20 Nữ nhân Trung Quốc

Cái này hay quá, để dành mốt sung đọc, đáng tiếc nó lại là Sử Trung Quốc, hồi nhỏ có được nghe kể, tiếng được tiếng mất. Toàn là các mỹ nhân, liên quan đến phận. Ghét mụ Triệu Cơ, hồi nhỏ coi phim, dan díu với gã Thái giám Lao Ái gì đó, Lý Sư Sư và lãng tử Yến Thanh:((-kí ức chuyện tình kí ức lãng mạn mà buồn của mình. Từ Hy thái hậu ác với món Chim quanh lửa hồng, Võ Tắc Thiên bóp chết cả con gái mình để vu cho hoàng hậu đương thời...Nói chung là Cung tâm kế, Thâm cung bí sử, Hậu cung đại chiến...
 
Bùi Hạnh Cẩn

20 Nữ nhân Trung Quốc

- 1 -

Bao Tự

Chuyện xưa chép rằng, vào thời Tuyên Vương nhà Chu, có một cung nữ mang thai hơn bốn mươi năm, sau sinh được một đứa con gái – Nhà vua cho hỏi thì cung nữ đó kể: - Tiện thiếp nghe nói trong cung điện có một chiêc hộp quý đựng “nước dãi rồng” (có truyền thuyết cho là tinh dịch) từ đời nhà Hạ, một hôm tự nhiên chiếc hộp đó tỏa hào quang sáng rực khắp cung điện, Đấng Tiên vương truyền mở hộp ra xem, thấy trong có chiếc chậu vàng đựng một thứ nước lỏng - Tiên vương cầm chắc chiếc chậu vàng, lỡ tay đánh rơi, dãi rồng chảy lênh láng, rồi hóa thành một con giải nhỏ chạy biến vào cung… Lúc ấy tiện tỳ mới hơn mười tuổi, vô tình dẫm phải vết chân con giải đó, từ đấy trong người thấy khang khác, rồi bụng ngày một to ra như người có thai. Cho là quái dị, Tiên vương truyền lệnh cho giam vào nơi lãnh cung. Trải hơn bốn chục năm, đêm qua tiện tỳ thấy đau bụng, sinh ra một bé gái. Nội thị tâu lên Hoàng hậu, Hoàng hậu bảo đó là quái vật, và sai nội thị đem vứt bỏ ngoài lạch. Lại nói về viên nội thị được lệnh vứt bé gái sơ sinh, thấy đứa bé vô tội, nên y để vào trong thùng gỗ lớn lót vải đầy rồi thả xuống sông Thanh Thủy. Khi vua Chu Tuyên cho người đến xem thì chiếc thùng đó đã trôi đi đâu không ai biết nữa. Sáng sau ra chầu, Tuyên Vương kể chuyện “Dãi rồng” và đứa bé bị bỏ trôi sông, và sai Bá Dương Phụ bói một quẻ xem điều gì. Bói xong Bá Dương Phụ tâu: - Theo hạ thần thì trong cung vẫn còn tà khí. Vua Chu bèn hạ lệnh: “Ai bắt được đứa trẻ trôi sông thì dù sống, dù chết cũng được thưởng lụa, bạc. Ai giấu diếm phải tội chết”. Lại sai đại phu Tả Nho đi qua các chợ, cấm không cho ai làm bán cung gỗ dâu và tên bằng cỏ cơ. Hôm sau đoàn tuần tra gặp hai người. Người đàn bà đeo túi có mấy cái tên bằng cỏ cơ, người đàn ông đi sau mang mấy cánh cung làm bằng gỗ dâu, bèn giữ người đàn bà lại. Người đàn ông thấy thế sợ quá vứt cánh cung chạy trốn. Tả Nho bèn giấu chuyện người đàn ông chạy trốn và tâu với vua là đã bắt được “nữ hoa”. Vua ra lệnh chém đầu người đàn bà, và đốt cung tên ở giữa chợ để răn kẻ khác. Người đàn ông chạy trốn tìm cách cứu vợ, nhưng khi nghe tin vợ bị hại, buồn bã đi lang thang. Khi đi bên bờ sông Thanh Thủy, bỗng nhìn thấy từ xa có một chiếc thùng gỗ đang trôi, trên có chim đậu, bèn tìm cách kéo vào bờ. Khi giở ra xem thấy có một bé gái sơ sinh đang khóc. Trong bụng chợt nghĩ “Có lẽ điềm gì may đây”, nói rồi bọc lấy đứa bé, tìm đường đến Bao thành, vào ở nhờ nhà người quen. Không bao lâu Chu Tuyên Vương chết. Thái tử lên ngôi, tức Chu U Vương, lập con gái Thân hầu làm hoàng hậu. U Vương vốn là kẻ hoang dâm bạo ngược, không lo chính sự. Bố vợ là Thân hầu khuyên can nhưng không được, bèn bỏ về nước Thân. U Vương càng ngày àng buông tuồng, sai nội thị đi khắp nơi tìm con gái đẹp đưa về cung. Viên quan trấn thủ Bao thành là Bao Quýnh về chầu, thấy vạy can ngăn, U Vương liền sai bắt Bao Quýnh giam vào ngục. Lại nói về ngươif đàn ông nhặt được đứa bé gái trên sông Thanh Thủy, nhưng sau vì nghèo đói không nuôi nổi, may nhờ ngừoi hàng xóm có tên là Tự Đại hiếm hoi xin về nuôi, đặt tên là Bao Tự. Bao Tự dần dần lớn lên, mười bốn mười lăm đã xinh đẹp tuyệt vời. Chỉ vì ở nơi xóm làng hẻo lánh, nên chưa đắt chồng. Một hôm, con trai Bao Quýnh là Hồng Đức chợt có việc tới gần nơi đó, trông thấy cô gái xinh đẹp đang gánh nước, bụng nảy ý nghĩ: “Cha ta vì tính bộc trực can ngăn vua mà bị hạ ngục đã ba năm nay, nếu cô gái kia được dâng lên triều đình thì may ra cha ta được thoát. Nghĩ vây, Hồng Đức bèn hỏi dò chung quanh về Bao Tự, sau đấy về nhà kể với mẹ. Mẹ Hồng Đức bằng lòng, cho người đem ba