp - giờ đây đã trở thành nguy hiểm. Bằng cách nào đó họ đã lần theo anh tới đây. Anh rà lại các lựa chọn của mình. Đi bằng xe thì dù ngắn dài cũng đều quá nguy hiểm. Lúc nầy thì hẳn sẽ có những trạm kiểm soát xung quanh thành phố. Các bến cảng đều được canh gác. Điều đó có nghĩa là ga xe lửa và sân bay cũng sẽ bị giám sát chặt chẽ. Anh đang ở trong một gọng kìm và nó đang khép lại.
Robert nghĩ đến đề nghị của Susan. Bọn em ở ngay ngoài khơi Gibralta. Bọn em có thể vòng lại và đón anh ở bất kỳ chỗ nào anh muốn. Đó có thể là khả năng thoát duy nhất của anh đấy? Anh không hề muốn kéo Susan vào chuyện nguy hiểm, vậy mà anh không còn nghĩ được đến một sự lựạ chọn nào khác. Đó là cách duy nhất thoát khỏi cái bẫy mà anh đang bị kẹt ở trong. Họ sẽ không tìm kiếm anh trên một du thuyền tư nhân. Nếu mình lên được Thanh Bình, anh nghĩ, họ có thể thả mình gần bờ biển Marseilles, và mình có thể tự lên bờ. Bằng cách đó họ sẽ không bị nguy hiểm.
- Anh dừng lại trước một tiệm ăn nhỏ bên đường và đi vào để gọi điện thoại.
Sau năm phút, anh được nối liên lạc với du thuyền Thanh Bình.
- Xin cho gặp bà Banks.
- Tôi sẽ nói là ai đang gọi ạ?
Monte có một thằng quản gia khốn kiếp trực điện thoại trên du thuyền.
- Cứ nói là một người bạn cũ.
Một phút sau, anh nghe thấy tiếng Susan.
- Robert, anh đấy à?
- Thứ đồ bỏ đây.
- Họ… họ chưa bắt được anh hả?
- Chưa, Susan. - Nói ra cái đề nghị kia với anh thật khó khăn. - Lời đế nghị của em vẫn còn giá trị chứ?
- Tất nhiên rồi. Khi nào…?
- Em có thể đến Naples vào đêm nay được không?
Susan lưỡng lự.
- Em không biết. Chờ em một tí.
Robert nghe thấy tiếng trao đổi. Rồi Susan trở lại bên máy.
- Monte nói là có trục trặc một chút về động cơ, nhưng chúng em có thể đến Naples sau hai ngày.
Quỷ tha ma bắt. Anh ở đây thêm ngày nào là thêm khả năng bị bắt ngày đó.
- Được. Thế cũng tốt.
- Bọn em sẽ tìm anh như thế nào?
- Anh sẽ liên lạc với em.
- Robert, xin anh hãy cẩn thận.
- Anh đang cố gắng. Đúng là như thế.
- Anh sẽ không để chuyện gì xảy ra cho anh chứ?
- Không, anh sẽ không để chuyện gì xảy ra cho mình. Và cả cho em nữa.
Khi Susan gác máy, cô quay lại mỉm cười với chồng:
- Anh ấy sẽ lên thuyền.
Một giờ sau, ở Rome, Francesco Cesar trao một bức điện cho đại tá Frank Johnson. Bức điện được gửi từ du thuyền Thanh Bình. Nội dung: Bellemy sẽ lên thuyền Thanh Bình. Sẽ thông báo cho các ông. Bức điện không có người ký.
- Tôi đã thu xếp hánh lý để giám sát tất cả các liên lạc đi và đến từ tàu Thanh Bình. - Cesar nói. Ngay khi nào Bellamy lên thuyền, chúng ta sẽ tóm hắn
 
CHƯƠNG 43 -
Carlo Valli càng nghĩ càng chắc chắn rằng cậu ta sắp trúng một quả lớn. Câu chuyện bịa của Pier rằng người Mỹ nầy đang lẩn trốn vợ chỉ là một trò đùa. Ông Jones kia đang chạy trốn, đúng thế, nhưng mà là chạy trốn cảnh sát. Có thể là có một giải thưởng treo cho người đàn ông nầy. Có thể là một khoản lớn. Việc nầy phải thật khéo léo. Carlo quyết định mang bàn với Mario Lucca, thủ lĩnh của băng Diavoli Rossi.
Sáng sớm ra, Carlo ngồi lên chiếc xe Vespa và chạy tới phố Sorceila, đằng sau quảng trường Garibandi.
Cậu ta dừng lại trước một khu nhà cũ, và nhấn chuông trên một cái hộp thư vớ toác có ghi tên "Lucca".
Một phút sau, một tiếng nói quát lên:
- Thằng nào đấy?
- Carlo đây. Tôi cần nói chuyện vớì anh, Mario.
- Giờ nầy là giờ tốt đấy. Lên đi.
Mario Lucca đang đứng trước cửa mở toang, trần truồng. Ở cuối phòng, Carlo có thể nhìn thấy một cô gái.
- Gấp à? Có chuyện quái gì mà mầy đến sớm thế nầy?
- Mario, tôi không thể ngủ được. Tôi quá hồi hộp. Tôi nghĩ là mình đang vớ được một quả lớn.
- Thế hả? Vào đi.
Carlo bước vào căn phòng chật chội, bừa bãi.
- Đêm qua, bà chị tôi mang về một thằng cha.
- Thế thì sao? Pier là một con điếm mà. Cô ta…
- Ừ, nhưng mà thằng cha nầy giàu. Và ông ta đang lẩn trốn.
- Ông ta đang lẩn trốn ai?
- Tôi không biết. Nhưng tôi sẽ tìm ra. Tôi nghĩ là có thể có một khoản tiền thưởng lớn treo trên đầu ông ta.
- Sao không hỏi bà chị mầy?
Carlo cau mầy.
- Pier muốn ăn một mình. Anh sẽ thấy cái vòng tay mà ông ta mua cho bà ấy. Vòng ngọc.
- Một cái vòng? Hả? Giá bao nhiêu?
- Rồi tôi sẽ bảo anh. Tôi sẽ bán nó trong sáng nay.
Lucca đứng đó, ngẫm nghĩ:
- Tao bảo mầy thế nầy, Carlo. Vì sao ta lại không nói chuyện với người bạn của chị mầy hả? Hãy tóm hắn và mang hắn tới câu lạc bộ ngay sáng nay.
Câu lạc bộ là một cái nhà kho rỗng ở Sanita, nơi có một cái phòng cách âm.
- Hay. - Carlo mỉm cười. - Tôi có thể dễ dàng đưa ông ta tới đó.
- Chúng tao sẽ đợi hắn. - Lucca nói. - Và sẽ nói chuyện với hắn một chút. Tao hy vọng là hắn ta có một cái giọng hay bởi vì hắn sắp phải hát cho chúng ta nghe.
Khi Carlo trở về nhà, Robert đã đi. Carlo hết hoảng.
- Bạn chị đi đâu rồi? - Cậu hỏi Pier.
- Anh ấy nói là đi vào trong thành phố một lát.
- Anh ấy sẽ quay lại. Sao?
- Tò mò tí thôi. - Cậu ta nặn ra một nụ cười.
Carlo đợi bà mẹ và Pier vào bếp sửa soạn bữa trưa rồi vội và đi vào phòng Pier. Cậu ta nhìn thấy cái vòng ngọc được giấu trong một cái váy lót đề trong ngăn kéo tủ bèn nhanh chóng bỏ nó vào túi và đang trên đường ra khỏi nhà thì bà mẹ từ trong bếp gọi:
- Carlo, mầy không ở nhà ăn trưa à?
- Không. Con có hẹn. Con sẽ về sau, mẹ ạ.
Cậu ta ngồi lên chiếc Vespa và phóng về phía quảng trường Spagnolo. Có thể cái vòng nầy là của rởm, cậu ta nghĩ. Nó có thể chỉ là thuỷ tinh. Mình mong là không trở thành thằng ngớ ngẩn trước mắt Lucca. Cậu ta dừng xe trước một tiệm kim hoàn nhỏ với tấm biển hiệu đề: "Orologia". Chủ tiệm, Gambino, là một người đàn ông lớn tuổi, xương xẩu, với một bộ tóc giả màu đen xộc xệch và một cái mồm toàn răng giả. Ông ta nhìn lên khi Carlo bước vào.
- Xin chào, Carìo. Cậu ra khỏi nhà sớm đấy.
- Dạ.
Hôm nay cậu kiếm được cho tôi cái gì vậy?
Carlo lấy cái vòng tay ra và đặt nó lên trên mặt quầy.
- Cái nầy.
Gambino cầm nó lên. Khi nhìn nó, hai mắt ông ta trợn tròn.
- Cậu kiếm được cái nầy ở đâu thế?
- Một bà dì giàu có chết và để lại nó cho tôi. Nó có đáng giá gì không?
- Có thể. Gambino nói một cách thận trọng.
- Đừng có lòng vòng với tôi.
Gambino có vẻ bị xúc phạm.
- Tôi đã lừa cậu bao giờ chưa hả?
- Thì suốt đấy còn gì.
- Bọn trẻ con chúng mầy cứ giỡn hoài. Tôi sẽ nói cho cậu biết tôi định thế nào, Carlo. Tôi không chắc có thể lo chuyện nầy một mình. Nó rất có giá đấy.
- Thật hả? - Tim Carlo ngừng đập một nhịp. - Tôi sẽ phải xem có thể giao nó ở đâu đó không.
- Tôi sẽ gọi cho cậu tối nay.
Được Carlo nói. Cậu ta chộp lại cái vòng.
- Tôi sẽ giữ nó tới khi nào ông trả lời.
Carlo lâng lâng rời khỏi cửa tiệm. Vậy là cậu ta đã đúng. Thằng cha kia giàu thật và cũng điên khùng nữa: Không thì sao lại có thể tặng một cái vòng đắt tiền như thế nầy cho một con điếm?
Trong cửa hiệu, Gambino nhìn theo Carlo. Ông ta nghĩ, bọn ngu ngốc nầy đang dính vào một chuyện quỷ quái gì thế nhỉ? Từ dưới quầy, ông ta nhặt lên một tờ thông báo được gửi tới tất cả các tiệm kim hoàn. Trong đó có mô tả về chiếc vòng mà ông ta vừa nhìn thấy, nhưng ở phía dưới thì thay vào số điện thoại thường dùng của cảnh sát, là một chú thích đặc biệt: Báo cho SIFAR ngay? Gambino có thể phớt lờ một thông báo thông thường của cảnh sát, như đã hàng trăm lần ông ta làm như vầy, nhưng về SIFAR thì ông ta đủ biết là không nên qua mặt nó. Ông ta không muốn mất khoản lời của cái vòng kia, nhưng lại cũng không muốn chui đầu vào rọ. Một cách miễn cưỡng, ông ta nhấc máy và quay số trên trên bản thông báo.
 
CHƯƠNG 44 -
Đó là cái đẹp của những khủng khiếp, quay cuồng, và là cái bóng của thần chết. Nhiều năm trước, Robert được phái đi công vụ ở Borneo và đã xuyên qua rừng rậm để lần theo một tên phản bội. Đó là vào dịp tháng Mười, trong lễ Musin takoolt, cái mùa ăn người truyền thống, khi mà những thổ dân của vùng rừng rậm sống trong nỗi khủng khiếp của Ballh Salang, thứ ma quái săn người để uống máu. Đó là một mùa săn của những tên sát nhân, và bây giờ, đối với Robert, Naples đột nhiên trở thành những cánh rừng rậm ở Borneo. Cái chết rình rập trong không trung. Đi với ma phải mặc áo giấy, Robert nghĩ. Họ sẽ phải bắt được mình trước đã. Họ đã lần ra mình như thế nào? Pier. Chắc hẳn họ phải lần ra anh qua Pier. Mình phải trở lại ngôi nhà kia và cảnh cáo cô ta, Robert nghĩ. Nhưng trước hết mình phải kiếm cách thoát khỏi nơi nầy.
Anh lái xe ra phía ngoại ô thành phố, nơi những con đường cao tốc bắt đầu, với hy vọng là nhờ một điều kỳ diệu nào đó mà đường không bị kiểm soát.
Còn cách năm trăm mét thì tới đầu đường, anh thấy cảnh sát lập rào chắn. Anh quay xe lại và chạy về trung tâm thành phố.
Robert lái xe chạy chậm, tập trung suy nghĩ, cố đặt mình vào trong vị trí của những kẻ đang săn lùng anh. Họ sẽ cho chặn tất cả những con đường ra khỏi Italia. Tất thảy mọi con tàu rời khỏi nước nầy cũng sẽ bị kiểm tra.
Trong đầu anh chợt nảy ra một kế hoạch. Sẽ chẳng có lý do gì để họ lục soát những con tàu không rời khỏi Italia. Đó là một cơ hội, Robert nghĩ. Anh lại chạy về phía cảng.
Chiếc chuông nhỏ trên cửa tiệm kim hoàn kêu vang và Gambino ngẩng đầu lên. Hai người đàn ông mặc complê màu sẫm bước vào. Họ không phải là khách hàng.
- Tôi có thể giúp gì các ông?
- Ông là Gambino phải không?
- Phải. - Ông ta phơi ra những chiếc răng giả.
- Ông vừa gọi báo về một cái vòng ngọc lục bảo.
SIFAR. Ông ta đã đang đợi họ. Nhưng lần nầy thì ông ta ở cùng phía với những thần chết.
- Đúng thế. Là một công dân yêu nước, tôi cảm thấy đó là nghĩa vụ của mình.
- Dẹp thử vớ vẩn đó đi. Ai mang đến?
- Một thằng bé tên là Carlo.
- Nó có để cái vòng lại không?
- Không, nó mang đi luôn.
- Tên họ của Carlo là gì?
Gambino nhô cao một bên vai lên.
- Tôi không biết tên họ của nó. Nó là một thằng trong băng Diavoli Rossi. Đó là một trong những băng nhóm địa phương ở đây. Đứng đầu băng là nột thằng tên là Lucca.
- Ông có biết chúng tôi có thể tìm được Lucca ở đâu không?
Gambino lưỡng lự. Nếu như Lucca tìm ra rằng ai đã nói thì hắn sẽ cắt lưỡi người ấy. Nếu không nói thì những người nầy cũng sẽ đập ông ta vỡ sọ.
- Hắn sống ở phố Sorcella, phía sau quảng trường Garibaldi.
- Cám ơn ông Gambino. Ông đã giúp chúng tôi nhiều.
- Tôi luôn sung sướng được cộng tác với…
Hai người kia đã ra khỏi tiệm.
Lucca đang nằm trên gi.ường với cô bạn gái thì hai người đàn ông đẩy tung cánh cửa phòng.
Lucca nhảy ra khỏi gi.ường.
- Cái trò mẹ gì thế nầy? Các người là ai hả?
Một người đàn ông chìa ra tấm thẻ.
SIFAR. Lucca nuốt giận.
- Nầy, tôi không làm gì sai trái cả. Tôi là một công dân tôn trọng luật pháp.
- Chúng tôi biết thế, Lucca. Chúng tôi không quan tâm tới anh. Chúng tôi quan tâm tới một thằng bé tên là Carlo.
Carlo. Vậy là về chuyện đó. Cái vòng khôn kiếp kia. Thằng Carlo dính vào chuyện trời đánh gì thế nhỉ? SIFAR không có chuyện phái người đi tìm một thứ đồ nữ trang bị đánh cắp.
- Nào, anh có biết nó hay không hả?
- Có thể.
- Nếu anh không chắc, chúng tôi sẽ làm cho anh nhớ lại tại trụ sở của chúng tôi.
- Khoan. Bây giờ tôi nhớ ra rồi. - Lucca nói. - Hẳn là các ông nói tới Carlo Valli. Nó làm sao hả?
- Chúng tôi muốn nói chuyện với nó. Nó sống ở đâu?
Mọi thành viên của băng Diavoli Rossi đều đã phải uống máu thề trung thành, rằng chúng sẽ chết trước khi phản lại một thành viên khác. Đó chính là điều đã làm cho Diavoli Rossi trở thành một băng mạnh như vậy. Chúng gắn bó với nhau. Một vì tất cả và tất cả vì một.
- Anh có muốn đi vào trung tâm thành phố không hả?
- Để làm gì? - Lucca nhún vai. Hắn ta trao địa chỉ của Carlo.
Ba mươi phút sau, Pier mở cửa và thấy hai người lạ đứng trước mặt.
- Cô là Valli?
- Phải. Rắc rối rồi.
- Chúng tôi có thể vào nhà được không?
Cô ta muốn nói là không, nhưng không dám.
- Các ông là ai?
Một trong hai người đàn ông móc ví và chìa ra một tấm thẻ. SIFAR. Đây không phải là những người mà cô ta đã mặc cả. Pier cảm thấy lo sợ là họ sẽ cướp mất cái khoản tiền thưởng của mình.
- Các ông muốn gì ở tôi?
- Chúng tôi muốn hỏi cô vài câu?
- Cứ việc Tôi không có gì để mà giấu giếm.
Ơn Chúa, Pier nghĩ, Robert đi vắng. Mình vẫn có thể thương lượng.
- Cô từ Rôme đi xe về đây ngày hôm qua phải không? Đó là một câu khẳng định.
- Phải. Điều đó phạm luật chăng? Hay tôi chạy nhanh quá?
Người đàn ông kia mỉm cười. Nhưng nụ cười không làm cho vẻ mặt anh ta thay đổi.
- Cô có một người bạn đồng hành phải không?
- Phải. - Pier thận trọng trả lời.
- Anh ta là ai vậy, thưa cỏ.
Cô ta nhún vai.
- Một người đàn ông tôi gặp trên đường. Ông ta muốn đi nhờ tới Naples.
Người đàn ông thứ hai hỏi:
- Ông ta có ở cùng cô bây giờ không?
- Tôi không biết ông ta hiện ở đâu. Tôi thả ông ta xuống khi chúng tôi về tới thành phố, và ông ta biến mất.
- Có phải tên người hành khách của cô là Robert Bellamy không?
Cô ta nhíu mầy suy nghĩ.
- Bellamy hả? Tôi không biết. Tôi không nghĩ là ông ta có nói tên cho tôi biết.
- Ồ chúng tôi nghĩ là có đấy. Ông ta vớ được cô ở Tor di Ounto, cô đã ngủ qua đêm với ông ta ở khách sạn Incrocio, và sáng hôm sau ông ta mua cho cô một cái vòng ngọc. Ông ta bảo cô tới một vài khách sạn với những cái vé xe lửa và máy bay và rồi cô thuê một chiếc xe, và đi Naples, phải không nào?
Họ biết tất cả. Pier gật đâu, mắt cô ta đầy lo sợ.
- Người bạn của cô sẽ trở lại, hay ông ta đã rời Naples hả?
Cô ta lưỡng lự, lựa câu trả lời lợi nhất. Nếu như cô nói với họ là Robert đã rời khỏi thành phố thì họ cũng không tin cô cơ mà. Họ sẽ đợi ngay trong ngôi nhà nầy và khi ông ta xuất hiện, họ có thể buộc tội cô đã giấu giếm cho ông ta và bắt giữ cô như một tòng phạm. Cô cho rằng nói thật thì còn hơn.
- Ông ta sẽ trở lại. - Pier nói.
- Ngay à?
- Tôi không rõ.
- Ồ chúng tôi sẽ tự thu xếp cho mình. Cô không phiền nếu chúng tôi ngó quanh một chút chứ?
Họ phanh áo khoác, để lộ ra những khẩu súng.
- Không… không.
Họ toả ra, đi lại ngó nghiêng khắp nhà.
Bà mẹ từ trong bếp bước ra.
- Những người đàn ông nầy là ai vậy?
- Họ là bạn của anh Jones. - Pier nói. - Họ đến gặp anh ấy.
Bà mẹ cười.
- Một người đàn ông ra dáng lắm. Các ông có muốn ăn trưa một chút không?
- Có chứ, bà mẹ. - Một trong hai người đàn ông nói. - Chúng ta sẽ có món gì thế?
Đầu óc Pier rối bời. Mình phải gọi lại cho Interpol, cô ta nghĩ. Họ nói họ sẽ trả năm mươi ngàn đôla.
Trong khi đó, cô phải giữ cho Robert đừng về nhà cho đến khi cô dàn xếp xong chuyện "bán" anh. Nhưng bằng cách nào? Cô ta bỗng nhớ lại câu chuyện buổi sáng. Nếu có rắc rối thì người ta buông một tâm mành xuống… để báo cho ai đó tránh đi.
Hai người đàn ông đang ngồi trong phòng ăn, ăn một bát xúp.
- Ở đây sáng quá. - Pier nói.
Cô ta nhỏm dậy và đi vào trong phòng khách kéo một tấm rèm xuống. Rồi cô ta trở lại bên bàn. Mình mong là Robert nhớ cái dấu hiệu báo động nầy.
Robert vừa lái xe chạy về nhà Pier vừa nghĩ kế hoạch tẩu thoát của anh. Không hoàn hảo lắm, anh nghĩ, nhưng ít nhất thì nó cũng làm cho họ mất phương hướng và cho mình có thêm thời gian. Khi về gần tới ngôi nhà, anh giảm tốc độ và quan sát xung quanh.
Một thứ đều có vẻ bình thường. Anh sẽ cảnh cáo Pier đừng dính vào và rồi sẽ ra đi. Khi chuẩn bị dừng xe trước cửa nhà, có điều gì đó làm cho anh thấy lạ. Một tấm rèm phía trước được buông xuống. Những cái khác thì vẫn treo. Có thể là một sự ngẫu nhiên nhưng… một tiếng chuông báo động vang lên trong đầu anh.
Có phải Pier đã nghiêm túc với cái trò vặt của anh chăng? Phải chăng chính là một tín hiệu báo động đó? Robert dận ga và tiếp tục cho xe chạy. Anh không thể có bất kỳ mạo hiểm nào, cho dù là mỏng manh nhất. Anh lái xe đến một cái tiệm cách đó gần hai cây số và đi vào gọi điện thoại.
Họ đang ngồi tại bàn ăn thì chuông điện thoại kêu.
Những người đàn ông cảm thấy căng thẳng. Một trong hai người bọn họ chực nhỏm dậy.
- Liệu có phải Bellamy gọi điện về đây không?
Pier nhìn anh ta có vẻ coi thường.
Tất nhiên là không. Sao ông ta phải làm thế nhỉ?
Cô đứng dậy và bước tới bên điện thoại, nhấc máy.
- Hello?
- Pier hả? Anh nhìn thấy tấm rèm cửa sổ và…
Tất cả những gì cô phải làm là bảo rằng mọi thử vẫn ổn thoả và anh có thể về nhà. Họ sẽ bắt anh và cô có thể đòi khoản tiền thưởng cho mình. Nhưng liệu họ có đơn thuần chỉ bắt hay không? Cô như có thể nghe được lời Robert nói: "Nếu như cánh sát tìm thấy tôi họ được lệnh phải hạ thủ ngay".
Hai người đàn ông ngồi lại bàn đang chăm chú nhìn cô. Với năm mươi ngàn đôla cô có thể làm được bao nhiêu việc. Nào là quần áo đẹp, những chuyến đi, một căn hộ xinh xắn ở Rome. Và Robert sẽ chết. Ngoài ra cô ta còn căm ghét cảnh sát. Pier nới vào máy:
- Ông nhầm số máy.
Robert nghe thấy tiếng máy bị cúp và đứng lặng, sững sờ. Cô ta đã tin vào trò đùa của anh, và có thể điều đó đã cứu mạng anh. Chúa phù hộ cho cô ta.
Robert quay xe và thay vì chạy vào khu cảng chính chuyên phục vụ cho những tàu chở hàng và những tàu đi biển xa, anh lái xe chạy về phía bên kia, ngang qua khu Santa Lucia, tới một cầu tàu nhỏ, nơi có một tấm biển treo trên một kiốt ghi: "Capri và Ischia".
Robert dừng xe ở một nơi dễ thấy và bước đến chổ người bán vé.
- Khi nào thì có chuyến thuyền cao tốc đi Iscbia?
Ba mươi phút nữa.
- Thế còn đi Capri?
- Năm phút.
- Cho tôi một vé một chiều đi Capri.
- Vâng, thưa ông.
- Vâng, thưa ông - nghĩa là thế nào? - Robert to tiếng. - Tại sao các người không nói tiếng Anh như những người khác hả?
Người đàn ông kia trợn mắt ngạc nhiên.
Lũ các người đều giống nhau cả. Ngu ngốc. Hay như các người nói, stupidio. - Robert ném ít tiền cho người đàn ông kia, chộp lấy vé và đi về phía chiếc thuyền.
Ba phút sau, anh đã đang trên đường tới đảo Capri.
Chiếc thuyền tử từ rời bến, thận trọng đi theo đúng luồng lạch. Khi đã ra tới đường giới hạn bên ngoài, nó lao về phía trước, chồm lên hẳn khỏi mặt nước.
Trên thuyền đầy những khách du lịch từ nhiều nước khác nhau, vui vẻ trò chuyện bằng bao nhiêu thử ngôn ngữ. Không ai để ý gì tới Robert. Anh đi tới một quầy rượu nhỏ nơi bán những đồ uống. Anh nói với tay chủ quán:
- Cho tôi vodka pha.
- Thưa ông, vâng.
Anh nhìn tay chủ quán pha rượu.
- Đây thưa ông.
Robert cầm ly rượu lên, nhấp một ngụm. Ann đập mạnh ly rượu xuống mặt quầy:
- Lạy Chúa, các người gọi thứ nầy là rượu à? - Anh nói. - Mùi như nước đái ngựa vậy. Có chuyện gì với bọn người Italia khốn kiếp các người thế hả?
Mọi người xung quanh nhìn anh chòng chọc.
Người chủ quán nói, cứng cỏi.
- Xin lỗi, thưa ông, chúng tôi đã dùng thứ tốt nhất.
- Đừng nói với tao chuyện cứt đái đó.
Một người Anh gần đó dằn giọng.
- Ở đây có phụ nữ. Tại sao ông không chú ý ngôn từ một chút?
- Tôi không cần phải chú ý gì hết. - Robert quát lên. - Các người có biết ta là ai không? Ta là sĩ quan Robert Bellamy. Và họ lại còn gọi đây là một chiếc thuyền chứ? Đúng là một khúc gỗ bỏ đi.
- Anh đi lại mũi thuyền và ngồi xuống. Anh có thể cảm thấy ánh mắt của tất cả mọi người đang nhìn theo. Tim anh đập thình thịch, nhưng cuộc chơi đâu đã xong.
Khi chiếc thuyền ghé vào đảo Capri, Robert bước tới quầy bán vé xe bus. Một người đàn ông lớn tuổi đang đứng trong quầy bán vé.
Một vé. - Robert quát lên. - Và nhanh lên. Tôi không có cả ngày đâu. Ông đã quá già nua cho việc bán vé rồi, đúng thế. Ông nên ở nhà. Có thể vợ ông đang dan díu với tất cả đám hàng xóm đấy.
Ông già đã toan nổi cơn lôi đình. Những người đi qua đều nhìn Robert một cách khó chịu. Robert chộp lấy chiếc vé và bước vào chuyến xe chật ních người. Họ sẽ nhớ mình, anh nghĩ một cách quả quyết.
- Anh đang để lại một cái đuôi mà chẳng ai là không thấy Khi chiếc xe dừng lại, Robert chen ra khỏi đám đông. Anh đi theo phố Vittoro Emanuele ngoằn ngoèo, tới khách sạn Quisiana.
- Tôi cần một phòng. - Anh nói với người nhân viên sau quầy.
- Tôi xin lỗi. - Người nhân viên kia đáp. - Nhưng chúng tôi hết phòng rồi. Có…
Robert đưa cho anh ta sáu mươi ngàn lia.
- Phòng nào cũng được.
- Ồ, trong trường hợp đó, tôi nghĩ là chúng tôi có thể thu xếp cho ông được, thưa ông. Xin ông làm đăng ký ạ?
Robert viết tên: Sĩ quan Robert Bellamy.
- Ông sẽ ở chỗ chúng tôi bao lâu, ông sĩ quan?
- Một tuần.
- Được lắm. Cho tôi xin hộ chiếu của ông?
- Tôi để nó cùng với hành lý. Vài phút nữa nó sẽ được mang lại đây.
- Tôi sẽ cho người đưa ông lên phòng.
- Bây giờ thì không. Tôi phải ra ngoài một chút đã. Tôi sẽ trở lại ngay.
Robert rời khỏi tiền sảnh khách sạn và đi ra phố.
Những kỷ niệm như luồng gió lạnh quất vào đầu anh.
Anh đã từng đi dạo ở đây với Susan, thăm thú những đường phố nhỏ hẹp, và đi dạo dọc trên phố Ignazio và Li Campo. Đó là những ngày huyền diệu. Họ đến thăm khu Grotta Azzurra và uống cà phê sáng ở quảng trường Umberto. Họ đi xe bus lên Anacapri vả cưỡi lừa đi Villa Jovis, ngồi nhà của Tiberus và đi bơi trong vùng nước màu xanh lục ở Marina Piccola. Họ đi mua sắm dọc trên phố Victorio Emanuele và ngồi ghế đu lên đỉnh Solaro, chần họ lướt trên đám lá nho và những bụi cây nhỏ. Về phía bên phải, họ có thể nhìn thấy những ngôi nhà chạy dài xuống sười núi tới sát biển, những bụi cây đậu chổi hoa vàng rực bao phủ mặt đất mọt chuyến đi mười một phút trên một vùng đất huyền thoại với những cây cối xanh ngát, những ngôi nhà trắng và xa xa là vùng biển xanh. Trên đỉnh núi, họ đã uống cà phê ở quán Barbarossa và rồi đi vào một ngôi nhà thở nhỏ để tạ ơn Chúa đã phù hộ cho họ và cảm ơn lẫn nhau.
Robert đi trở lại trạm xe bus ở quảng trường Umberto, và lên xe trở về, lặng lẽ trà trộn vào những hành khách khác. Khi xe dừng lại ở bến sau cùng, anh bước ra, thận trọng tránh người bán vé lúc trước.
Anh đi tới cái kiốt ở bến tàu. Bằng một giọng đặc sệt Tây Ban Nha, Robert hỏi:
- Bao nhiêu phút nữa thì có tàu đi Iscbia?
- Chừng hai mươỉ phút.
- Cám ơn. - Robert mua một vé.
- Anh đi vào cái quán ở trước bến cảng và kiếm một chỗ ngồi ở phía trong, nhấm nháp ly rượu. Lúc nầy thì không nghi ngờ gì là họ đã tìm thấy chiếc xe, và cuộc săn lùng anh đang khép chặt lại. Anh mở rộng tấm bản đồ châu Âu ra trong đầu. Việc anh quay lại Pháp sẽ không có ý nghĩa gì. Vậy là Pháp, Robert nghĩ. Một bến cảng đông đúc để rời Italia.
Civitavechia. Mình phải đến Civitavechia. Du thuyền Thanh Bình.
Anh đổi tiền lẻ ở chỗ chủ quán và tới gọi điện thoại. Người nhân viên tổng đài hàng hải phải mất tới mười phút để nối máy cho anh. Susan trả lời gần như ngay lập tức.
- Bọn em đang chờ tin anh.
Bọn em. Anh thấy điều đó thật thú vị.
Động cơ đã được sửa xong. Sáng sớm chúng em có thể tới Naples. Chúng em sẽ đón anh ở đâu?
Để cái du thuyền Thanh Bình tới đây thì quá mạo hiểm. Robert nói:
- Em có nhớ cái chỗ xuôi ngược đều giống nhau đó không? Chúng ta đã đi tới đó trong tuần trăng mật.
- Cái gì?
- Anh đã nói đùa về nó bởi vì anh đã kiệt sức đấy.
Đầu dây đằng kia im lặng. Rồi tiếng Susan dịu dàng:
- Em nhớ.
- Du thuyền có thể đón anh ở đó vào ngày mai được không?
- Chờ một tí.
Anh chờ. Susan trở lại máy.
- Được bọn em có thể ở đó.
- Tốt. - Robert ngần ngại. Anh nghĩ tới tất cả những người vô tội đã chết. - Anh đang đòi hỏi ở em nhiều quá. Nếu mà họ tìm ra việc em đã giúp anh thì em có thể gặp nguy hiểm khủng khiếp.
- Đừng lo. Chúng em sẽ gặp anh ở đó. Cẩn thận nhé.
- Cám ơn.
Liên lạc bị cắt.
Susan quay lại với Monte Banks.
- Anh ấy sẽ đến.
Tại trụ sở SIFAR ở Rome, họ đang nghe câu chuyện trên phòng liên lạc. Có bốn người đàn ông trong phòng.
Người nhân viên kỹ thuật nói:
- Chúng tôi đã ghi lại trong trường hợp ngài muốn nghe một lần nữa, thưa ngài.
Đại tá Cesar đưa mắt hỏi ý Frank Johnson.
- Phải. Tôi muốn nghe phần nói về nơi họ sẽ gặp nhau. Có vẻ như là anh ta nói chỗ xuôi ngược. Đó là một nơi nào ở Italia?
Đại tá Cesar lắc đầu.
- Tôi chưa bao giở nghe thấy. Chúng ta sẽ kiểm tra. - Ông ta quay lại người trợ lý. - Tìm trên bản đồ xem. Và cứ giám sát tất cả các liên lạc đi và đến của du thuyền Thanh Bình.
- Thưa ngài, vâng.
Chuông điện thoại lại kêu và Pier định đứng dậy để trả lời máy.
- Để yên. - Một trong hai người đàn ông nói. Anh ta bước đến chỗ điện thoại và nhấc máy.
- Hello!
Anh ta nghe một phút rồi ném cái máy xuống và quay lại phía người đồng nghiệp.
- Bellamy đã đi thuyền tới Capri. Chúng ta đi thôi.
Pier nhìn hai người đàn ông vội vã ra cửa và nghĩ: Chúa không có ý định cho mình ngần ấy tiền, hẳn là thế. Mình mong rằng anh ấy thoát được.
Khi chiếc phà đi Ischia cặp bến, Robert hoà vào đám đông trèo lên bờ. Anh cố thu mình, tránh nhìn vào mắt mọi người. Ba mươi phút sau, chiếc phà cặp vào Ischia. Robert xuống và đi tới một quầy bán vé trên cầu tầu. Một tấm biển thông báo cho thấy chuyến phà đi Soriento sẽ khỏi hành sau mười phút.
- Cho một vé khứ hồi đi Soriento. - Robert nói.
Mười phút sau, anh đã trên đường đi Sonento, trở lại đất liền. May ra thì cuộc săn lùng sẽ bị hướng tới Capri, Robert nghĩ. May ra.
Chợ thực phẩm ở Soriento chật ních. Những người nông dân từ ngoại ô vào mang theo hoa quả tươi và rau, và những máng lưỡi bò chất đống trên những quầy thịt. Đường phố đầy những người qua lại.
Robert tiến đến bên người đàn ông to béo mặc một cái áo choàng bẩn thỉu đang chất hàng lên một xe tải.
- Xin lỗi ông - Robert nói bằng một thứ tiếng Pháp hoàn hảo. - Tôi đang tìm phương tiện đi Civitavechia. Ông có đi về hướng đó không?
- Không. Salerno. - Ông ta chỉ về phía một người đàn ông đang chất hàng lên một cái xe tải gần đó. - Guiseppe có thể giúp ông được.
- Cảm ơn.
Robert đi đến chiếc xe tải kia.
- Thưa ông, liệu ông có tình cờ đi Civitavechia không?
- Có thể. - Người đàn ông kia đáp lại một cách hờ hững.
- Tôi sẽ vui lòng được trả tiền.
- Bao nhiêu?
Robert đưa cho ông ta một trăm ngàn lia.
- Với ngần nầy tiền thì ông có thể mua cho mình cả một vé máy bay đi Róme, phải thế không?
Robert lập tức nhận ra ngay sai lầm của mình. Anh nhìn quanh vẻ sợ hãi.