trăm tấm lụa đến nhà Tự Đại, xin đổi lấy cô gái. Bao Tự về nhà mới, được tắm gội hương trầm hương, ăn uống các thức ngon vật quý,mặc toàn the lụa, lại học hát múa, lễ nghi nên chỉ mấy tháng sau càng đáng yêu hơn. Tiếp đấy, Hồng Đức mang vàng bạc lên kinh đô Cảo nhờ Quắc công tâu với U Vương răng Bao Quýnh nay đã ăn năn hối lỗi, lại có con trai xin dâng mỹ nữ để chuộc tội cho cha. U Vương nghe tâu, liền truyền Bao Tự vào cung. Khi nhìn thấy Bao Tự quỳ lạy dưới sân rồng, nhan sắc như tiên dáng thế, nha vua mê mẩn tinh thần, bèn đưa ngay vào Quỳnh đài, lại tha tội cho Bao Quýnh, phục chức như cũ. Từ khi được Bao Tự, U Vương suốt ngày chỉ ở Quỳnh đài với nàng, cả tháng không coi chầu. Có người nói với Thân hầu, Thân hầu giận lắm, đến ngay Quỳnh đài thấy nhà vua đang bá vai bá cổ Bao Tự vui đùa. Thân hầu cả giận mắng nhiếc Bao Tự: - Con tiện tỳ kia, ở đâu mà dám đến làm nhơ bẩn nơi cung cấm? Nói đoạn đi thẳng tới chỗ Bao Tự - U Vương sợ Thân hầu đánh nàng, liền đứng ra che cản và nói: - Tiện tỳ là người mới tuyển về, chưa định thứ bậc, nên chua vào chào lạy Hoàng hậu đó thôi. Thân hầu mắng nhiếc một hồi, rồi hằm hằm bỏ đi. Bao Tự hỏi nhà vua: - Ai thế? U Vương trả lời: - Chánh cung Thân hậu, ngày mai ái khanh nên vào chào hỏi. Bao Tự buồn rầu, im lặng. Sáng hôm sau cũng không vào cung Thân hậu. Thân hậu vừa bực tức, vừa u sầu. Con trai là thái tử Nghi Cữu hỏi lý do, Thân hậu bèn kể chuyện U Vương si mê, bỏ cả việc triều đình, và chuyện Bao Tự không thèm chào hỏi gì mình, rồi nói: - Mai mốt con yêu ấy mà được thế, thì mẹ con ta không có chỗ mà ở. Nghi Cữu bực tức ra về, sáng hôm sau, nhân lúc U Vương ra coi chầu, Nghi Cữu sai cung nữ đến Quỳnh đài hái hoa lung tung, mấy cung nữ ở Quỳnh đài ra ngăn lại: - Đây là các loại hoa quý, thánh thượng sai trồng để Bao nương nương ngắm cảnh. Mấy người kia nói: - Bọn ta vâng lệnh thái tử đến hái hoa để dâng chính cung hoàng hậu, ngăn cấm thế nào được? Bao Tự thấy hai bên to tiếng bèn bước ra ngoài xem sao, thì Nghi Cữu đã xông ngay tới, nắm tóc Bao Tự, đấm tát và mắng: - Mày là đứa nào mà dám tự xưng là nương nương, để ta đánh cho mày biết tay. Mấy cung nữ nơi Thân hậu vội can ngăn xin đợi lệnh Thánh Thượng. Nhân lúc đó Bao Tự đi vào trong, nước mắt ròng ròng mặt mày rầu rĩ. - Sao ái khanh lại buồn bực là thế? Bao Tự liền quỳ xuống, nắm vạt áo nhà vua, khóc và kể lại câu chuyện bị Thái tử Nghi Cữu đánh, ròi nức nở nói: - Thái tử đã báo thù cho Hoàng hậu mà đánh, tì thế nào cũng giết hại thần thiếp rồi mới thôi. Nếu chỉ có mình thần thiếp thì cũng đành, nhưng còn dòng dõi bệ hạ trong bụng đã mấy tháng nay. Thôi, xin Thánh thượng cho phép hai mẹ con thiếp được về quê để bảo toàn được tính mạng của hai người. U Vương nổi giận, hạ lệnh đầy Nghi Cữu ra nước Thân cho ông ngoại dạy bảo, và cách chức những người thầy học của Thái tử. Bọn Quắc Công, Doãn Cầu bèn cho người thân tín đến bàn với Bao Tự: - Thánh thượng có ý cho Bá Phục làm thái tử. Bên trong có lời nương nương, phía ngoài có bọn hạ thần việc gì chẳng xong. Bao Tự liền kết đảng với hai họ Quắc và họ Doãn. Ngày đêm cho người dò xét quanh chỗ Thân hậu ở - Có một cung nữ thương hại bèn nói với Thân hậu viết thư cho cha là Thân hầu bảo Nghi Cữu xin lỗi U Vương để về triều. Sau đó Thân hậu gải vờ ốm, và sai người cung nữ kia mời mẹ cô ta là bà Ôn làn nghề thuốc vào chữa bệnh. Tin đó lọt đến tai Bao Tự. Nàng bảo nội giám: - Khi nào bà lang Ôn trở ra thì hãy khám xét. Khi bà lang Ôn xem mạch, thì Thân hậu lấy bức thư ở gối ra đưa cho bà, lại cho hai tấm lụa và dặn dò chuyển ngay cho Thân hầu. Ra tới cửa cung, nội giám ngăn lại hỏi: - Mụ mang lụa đi đâu thế? Bà Ôn trả lời: - Tôi vào thăm bệnh cho Chánh cung, nên Chánh cung ban cho. Mấy nội giám xúm xít lại khám, tìm thấy bức thư, đem vào nộp Bao Tự. Bao Tự tức giận, xé nát tấm lụa quăng ra nền cung điện. Khi U Vương vào trông thấy hỏi căn do. Bao Tự nức nở nói: - Thần thiếp may được tiến cung, ơn nhờ Hoàng thượng tới, nhưng nay Hoàng hậu giận ghen ghét, nhất là khi thấy thần thiếp sinh con trai, lại càng căm hận. Nay Hoàng hậu gửi thư cho Thái tử. Thế này hai mẹ con thần thiếp thế là không an toàn. Rồi đưa thư cho U