- Sự thật là mấy chủ nợ đang theo dõi tôi ở sân bay. Tôi cẩn đi bằng xe tải mà.
Người đàn ông kia gật đầu.
- À tôi hiểu. Được, lên đi. Chúng ta sẽ đi ngay đấy.
Robert há hốc mồm.
- Tôi rất mệt mỏi. Nói thế nào nhỉ? Mệt phải không ông có bằng lòng nếu cho tôi ngủ ở thùng xe không?
- Đi đường xóc lắm đấy, nhưng tuỳ ông thôi.
- Cám ơn.
Thùng chiếc xe tải nầy chết đầy những thùng và hòm rỗng. Guiseppe nhìn Robert trèo lên và ông ta đóng tấm chắn đằng sau lại. Trên thùng xe, Robert giấu mình sau mấy cái thùng. Anh chợt thấy mình mệt mỏi đến thế nào.
Cuộc săn lùng đã bắt đầu làm cho anh kiệt sức.
Anh đã không ngủ bao lâu rồi nhỉ? Anh nghĩ tới Pier và hình ảnh cô ta đã đến với anh đêm qua, đã làm cho anh cảm thấy mình lại là một người đàn ông hoàn toàn. Anh hy vọng là cô đã đúng. Robert ngủ thiếp đi.
Trong cabin xe, Guiseppe đang nghĩ về người hành khách của mình. Có tin về một người Mỹ mà nhà chức trách đang truy lùng. Người khách nói giọng Pháp nhưng trông như một người Mỹ, và ông ta ăn mặc như một người Mỹ. Cũng đáng kiểm tra xem. Có thể có phần thưởng ngon lành.
Một giờ sau, tại một nơi dừng dành riêng cho xe tải trên xa lộ, Guiseppe đỗ trước một cây xăng.
- Bơm đầy đi. - Ông ta nói.
Ông ta đi vòng lại sau xe và nhìn vào thùng xe.
Người khách của ông ta đang ngủ.
Guiseppe đi vào trong quán ăn và gọi điện cho cảnh sát địa phương.
 
CHƯƠNG 45 -
Cú điện thoại được chuyển thẳng cho đại tá Cesar.
- Phải. - Ông ta nói với Guiseppe. - Có vẻ rất giống người đàn ông của chúng tôi. Nghe kỹ dây. Anh ta rất nguy hiểm, bởi vậy ông phải làm đúng theo lời tôi hiểu chưa?
- Vâng, thưa ngài.
Bây giờ ông đang ở đâu?
Tại nơi dừng xe tải AGIP trên đường đi Civitavechia.
- Và bây giờ anh ta đang ở trong thùng xe của ông à?
- Vâng.
Câu chuyện đã làm cho ông ta sợ. Đáng ra mình chỉ nên lo việc của mình thôi.
- Đừng làm bất cứ điều gì để anh ta nghi ngờ nhé. Trở lại xe và cứ lái đi. Cho tôi số biển và hình dạng chiếc xe của ông.
Guiseppe nói cho ông ta biết.
- Tốt. Chúng tôi sẽ lo mọi chuyện. Giờ thì đi đi.
Đại tá Cesar quay sang đại tá Johnson, hớn hở:
- Tóm được hắn rồi. Hãy cho dựng các trạm kiểm soát còn chúng ta có thể đến đó trong ba mươi phút bằng máy bay lên thẳng.
Lên đường.
Khi Guiseppe gác máy, ông ta lau hai bàn tay đẫm mồ hôi lên trên áo và đi ra xe. Mình hy vọng là không có vụ nổ súng. Maria sẽ giết mình. Mặt khác, nếu như khoản tiền thưởng kha khá một chút…
Ông ta trèo lên cabin và cho xe chạy về hướng Civitavechia.
Ba mươi lăm phút sau, Guiseppe nghe thấy tiếng trực thăng bay trên đầu. Ông ta nhìn lên. Nó mang ký hiệu của cảnh sát quốc gia. Trên xa lộ phía trước mặt, ông ta thấy hai chiếc xe cảnh sát đỗ nối đuôi nhau tạo thành một rào chắn ngang, và đằng sau là cảnh sát với súng tiểu liên trong tay. Chiếc trực thăng hạ xuống bên lề đường và Cesar cùng đại tá Frank Johnson bước ra.
Khi tới gần chỗ đường bị chắn, Guiseppe giảm tốc độ rồi dừng lại. Ông ta tắt máy và nhảy ra, chạy thẳng tới chỗ sĩ quan cảnh sát.
- Hắn ta trong thùng xe. - Ông ta thét lớn.
Cesar quát:
- Khép vào!
Các cảnh sát cùng ập lại, súng lăm lăm.
- Đừng bắn. - Đại tá Johnson quát lớn. - Để anh ta cho tôi. - Ông tiến về phía thùng xe. - Nào ra đi, Robert. - Đại tá Johnson gọi. Hết rồi.
Không có phản ứng gì.
- Robert, anh có năm giây.
Im lặng. Họ chờ đợi.
Cesar quay lại phía người của mình và gật đầu.
- Không! - Đại tá Johnson quát lên. Nhưng đã quá muộn.
Đám cảnh sát đã bắt đầu xả súng vào thùng chiếc xe tải. Tiếng súng chói tai. Những mảnh vỡ bay tung toé vào không gian. Mười giây sau, tiếng súng ngừng.
Đại tá Johnson nhảy lên thùng xe và đá tung những hòm, thùng cản lối ông ta.
Rồi quay xuống nhìn Cesar.
- Anh ta không có đây.
Ngày thứ mười chín
Civitavechia Italia.
Civitavechia là một cảng biển cổ kính trên tuyến đường tới Rome, được canh giữ bởi một pháo đài lớn mà Michelangelo hoàn thiện vào năm 1537. Đây là một trong những cảng bận rộn nhất châu Âu, phục vụ cho tất thảy những vận tải đường biển đi và đến từ Rome và Sardinia. Mới sáng sớm nhưng bến cảng đã sống động với những hoạt động ầm ĩ. Robert đi qua khu ga đường sắt rồi bước vào một quán nhỏ đầy mùi thức ăn cay nồng và gọi đồ ăn sáng.
Du thuyền Thanh Bình sẽ chờ anh ở nơi hẹn trước. Anh biết ơn việc Susan đã nhớ nó. Trong tuần trăng mật, họ đã ở trong phòng và làm tình suốt ba ngày đêm. Sau đó, Susan nói: "Anh có muốn đi bơi không, anh yêu?" Robert lắc đầu. "Không. Anh không thể nhấc người lên được." - "Anh có thể lắm, trước khi thấy Elba(1): rồi Susan cười phá lên và họ lại làm tình. Và thật may mắn, cô ấy đã nhớ cái trò chơi chữ ấy.
Bây giờ tất cả những gì anh phải làm là kiếm một chiếc thuyền chở anh tới Elba. Anh đi dọc theo những đường phố dẫn ra cảng. Khu vực cảng náo nhiệt với những hoạt động của nó, đông đúc những tàu hàng, những thuyền máy và những thuyền tư nhân. Có một bến dành cho phà. Mắt Robert sáng lên khi anh nhìn thấy nó. Đó sẽ là cách an toàn nhất để đi Elba. Anh sẽ dễ dàng hoà mình vào đám đông.
Khi Robert bắt đầu đi về phía bến phà, anh để ý thấy một chiếc xe màu sẫm không có gì đáng chú ý đậu cách đó chừng nửa quãng phố. Anh dừng lại. Nó mang biển số công. Có hại người đàn ông ngồi trong xe đang quan sát bến cảng. Robert quay lại và ới về một hướng khác.
Rải rác trong đám công nhân cảng và khách du lịch, anh phát hiện thấy những thám tử mặc thường phục đang tìm cách để không lộ diện. Họ đứng như những ngọn đèn hiệu báo nguy hiểm. Tim Robert bắt đầu đập mạnh. Làm sao mà họ đã có thể lần theo anh tới đây được nhỉ? Và rồi anh nhớ lại những gì đã xảy ra trước đó.
Lạy Chúa, mình đã nói với thằng cha lái xe tải là mình đi đâu mà. Ngu ngốc. Mình sẽ rất mệt đây.
Anh đã ngủ thiếp đi trên chiếc xe tải và khi xe dừng lại, không có những rung lắc, anh đã tỉnh giấc, nhìn ra và thấy Guiseppe đi vào trong cây xăng để gọi điện thoại. Chẳng biết ông ta gọi ai, song, không được phép mạo hiểm, anh đã chuồn khỏi xe và chui vào thùng một chiếc xe khác cũng chạy về Civvitavechia ở phía bắc.
Anh đã tự bẫy mình. Họ đang tìm kiếm anh ở đây. Cách đây vài trăm mét là cả hơn chục chiếc thuyền có thể cho anh một lối thoát. Nhưng bây giờ thì không còn nữa.
Robert rời khỏi khu cảng và đi vào thành phố. Anh đi ngang qua một toà nhà lớn với một tấm biển sặc sỡ treo trên tường. Tấm biển đề: "Hãy vào khu chợ. Vui vẻ cho tất cả. Đồ ăn. Trò chơi. Đu quay. Xem cuộc đua lớn".
Anh dừng lại nhìn.
Anh đã tìm thấy lối thoát cho mình.
Chú thích
(1) Thấy Elba (I saw Elba) đọc ngược là (Albe was I) có nghĩa là "Trước đây thì tôi có thể" (ND.)
 
CHƯƠNG 46 -
Trong khu chợ, bên ngoài thành phố chừng năm dặm, là một loạt những chiếc khinh khí cầu đủ màu sắc bầy ra trên cả một khu vực, trông giống như những cầu vồng hình tròn. Chúng được cột vào những chiếc xe tải trong lúc những người phục vụ trên mặt đất đang bận rộn bơm khí lạnh vào. Khoảng gần một chục chiếc xe đuổi bắt đỗ ở đó, sẵn sàng lao theo những chiếc khinh khí cầu, trong mỗi xe là hai người đàn ông, một người lái và một người tìm kiếm.
Robert bước lại gần người có vẻ là phụ trách ở đây.
- Hình như các ông sẵn sàng cho một cuộc đua lớn thì phải? - Robert nói.
- Đúng thế. Đã bao giờ ngồi trong một khinh khí cầu chưa hả?
- Chưa.
Họ đang bay là là trên hồ Cormo và anh cho khinh khí cầu hạ xuống cho tới khi nó chạm cả vào mặt nước. "Chúng ta sẽ đâm xuống mất. Susan hét lên. Anh mỉm cười "Không, không đâu!". Mặt dưới của khinh khí cầu đang nhảy múa trên những ngọn sóng. Anh ném đi một túi cát và quả cầu lại bắt đầu bay lên. Susan cười vang và ôm lấy anh, nói…
Người đàn ông kia nói:
- Ông nên thử một chút. Đó là một môn thể thao tuyệt vời.
- Phải. Cuộc đua hướng về đâu thế?
- Nam Tư. Đang có gió đông rất đẹp. Chúng tôi sẽ khởi hành trong ít phút nữa. Tất hơn là nên bay vào buổi sáng sớm khi mà không khí còn mát.
- Thế à? - Robert tiếp nhận lời mời một cách lịch sự.
Anh đã từng đến Nam Tư vào một kỳ nghỉ hè ngắn ngủi. "Chúng ta phải đưa bốn người ra khỏi đó, ông sĩ quan. Chúng ta phải đợ cho đến khi không khí mát hơn. Nếu như vào mùa đông một khinh khí cầu chở được bốn người thì nó chỉ có thể chở được hai người vào mùa hè". Robert thấy tổ bay đã gần như hoàn thành việc bơm không khí vào những quả cầu và bắt đầu đất những ngọn lửa ga lớn, hướng ngọn lửa vào miệng quả cầu để đất nóng không khí bên trong. Những quả cầu, vốn đang nằm bẹp dí, bắt đầu ngóc dậy cho tới khi những cái giỏ treo bên dưới đứng thẳng lên.
- Tôi ngó quanh một chút có được không? - Robert hỏi.
- Xem đi! Chỉ đừng có cản lối ai thôi.
- Vâng.
Robert đến bên một khinh khí cầu đã được bơm đầy ga. Nó được giữ với mặt đất duy nhất bằng một sợi dây thừng buộc vào một trong những chiếc xe tải.
Người chuẩn bị cho nó đã đi ra xa làm gì đấy. Không có ai khác ở gần cả.
Robert trèo vào trong một cái giỏ dưới quả cầu và quả bóng lớn dường như choán cả khoảng trời trên đầu anh. Anh kiểm tra các trang thiết bị, đồng hồ đo độ cao, các bản đồ, một dụng cụ đo để giám sát nhiệt độ bên trong quả cầu, một máy báo mức tăng độ cao và một hộp đồ nghề. Mọi thứ đều đâu vào đấy.
Robert với tay vào trong hòm đồ và lấy ra một con dao. Anh cắt sợi dây buộc và một giây sau, quả cầu bắt đầu bay lên.
Nầy. - Robert thét lớn. - Có chuyện gì thế? Cho tôi xuống.
Người đàn ông mà anh đã nói chuyện trước đó há mồm nhìn quả cầu đang bay đi…
Hãy bình tĩnh. Đừng hoảng sợ. - Ông ta thét lên. - Trên đó có một cái máy đo độ cao. Dùng những vặt dằn trên đó để giữ ở độ cao chừng ba trăm mét. Chúng tôi sẽ gặp ông ở Nam Tư. Ông có nghe thấy tôi nói không?
- Tôi có nghe.
Quả cầu bay lên mỗi lúc một cao, mang anh về phía đông, ngày càng xa Elba ở phía tây. Nhưng Robert không lo ngại. Gió đổi chiều ở những độ cao khác nhau.
Chưa có quả cầu nào khác xuất phát cả. Robert nhìn thấy một chiếc xe đuổi bắt lên đường, bám theo anh.
- Anh ném bớt vật dằn và theo dõi đồng hồ đo độ cao.
Hai trăm mét… hai trăm rưởi, ba trăm, bốn trăm.
Ở độ cao sáu trăm mét, Robert có thể thấy những khinh khí cầu khác bắt đầu xuất phát và bay về phía đông, hướng tới Nam Tư. Không gian yên tĩnh trừ tiếng gió ù ù.
"Robert, thật yên ả làm sao. Cứ như là bay trên một đám mây vậy. Giá mà chúng mình có thể ở trên nầy mãi. Cô đã ôm anh thật chặt. Đã bao giờ anh làm tình trên một khinh khí cầu chưa?" Cô thì thầm. Chúng mình hãy thử xem.
Và sau đó. "Em cuộc là chúng mình là nhữngngười duy nhất trên thế giới nầy đã yêu nhau trên khinh khí cầu đó anh yêu ạ".
Lúc nầy, Robert đang ở trên biển Tyrrhenian, bay theo hướng tây bắc về phía bờ biển Tuscany. Phía dưới, một chuỗi đảo nằm rải rác thành một vòng tròn ngoài khơi, mà Elba là hòn đảo to nhất trong số đó.
Napoleon đã bị đày ra đây, và ông đã chọn nó bờ vì vào ngày quang trời, Robert nghĩ, ông có thể nhìn thấy hòn đảo Corsics yêu quý của mình, nơi ông đã sinh ra. Trong thời kỳ bị đày, Napoleon chỉ có một ý nghĩ là làm sao trốn thoát và trở về nước Pháp.
Mình cũng vậy. Chỉ có điều Napoleon không có Susan và chiếc du thuyền Thanh Bình đến cứu mà thôi.
Đằng xa, ngọn núi Capanne đột nhiên hiện ra, vươn cao vào bầu trời tới một cây số. Robert kéo cái dây an toàn giúp mở van ở trên đỉnh quả cầu để không khí nóng có thể thoát ra ngoài, và quả cầu bắt đầu hạ xuống. Phía bên dưới, Robert có thể nhìn thấy màu hồng và màu xanh tươi đẹp của Elba, màu hồng của đất đỏ và những ngôi nhà kiều Tuscan, còn màu xanh là của rừng rậm. Dưới đó, những bãi biền trắng xoá hoang sơ nằm rải rác quanh mép đảo.
Anh hạ xuống chân ngọn núi, cách xa thành phố, để ít thu hút sự chú ý càng nhiều càng tốt. Có một con đường không xa nơi anh hạ xuống lắm, và anh đi ra đó, chờ cho đến khi có một chiếc xe chạy ngang qua.
- Ông có thể cho tôi đi nhờ vào thành phố được không? - Robert gọi.
- Tất nhiên. Nhảy vào đi.
Người lái xe là một ông cụ chừng tuổi hơn tám mươi, với khuôn mặt già nua nhăn nheo.
- Tôi có thể thề là trước đây một lát tôi nhìn thấy trên trời một quả khinh khí cầu. Anh có nhìn thấy nó không?
- Không. - Robert nói.
- Đến thăm nơi nầy à?
- Chỉ đi ngang qua thôi. Tôi đang trên đường đến Rome.
- Tôi đã đến đó một lần. - Ông lão gật đầu.
Khi họ tới Portogerrairo, thủ phủ và là thành phố duy nhất trên đảo Elba, Robert xuống xe.
- Chúc một ngày tốt lành! - Ông lão nói bằng tiếng Anh.
- Lạy Chúa, Robert nghĩ, ở đây có cả người California.
Robert đi dọc phố Garibaldi, còn đường phố chính đông ngập khách du lịch, mà phần lớn là các gia đình, và dường như thời gian đã dừng lại. Không có gì thay đổi, trừ việc mình đã mất Susan và nửa số chính phủ trên thế giới đang tìm cách hạ thủ mình. Nếu không thì, Robert gượng gạo nghĩ, mọi thứ đều vẫn hệt như trước.
Anh mua cái ống nhòm trong một cửa hiệu bán quà kỷ niệm, đi đến bến cảng và ngồi vào một chiếc bàn bên ngoài tiệm Stella Mariner, nơi anh có thể nhìn toàn bộ khu cảng. Không có những chiếc xe đáng nghi ngờ, không có xuồng cảnh sát và không thấy bóng cảnh sát nào. Họ vẫn nghĩ là đã vây chặt anh trên đất liền, anh sẽ an toàn khi lên du thuyền Thanh Bình. Bây giờ tất cả những gì anh phải làm là chờ nó đến mà thôi.