Vương, nhà vua xem xong, hỏi: - Chứng cơ đâu? Nội giám liền dẫn bà lang họ Ôn tới. U Vương rút gươm chém ngay làm hai. Đêm đó, Bao Tự nỉ non bên gối U Vương: - Lỡ ra mai đây, khi Thái tử lên ngôi báu thì Bá Phục và thần thiếp chết cũng không có đất chôn. Nói rồi ngồi dậy, khóc nức nở. U Vương nói: - Ta cũng có ý muốn phế bỏ Hoàng hậu và Thái tử, nhưng còn e các quan dị nghị. Bao Tự nói: - Bệ hạ là vua. Bầy tôi phải nghe theo lời vua. Kẻ nào chống lại là phản nghịch. Tâu bệ hạ, cứ nêu việc đó với trăm quan văn võ xem thử. Ngay đêm đó, Bao Tự sai người tâm phúc báo tin cho Quắc Công và Doãn Cầu. Sáng sau, ra chầu U Vương nêu việc hỏi: - Nay Chánh cung ngày đêm ghem ghét, oán trách nguyền rủa trẫm, các khanh nghĩ thế nào? Quắc Công tâu ngay: - Chánh cung cớ lỗi thì truất bỏ. Bệ hạ tìm người khác phong làm Hoàng hậu. U Vương hỏi: - Ai có thể thay? Doãn Cầu tâu luôn: - Hạ thần nghe nói có Bao Quý phi là người hiền đức, đáng mặt Chánh cung. - Nếu phế truất Thân hậu, còn Thái tử ở Thân quốc thì sao? Quắc Công tâu: - Đã truất mẹ thì con cũng không được dùng: Thế rồi U Vương ra lệnh giam Thân hậu vào lãnh cung, truất ngôi Nghi Cữu, phong Bao Tự làm Chánh cung, Bá Phục làm Thái tử, các quan có nhiều người bất bình xong không ai dám nói. Bao hậu tuy đã toại nguyện, song chưa thấy yên ổn, thành thử đăm chiêu ngay đêm, từ đó không hề cười một tiếng nào. U Vương hết sức chiều chuộng, tìm đủ mọi cách cũng không sao làm được Bao Tự vui. U Vương nói: - Vậy đàn sáo nào làm cho Hoàng hậu vui tai? Bao Tự thưa: - Từ hôm thần thiếp xé tan hai tấm lụa đến giờ thấy không còn tiếng nào êm tai hơn thế nữa. Từ đó, vua sai quan coi kho hàng ngày phải nộp lụa đến chỗ Bao Tự, lại sai các cung mữ khỏe mạnh thay nhau xé lụa trước mặt Bao Tự. Tuy vậy cũng không làm cho hoàng hậu họ Bao vui hơn. Nhà vua ra lệnh cho các quan hiến kế làm cho Bao Tự cười, sẽ được thưởng ngàn vàng. Quắc Công tâu: - Đấng Tiên vương ta xưa có dựng mấy chục cái chòi và đóng mấy chục cái trống đặt quanh Ly sơn, đề phòng kinh đô không may bị giặc cướp thì đốt lửa, dóng trống cho chư hầu mang quân tới cứu viện. Bấy giờ có Trịnh Bá Hữu can ngăn: - Nay vô cớ đốt lửa là đánh lừa chư hầu, làm cho mọi người mất tín. Lỡ mai kia nguy cấp thực, thì còn ai mang quân đến giúp nữa? Trịnh Bá Hữu bị quat mắng, U Vương liền truyền cho đốt các đống lửa, và dóng trống ầm vang – rồi cùng lúc cùng với Bao Tự ngồi trên đài cao uống rượu. Thấy ánh lửa ngút trời, hồi trống inh ỏi, chư hầu vội vàng kéo quân tới kinh đô. Nhưng khi tới nơi chỉ thấy U Vương cho người tạ ơn và bảo: - Nay đất nước thanh bình không có giặc giã, không dám làm phiền đến binh mã các chư hầu. Quân các nước nghe nói, chưng hửng ngơ ngác nhìn nhau, lại lục đục kéo quân về. Bao Tự đứng trên lầu, trông thấy cảnh ấy, bèn vỗ tay cười vang. U Vương nói: - Một tiếng cười của Chánh cung đáng giá ngàn vàng. Rồi ra lệnh thưởng cho Quắc Công ngàn vàng, vì đã có công hiến kế làm cho Hoàng hậu cười vui. Thân hầu được tin dâng biểu can ngăn U Vương. Nhà vua tức giận sai Quắc Công đem quân đi đánh. Thân hầu hoảng sợ, có đại phu là Lã Chương nói: - Thiên tử vô đạo, say mê Bao Tự giống như Hạ Kiệt say mê Muội Hỷ, Thương Trụ đắm đuối Đát Kỷ, điềm mất nước đó. Nay chúa công cùng liên kết với nước Khuyển Nhung cùng đem quân tới Kiểu Kinh trừ bạo nghịch, và hứa cho Khuyển Nhung thỏa sức lấy gì thì lấy. - Vài ngày sau, quân Khuyển Nhung kéo tới, U Vương sai đốt lửa. Không có chư hầu nào mang quân tới vì sợ bị lừa. Quắc Công ra đánh, bị tướng Khuyển Nhung chém chết. Quân Khuyển Nhung vào kinh thành đốt phá. U Vương hoảng sợ, vội sai đưa Bao Tự và Bá Phục ra cửa sau chạy trốn, lúc đó chỉ có Trịnh Bá Hữu theo hầu. Trịnh Bá Hữu sai đốt lửa, thấy lửa cháy ngụt trời, vẫn không có quân chư hầu nào đến cứu. U Vương và Bao Tự nhìn nhau khóc lóc. Trịnh Bá Hữu lại sai đốt lửa ở Ly sơn, rồi cầm giáo đi trước mở đường cho U Vương và Bao Tự đi theo. Trịnh Bá Hữu tả xung hữu đột giết được nhiều quân Khuyển Nhung, nhưng cuối cùng không địch nổi và bị hàng chục mũi tên nhằm trúng người. Vua nước Khuyển Nhung bắt được U Vương và Bao Tự, liền giết chêt U Vương và Bá Phục, rồi mang Bao Tự đi theo.