- Anh ngồi đó, nhấm nháp ly procanico, một thứ rượu vang trắng bản xứ tinh khiết, trông chờ chiếc Thanh Bình. Anh rà lại kế hoạch của mình một lần nữa. Chiếc du thuyền sẽ thả anh ở gần bờ biển Marseilles, và anh sẽ tìm đường đi Paris nơi anh có một người bạn.
Lee Po, người sẽ giúp đỡ anh. Thật là mỉa mai. Anh nhớ lại lời nói của Francesco Cesar: "Tôi nghe nói anh đã có một hợp đồng với người Trung Quốc?
Anh biết rằng Lee Po sẽ giúp anh bởi vì Lee đã một lần cứu mạng cho Robert, và theo truyền thống cổ Trung Hoa, ông ta đã trở thành người có trách nhiệm với Robert. Đó là một vấn đề win yu - "danh dự".
Lee Po là người của Guojia Anquanbu, Bộ An ninh quốc gia Trung Quốc, chuyên chống gián điệp. Nhiều năm trước, Robert bị bắt trong khi tìm cách đưa một nhân vật bất đồng ra khỏi Trung Quốc. Anh bị đưa tới Qincheng, nhà tù của cơ quan an ninh ở Bắc Kinh.
Lee Po là một gián điệp đôi, trước đây từng làm việc cho Robert, đã dàn xếp cho Robert trốn thoát được.
Tại biên giới Trung Quốc, Robert đã nói:
- Anh nên rời khỏi đây trong khi anh vẫn còn sống, Lee. Sự may mắn không kéo dài mãi đâu.
- Tôi có khả năng chịu đựng và tồn tại. - Lee Po đã mỉm cười.
Một năm sau, Lee Po được thuyên chuyển tới Sứ quán Trung Quốc ở Paris.
Robert quyết định đã đến lúc thực hiện bước đầu tiên. Anh rời khỏi tiệm ăn và đi ra bến cảng. Khu cảng đầy những con thuyền to nhỏ đang rời khỏi Portoferraio.
Robert tiến lại gần một người đàn ông đang lau chùi thân một xuồng máy bóng nhoáng. Đó là chiếc Donzi, với động cơ V-8 351 mã lực.
- Một chiếc xuồng đẹp. - Robert nói.
- Merci. - Người đàn ông gật đầu.
- Tôi không hiểu liệu tôi có thể thuê nó để đi chơi một vòng quanh cảng được không?
Người đàn ông dừng tay và nhìn Robert.
- Điều dó có thể được. Anh thạo về tàu thuyền không?
- Có ở nhà tôi cũng có một chiếc Donzi.
Người đàn ông kia gật đầu hài lòng.
- Anh từ đâu đến thế?
- Oregon. - Robert nói.
- Anh sẽ phải trả bốn trăm francs một giờ.
Robert mỉm cười.
- Được.
- Và phải đặt tiền trước, tất nhiên.
- Tất nhiên.
- Nó đã sẵn sáng rồi. Anh có muốn sử dụng nó ngay không?
- Không. Tôi còn phải lo mấy việc lặt vặt. Tôi nghĩ là đến sáng mai.
- Mấy giờ?
- Tôi sẽ nói cho ông sau.
- Anh đưa cho người đàn ông một ít tiền.
- Đây là một phần tiền cọc. Tôi sẽ gặp lại ông vào sáng mai.
Anh đã cho rằng thật là nguy hiểm nếu để cho du thuyền Thanh Bình đi vào cảng. Có những thủ tục nhất định. Viên Capitaméra di porto - "giám đốc cảng" cấp cho mỗi con thuyền một giấy phép và quy định thời gian lưu lại.
Robert tính để chiếc du thuyền Thanh Bình dính líu tới anh ít bao nhiều càng tốt bấy nhiêu. Anh sẽ đón nó ngoài biển.
Trong văn phòng của Bộ Hàng hải Pháp, đại tá Cesar và đại tá Johnson đang nói chuyện với nhân viên tổng đài hàng hải.
- Anh có tin chắc là đã không còn liên lạc nào nữa với du thuyền Thanh Bình không?
- Không, thưa ngài, kể từ câu chuyện cuối cùng mà tôi đã báo cáo.
- Cứ tiếp tục nghe. - Đại tá Cesar quay sang đại tá Johnson và mỉm cười. - Đừng lo. Chúng ta sẽ biết ngay khi sĩ quan Bellamy lên du thuyền Thanh Bình mà.
- Nhưng tôi muốn tóm hắn trước khi hắn lên thuyền.
Nhân viên tổng đài nói:
- Thưa đại tá Cesar, không có chỗ ngược xuôi nào được ghi trên bản đồ Italia. Nhưng tôi nghĩ là chúng ta có thể xác định nó.
- Ở đâu?
- Nó không phải là một địa điểm, thưa ngài. Nó là một từ.
- Cái gì hả?
- Vâng, thưa ngài. Một từ ngược xuôi hoặc một câu mà đọc ngược xuôi cũng vẫn vậy. Thí dụ, Madam Im Adam. Chúng tôi đã cho chạy máy tính. - Anh ta đưa cho Cesar một danh từ sài những từ ngữ.
Đại tá Cesar và đại tá Johnson nhìn lướt qua bản danh sách "Kook… deed, bib, bob, bob… dad… dud… eve… gag… mon… non… non… Otto… pop… sees tot… toot".
Cesar nhìn lên.
- Chẳng giúp ích gì mấy, có phải không?
- Có thể chứ, thưa ngài. Rõ ràng là họ đang dùng một kiểu mật mã. Và một trong những câu chơi chữ nổi tiếng nhất mà người ta gán cho Napoleon đã nói là "Able was I, before I saw Elba" - "Tôi đã có thể, trước khi thấy Elba."
Đại tá Cesar và đại tá Johnson nhìn nhau.
- Elba. Lạy Chúa. Hắn ta ở đó.
Ngây thứ hai mươi Đảo Elba.
Thoạt đầu, nó chỉ như một dấu chấm ở phía chân trời, rồi nhanh chóng lớn dần lên trong ánh nắng ban mai. Qua ống nhòm, Robert nhìn nó hiện rõ thành chiếc du thuyền Thanh Bình. Không còn nhầm lẫn gì về con thuyền. Trên biển không có nhiều cái giống như nó.
Robert vội vã đi xuống dưới bãi, nơi anh đã dàn xếp thuê chiếc xuồng máy.
- Xin chào.
Người chủ của chiếc xuồng máy ngẩng lên.
- Xin chào. Anh đã sẵn sàng mang nó ra khơi chưa?
Robert gật đầu.
- Rồi.
- Anh muốn dùng nó tlong bao lâu.
- Không hơn một hoặc hai giờ.
Robert đưa cho người đàn ông phần tiền cọc còn lại và bước vào trong xuồng.
- Chăm sóc nó cẩn thận đấy. - Người đàn ông nói.
- Đừng lo. - Robert cam đoan với ông ta. - Tôi sẽ chu đáo.
- Người chủ xuồng cởi dây néo và vài giây sau chiếc xuồng đã hướng ra biền, lao nhanh về phía chiếc Thanh Bình. Khi lại gần anh nhìn thấy Susan và Monte Banks đang đứng trên boong. Susan vẫy anh và anh có thể thấy sự lo âu trên gương mặt cô. Robert lái xuồng áp sát vào chiếc du thuyền và ném một sợi dây cho người thuỷ thủ.
- Ngài có muốn mang nó lên không? - Người thuỷ thủ gọi xuống.
- Không, cứ để nó đấy. Người ta sẽ tìm thấy nó ngay thôi mà.
Robert trèo thang lên trên boong tàu làm bằng gỗ tếch không một vết gợn. Đã có một lần Susan mô tả chiếc Thanh Bình cho Robert nghe và anh đã bị gây ấn tượng, nhưng khi tận mắt nhìn thấy thì còn hơn thế nữa. Nó dài hơn một trăm mét với một phòng sang trọng dành cho chủ nhân, tám phòng đôi cho khách, và các cabin có một đội thuỷ thủ 16 người. Nó còn có một phòng khách nhỏ, một phòng ăn, một phòng đọc sách và một bể bơi trên boong.
Con thuyền được lắp hai động cơ diesel turbo loại D399 mười sáu máy, công suất một nghìn hai trăm năm mươi mã lực và mang theo mười xuồng nhỏ dùng để lên bờ. Phần nội thất được làm ở Italia với bàn tay của Luigi Sturchio. Nó là cả một cung điện nổi.
- Em rất mừng là anh thoát được. - Susan nói.
Và Robert có ấn tượng rằng cô không được thoải mái, rằng có chuyện trục trặc gì đó. Hay đó chỉ là vì anh căng thẳng quá?
Trông cô hoàn toàn xinh đẹp, nhưng không hiểu sao, anh cảm thấy thất vọng. Mình đã chờ đợi cái quái gì nhỉ? Rằng cô ấy sẽ xanh xao và khốn khổ ư?
Anh quay sang Monte.
- Tôi muốn anh hiểu rằng tôi thật biết ơn khi được đặt chân lên đây.
- Rất vui được giúp cho anh. - Monte nhún vai.
Người đàn ông nầy là một ông thánh.
- Kế hoạch của anh thế nào?
- Tôi muốn anh vòng lại và hướng về phía tây, tới Marseilles. Anh có thể thả tôi từ ngoài khơi và…
Một người đàn ông mặc đồng phục trắng toát tiến đến. Ông ta ở trạc tuổì năm mươi, dáng người nặng nề với một bộ râu được cắt tỉa gọn gàng,
- Đầy là thuyền trưởng Simpson. Đây là… - Monte Banks nhìn Robert hỏi ý.
- Smith. Tom Smith.
Chúng ta sẽ đi về Marseilles, ông thuyền trưởng. - Monte nói.
- Chúng ta không vào Elba hả?
- Không.
- Cũng được thôi. - Thuyền trưởng Simpson có vẻ ngạc nhiên.
Robert nhìn bao quát phía chân trời. Không có gì cả.
- Tôi đề nghị chúng ta đi thấp dưới đường chân trời.
Khi ba người đã ngồi trong cái phòng khách nhỏ, Monte hỏi:
- Anh không nghĩ là anh cần giải thích cho chúng tôi à?
- Có chứ. - Robert nói. - Nhưng không phải bây giờ. Các vị biết về vụ nầy càng ít bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Tôi chỉ có thể nói với các bạn là tôi hoàn toàn vô tội. Tôi đã bị lôi vào một trò chính trị gì đó. Tôi biết quá nhiều, và tôi đang bị săn đuổi. Nếu tìm được họ sẽ giết ngay tôi.
Susan và Monte đưa mắt nhìn nhau.
- Họ không có lý do gì để gắn tôi với du thuyền Thanh Bình cả. - Robert tiếp tục. - Hãy tin tôi, Monte, tôi đã chọn cách khác để trốn, nếu như có.
Robert nghĩ về tất cả những người đã bị giết chỉ vì anh đã tìm ra họ. Anh không thể chịu nổi nếu có việc gì xảy ra cho Susan. Anh cố giữ gịọng nhẹ nhàng.
- Về các vị tôi sẽ biết ơn nếu không ai nhắc tới việc tôi đã từng có mặt trên thuyền nầy.
- Tất nhiên là không. - Monte nói.
Con thuyền từ từ quay lại và bắt đầu đi về phía tây.
- Nếu anh cho phép, tôi phải có đôi lời với viên thuyền trưởng.
Bữa ăn tối là cả một sự lúng túng, với những vẻ là lạ mà Robert không hiểu, một sự căng thẳng dường như có thể sờ thấy được. Có phải đó là vì sự có mặt của anh không? Hay là điều gì khác? Một điều gì đó giữa hai người bọn họ chăng? Mình càng rời khỏi đây sớm bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, Robert nghĩ.
Họ đang ngồi trong phòng khách nhỏ uống rượu sau bữa tối thì thuyền trưởng Simpson đi vào.
- Khi nào thì chúng ta tới Marseilles? - Robert hỏi.
- Nếu thời tiết cứ như thế nầy chúng ta sẽ tới đó vào chiều mai, thưa ông Smith.
Có gì đó trong dáng điệu của thuyền trưởng Simpson làm Robert thấy khó chịu. Viên thuyền trưởng hơi cục cằn, gần như đến mức thô lỗ. Nhưng hẳn là giỏi nghề, Robert nghĩ, nếu không thì Monte đã không thuê ông ta. Susan xứng đáng với chiếc du thuyền nầy. Cô ấy xứng đáng với mọi điều tốt đẹp nhất.
Vào lúc 11 giờ, Monte nhìn đồng hồ và nói với Susan:
- Anh nghĩ là chúng ta nên đi nghỉ thôi, em yêu.
Susan liếc nhìn Robert.
- Vâng.
Cả ba người đứng dậy.
- Anh sẽ thấy một bộ quần áo để thay ở trong phòng của anh. Chúng ta cùng khổ người mà. – Monte nói.
- Cám ơn.
- Chúc ngủ ngon, Robert.
- Chúc ngủ ngon, Susan.
Robert đứng đó, nhìn theo người phụ nữ mà anh yêu dấu đi vào gi.ường với kẻ tình địch của mình. Tình địch ư? Mình còn định lừa dối ai nữa? Anh ta là người thắnng cuộc còn mình là kẻ thua.
Giấc ngủ là một cái bóng chập chờn nhảy múa ở ngay ngoài tầm tay. Nằm trong gi.ường, Robert nghĩ rằng ở phía bên kia tấm ngăn, chỉ cách vài mét, là người phụ nữ mà anh yêu hơn bất kỳ ai trên đời. Anh hình dung Susan nằm trần truồng trên gi.ường - cô ấy không bao giờ mặc váy ngủ - và anh tự cảm thấy mình bị rung động. Liệu lúc nầy Monte có đang làm tình với cô hay không… Và cô có đang nghĩ về anh với những ngày tháng tuyệt vời mà họ đã có bên nhau hay không? Có thể là không. Ồ, anh sẽ bước ra hẳn cuộc đời cô ngay thôi mà. Có thể là anh sẽ không bao giờ gặp lại cô nữa.
Trời đã tảng sáng trước khi anh chợp mắt.
Trong phòng thông tin của SIFAR, ra-đa đang đò tìm thuyền Thanh Bình. Đại tá Cesar quay sang đại tá Johnson và nói:
- Thật quá tệ là đã không chặn được hắn ở Elba, nhưng giờ đây thì chúng ta tóm được hắn rồi. Đã có sẵn một tàu cao tốc. Chúng ta chỉ chờ tin từ du thuyền Thanh Bình là xuất phát thôi.
Ngày thứ hai mươi mốt.
Sáng sớm, Robert đứng trên boong quan sát mặt biển yện tĩnh. Thuyền trưởng Simpson đến bên anh.
- Xin chào. Ông Smith, có vẻ là thời tiết sẽ ổn định đấy.
- Vâng.
- Chúng ta sẽ đến Marseilles vào lúc mấy giờ. Chúng ta sẽ dừng lại đó có lâu không?
- Tôi không biết. - Robert lịch thiệp đáp. - Để xem:
- Vâng, thưa ông.
Robert nhìn Simpson rảo bước bước đi. Con người nầy thế nào nhỉ?
Robert đi về phía đuôi thuyền và nhìn bao quát khắp chân trời. Anh không thấy gì cả, song tuy vậy, trong quá khứ, bản năng đã cứu anh không chỉ một lần. Đã từ lâu, anh biết cách dựa vào bản năng đó.
Có chuyện xấu rồi.
Ngoài tầm mắt, phía sau đường chân trời, chiếc tàu cao tốc Stromboli của hải quân Italia đang đuồi theo du thuyền Thanh Bình.
Khi Susan đến ăn sáng, trông cô xanh tái và ủ rũ.
- Em có ngủ ngon không, em yêu? - Monte hỏi.
- Ngon. - Susan nói.
Vậy là họ không cùng chung phòng. Robert cảm thấy dễ chịu một cách vò lý khi biết điều đó. Anh và Susan thường xuyên ngủ chung gi.ường và th.ân thể trần truồng đầy đặn của cô mơn trớn khăp th.ân thể anh… Lạy Chúa, mình không được nghĩ như thế nầy nữa.
Phía trước chiếc Thanh Bình, về phía bên mạn phải là một chiếc tàu đánh cá của đội tàu Marseilles đang kéo về một mẻ cá mới.
- Các anh có muốn ăn trưa với cá tươi không? - Susan hỏi.
- Cả hai người đàn ông đều gật đầu.
- Tốt đấy.
Họ gần như đã đến ngay phía trước con tàu đánh cá.
Khi thuyền trưởng Simpson đi ngang qua, Robert hỏi:
- Khi nào thì chúng ta tới Marseilles vậy?
- Chúng ta sẽ đến đó sau hai giờ nữa. Marseilles là một cảng đầy hấp dẫn. Ông đã đến đó bao giờ chưa, ông Smith?
- Nó đúng là một cảng hấp dẫn. - Robert đáp.
Trong phòng thông tin của SIFAR, hai đại tá đang đọc bức điện vừa được gửi đến từ chiếc du thuyền Thanh Bình. Nó được viết đơn giản: Bây giờ.
- Chiếc Thanh Bình hiện ở vị trí nào? - Đại tá Cesar gầm lên.
- Họ đang hướng vào cảng, còn cách Marseilles hai giờ đồng hồ.
- Ra lệnh cho chiếc Stromboli vượt lên và sang mạn ngay.
Ba mươi phút sau, chiếc tàu cao tốc của Hải quân Italia Stromboli đã ập sát chiếc Thanh Bình. Susan và Monte đang ở đuôi thuyền nhìn chiếc tàu chiến áp vào mạn tàu họ.
Một giọng nói vang lên từ loa phóng thanh của chiếc tàu chiến.
- Du thuyền Thanh Bình chú ý. Dừng lại. Chúng tôi sẽ sang mạn. Susan Và Monte đưa mắt nhìn nhau. Thuyền trưởng Simpson vội vã chạy lại phía họ.