https://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvn0nqnqn4n31n343tq83a3q3m3237nvn

Đọc cái này mà tức cái bà Bao Tự Bao Tử gì quá, cuối cùng tưởng bả cũng vong luôn chứ, ai ngờ chắc nhờ đẹp quá nên được tên giặc mang theo, tên vua đúng là tên nào người nấy U Vương u mê u tối quá, đam mê nữ sắc mất cả cơ đồ
 
vcq1.jpg



- 20 -

Vương Tường
(Chiêu Quân cống Hồ)

Ngày xưa khi khen ngợi sắc đẹp của phụ nữ, người ta thường dùng thành ngữ "chim sa cá lặn" - nghĩa là người con gái đẹp tới mức chim đang bay trên trời cũng phải ngẩn ngơ vì nhan sắc mà sa xuống chân người đẹp. Cá đang bơi trong hồ cũng thấy cô gái đẹp ra giũ lụa cũng ngượng ngùng xấu hổ mà lặn ngay xuống đáy nước.
"Chim sa" là điển nói về Vương Chiêu Quân, tức Vương Tường. Thực ra trong sách của Trang Tử viết: Vương Tường, Ly Cơ là những người đẹp, cá nhìn thấy mà phải tránh lặn sâu đáy nước, chim nhìn thấy phải tránh bay vút đi. Dần dần dùng ngược lại hóa ra "Chim sa".
Nàng là con gái của Vương Trung, Tri phủ châu Việt (Chiêu Quân từ nhỏ đã xinh đẹp, thông minh. Có người miêu tả: Miệng cười nước đổ thành nghiêng…, đà giỏi như Bá Ấp Khảo (đời Chu), viết chữ vẽ tranh đẹp như Vương Duy đời Đường.
Thời Nguyên đế nhà Hán, Chiêu Quân phải tiến cung. Cung nữ thì nhiều, do đó đặt lệ sai họa sĩ vẽ tranh các cung nữ để dâng vua. Nhà vua ưng ai thì người đó được hầu đêm. Lúc ấy có một trong những thợ vẽ là Mao Diên Thọ người Đỗ Lăng, vẽ truyền thần chân dung rất giỏi trông như người thật. Bởi vậy có nhiều cung nữ tranh nhau đem vàng bạc hối lộ Diên Thọ để được vẽ chân dung mĩ miều hấp dẫn. Riêng có Chiêu Quân không chịu. Vì thế nên Diên Thọ vẽ hơi buồn và lại chấm một nốt ruồi trên gò má (theo quan niệm cũ, nốt ruồi ở gò má có tính chất làm cho chồng hoặc người đàn ông bị hại).
Thời nhà Hán (từ Cao Tổ) vẫn có việc giao hảo với các nước Hồ (Hung Nô, Thiền Vu…), cụ thể là một công chúa nhà Hán được gả làm vợ vua Hồ. Bấy giờ vua nước Thiền Vu là Hô Hàn Tà sai sứ sang nước Hán xin cưới một công chúa làm "Yên Chi" (hoàng hậu), Hán Nguyên đế sai gả Vương Tường (được phong danh là công chúa Vĩnh An). Trước khi đi đưa dâu, Hán Nguyên đế cho vời Chiêu Quân vào gặp mặt. Lúc gặp nàng, vua Hán mới biết Chiêu Quân là một tuyệt thế giai nhân, nhưng việc đã lỡ rồi nên vẫn gả cho vua Hồ (dã sử có chép tối hôm đó vua gặp Chiêu Quân, muôn vàn ân hận, kể cả chuyện có lần nằm mơ thấy Chiêu Quân. Hai người từng thề thốt sẽ lấy nhau…). Chiêu Quân gạt nước mắt ra đi.
Sau khi Chiêu Quân ra khỏi cổng thành thì vua sai bắt tên thợ vẽ Mao Diên Thọ đem chém đầu bêu chợ. Vua thân chinh đi tiễn nàng tới tận Nhạn Môn Quan. Tới đây, nàng vửa gảy tì bà vừa đọc mấy câu:
Vọng quân vương hề hà kỳ
Chung vu tuyệt hề dị vực

Tạm dịch:
Mong gặp nhà vua chừ bao giờ
Cuối cùng rồi lại vùi thân chừ đất lạ

Chiêu Quân sang Hồ, được ít lâu thì Hồ Hàn Tà chết, con trai là Phục Chu lên ngôi. Tục ở Hồ, vợ cha lại lấy con. Lúc đầu nàng không ưng, nhưng vua Hán cho người bảo ở đâu thì theo tục đó.
Tục truyền khi Chiêu Quân mất, cỏ ở các ngôi mộ khác đều màu trắng (vì lạnh quá) riêng cỏ ở mộ Chiêu Quân sắc xanh. Chuyện này mấy nghìn năm sau luôn trở thành đề tài cho văn chương thơ phú…
Đời Tấn (cách Hán Nguyên đế mấy thế kỷ), Thạch Sung viết một bài hát về Chiêu Quân. Tuy vậy, do kiêng tên Tư Mã Chiêu (tức Tấn Văn đế) nên đã đổi tên Chiêu Quân thành Minh Quân hoặc Minh Phi cho người thiếp yêu là Lục Châu hát múa.
Tạm dịch:
Nhà ta vốn nề nếp
Sắp sang đất Thiền Vu
Chưa hết lời
Phía trước đã bay cờ
Hầu tớ dàn dụa lệ
Ngựa xe cũng ngẩn ngơ
Thương nhau quặn gan ruột
Vạt lụa hoen lệ mờ
Ngày lại ngày dầu dãi
Rồi đến cõi Hung Nô
Lều vải làm cung điện
"Yên Chi" đổi xưng hô
đất lạ luôn đau đáu
Giàu sang mà chi giờ
Cha con cùng làm nhục
Vừa sợ lại vừa dơ
Muốn chết không phải dễ
ẩn nhẫn kiếp sống thừa sống thừa càng tủi cực
Phẫn uất rối tơ vò
Muốn nhờ cánh hồng nhạn
Cưỡi vút nẻo mây mờ
Hồng nhạn cũng hờ hững
Đứng ngồi đều thẫn thờ
Xưa là hộp ngọc quý
Nay là hóa phân khô
Hoa sớm không thỏa dạ
Đành dầu như cỏ thu
Nhắn nhủ người hậu thế
Chớ có lấy chồng xa

Về sau, như để tạ lỗi với Chiêu Quân, vua Hán cho tuyển em gái Chiêu Quân là Thụy Chiêu Quân vào cung.
Ở ta cũng có nhiều thơ từ về Chiêu Quân. Trong tập "Hồng Đức quốc âm thi tập" có mấy chục bài vịnh các cảnh ngộ Chiêu Quân đã trải qua. Cao Bá Quát cũng viết nhiều, trong đó có những câu thơ nguyên văn chữ Hán, tạm dịch như sau:
Hà cớ mày ngài lệ tủi thân
Thành Hồ sương gió Hán trời xuân
Năm xưa hứa gả Thiền Vu chúa
Đâu biết hồng nhan đẹp tuyệt trần.

Đầu thế kỷ XX, có Nguyễn Thiện Kế cũng có bài lục bát mở đầu bằng:
Cô ơi cô đẹp nhất đời
Mà cô mệnh bạc thọ trời cũng thua
Một đi từ biệt cung vua
Có đâu về nữa đất Hồ ngàn năm.