- Ông Banks…
- Tôi nghe thấy rồi. Làm theo lời họ. Tắt máy.
- Thưa ông, vâng.
Một phút sau, tiếng máy tàu tắt đi và chiếc du thuyền nằm đong đưa trên mặt nước. Susan và Monte nhìn những người thuỷ thủ có vũ trang được hạ xuống, từ chiếc tàu cao tốc của Hải quân, trong một chục xuồng.
Lát sau, hơn một chục thuỷ thủ đã đang trèo lên thang dây của chiếc Thanh Bình.
Viên sĩ quan chỉ huy, một thiẽu tá hải quân, nói:
- Xìn lỗi vì đã làm phiền, thưa ông Banks, Chính phủ Italia có lý do để tin rằng ông đang chứa chấp một kẻ bị truy nã. Chúng tôi được lệnh khám con thuyền của ông.
Susan đứng nhìn những người thuỷ thủ dàn ra, đi dọc trên boong và đi xuống bên dưới để lục soát các phòng.
- Đừng nói gì cả…
- Nhưng…
Không một lời.
Họ đứng im lặng, nhìn cuộc lục soát diễn ra.
- Báo cáo chỉ huy, không hề thấy bóng dáng hắn ta. - Một thuỷ thủ báo cáo.
- Anh có tin chắc thế không?
Chắc chắn, thưa ngài. Trên thuyền không có hành khách nào và chúng tôi đã nhận diện từng người trong thuỷ thủ đoàn.
Viên chỉ huy đứng lặng, thất vọng. Các cấp trên của anh ta đã mắc một sai lầm nghiêm trọng.
Anh ta quay sang Monte, Susan và thuyền trưởng Simpson:
- Tôi nợ quý vị một lời xin lỗi. - Anh ta nói. - Tôi thật lấy làm tiếc vì đã làm phiền quý vị. Chúng tôi sẽ rời đi ngay bây giờ. - Anh ta quay người bước đi.
- Ông chỉ huy…
- Có?
Thuyền trưởng Simpson nói với vẻ khó khăn:
- Người đàn ông mà các ông tìm kiếm đã thoát đi trên một con tàu đánh cá cách đây nửa giờ. Các ông sẽ không khó khăn gì trong việc bắt anh ta.
Năm phút sau, chiếc Stromboli lao nhanh về hướng Marseilles. Viên thiếu tá hải quân hoàn toàn hài lòng với bản thân. Các chính phủ trên thế giới đang truy lùng sĩ quan chỉ huy Robert Bellamy và mình là người đã tìm thấy hắn. Có thể sẽ được đề bạt trong vụ nầy, anh ta nghĩ.
Từ trên cầu chỉ huy, một sĩ quan hàng hải gọi to:
- Ông chỉ huy, xin ông lên đây được chứ?
Họ đã phát hiện chiếc tàu đánh cá rồi ư? Viên thiếu tá hải quân vội vã chạy lên cầu chỉ huy.
- Nhìn kìa, thưa ông.
Viên thiếu tá thoáng nhìn và tim anh ta lặng đi.
Xa xa về phía trước phủ kín cả đường chân trời là toàn bộ đội tàu cá Marseilles, một trăm chiếc tàu giống hệt nhau đang trên đường vào cảng. Không còn cách nào trên đời nầy để xác định sĩ quan Benamy ẩn náu ở trên chiếc nào.
 
CHƯƠNG 47 -
Anh đánh cắp một chiếc xe ở Marseilles. Đó là chiếc Fiat 1800 Spider mui trần, đỗ trên một phố phụ tối tăm. Nó được khoá và không hề có chìa khoá nào cắm trên công tắc. Không khó khăn gì. Nhìn quanh để chắc không bị ai để ý Robert rạch tấm vải bạt nói xe và thò tay vào bên trong mở chốt cửa. Anh ngồi vào trong xe và với tay xuống phía dưới mặt bảng đồng hồ, lôi ra tất cả mớ dây công tắc điện. Anh giữ sợi dây to màu đỏ trong một tay và tay kia cầm từng sợi còn lại dí vào nó cho đến khi thấy bảng đồng hồ sáng lên. Sau đó, anh xoắn hai sợi đó với nhau và gì những sợi còn lại vào hai đầu dây vừa xoắn cho đến khi động cơ bắt đầu khởi động. Một giây sau, Robert đã trên đường đi Paris.
Ưu tiên đầu tiên của anh là tìm kiếm. Khi tới ngoại ô Paris, anh dừng lại tại một buồng điện thoại công cộng. Anh gọi đến căn hộ của Lee và nghe thấy giọng nói quen thuộc trên máy trả lời tự động:
- Xin chào. Tôi lấy làm tiếc là không có nhà, nhưng không có nguy cơ của việc tôi không trả lời lại bạn. Hãy chờ tôi gọi lại". Robert nhẩm đếm các từ theo mã riêng của họ. Các từ khoá là: Lấy làm tiếc… nguy cơ cẩn thận… Tất nhiên là điện thoại bị nghe trộm. Lee đang chờ anh gọi, và đây là cách ông ta báo động cho Robert.
Anh ta phải kiếm ông ta càng sớm càng tốt. Anh sẽ dùng một mã khác mà trước kia họ đã từng dùng.
Robert đi dọc theo phố Faubourg Saint-Honoré. Anh đã từng đi trên phố nầy với Susan. Cô đã dừng lại trước một ô kính cửa hiệu và đứng theo dáng của một manơcanh. "Anh có thích em mặc bộ váy đó không, Robert?" - "Không, anh thà được thấy em không mặc gì còn hơn". Và họ đã thăm diện Louvre, và Susan đã đứng chết lặng trước Mona Lisa, mắt cô ướt đẫm…
Robert đi về phía trụ sở của tờ báo Le Matin. Trước cổng vào chừng một quãng phố, anh chặn một cậu thiếu niên trên đường.
- Cậu sẽ muốn kiếm năm mươi francs chứ hả?
- Làm việc gì ạ? - Cậu bé nhìn anh một cách nghi ngờ.
Robert nghệch ngoạc mấy chữ lên một mẩu giấy và trao nó cho cậu bé cùng với một tờ 50 francs.
- Chỉ việc mang cái nầy vào cho báo Le Matin, mục tin rao vặt.
- Thế thì được.
Robert nhìn theo cậu bé đi vào toà nhà. Mẩu tin sẽ kịp được in vào số báo sáng hôm sau. Nội dung của nó: Tily. Cha ốm nặng. Cần con. Hãy về gặp bố ngay. Mẹ.
Bây giờ thì chẳng còn việc gì để làm ngoài chờ đợi. Anh không dám vào thuê buồng khách sạn bởi vì họ có thể đã thông báo đi khắp các nơi. Paris là một quả bom hẹn giờ.
Robert lên một chiếc xe bus du lịch đông khách và ngồi vào cuối xe, cố gắng giữ im lặng và không đề ai chú ý. Nhóm du khách đến thăm khu vườn Luxembourg, điện Louvre, lăng Napoleon và Les Invalides cùng hàng chục nơi khác. Và Robert luôn luôn cố hoà lẫn vào giữa đám đông.
Ngày thứ hai mươi hai.
Paris, Pháp.
Anh mua vé xem một buổi biểu diễn khuya tại rạp Moulin Rouge cùng với một nhóm du khách khác.
Buổi diễn bắt đầu vào lúc 2 giờ sáng. Sau đó, anh dành phần còn lại của đêm đi quanh khu đồi Montmartre, từ quày nầy sang cái khác.
Các tờ báo sẽ không xuất hiện trên các đường phố trước 5 giờ sáng. Lúc 5 giờ kém một vài phút, Robert đã đứng chờ cạnh một sạp báo: Một chiếc xe tải màu đỏ dừng lại và thằng bé ném một nắm báo xuống vỉa hè. Robert nhặt tờ đầu tiên lên. Anh lật mục quảng cáo. Lời nhắn của anh ở đó. Bây giờ thì chẳng cỏn gì để làm ngoài việc chờ đợi.
Buổi trưa, Robert lững thững đi vào một tiệm bán thuốc lá nhỏ, nơi hàng chục những mẩu tin nhắn được dán vào một tấm bảng. Đó là những lời rao tìm người làm, cho thuê nhà, sinh viên tìm người cùng thuê phòng, bán xe đạp. Ở giữa tấm bảng, Robert thấy mẩu tin mà anh đang tìm kiếm. "Tilly mong gặp anh. Gọi cô ấy ở 50 41 26 45.
Lee Po trả lời ngay ở tiếng chuông đầu tiên.
- Robert hả?
- Chào Lee.
- Lạy Chúa, chuyện gì xảy ra vậy?
- Tôi đang hy vọng là anh sẽ nói cho tôi biết.
- Anh bạn, người ta đang chú ý đến anh hơn cả chú ý đến tổng thống Pháp đấy. Các bức điện đang xoay quanh anh. Anh đã làm gì vậy? Thôi, đừng nói. Dù sao chăng nữa thì anh cũng đang rất nguy. Họ đã nghe trộm điện thoại của Sứ quán Trung Quốc, cả điện thoại của tôi ở nhà cũng vậy và họ đang theo dõi căn hộ của tôi. Họ đã hỏi tôi rất nhiều về anh.
- Lee, anh có biết tất cả nhưng chuyện nầy là…
- Không nói qua điện thoại được. Anh có còn nhớ căn hộ của Tống ở đâu không?
Bạn gái của Lee.
- Có
- Tôi sẽ gặp anh ở đó sau nửa giờ nữa.
- Cám ơn.
Robert hoàn toàn hiểu rõ Lee đang tự dấn thân vào nguy hiểm như thế nào. Anh nhớ lại chuyện đã xảy ra với Al Traynor bạn của anh ở FBI. Mình như một con chim lợn khốn kiếp. Cứ đến gần ai là người đó lại phải chết.
Căn hộ đó nằm trên phố Benouville trong một khu vực yên tĩnh của Paris. Khi Robert tới, bầu trời u ám với những cơn mưa dông và anh có thể nghe thấy tiếng sấm xa xa. Anh đi vào hành lang và bấm chuông cửa một căn hộ. Lee Po mở cửa ngay lập tức.
- Vào đi ông ta nói. - Nhanh lên.
Lee Po đóng cửa và khoá lại. Kể từ lần anh gặp trước, Lee Po đã không có gì thay đổi. Ông ta cao, gầy và vẫn cứ như trẻ mãi.
Hai người đàn ông bắt tay nhau.
- Lee, anh có biết chuyện quái quỷ gì đang xảy ra không?
- Ngồi xuống, Robert.
Robert ngồi xuống.
Lee quan sát anh một thoáng.
- Anh đã bao giờ nghe nói về Chiến dịch Ngày Tận Thế chưa?
- Chưa. Nó có liên quan gì tới nhữag vật thể bay lạ không hả? - Robert chau mầy.
- Hoàn toàn liên quan tới những cái đĩa bay ấy, Robert, thế giới đang đứng trước một thảm hoạ.
Lee Po bắt đầu đi đi lại lại.
- Những sinh vật lạ đang đến trái đất để huỷ diệt chúng ta. Ba năm trước, họ đổ bộ xuống đây và gặp gỡ các quan chức chính phủ đề đòi tất cả các cường quốc công nghiệp đóng cửa các nhà máy hạt nhân và chấm dứt việc đốt các nhiên liệu hoá thạch.
Robert chăm chú nghe, kinh ngạc.
- Họ đòi ngừng sản xuất dầu mỏ, hoá chất, cao su chất dẻo. Điều đó có nghĩa là việc đóng cửa hàng nghìn nhà máy trên thế giới. Các nhà máy sản xuất ô tô và sát thép sẽ buộc phải đóng cửa. Nền kinh tế thế giới sẽ trở thành một mớ hỗn loạn.
- Vì sao họ lại…
- Họ tuyên bố rằng chúng ta làm ô nhiễm vũ trụ, huỷ hoại trái đất và các đại dương… Họ muốn chúng ta ngừng sản xuất vũ khí, ngừng gây chiến tranh. Một nhóm các nhân viên quyền lực từ mười hai nước đã tập hợp lại - đó là những nhà công nghiệp hàng đầu của Mỹ, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc… Một người có mật danh là Janus đã phối hợp các cơ quan tình báo trên khắp thế giới vào Chiến dịch Ngày Tận Thế để ngăn chặn những sinh vật lạ kia. - Ông ta quay lại nhìn Robert. - Anh đã nghe về SDI chứ?
- Cuộc chiến tranh giữa các vì sao. Các hệ thống vệ tinh nhằm bắn hạ các tên lửa đạn đạo xuyên lục địa của Liên Xô.
Lee lắc đầu.
- Không. Đó là cái vỏ ngoài. SDI được tạo ra không phải để chống lại những người Nga. Nó đang được nhằm vào mục tiêu cụ thể là bắn hạ các đĩa bay. Đó là cơ hội duy nhất để ngăn chặn họ.
Robert ngồi lặng người, cố gắng lĩnh hội hết những gì Lee Po đang nói, trong lúc những tiếng sấm lớn dần.
- Ý anh nói là các Chính phủ đứng sau…
- Chúng ta hãy cho rằng có các phe phái bên trong mỗi chính phủ. Chiến dịch Ngày Tận Thế đang được điều hành một cách riêng biệt. Giờ thì anh đã hiểu chưa?
- Lạy Chúa. Các chính phủ không biết rằng… - Anh ngước nhìn Lee Po. - Lee, làm sao mà anh biết rõ như thế?
- Robert, rất đơn giản thôi. - Lee trầm ngâm nói. - Tôi là mối liên hệ với Trung Quốc. - Trong tay ông ta xuất hiện một khẩu Beretta.
Robert trố mắt nhìn khẩu súng.
Lee xiết cò và tiếng súng hoà lẫn với tiếng sét chói tai và một ánh chớp sáng loà ngoài cửa sổ.
 
CHƯƠNG 48 -
Vài giọt nước mưa trong trẻo đầu tiên đã làm cô tỉnh giấc. Cô đang nằm trên một cái ghế trong công viên, kiệt sức đến không đi được nữa. Trong hai ngày qua cô đã cảm giác thấy sức sống đang rời khỏi cô. Mình sẽ chết ở đây, trên hành tinh nầy. Cô bồng bềnh trôi vào cái mà cô nghĩ là giấc ngủ cuối cùng của mình. Và rồi một trận mưa đổ đến. Trận mưa may mắn. Cô gần như không thể tin nổi. Cô ngẩng đầu lên và cảm thấy những giọt nước mát lăn xuống trên mặt cô. Trời mưa mỗi lúc một to hơn. Dòng nước mát lành, tinh khiết. Rồi cô đứng dậy và vươn hai tay lên cao, để cho nước đổ xuống người, mang lại cho cô sức mạnh mới, làm cho cô sống lại. Cô tắm mình trong mưa, và hấp thụ nó vào ngay trong th.ân thể mình, cho đến khi cở thấy sự mệt mỏi biến mất, thấy mình mỗi lúc một khoẻ hơn lên, cho tới sau cùng, cô nghĩ, mình đã sẵn sàng. Mình có thể nghĩ một cách mạch lạc. Mình biết ai có thể giúp mình tìm đường trở về. Cô lấy ra cái máy phát nhỏ, nhắm mắt lại, và bắt đầu tập trung đầu óc.
 
CHƯƠNG 49 -
Chính cái ánh chớp sáng loà đã cứu mạng cho Robert. Ngay cái lúc Lee Po xiết cò, ánh chớp bên ngoài cửa sổ bừng lên đột ngột đã làm cho ông ta bị phân tán trong giây lát. Robert dịch người và viên đạn đã trúng vào vai phải anh chứ không phải vào ngực.
Khi Lee nâng nòng súng để bắn nữa, Robert co chân đạp mạnh, đánh bật khẩu súng khỏi tay ông ta. Lee chồm về phía trước và đấm mạnh vào chỗ vai bị thương của Robert. Đau một cách khủng khiếp. Cái áo khoác của anh thấm đầy máu. Anh bất ngờ đánh mạnh cùi chỏ về phía trước.
Lee thét lên đau đớn. Ông ta trả đòn, bắt một cú chặt cổ chết người, và tránh được. Hai người đàn ông thủ thế với nhau, cả hai đều thở dốc, cố tìm một chỗ hở của đối phương để ra đòn. Họ lặng lẽ chiến đấu như trong một trận quyết đấu có tính nghi lễ từ thời tiền sử và mỗi người đều biết rằng chỉ một người còn được sống mà bước ra khỏi chỗ nầy. Robert đang đuối sức đi. Vết thương ở vai anh mỗi lúc một đau, và anh có thể nhìn thấy cả máu mình đang nhỏ giọt xuống sàn nhà.
Thời gian đứng về phía Lee Po. Mình phải dứt điểm nhanh chóng, Robert nghĩ. Anh bước tới với một cú đá chính diện nhanh. Thay vì né người, Lee hứng chịu toàn bộ sức nặng của cú đá và đủ gần để đánh thẳng khuỷu tay vào vai Robert. Robert lùi lại. Lee sấn tới với một cú đá hiềm hóc, và Robert loạng choạng. Lee chồm tới ngay lập tức, đấm liên tiếp, hết cú nầy đến cú khác vào vai anh, dồn anh ngang qua phòng. Robert đã quá yếu để có thể ngăn được trận mưa những cú đấm kia. Mắt anh bắt đầu mờ đi. Anh đổ vào người Lee, túm lấy ông ta và hai người ngã xuống, làm vỡ tan cái mặt bàn bằng thuỷ tinh. Robert nằm trên sàn, kiệt sức. Thế là xong, anh nghĩ. Chúng đã thắng.
Anh nằm đó gần ngất đi, chờ Lee kết liễu mạng sống của anh. Không, có gì cả. Chậm chạp, đau đớn, Robert ngẩng đầu dậy. Lee nằm bên cạnh anh trên sàn nhà, mắt mở trừng trừng nhìn lên trần. Một mảnh kính lớn đâm vào ngực ông ta như một lưỡi dao găm trong suốt.
Robert cố ngồi dậy. Anh rất yếu vì mất máu. Vai anh đau buốt. Mình phải kiếm một bác sĩ, anh nghĩ.