HẾT

Vì nội dung quá nhiều nên không tránh khỏi sai sót, có lỗi gì thì mong các bạn thông cảm cho:KSV@08::KSV@08::KSV@08:

Ủa sao truyện về Chiêu Quân chẳng có gì đáng nói vậy:-O
 
phu-nu-today-ha-co-1.jpg



Hạ Cơ

Hạ Cơ là con gái Mục Công nước Trịnh, ngay từ nhỏ đã nhan sắc tuyệt vời, môi son má phấn, mắt phượng mày ngài, lại thêm t.ình tứ, ai nhìn cũng thấy nao lòng. Sau lấy chồng là Hạ Ngư Thúc, làm Tư mã nước Trần, nên gọi là Hạ Cơ. Hạ Cơ có tài đặc biệt là quyến rũ trong khi ân ái. Trước khi lấy chồng, Hạ Cơ đã tư thông với anh họ mình là Công tử Man. Chẳng bao lâu Công tử Man xanh xao gầy rạc rồi chết. Sau khi lấy Hạ Ngư Thúc, sinh được một con trai là Hạ Trung Thư và chỉ ít năm sau, Hạ Ngư Thúc qua đời. Vì luôn gần đàn ông, nên mượn cớ để con trai ở lại trong thành để học hành, còn mình thì về ở đất Châu Lâm. Khi đi có mang theo thị nữ Hà Hoa cũng xinh đẹp và tính tình như Hạ Cơ. Bạn làm quan với chồng Hạ Cơ trước có Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ. Thấy Hạ Cơ góa chồng mà vẫn xinh đẹp nên có ý muốn tư thông. Một lần Khổng Ninh cùng Trung Thư đi săn, qua Châu Lâm và nghỉ ở đó. Khổng Ninh tìm cách mua chuộc Hà Hoa từ trước, nên tối đó, sau khi gặp Hà Hoa rồi, được đưa vào phòng Hạ Cơ. Thế là hai người dan díu từ đêm ấy. Khổng Ninh lấy trộm chiếc quần lót bằng gấm mỏng của Hạ Cơ. Một bữa khoe với Nghi Hàng Phủ. Nghi Hàng Phủ cũng là loại hiếu sắc, thế là tìm cách tư thông với Hà Hoa và Hạ Cơ. Một tối sau lúc mây mưa, Nghi Hàng Phủ bảo Hạ Cơ: - Ái nương trước cho Khổng Ninh một chiếc quần lót gấm, nay cũng phải cho ta một thứ gì để làm kỷ niệm chứ? Hạ Cơ bật cười nói: - Chiếc quần lót ấy là hắn lấy trộm của thiếp đấy. Nói rồi ghé bên tai Nghi Hàng Phủ thì thầm: - Cùng nằm chung gi.ường với nhau nhưng cũng có kẻ khinh người trọng đấy nhé. Nói rồi cởi ngay tấm áo lụa đang mặc tặng cho Nghi Hàng Phủ. Từ đó, Hạ Cơ có vẻ lạnh nhạt dần với Khổng Ninh. Khổng Ninh sau lúc nỉ non cùng hà Hoa, biết rằng dạo này Nghi Hàng Phủ tới luôn, hơn nữa có bữa Nghi Hàng Phủ cũng đem khoe chiếc áo của Hạ Cơ cho Khổng Ninh xem. Khổng Ninh ghen tức, bèn nghĩ kế... Chúa công vốn cũng là kẻ dâm đãng và cũng nghe đồn về sắc đẹp và bí thuật của Hạ Cơ đã lâu, chi bằng ta dẫn tới đó. Nghĩ rồi, một hôm vào hầu Trần Linh Công, liền tìm cách gợi chuyện về Hạ Cơ. Trần Linh Công nói: - Ta cũng có nghe nói từ lâu, nhưng năm nay nàng đã gần bốn mươi, chắc gì còn xuân nữa? Khổng Ninh thưa: - Hạ Cơ khéo giữ gìn nhan sắc lắm. Bây giờ trông nàng như gái mười tám đôi mươi, lại thêm cái thuật lạ làm mê mẩn bạn tình. Trần Linh Công nghe nói đã thích, bèn bảo: - Khanh có cách gì làm cho ta gặp Hạ Cơ không? Khổng Ninh thưa: - Hiện giờ nhà Hạ Cơ ở Châu Lâm, ngày mai chúa công mượn cớ ra đó chơi, sẽ gặp tỳ nữ Hà Hoa, cứ thế, cứ thế...chắc chắn là được. Trần Linh Công nghe lời, Khổng Ninh bèn cho người báo cho Hà hoa biếtvaf tin cho Hạ Cơ rằng Trần Linh Công sẽ đến thăm. Hôm sau, Trần Linh Công đến Châu Lâm. Hạ Cơ trang sức lộng lẫy ra đón, quỳ thưa: - Con trai thần thiếp đi học vắng nhà, nên thần thiếp mạo muội ra chào chúa công. Vua Trần thấy Hạ Cơ rất đẹp và quyến rũ, bèn vẫy tay bảo: - Thôi ta miễn lễ. Rồi hỏi: - Ta nghe nói vườn hoa nhà khanh đẹp lắm, khanh có thể dẫn ta đi dạo mát một chút chăng? Và cho phép Hạ Cơ bỏ lễ hục để đi lại cho tiện, xem hoa xong thì trong nhà đã bày tiệc. Hạ Cơ e ngại không dám ngồi chung. Linh Công bảo: - Chủ nhân thì phải ngồi chứ? Hôm nay ta miễn cho lễ vua tôi. Nói rồi cho Khổng Ninh ngồi bên phải, Hạ Cơ ngồi bên trái. Trong khi uống rượu, Linh Công nhìn Hạ Cơ không chớp mắt...Tiệc tàn, trời xâm xẩm tối, đèn nến sáng trưng, Khổng Ninh bỗng ghé tai Hạ Cơ thì thầm. Hạ Cơ tủm tỉm cười. Khổng Ninh ra lệnh cho quân sĩ lui ra ngoài ăn uống và nghỉ ngơi. Đêm đó, sau khi đưa Trần Linh Công vào phòng Hạ Cơ thì Hà Hoa cầm đèn lồng đi ra. Trông thấy Hạ Cơ đang có vẻ ngồi chờ đợi bên màn, Linh Công không nói năng gì, vào ngay gi.ường ái ân với Hạ Cơ. Thấy Hạ Cơ chẳng khác gì một gái trẻ, Linh Công càng thích thú, hỏi nhỏ Hạ Cơ: - Ái khanh có phép lạ gì không? Hạ Cơ thì thầm: - Phép lạ không thể nói được. Linh Công thôt ra: - Đêm nay chẳng khác gì được gặp tiên nữ vậy. Sức Linh Công đã kém Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ, lại thêm bệnh hôi nách...nhưng Hạ Cơ nghĩ thầm dẫu sao Linh Công cũng là vua chúa nên phải chịu khod chiều chuộng. Do đó nàng làm đủ mọi cách để Linh Công mê mẩn khoái trá. Bỗng Linh Công nói: - Nay ta gần gũi ái khanh, các phi tần sao so được? Liệu ái khanh có nghĩ tới ta chăng? Ha Cơ tươngt lầm Trần Linh Công biết mình tằng tịu với nhiều người, bèn nỉ non: - Xin chúa công tha tội, từ khi phu quân thiếp qua đời, nhiều lúc thiếp không tự kiềm chế được, từ nay xin hầu chúa công, xin thôi tất cả. Linh Công nói: - Ái khanh hãy nói ta nghe từ trước tới nay từng giao tiếp với ai? Hạ Cơ bèn kể chuyện Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ. Linh Công bật cười nói: - Thảo nào mà Khổng