Có một cái tên - ai đó mà cơ quan nầy thường dùng ở Paris - một người nào đó ở bệnh viện Mỹ. Hilsinger.
Đúng rồi. Leon Hilsinger.
Bác sĩ Hilsinger đang sắp rời khỏi phòng làm việc lúc cuối ngày thì điện thoại gọi tới. Cô y tá của ông đã về nhà nên ông phải tự nghe điện. Giọng nói ở đầu đằng kia líu lại.
- Bác sĩ Hilsinger phải không?
- Vâng Đây là Robert Bellamy… Cần có sự giúp đỡ của ông. Tôi bị thương nặng lắm. Ông sẽ giúp tôi chứ?
- Tất nhiên. Anh ở đâu?
- Khỏi lo chuyện đó. Tôi sẽ gặp ông tại Bệnh viện Mỹ sau nửa giờ. - Bác sĩ… đừng nói về cú điện thoại nầy với bất kỳ ai.
- Anh cứ tin ở tôi.
Máy bị gác.
Bác sĩ Hilsinger quay một số máy.
- Tôi vừa nói chuyện điện thoại với sĩ quan Robert Bellamy. Tôi sẽ gặp anh ta tại Bệnh viện Mỹ sau nửa giờ nữa…
- Cảm ơn bác sĩ.
Bác sĩ Hilsinger đặt máy xuống. Ông ta nghe thấy tiếng cửa phòng bật mở và nhìn lên. Robert Bellamy đang đứng đó với một khẩu súng trong tay.
- Tôi đã nghĩ lại. Robert nói. - Có thể là tốt hơn nếu bác sĩ chữa cho tôi ở đây.
Ông bác sĩ cố giấu vẻ ngạc nhiên.
- Anh, anh cẩn đến một bệnh viện.
- Quá gần vởi nhà xác. Băng bó cho tôi nhanh lên. - Anh chỉ nói cũng thấy khó khăn.
Ông ta toan phản đối, rồi nghĩ tốt hơn là làm theo.
- Được Tuỳ anh thôi. Tốt nhất là tôi cho anh một mũi gây tê. Nó sẽ…
Đừng nghĩ tới chuyện đó nữa. Robert nói. - Đừng mẹo. – Anh cầm khẩu súng trong tay trái. Nếu tôi không sống mà ra khỏi đây thì ông cũng đừng hòng. Hỏi gì nữa không? - Anh cảm thấy choáng.
- Không. - Bác sĩ Hilsinger nuốt nước bọt.
- Vậy thì làm đi…
Bác sĩ Hilsinger dẫn Robert vào phòng bên cạnh, một phòng khám với đầy các thiết bị y tế. Chậm chạp và thận trọng, Robert cởi áo khoác ra. Cẩm súng trong tay, anh ngồi xuống bên bàn. Bác sĩ Hilsinger có một con dao mồ trong tay và những ngón tay Robert nắm chặt báng súng.
- Thư giãn một chút. Bác sĩ Hilsinger nói một cách sợ hãi. - Tôi sẽ cắt miếng áo sơ mi của anh.
Vết thương trần trụi và đỏ sậm máu.
- Cái đầu đạn vẫn còn ở trong nầy. - Bác sĩ Hilsinger nói. - Anh sẽ không chịu nổi trừ phi tôi cho anh…
- Không. - Anh sẽ không để cho mình bị tiêm thuốc mê. - Cử lấy nó ra.
- Tuỳ ý anh.
Robert nhìn viên bác sĩ bước lại chỗ máy khử trùng và cho vào đó một chiếc panh. Anh ngồi ghé vào mép bàn, cố chống lại cơn choáng ngất đang đe doạ trùm lên mình. Anh nhắm mắt lại trong một giây và bác sĩ Hilsinger đã đang đứng trước mãt anh với chiếc panh trong tay.
- Nào bắt đầu. - Ông ta đưa panh vào chỗ vết thương và Robert thét lên vì đau đớn. Mắt anh toé hoa cà hoa cải. Anh suýt ngất đi.
- Ra rồi. - Bác sĩ Hilsinger nói.
Robert ngồi yên, run rẩy và hít mạnh cố lấy lại sự tỉnh táo.
- Anh có sao không đấy? - Bác sĩ Hilsinger chăm chú nhìn anh.
Phải mất một giây, Robert mới có thể cất lời:
- Không sao… Băng vào đi.
Viên bác sĩ rót nước ôxy già vào vết thương và Robert lại muốn ngất đi. Anh nghiến chặt răng. Cố nào. Sắp xong rồi. Và sau cùng, ơn Chúa, cơn đau đớn nhất đã qua. Viên bác sĩ băng bó kỹ cái bả vai cho Robert.
- Đưa cho tôi cái áo khoác. - Robert nói.
Bác sĩ Hilsinger nhìn anh chòng chọc.
- Anh không thể đi bây giờ được. Thậm chí là anh không thể bước nổi nữa.
- Đưa cho tôi cái áo khoác lại đây. - Anh hầu như không nói lên lời. Anh nhìn viên bác sĩ đi qua phòng để lấy cái áo khoác, và hình ảnh ông ta nhoè đi thành hai.
- Anh đã mất nhiều máu. Bác sĩ Hilsinger lưu ý. Anh đi bây giờ sẽ rất nguy hiểm.
Và nếu ở lại thì còn nguy hiềm hơn, Robert nghĩ.
Anh cẩn thận mặc áo vào và cố đứng vững. Hai chân anh muốn nhũn xuống và anh vội túm lấy mép bàn.
- Anh sẽ không thể đi được. - Bác sĩ Hilsinger nói.
- Tôi sẽ đi. - Robert nhìn cái bóng nhoè trước mắt.
Nhưng anh biết rằng ngay khi anh bước ra là bác sĩ Hilsinger sẽ lại nhấc điện thoại lên. Robert để mắt tới cuộn băng phẫu thuật dày mà bác sĩ Hilsinger đã sử dụng.
- Ngồi xuống ghế. - Giọng anh líu lại.
- Sao? Anh tính…
- Ngồi xuống. - Robert nâng khẩu súng lên.
Bác sĩ Hilsinger làm theo. Thật khó khăn khi nhặt cuộn băng lên bởi vì anh chỉ có thể dùng được một tay. Anh kéo một đầu băng và bắt đầu gỡ nó ra. Anh bước lại gần bác sĩ Hilsinger.
- Hãy ngồi yên và ông sẽ không đau đớn gì cả.
Anh buộc hai đầu băng vào ghế, và rồi quấn nó quanh hai tay viên bác sĩ.
- Việc nầy thật sự không cần thiết. - Bác sĩ Hilsinger nói. - Tôi sẽ không…
- Im đi. - Robert tiếp tục trói viên bác sĩ vào ghế.
Những cố gắng của anh làm cho cơn đau lại bắt đầu trở lại. Anh nhìn viên bác sĩ và khẽ níi:
- Tôi không thể ngất được…
Anh ngất đi.
Anh đang lơ lửng trong không gian, bập bềnh không trọng lượng trong những tầng mây trắng, thanh thản. Tỉnh dậy. Anh không muốn tỉnh dậy nữa. Anh muốn cái cảm giác tuyệt vời nầy kéo dài mãi mãi.
Tỉnh dậy. Có cái gì đó đang tì mạnh bên sười anh.
Cái gì đó trong túi áo khoác của anh. Mắt vẫn nhắm nghiền, anh thò tay vào túi và cầm nó ra tay. Đó là một bộ phận bằng tinh thể thuỷ tinh. Anh lại trôi vào giấc ngủ.
Robert. Đó là một giọng phụ nữ, mềm mại và dỗ dành. Anh đang ở trên một cánh đồng xanh đáng yêu, và không gian đầy tiếng nhạc, nắng rực rờ trên đầu.
Một phụ nữ đang đi lại gần anh. Cô ta cao và đẹp, với một khuôn mặt trái xoan dịu dàng và làn da mịn, nõn nà. Cô mặc một bộ váy áo trắng tinh. Giọng cô dịu dàng, âu yếm.
"Robert, không còn ai làm cho anh đau đớn nữa. Đến với em. Em đang chờ anh đây".
Robert từ từ mở mắt. Anh nằm yên đó một hồi lâu rồi ngồi dậy, đột ngột chìm trong một cảm giác hồi hộp. Giờ đây anh đã biết ai là nhân chứng thứ mười một và anh biết phải gặp cô ấy ở nơi nào.
 
CHƯƠNG 50 -
Ngày thứ hai mươi ba
Paris, Pháp.
Từ văn phòng của viên bác sĩ, anh gọi điện cho Đô đốc Whittaker.
- Thưa Đô đốc? Robert đây.
- Robert. Chuyện gì thế? Họ bảo tôi…
- Đừng để ý chuyện đó bây giờ. Tôi cần ngài giúp đỡ thưa Đô đốc. Ngài đã bao giờ nghe cái tên Janus chưa?
Đô đốc Whittaker chậm rãi nói:
- Janus ư? Không. Chưa bao giờ nghe nói tới.
- Tôi đã phát hiện ra rằng ông ta đang đứng đầu một tổ chức bí mật và ra lệnh sát hại nhiều người vô tội còn bây giờ ông ta đang tìm cách giết tôi. Chúng ta phải chặn ông ta lại.
- Tôi có thể giúp anh như thế nào?
- Tôi muốn liên lạc với Tổng thống. Ngài có thể dàn xếp một cuộc gặp khỏng?
Một giây im lặng.
- Tôi chắc là có thể.
- Còn nữa. Liên quan đến tướng Hilliard.
- Hả? Như thế nào?
- Và còn những người khác. Hầu hết các cơ quan tình báo ở châu Âu cũng dính vào chuyện nầy. Bây giờ tôi chưa thể giải thích gì hơn được. Tôi muốn ngài gọi cho Hilliard. Bảo ông ta là tôi đã tìm thấy nhân chứng thứ mười một.
- Tôi không hiểu. Nhân chứng thứ mười một về cái gì cơ chứ?
- Thưa Đô đốc, tôi xin lỗi, nhưng tôi không thể nói với ngài được. Hilliard sẽ biết. Tôi muốn ông ta gặp tôi ở Thuỵ Sĩ.
- Thuỵ Sĩ à?
Bảo ông ta tôi là người duy nhất biết nhân chứng thứ mười một kia ở đâu. Nếu ông ta có một hành động sai thôi là hợp đồng bị huỷ. Hãy nói ông ta đến Doler Grand ở Zurich. Sẽ có thư nhắn cho ông ta ở chỗ thường trực. Bảo ông ta tôi cũng muốn cả Janus đến Thuỵ Sĩ đích thân ông ta.
- Robert, anh có chắc biết anh đang làm gì không?
- Không, thưa ngài. Tôi không chắc. Nhưng đây là cơ hội duy nhất mà tôi có được. Tôi muốn ngài bảo ông ta rằng điều kiện của tôi là khỏng thể thương lượng gì. Thử nhất, tôi muốn một hành lang an toàn tớí Thuỵ Sĩ. Thứ hai, tôi muốn tướng Hilliard và Janus gặp tôi ở đó. Thứ ba, sau đó, tôi muốn có một cuộc gặp với Tồng thống.
- Robert, tôi sẽ làm tất cả những gì có thể được. Làm sao tôi có thể liên lạc với anh?
- Tôi sẽ gọi lại. Ngài sẽ cần có bao nhiêu thởi gian ạ?
- Để cho tôi một giờ.
- Vâng.
- Và nầy Robert…
Anh có thể nghe thấy nỗi đau đớn trong giọng nói của ông già.
- Dạ, thưa ngài?
- Cẩn thận nhé.
- Thưa ngài, xin đừng lo. Tôi là người sống sót. Ngài hẳn nhớ.
Một tiếng sau, Robert lại đang nói chuyện với Đô đốc Whittaker.
- Anh đã có một cam kết. Tướng Hilliard có vẻ lo sợ với cái tin về một nhân chứng khác. Ông ta hứa với tôi là anh sẽ không bị làm hại. Các điều kiện của anh sẽ được đáp ứng. Ông ta đang bay đi Zurich và sẽ có mặt ở đó vào sáng mai.
- Còn Janus?
Janus sẽ đi cùng với chuyến máy bay với ông ta.
- Cám ơn Đô đốc. Còn Tổng thống? - Robert cảm thấy nhẹ nhõm.
- Tôi đã đích thân nói với ông ấy: Các phụ tá của ông ấy sẽ dàn xếp một cuộc gặp với anh bất kỳ lúc nào anh sẵn sàng.
- Ơn Chúa.
- Tướng Hilliard có một máy bay để chở anh tới.
- Không được. - Anh sẽ không để họ đẩy vào một cái máy bay. - Tôi đang ở Paris. Tôi muốn có một chiếc ô tô và tôi sẽ tự lái lấy. Tôi muốn nó được để trước khách sạn Lettré ở Montparnasse trong vòng một giờ đồng hồ tới.
- Tôi sẽ lo chuyện đó.
- Thưa Đô đốc?
- Có gì vậy Robert?
- Cám ơn ngài. - Anh thật khó giữ giọng nói bình tĩnh.
Anh đi dọc theo phố Lettré một cách chậm chạp, do vết đau và tiến tới khách sạn kia mọt cách thận trọng. Đậu ngay trước toà nhà là một chiếc Mercedes màu đen. Không có ai trong xe. Ngang bên kia đường là một chiếc xe sơn màu trắng xanh của cảnh sát và một người mặc sắc phục cảnh sát đang ngồi sau tay lái. Trên lề đường hai người mặc quần áo dân sự đứng nhìn Robert tiến lại. Mật vụ Pháp.
Robert thấy khó thở. Tim anh đập mạnh. Liệu có phải anh đang đi vào một cái bẫy không? Đảm bảo duy nhất mà anh có là nhân chứng thứ mười một. Hilliard có tin anh không? Như thế có đủ không?
Anh bước tới chỗ chiếc xe, đợi những người kia ra tay. Họ đứng nguyên, yên lặng quan sát anh.
Robert đi đến phía ghế lái của chiếc Mercedes và nhìn vào bên trong. Những chiếc chìa khoá được cắm vào ổ điện. Anh có thể cảm thấy những người kia dán mắt vào anh trong khi anh mở cửa và ngồi vào ghế lái. Nếu tướng Hillard lừa dối Đô đốc Whittaker thì bây giờ là lúc mọi thứ sẽ kết thúc trong một tiếng nổ dữ dội đây.
Nào. Robert hít mạnh và với tay trái xoay chiếc chìa khoá. Tiếng máy nổ êm. Những nhân viên mật vụ đứng nhìn anh lái xe đi. Khi Robert đến khu giao lộ một chiếc xe cảnh sát chèn vào phía trước anh và trong một giây, Robert nghĩ là anh sẽ bị chặn lại.
Nhưng thay vì thế, chiếc xe cảnh sát bật đèn hiệu đỏ và dòng xe cộ dường như biến mất. Họ còn hộ tống mình nữa chứ.
Trên đầu, Robert nghe thấy tiếng động của một chiếc trực thăng. Anh liếc nhìn lên. Sườn chiếc trực thăng có in phù hiệu của cảnh sát quốc gia Pháp.
Tướng Hilliard đã làm tất cả những gì có thể được để bảo đảm là anh đến Thuỵ Sĩ an toàn. Và sau khi mình cho ông ta thấy nhân chứng thứ mười một, Robert nghĩ một cách quả quyết, ông ta sẽ lại tính chuyện giết mình. Nhưng ông tướng sẽ phải ngạc nhiên.
Robert đến Thuỵ Sĩ vào lúc 4 giờ chiều. Tại biên giới chiếc xe của cảnh sát Pháp quay lại và một chiếc xe của cảnh sát Thuỵ Sĩ tháp tùng cho anh. Lần đầu tiên kể từ khi bắt đầu vụ nầy, Robert cảm thấy thư thái ơn Chúa là Đô đốc Whistaker có những bạn bè ở cấp cao. Với việc Tổng thống đang chờ một cuộc gặp với Robert, tướng Hilliard sẽ không dám làm hại anh. Đầu óc anh chuyển sang nghĩ tới người phụ nữ mặc đồ trắng, và ngay lúc đó, anh nghe thấy tiếng cô. Âm thanh của tiếng nói đó vang đến chiếc xe.
- Nhanh lên, Robert. Tất cả chúng tôi đang đợi anh.
- Tất cả? Không phải chỉ một à? Mình sẽ biết ngay thôi mà, Robert nghĩ.
Tại Zurich, Robert dừng xe trước khách sạn Dolder Grand và viết một mẩu giấy lại chỗ thường trực.
- Tướng Hilliard sẽ hỏi tôi. - Robert bảo người nhân viên. - Xin đưa cái nầy cho ông ấy.
- Thưa ông, vâng.
Ra bên ngoài, Robert bước lại chô chiếc xe cảnh sát đã hộ tống anh. Anh cúi xuống nói với người lái xe.
- Từ đây trở đi, tôi muốn chỉ có một mình.
- Cũng được, thưa ông sĩ quan. - Người lái xe lưỡng lự.
Robert ngồi trở lại vào xe của mình và bắt đầu lái về hướng Uetendorf, nơi chiếc đĩa bay đã đâm xuống.
Vừa lái xe, anh vừa nghĩ tới tất cả những thảm kịch đã xảy ra vì nó và những sinh mạng đã mất. Hans Beckerman và Cha Patrim, Leslie Mothershedvà William Dann, Daniel Wayne và Otto Schmidt, Laslo Bushrekete và Fritz Mandel, Olga Romanchanko và Kevin Parker.
Chết. Tất cả họ đều đã chết. Mình muốn thấy mặt Janus, Robert nghĩ, và nhìn thẳng vào mắt ông ta.
Những làng mạc như lao vun vút bên đùòng, và vẻ hoang sơ của dãy Alps át đi những cuộc đổ máu và nỗi kinh hoàng đã bắt đầu từ đây. Chiếc xe tới Thun và Robert bắt đầu cảm thấy hồi hộp. Phía trước là cánh đồng nơi anh và Beckerman đã tìm thấy vỏ quả bóng thám không thời tiết, nơi mà cơn ác mộng bắt đầu. Robert dừng xe lại bên đường và tắt máy.