Ninh hết lời ca ngợi tài giao tiếp của khanh. Nếu chưa từng trải qua, sao mà hiểu được? Sáng ra, Hạ Cơ cởi chiếc áo đang mặc dâng Linh Công và nói: - Chúa công nhìn vật này cũng như nhìn thấy thiếp. ...Chuyện ái ân giữa ba vua tôi nước Trần, đến mức có lúc cùng tới Châu Lâm, bày các vật được Hạ Cơ tặng và mở hội liên sàng. Chuyện lâu dần lộ ra, Tiết Giả vào can bị bọn Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ rình ở chỗ vắng đâm chết. Nước Trần có một bài thơ "Châu Lâm" kể chuyện mối tình tay tư tay năm kia. Hạ Trung Thư sau cũng biết chuyện, nên mỗi khi thấy Trần Linh Công ra Châu Lâm lại kiếm cớ đi nơi khác. Trần Linh Công muốn mua chuộc, nên khi Trung Thư mới mười tám đã cho nối chức Tư mã của cha như trước. Một bữa trong tiệc rượu, Trần Linh Công, Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ khi đã ngà ngà say liền đùa cợt không còn lễ nghi nữa. Hạ Trung Thư thấy chướng mắt quá bèn lui ra. Lát sau trở lại, sắp bước vào phòng chợt nghe ba người đang đùa nhau rằng Trung Thư giống ai. Nghi Hàng Phủ nói: - Thần nhìn Trung Thư, hai mắt hau háu rất giống chúa công. Khổng Ninh cười to: - Thần thì cho là gã ấy có nhiều bố lắm. Nghe thế, Hạ Trung Thư bỗng nổi giân, vừa ngượng vừa căm, bèn sai quân sĩ vây quanh phủ, và khóa kỹ phòng Hạ Cơ, rồi tuốt gươm ra khỏi vỏ, dẫn lính vào phòng quát lớn: - Hãy mau bắt lũ dâm tặc. Ba kẻ kia hoảng sợ, Trần Linh Công định chạy vào phòng Hạ Cơ, nhưng cửa khóa, vội chạy ra chuồng ngựa, bị Hạ Trung Thư lấy cung tên bắn chết. Còn Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ nhân lúc Hạ Trung Thư mải đuổi theo Trần Linh Công bèn liều mạng vượt rào chạy sang nước Sở, tìm cách xin quân Sở sang dẹp Hạ Trung Thư. Lúc đó quân Sở có đại phu là Khuất Vu, tự là Tử Linh, vốn nghe tin đồn kỳ lạ về Hạ Cơ, lai có lần sang nước Trần và gặp Hạ Cơ rồi, mới cố nói với vua Sở cho quân Sở sang Trần. Quân Sở tới nơi, giết Hạ Trung Thư, bắt Hạ Cơ đưa tới Sở Trang Vương. Khi nhìn thấy, vua Sở nói: - Nước Sở ta cũng nhiều phi tần, nhưng chưa thấy ai đẹp và có duyên như người này. Và có ý đem về Sở. Khuất Vu bèn quỳ xuống tâu: - Chúa công muốn làm bá chủ thiên hạ, mà nay lai đem Hạ Cơ về Sở, thì mọi người sẽ cho Chúa công là kẻ hám sắc còn ai theo nữa? Trang Vương nghe theo, cho Hạ Cơ đi. Lúc đó có Công tử Trắc nói với Sở Trang Vương: - Tôi đang góa vợ, xin đại vương cho nàng làm vợ tôi. Khuất Vu lại can: - Không nên cho. Công tử Trắc giận lắm nói: - Sao Tử Linh lại can Chúa công không cho? Khuất Vu nói: - Loại người này rất nguy hại, đã làm công tử Man thiệt mạng chết trẻ, rồi cũng chính vì nó mà Trần Linh Công tiêu ma, vì nó mà Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ xiêu bạt. Công tử Trắc liền nói: - Thế thì tôi cũng sợ. Hay để Tử Linh lấy mụ ta chăng? Khuất Vu vội nói: - Đâu dám, đâu dám. Sở Trang Vương bèn nói: - Để loại này không chồng, thì có nhiều kẻ tranh giành, âu là hậu quân có Tương Lão vợ mới chết, ta sẽ cho Tương Lão. Quan liên doãn nước Sở là Tương Lão và Hạ Cơ lậy tạ lui ra. Khuất Vu không làm sao được, nhưng bụng nghĩ thầm:"gã Tương Lão chẳng chịu nổi Hạ Cơ đâu, giỏi lắm được sáu tháng dến một năm thì Hạ Cơ cũng góa thôi. Bấy giờ sẽ liệu". Một năm sau Tương Lão chết trận qua đời, Hạ Cơ lại tư thông với con Tương Lão là Hắc Sái. Hắc Sái quá mê Hạ Cơ, không đi tìm xác bố. Thân Công - Khuất Vu (định lấy Hạ Cơ trước kia) bèn cho người bí mật bảo Hạ Cơ: - Thân Công rất mến nàng, nàng mà về nước Trịnh ngày nào, thì Thân Công sẽ làm đám cưới ngay. Đồng thời Khuất Vu cho người sang nói với vua nước Trịn rằng: - Hạ Cơ muốn về nước, sao nhà vua không cho người đi đón? Trịnh Tương Công sai người sang Sở đón Hạ Cơ. Sở Trang Vương hỏi các quan: - Vua Trịnh sai sứ xin đón Hạ Cơ để làm gì? Khuất Vu tâu: - Vì Hạ Cơ muốn tìm xác Tương Lão nên vua Trịnh có ý muốn giúp đỡ. Vua Sở nói: - Tương Lão chết trận ở nước Tấn, vậy vua Trịnh giúp thế nào được? Vừa lúc Hạ Cơ xin vào chào từ biệt vua Sở để về nước Trịnh, nước mắt như mưa tâu với vua Sở: - Nếu không tìm được xác Tương Lão, thiếp xin thề không về Sở nữa. Vua Sở cho đi, Khuất Vu bèn sai người đưa thư kín cho Trịnh Tương Công, xin lấy Hạ Cơ làm vợ. Vua Trịnh thấy Khuất Vu là người đang được vua Sở tin dùng nên muốn kết thân, cũng bằng lòng. Có việc cần sai sứ sang Tề và Trịnh, Khuất Vu xin đi. Khuất Vu bèn thu xếp cho gia đình mang hết tiền bạc đi trước, rồi sang nước Trịnh làm lễ cưới Hạ Cơ về nhà quan sứ. Đêm ấy, Hạ Cơ tỉ tê bên gối Khuất Vu: - Việc này phu quân có tâu với vua Sở không? Khuất Vu bèn kể chuyện này là mẹo để lừa vua Sở và kể chuyện vua Sở và công tử Anh Tề cũng muốn lấy Hạ Cơ, rồi bảo: - Ta vì nàng mà tốn bao tâm huyết, nay mới phỉ chí, ta không về Sở nữa. Sáng mai chúng ta sẽ đi trốn ở một nước khác, tìm cách sống với nhau. Sáng hôm sau, Khuất Vu viết biểu cho vua nước Sở. Rồi cùng Hạ Cơ trốn sang Tấn. Đổi họ tên là Vu Thuấn.
Cái bà Hạ Cơ này ớn quá @@, hồi xưa mình nhớ mang máng Hạ Cơ- vua Thuấn gì gì đó, còn tưởng là Ngu Cơ
 