Rồi anh ra khỏi xe, băng ngang qua đùòng và đi tới chỗ cánh đồng đó.
Hàng nghìn mẩu ký ức ùa về trong đầu anh. Cú điện thoại gọi lúc 4 giờ sáng. "Ông được lệnh phải trình diện với tướng Hilliard tại trụ sở Cục An ninh Quốc gia ở Fort Meade vào đúng 6 giờ sáng nay. Ông đã rõ chưa, ông sĩ quan?"
Lúc đó thì anh hiểu về nó ít làm sao. Anh nhớ lại những lời nói của tướng Hilliard "Ông phải tìm ra những nhân chứng đó. Tất cả bọn họ! Và cuộc tìm kiếm đã từ Zurich dân tới Bern, London, Munich, Rome, và Orvieto, từ Waco tới Fort Smith, từ Kiev tới Washington và Budapest. Rồi vệt máu đó đã đi tới chỗ kết thúc, tại đây, nơi nó bắt đầu.
Cô đang đợi anh đúng như Robert biết thế, và trông cô giống hệt như trong giấc mơ của anh. Họ tiến lại với nhau và dường như cô đang lướt về phía anh, một nụ cười rạng rỡ trên gương măt cô.
Robert, cảm ơn anh đã đến.
Có phải thật sự anh nghe thấy cô nói không, hay là anh đang nghe những ý nghĩ của cô nhi? Làm sao người ta lại có thể nói chuyện với một sinh vật lạ được Tôi phải đến. Anh nói một cách đơn giản.
Cảnh tượng nầy có một vẻ hoàn toàn không thật.
Mình đang đứng đây nói chuyện với một ai đó thuộc một thế giới khác. Mình phải hoảng sợ mới phải, thế mà trong cả đời mình, chưa bao giờ mình cảm thấy thanh thản hơn thế nầy.
- Tôi phải nhắc cô. - Robert nói. - Một số người đang đến đây và muốn làm hại cô. Tốt hơn là cô hãy đi trước khi họ đến.
- Tôi không thể đi được.
Và Robert hiểu. Anh thọc tay trái vào trong túi và lấy ra cái mẩu kim loại nhỏ có chứa miếng tinh thể kia.
- Robert, cảm ơn anh. Mặt cô sáng lên.
Anh đưa nó cho cô và nhìn cô lẳp nó vào cái vật mà cô cầm trong tay.
- Bây giờ thì sao? - Robert hỏi.
Bây giờ tôi có thể liên lạc với bạn bè tôi. Họ sẽ đến với tôi.
Liệu có điềm báo gì trong câu nói đó không nhì?
Robert nhớ lại lời tướng Hilliard: "Họ định chiếm hành tinh nầy và biến chúng ta thành nô lệ. Nếu tướng Hilliard nói đúng thì sao? Ai sẽ ngăn chặn họ? Robert nhìn đồng hồ của mình. Đã gần đến giờ tướng Hllliard và Janus đến, và ngay cả khi Robert còn đang nghĩ thế, anh nghe thấy tiếng một chiếc trực thăng Huey khổng lồ đang từ hướng bắc bay tới.
Các bạn anh đã tới.
Bạn bè. Họ là những kẻ tử thù của anh và anh quyết tâm vạch mặt chúng là những kẻ sát nhân, quyết tâm tận diệt chúng.
Cỏ và hoa trên cánh đồng bắt đầu rạp xuống khi chiếc trực thăng chuẩn bị hạ cánh.
Anh sắp đối mặt với Janus. Ý nghĩ đó làm anh ngập trong một cơn giận khủng khiếp. Cánh cửa trực thăng mở ra.
Susan bước xuống.
 
CHƯƠNG 51 -
Trong chiếc tàu mẹ, lơ lửng cao bên trên trái đất, có một niềm vui lớn. Tất cả những ngọn đèn trên các bức tường đều bật lên màu xanh.
Chúng ta đã tìm thấy cô ấy.
Chúng ta phải nhanh lên.
Chiếc phi thuyền khổng lồ bắt đầu lao nhanh xuống cái hành tinh ở mãi xa phía dưới.
 
CHƯƠNG 52 -
Chỉ trong một khoảnh khắc, thời gian ngừng lại và rồi vỡ ra làm hàng nghìn mảnh. Robert nhìn sững khi Susan bước ra khỏi chiếc trực thăng. Cô đứng đó một giây và rồi đi về phía Robert, nhưng Monte Banks, người ở ngay phía sau đã tóm lấy cô và kéo cô lùi lại.
- Chạy đi, Robert. Chạy. Họ sẽ giết anh.
Robert bước một bước về phía cô và đúng lúc đó, tướng Hilliard và đại tá Frank Johnson bước ra khỏi chiếc trực thăng.
Tướng Hilliard nói:
- Tôi đây, ông sĩ quan. Tôi đã giữ phần cam kết của mình.
Ông ta bước về phía Robert và cô gái mặc đồ trắng.
- Tôi cho rằng đây là nhân chứng thứ mười một sinh vật lạ bị mất tích. Tôi chắc rằng chúng ta sẽ thấy cô ta rất hấp dẫn. Vậy, sau cùng, thế là xong.
- Chưa đâu. Ông nói là ông sẽ đưa Janus tới.
- Ồ, có, Janus khăng khăng đòi đến gặp anh.
Robert quay về phía chiếc trực thăng. Đô đốc Whitstaker đang đứng ở cửa chiếc máy bay.
- Anh yêu cầu gặp tôi, phải không Robert?
Robert trợn tròn mắt nhìn ông ta, không thể tin nổi, và có một cuộn phim màu đỏ hiện lên trước mắt anh. Dường như cả thế giới của anh đã sụp đổ.
- Không. Sao…? Nhân danh Chúa, vì sao?
Vị Đô đốc bước về phía anh:
- Anh không hiểu có phải không? Anh không bao giờ hiểu. Anh lo ngại về một vài sinh mạng vô nghĩa. Chúng tôi lo ngại về việc cứu cả thế giới nầy. Trái đất nầy thuộc về chúng ta để chúng ta muốn làm gì thì làm.
Ông ta quay sang nhìn người phụ nữ mặc đồ trắng:
- Nếu những sinh vật các người muốn chiến tranh, các người sẽ có chiến tranh. Và chúng ta sẽ cho các người biết nếm đòn đánh trả. - Ông ta quay lại phía Robert - Anh đã phản bội tôi. Anh đã là con trai tôi. Tôi để cho anh thay chỗ Edward. Tôi cho anh cơ hội phục vụ đất nước mình. Và anh đã đáp lại tôi như thế nào hả? Anh đã đến năn nỉ tôi cho anh được làm việc gần nhà để gần gũi vợ anh. - Giọng ông ta đầy vẻ khinh miệt. - Không đứa con trai nào của tôi lại được phép có những mong muốn thấp hèn như thế. Lẽ ra từ lúc đó tôi đã phải thấy những phẩm chất của anh đã bị méo mó đi như thế nào rồi.
Robert đờ người, choáng váng không nói nên lời.
- Tôi đã phá vỡ cuộc sống gia đình anh bởi vì tôi vẫn còn tin ở anh, nhưng…
- Ngài đã phá…
- Còn nhớ khi CIA phái anh săn đuổi Con Cáo chứ? Tôi đã dàn xếp chuyện đó. Tôi đã hy vọng là việc đó sẽ làm cho anh tỉnh ngộ. Anh đã thất bại vì không có Con Cáo nào cả. Tôi nghĩ là tôi đã rèn giũa anh, rằng anh đã là một người của chúng tôi. Và rồi anh nói với tôi là anh sẽ bỏ cơ quan. Đó là lúc tôi biết anh không phải là một con người yêu nước, rằng anh phải bị loại trừ, bị tiêu diệt. Nhưng trước hết anh phải hoàn thành phần việc trong sứ mệnh nầy của chúng tôi.
- Sứ mệnh của các ngài? Giết chết tất cả những người vô tội ư? Ngài điên rồi.
- Họ phải bị giết để khỏi reo rắc sự kinh hoàng.
- Giờ đây chúng tôi đã sẵn sàng đối phó với những sinh vật lạ. Tất cả những gì chúng tôi cần là thêm một chút thời gian, và anh đã cho chúng tôi điều đó.
Người phụ nữ mặc đồ trắng đứng nghe, không hề nói gì, nhưng lúc nầy những ý nghĩ của cô đang được truyền vào đầu những người có mặt. "Chúng tôi tới đây để ngăn chặn các người khỏi huỷ diệt hành tinh của các người". Tất cả chúng ta đều thuộc về một vũ trụ. Hãy nhìn lên.
Họ ngẩng đầu nhìn lên trời. Có một đám mây trắng lớn trên đỉnh đầu và trong khi họ nhìn lên, nó thay đổi ngay trước mắt họ. Họ đang nhìn vào một hình ảnh về một vùng băng ở cực trái đất, và trong khi họ nhìn, nó bắt đầu tan ra và nước chảy ào và các sông, biển trên thế giới, làm ngập London và Los Angeles, New York và Tokyo và các thành phố ven biển khắp thế giới trong một cảnh phim chóng mặt.
Hình ảnh đó chuyển sang một viễn cảnh về những miền đất hoang hoá, mùa màng cháy trụi dưới ánh nắng mặt trời thiêu đốt, xác động vật chết nằm ngổn ngang khắp nơi. Hình ảnh trước mắt họ lại thay đổi, và họ nhìn thấy những cuộc nổi loạn ở Trung Quốc, những người chết đói ở Ấn Độ, và một cuộc chiến tranh hạt nhân tàn phá, và sau cùng là những con người sống trong các hang động. Hình ảnh đó từ từ biến đi.
Có một thoáng im lặng trong kinh sợ. "Đó là tương lại của các người nếu như các người tiếp tục sống như thế nầy".
Đô đốc Whittaker là người đầu tiên bừng tỉnh.
- Trò thôi miên tập thề. - Ông ta quát lên. - Ta tin chắc là mi có thể cho chúng ta thấy những trò đùa thú vị khác. - Ông ta tiến về phía sinh vật lạ. - Ta sẽ mang mi trở lại Washington cùng ta. Chúng ta cần có nhiều thông tin từ miệng mi. - Vị Đô đốc quay sang Robert. - Anh đã xong đời. - Ông ta quay sang Frank Johnson. - Hãy lo về hắn đi.
Đại tá Johnson rút súng ngắn ra khỏi bao.
Susan vùng khỏi Monte và chạy đến bên cạnh Robert. Cô thét lên:
- Không.
- Giết hắn đi. - Đô đốc Whittaker nói.
Đại tá Johnson đang chĩa súng vào vị Đô đốc.
- Đô đốc ngài đã bị bắt.
Đô đốc trợn mắt nhìn ông ta.
- Cái gì? Anh nói cái gì hả? Tôi bảo anh giết hắn đi. Anh là một người trong chúng tôi.
- Ông nhầm! Tôi chưa bao giờ như thế cả. Tôi đã xâm nhập tổ chức của các ông từ lâu. Tôi tìm kiếm sĩ quan chỉ huy Robert Bellamy không phải là đề giết mà là để cứu anh ấy. - Ông ta quay sang Robert. - Tôi xin lỗi đã không thể đến với anh sớm hơn.
Mặt Đô đốc Whittaker xanh tái đi.
- Vậy thì anh cũng sẽ bị tiêu diệt. Không ai có thể cản đường chúng tôi. Tổ chức của chúng tôi.
- Ông không còn có một tổ chức nào nữa. Vào lúc nầy, tất cả những thành viên của nó đều đang bị quây lại. Hết rồi, ông Đô đốc!
Trên đầu, bầu trời dường như rung lên do ánh sáng và âm thanh. Chiếc phi thuyền mẹ khổng lồ đang treo lơ lửng ngay trên đỉnh đầu họ, từ trong tàu toả ra những ánh sáng màu xanh lục. Họ kinh hãi nhìn nó đổ bộ xuống. Một phi thuyền không gian nhỏ hơn xuất hiện, rồi một chiếc khác, rồi hai chiếc nữa, hai chiếc nữa cho đến khi bầu trời dường như bị che kín, và một tiếng động lởn trong không trung lan toả thành một điều nhạc tưng bừng vang vọng khắp núi rừng. Cánh cửa của con tàu mẹ mở ra và một sinh vật xuất hiện.
Người phụ nữ mặc đồ trắng quay sang Robert.
- Bây giờ tôi đi đây.
Cô bước về phía Đô đốc Whittaker, tướng Hilliard và Monte Banks.
- Các vị đi theo tôi.
- Không. Tôi sẽ không đi. - Đô đốc Whittaker lùi lại.
- Có chứ. Chúng tôi sẽ không làm ông đau đớn gì. - Cô chìa tay ra và trong một khoảnh khắc, không có gì xảy ra cả. Rồi, ngay trước mắt những người khác, cả ba người đàn ông từ từ bước đi như mê ngủ về phía con tàu không gian.
- Không. - Đô đốc Whittaker thét lên.
Khi cả ba người mất hút vào trong con tàu, ông ta vẫn còn la hét.
Người phụ nữ mặc đồ trắng quay lại phía những người khác:
- Họ sẽ không bị hại. Họ còn phải học hỏi nhiều. Vì họ đã có hiểu, họ sẽ được mang trở lại đây.
Susan ôm chặt lấy Robert.
Nói với mọi người rằng họ phải ngừng ngay lại việc giết chết hành tinh nầy, Robert. Hãy làm cho họ hiểu.
- Tôi chỉ là một con người.
Có hàng nghìn người như anh mỗi ngày. Con số các bạn thêm nhiều. Một ngày nào đó sẽ có hàng triệu và các bạn phải cất lên tiếng nói mạnh mẽ. Anh sẽ cố gắng chứ?
- Tôi sẽ cố gắng. Sẽ cố gắng.
- Bây giờ chúng tôi ra đi. Nhưng chúng tôi sẽ theo dõi các bạn. Và chúng tôi sẽ còn trở lại.
Người phụ nữ mặc đồ trắng quay người bước vào trong con tàu. Những ánh đèn bên trong tàu toả sáng hơn, hơn nữa cho đến khi dường như chúng chiếu sáng cả bầu trời. Đột nhiên, không hề có dấu hiệu gì báo trước con tàu mẹ cất lên, theo sau là con tàu nhỏ hơn cho đến sau cùng, tất cả mất hút vào trong không trung bao la. "Nói với mọi người rằng họ phải ngừng việc giết chết hành tinh nầy". Đúng thế, Robert nghĩ.
Giờ thì mình biết rằng sẽ phải làm gì trong phần còn lại của cuộc đời mình.
Anh nhìn Susan và mỉm cười.
SỰ KHỞI ĐẦU
 
CHƯƠNG 53 -
Để viết cuốn sách nầy tôi đã đọc nhiều cuốn sách cùng nhiều bài báo và tạp chí dẫn lời những nhà du hành vũ trụ được cho là gặp những hiện tượng lạ ngoài khí quyển: Đại tá Frank Borman trên tàu Gemini 7 được cho là đã chụp những bức ảnh về một vật thể bay lạ (UFO) đã bay theo anh ta.
Meil Armstrong trên tàu Appolo 11 nhìn thấy hai tàu không gian lạ khi anh ta đổ bộ xuống mặt trănng. Buzz Aldrin đã chụp ảnh một con tàu không gian lạ trên mặt trăng. Đại tá L. Gordon Cooper chạm trán vớt một UFO lớn trên một chuyến bay của Đề án Mercury ở vùng Perth, Australia, và đã ghi lại những tiếng nói của một số ngôn ngữ lạ sau đó được luận là không được biết tới ở trái đất.
Tôi đã nói chuyện với những người nầy, cũng như với những nhà du hành khác và môi người đều cam đoan vời tôi rằng những câu chuyện đó là giả mạo nhiều hơn chứ không phải là xác thực, rằng họ không hế biết gì về bất kỳ một dạng UFO nào. Vài ngày sau câu chuyện của tôi qua điện thoại với Đại tá Gordon Cooper, anh ta đã gọi lại cho tôi.
Tôi trả lởi máy, nhưng anh ta đột nhiên không còn ở đâu dây nữa. Một năm sau, tôi dã nhận được lá thư do anh ta viết đề ngày 9-11-1978, và bàn về chuyện những UFO.
Tôi gọi điện lại cho Đại tá Cooper để hỏi xem lá thư đó có phải là thật không. Lần nầy thì anh ta cởi mở hơn.
Anh ta nói với tôi là đúng và rằng trên các chuyên bay vào vũ trụ, anh ta đã tận mắt chứng kiến vài chuyến bay của các UFO. Anh ta cũng nhắc tới việc các nhà du hành khác cũng trải qua những hiện tượng như vậy và họ được cảnh cáo là không bàn tới chúng.
Tôi đã đọc cả chục cuốn sách chứng minh một cách thuyết phục rằng những cái đã bay là có thật. Tôi đã xem những cuốn băng vidéo mà nội dung là những tấm ảnh chụp các đĩa bay và đã gặp các bác sĩ nội khoa ở Mỹ và nước ngoài chuyên chẩn trị những người tự nhận đã bị lôi vào trong UFO.
Các bác sĩ nói họ đã có hàng trăm trường hợp mà trong đó các chi tiết do các nạn nhân kể lại là giống nhau đến khủng khiếp, bao gồm cả những dấu vết giống nhau không giải thích được trên cơ thể của họ.
Một vị tướng không quản phụ trách Dự án Sách Xanh một nhóm công tác của chính phủ Mỹ được thành lập để điều tra về các đã bay đảm bảo với tôi rằng chưa bao giờ có những bằng chứng có sức thuyết phục về đĩa bay hay các sinh vật lạ.
Tuy nhiên, trong lời nói đầu của cuốn sách khác có giá trị của Tomothy Good là cuốn Vượt trên điều tối mật: Vụ bưng bít tầm thế giới về UFO ngài Hill Norton, Đô đốc Hạm đội và là Tổng tham mưu trưởng quân đội Anh từ năm 1971 đến 1973 viết:
"Bằng chứng rằng có những vật thể được nhìn thấy trong khí quyển của chúng ta, và thậm chí trong vũ trụ xa xôi, mà không thể được coi là những vật thể do con người tạo ra hay do bất kỳ lực lượng vật chất nào khác mà các nhà khoa học của chúng ta đã biết đối với tôi dường như là quá mạnh… Một số rất lớn những lần nhìn thấy được đảm bảo bởi những người mà uy tín của họ đối với tôi là không thể nghi ngờ được. Điều kinh ngạc là quá nhiều người đã là những người quan sát được huấn luyện, chẳng hạn như các sĩ quan cảnh sát và các phi công dân sự hay quân sự…
Vào năm 1933, Phi đoàn số 4 của Thuỵ Điển đã bắt đầu một cuộc điều tra về một máy bay lạ xuất hiện trên bầu trời Scandinavi, và vào ngày 30-4-1934. Thiếu tướng Erik Reuterswaerd đưa ra thông báo sau đây cho báo chí:
"Việc so sánh các báo cáo nầy cho thấy không còn có nghi ngờ gì về những chuyến bay bất hợp pháp qua các khu vực bí mật quân sự của chúng ta. Có nhiều báo cáo từ những người đáng tin cậy mô tả sự quan sát ở cự ly gần về vật thể bay khó hiểu nầy. Và trong mọi trường hợp vẫn có thể lưu ý tới một nhận xét chung, không có các dấu hiệu hay các dấu hiệu nhận biết khác được nhìn thấy trên các vật thể bay nầy… Câu hỏi đặt ra là: Chúng là ai hay là cái gì, và vì sao chúng vi phạm không phận của chúng ta?
Năm 1974, giáo sư Paul Santorini, một nhà khoa học hàng đầu của Hy Lạp, được yêu cầu điều tra về các tên lửa bay trên bầu trời tổ quốc. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của ông ta đã bị che đậy:
"Chúng tôi nhanh chóng kết luận rằng chúng không phải là những tên lửa. Nhưng trước khi chúng tôi có thể làm thêm bất cứ điều gì thì quân đội, sau khi tham khảo các quan chức nước ngoài, đã ra lệnh: ngừng cuộc điều tra. CÁC NHÀ KHOA HỌC NGOẠI QUỐC ĐÃ BAY ĐẾN HY LẠP ĐỂ TRAO ĐỔI BÍ MẬT VỚI TÔI" (Sự nhấn mạnh được thêm vào).
Ông giáo sư đã khẳng định rằng một "TẤM MÀN BÍ MẬT TRÊN THẾ GIỚI" bao phủ UFO bởi vì, trong nhiều lý do, có lý do là các nhà cầm quyền không muốn thừa nhận sự tồn tại của một thế lực mà "KHÔNG CÓ KHẢ NĂNG PHÒNG THỦ" chống lại nó.
Tử năm 1974 đến 1952, Trung tâm tình báo Kỹ thuật không quân (ATIC) đã nhận được chừng 1500 báo cáo chính thức về các vụ nhìn thấy đĩa bay. Trong số nầy có hai mươi phần trăm được không quân (Mỹ) cho là không thể giải thích được.
Thống chế Không quân Dowding, Tư lệnh Bộ chỉ huy không quân Hoàng gia Anh trong thời kỳ của cuộc chiên tranh dành nước Anh hồi năm 1940 viết:
Hơn 10.000 trường hợp nhìn thấy (đĩa bay) đã được báo cáo, phần lớn không có được bất kỳ SỰ GIẢI THÍCH KHOA HỌC NÀO". Chúng đã bị phát hiện trên các màn ảnh ra-đa … và các tốc độ ghi nhận được lên tới chừng 9000 dặm một giờ… Tôi TLN RẰNG NHỮNG VẬT THỂ NầY CÓ TỒN TẠI VÀ RẰNG CHÚNG KHÔNG DO BẤT KỲ QUỐC GIA NÀO TRÊN TRÁI ĐẤT NẦY SẢN XUẤT RA (Sự nhấn mạnh, thêm vào). Từ đó tôi không có lựa chọn nào khác ngoài việc thú nhận rằng chúng đến từ nguồn ngoài trái đất.
Gần đây, ở Elmwood, Wisconsin (Mỹ) toàn bộ thành phố đã nhìn thấy những đã bay di chuyển trên bầu trời của họ trong vài ngày liền.
Tướng Lionel Max Chassin, người đã lên tới chức Tổng chỉ huy Các lực lượng không quân Pháp và đã giữ chức vụ Điều phối viên Phòng không Các lực lượng không quân Đồng Minh, Trung âu (NATO) viết:
Việc nhìn thấy những vật bay lạ giờ đây không còn là vấn đề… Con số những người chín chắn, thông thái, có học, hoàn toàn làm chủ những khả năng của mình và là những người đã "nhìn thấy thứ gì đó" rồi đã mô tả lại nó đang tăng lên hàng ngày.
Rồi có vụ Roswell nổi tiếng hồi năm 1947. Theo các báo cáo của nhân chứng, vào tối ngày 2-7-1947 một vật thể hình đĩa sáng được nhìn thấy trên bầu trởi Roswell, bang New Mexico (Mỹ). Ngày hôm sau, một chủ trại và hai người con đã tìm thấy các mảnh vỡ vương vãi trên một diện tích rộng. Nhà chức trách được báo cáo và một tuyên bố chính thức đã được đưa ra khẳng định rằng mảnh vỡ của một chiếc đĩa bay đã được thu lại.
Một tuyên bố báo chí thứ hai được đưa ra ngay lập tức khẳng định rằng đó chẳng là cái gì khác ngoài mảnh vỡ của một quả bóng thám không thời tiết, cái đã được trưng bày một cách đúng mực trong một cuộc họp báo. Trong khi đó thì mảnh vỡ thật sự kia được cho là bị chuyển đến Wright Field. Các xác chết được một nhân chứng mô tả là:
Giống như con người nhưng họ không phải là con người. Đầu họ tròn, mắt nhỏ và họ không có tóc. Mắt họ cách xa nhau. Chúng hoàn toàn nhỏ so với tiêu chuẩn của chúng ta và đầu họ quá to so với th.ân thể. Họ mặc những thứ có vẻ như là áo liền quần mầu xám. Có vẻ như tất cả họ đều thuộc giống đực và có một số trong họ… Các nhân viên quân sự ập đến và chúng tôi đã được yêu cầu rời khỏi khu vực đó và không nói với bất kỳ ai về những gì chúng tôi đã nhìn thấy.
Theo một tài liệu có được từ một nguồn tin tình báo vào năm 1984 thì một Uỷ ban tối mật với mật danh danh Majestic 12, hay MJ-12, đã được Tổng thống Truman thành lập vào năm 1947 để điều tra về UFO và báo cáo các kết quả trực tiếp cho Tổng thống. Tài liệu nầy, đề ngày 18 tháng 11 năm 1952, và được phân loại TỐI MẬT - MAJIC - KHÔNG TRÍCH CHÉP, được cho là do Đô đốc Hillenkoetter chuẩn bị cho Tổng thống đắc cử Dwight Eisenhower và chứa đựng sự khẳng định ngạc nhiên rằng xác chết của bốn sinh vật lạ đã được thu lại cách hiện trường Roswell hai dặm.
Năm năm sau ngày được thành lập, Uỷ ban nầy viết một báo cáo cho tổng thống đắc cử khi đó là Eisenhower về vấn đề UFO và yêu cầu phải giữ kín:
"Những liên quan tới nền an ninh quốc gia tiếp tục có tầm quan trọng ở chỗ động cơ và ý đồ tối thượng của những người khách nầy hoàn toàn chưa được biết rõ… Vi những lý do nầy, cũng như các cân nhắc kỹ thuật quốc tế hiển nhtên và nhu cầu tối hậu tránh một sự hoảng sợ công cộng bằng mọi giá, nhóm Majestic 12 hoàn toàn nhất trí cho rằng việc áp đặt các quy chế an ninh nghiêm ngặt nhất phải được tiếp tục một cách không có gián đoạn dưới chính quyền mới.
Sự giải thích chính thức kèm theo lời phủ nhận tính xác thực của tài liệu nầy là đáng nghi ngờ.
Cục An ninh quốc gia (NSA) được cho là thủ giữ hơn một trăm tài liệu liên quan tới UFO. CIA khoảng năm mươi và DIA, sáu mươi tài liệu.
Thiếu tá Donald Keyhoe một cựu phụ tá của Charled Lindberrgh, đã công khai buộc tội chính phủ Mỹ phủ nhận sự tồn tại của các UFO dù với lý do là ngăn chặn sự hoảng loạn công cộng.
Tháng Tám 1948, khi bản Dự báo Tình hình tuyệt mật của Trung tâm Tình báo kỹ thuật Không quân đưa ra ý kiến rằng các UFO là những vị khách liên hành tinh, tướng Vandenberg, Tham mưu trưởng không quân lúc đó, ra lệnh đốt tài liệu nầy.
Phải chăng có một âm mưu cấp chính phủ ở phạm vi thế giới nhằm giấu giếm sự thật đối với dân chúng?
Trong một khoảng thời gian ngắn ngủi của 6 năm, hai mươi ba nhà khoa học Anh làm việc trong các dự án kiểu Chiến tranh giữa các vì sao đã chết trong các hoàn cảnh đáng đặt câu hỏi. Tất cả họ đều đã làm việc trên các khía cạnh khác nhau của cuộc chiến tranh điện tử, bao gồm sự nghiên cứu về UFO. Sau đây là danh sách những người đã quá cố thời gian và hoàn cảnh qua đời của họ.
1-1982. Giáo sư Keith Bowex: Chết trong một tai nạn ô tô.
2-7-1982. Jack Wolfendent: Chết trong một tai nạn tàu lượn.
3-11-1982. Emest Brockway: Tự sát.
4-1983. Stephen Drinkwater: Treo cổ tự tử.
5-4-1983. Trung tá Anthony Goldey: Mất tích, được coi là chết.
6-4-1984. George Franks: Treo cổ tự sát.
7-1985. Stephen Oke: Treo cổ tự sát.
8-11-1985. Jonathan Wash: Nhảy từ nhà cao tự sát
9-1986. Tiến sĩ Jhon Brittan: Tự sát bằng chất độc hoá học.
10-10-1986. Arshad Sharif: Tự sát bằng cách quấn một sợi thừng quanh cổ, buộc nó vào một gốc cây, và rồi ngồi vào xe lái đi với tốc độ cao. Xảy ra ở Bristol, cách nhà riêng ở London một trăm dặm.
11-10-1986. Vimar Daiibhai: Tự sát bằng cách nhảy từ một cái cầu ở Bristol, cách nhà riêng ở London một trăm dặm.
12-1-1987. Avtar Singh - Gida: Mất tích, bị coi là đã chết.
13-2-1987. Peter Peapell: Tự sát, bò vào gầm xe trong gara.
14-3-1987. David Sand: Đâm xe vào quán cà phê.
15-4-1987. Mark Wisner: Tự bóp cổ chết.
16-4-1987. Stuard Gooding: Bị giế( ở Cyprus.
17-4-1987. David Greenhalgh: Ngã xuống từ một cai câu.
18- 4-1987. Shani Warren: Tự tử bằng cách chết đuối
19.5-1987. Michael Baker: Chết trong tai nạn ố tô.
20-5-1988. Trevor Knight: Tự tử.
21-8-1988. Alistair Beckham: Tự bóp cổ chết.
22-8-1988. Thiêu tướng Peter Ferry: Tự bóp cổ chết.
23. Không biết thời gian. Victor Moore: Tự tử.
Những trường hợp ngẫu nhiên chăng?
Trong ba thập kỷ qua, ít nhất đã có 70 nghìn báo cáo về những vật thể trên bầu trời và một số khác không đếm xuể có thể là nhiều gấp mười lần, những vụ nhìn thấy đã không được báo cáo.
Tin tức về những UFO đến từ cả trăm nước trên khắp hành tinh. Ở Tây Ban Nha, Đức, Pháp, hay Tiệp Khắc cũng vậy, những đã bay nầy đều được biết đến như là những vật thể bay lạ không rõ nguồn gốc.
Nhà thiên văn học nổi tiếng Carl Sagan đã ước tính rằng riêng hệ Ngân Hà của chúng ta có thể có chừng 250 tỉ ngôi sao. Khoảng một triệu trong số đó, theo ông, có thể có những điều kiện thích hợp cho một nền văn minh nào đó.
Chinh phủ chúng ta (Mỹ) phủ nhận sự tồn tại của trí tuệ ngoài trái đất, ấy vậy mà vào ngày kỷ niệm Columbus trong năm 1992, tại California và Puerto Rico, cơ quan Quản trị Hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) sẽ cho hoạt động các kính thiên văn vô tuyến được trang bị những máy thu đặc biệt và các máy tính có khả năng phân tích ngay lập tức mười triệu kênh vô tuyến nhằm tìm kiếm những tín hiệu của cuộc sống trí tuệ trong vũ trụ.
NASA gọi đó là sứ mệnh MOP - Dự án quan sát vi sóng, nhưng các nhà thiên văn học gọi nó là SETI - Tìm kiếm trí tuệ ngoài trái đất.
Tôi đã hỏi hai cựu tổng thống Mỹ xem họ có bất kỳ tin tức gì về các UFO hay không, nhưng họ đều trả lời là không.
Liệu họ có thể nói với tôi về việc họ đã có bất kỳ thông tin nào không? Với tấm màn bí mật dường như đang bao phủ vấn đề nầy, tôi nghĩ là không.
Những đã bay có thật sự tồn tại hay không? Có phải chúng ta đang được viếng thăm bởi những sinh vật lạ từ một hành tinh khác hay không? Với kỹ thuật mới đang tiến ngày càng sâu hơn vào vũ trụ, tìm kiếm những dấu hiệu của cuộc sống trí tuệ trong không gian, có thể chúng ta sẽ có câu trả lởi nhanh hơn nhiều so với điều chúng ta chở đợi, có rthiều người đang làm việc trong lĩnh vực nghiên cứu vũ trụ, những nhà thiên văn học và vũ trụ học nào đó không muốn chở đợi câu trà lời kia, đã tự mình ra bờ rìa vũ trụ và đưa ra những tiên đoán của họ. Jill Tartar, một nhà vật lý học thiên thể và là một thành viên của dự án SETI tại Trung tâm nghiên cứu NASA ở Ames, bang Lowa, là một người trong số đó.
Có 400 tỉ ngôi sao trong Thiên hà. Chúng ta được sinh ra từ bụi vũ trụ, một thứ thật sự phồ biến. Trong vũ trụ đây bụi nầy, khó mà tin rằng chúng ta là những sinh vật có trí tuệ duy nhất.
Ngày 9 tháng 11, 1978
Đại sứ Griffith.
Phái đoàn Grenada tại Liên Hợp Quốc.
866, Đại lộ số 2
Phòng 502
New York, New York 10017
Đại sứ Griffith thâm mến, Tôi muốn chuyển tới ngài quan điểm của tôi về các vị khách tữ ngoài trái đất, thường được nhắc tới như là những UFO, và gợi ý về việc có thể làm gì để ứng phó thích hợp với họ.
Tôi tin rằng những phương tiện bay tữ ngoài trái đất và đội bay của chúng đang từ các hành tinh khác dến thăm trái đất tiến bộ hơn chúng ta một chút về mặt kỹ thuật. Tôi cảm thấy chúng ta cần có một chương trình phối hợp ở cấp cao để thu thập và phân tích một cách khoa học các số liệu từ khắp nơi trên thế giới liên quan tới bất kỳ một cuộc gặp (đã bay) nào, và quyết định thế nào là tốt nhấl để giao tiếp với các vị khách nầy một cách thiện chí. Trước hết, có thể chúng ta phải cho họ thấy là chúng ta đã biết cách giải quyết các vấn đề của mình bằng các biện pháp hoà bình, chứ không phải bằng chiến tranh, trước khi chúng ta được chấp nhận là một thành viên chính thức của vũ trụ. Sự chấp nhận nầy sẽ chứa những khả năng kinh khủng để làm thế giới của chúng ta tiến nhanh trong mọi lĩnh vực. Chắc chắn rằng khi đó thì Liên Hiệp Ouốc đã được giao phó một trách nhiệm trong việc xử lý vấn đề nầy một cách thích hợp và khẩn trương. Tôi cần chỉ rõ rằng tôi không phải là một nhà nghiên cứu UFO có kinh nghiệm. Tôi cũng chưa có may mắn được bay trong một UFO, cũng chưa gặp đội bay của một chiếc nào. Song tôi thấy rằng tôi có tư cách nào đó để bàn về chúng bởi vì tôi đã có mặt ở ven cái khoảng không rộng lớn mà chúng ta đã bay trong đó. Tuy vậy, hồi năm 1951, tôi đã có dịp có hai ngày quan sát nhiều chuyến bay của chúng, với các kích thước khác nhau, bay trong đội hình chiến đấu, chủ yếu là từ đông sang tây, ngang qua châu Âu. Họ bay ở độ cao hơn mức có thể với tới, với các máy bay chiến đấu của chúng tôi hồi đó.
Tôi cũng muốn chỉ ra rằng hầu hết các nhà du hành vũ trụ đều rất miễn cưỡng, dù chỉ là bàn tới các UFO, bởi vì có rất nhiều người đã bán bừa bãi các câu chuyện và những tài liệu giả mạo, không ngần ngại bôi nhọ tên tuổi và tiếng tăm của họ. Một số ít những nhà du hành tiếp tục có tham gia vào vấn đề UFO đã phải làm việc đó một cách hết sức thận trọng. Có một số người trong chúng tôi tin vào những UFO và đã có những cơ hội nhìn thấy một UFO trên mặt đất hoặc từ một máy bay.
Nếu như Liên Hiệp Ouốc tán thành theo đuổi vấn đề nầy và gắn vào đó uy tín của mình, có thể nhiều người có năng lực hơn nhiều sẽ đồng ý bước tới và cung cấp những giúp đỡ và những thông tin.
Tôi hy vọng được gặp các ngài sớm.
Chân thành, L. Gordon Cooper
Đại tá Không quân Mỹ (nghỉ hưu)
Phi hành gia.
 
×
Quay lại
Top