Lan Thanh tại vì Chiêu Quân nổi tiếng quá rồi mà chị, với lại chuyện của Chiêu Quân chủ yếu là khi ở trong hậu cung nhà Hán còn khoảng thời gian khi sang Hung Nô thì không có gì đáng kể:)
 
Lan Thanh ảnh Bao Tự thì em không biết có phải là thật hay không:v (mấy cái hình này là hình phục chế thôi à :3 )
nhưng mà có lẽ bà ấy phải gọi là siêu cấp đẹp mới đúng, giặc đến còn mê bà cơ mà :))
 
10200075.jpg


Đỗ Thập Nương

Thời Minh Vạn Lịch, ở kinh đô có một danh kỹ họ Đỗ tên Ty, đứng hàng thứ mười trong kỹ viện, nên mọi người gọi là Đỗ Thập Nương. Đỗ Thập Nương tuy mới mười chín tuổi, nhưng nhan sắc xinh đẹp, đã làm nhiều vương tôn công tử tan nhà nát cửa. Lúc đó trong số học trò trường Quốc Tử Giám có một người họ Lý tên Giáp, quê ở phủ Thiệu Hưng, tỉnh Triết Giang là con của Lý Bồ Chính. Lý Giáp là một phong lưu công tử, mặt mũi khôi ngô, tác phong nho nhã, phong quan. Từ khi Lý và Đỗ gặp nhau, hai bên ân ái ngày càng thắm đượm. Vì theo lệ nộp học phí nên Giáp lại rủ thêm bạn cùng làng là Liễu Ngộ Xuân cùng lên Quốc Tử Giám. Thập Nương bắt đầu chán cuộc sống nơi kỹ viện, muốn trở lại cảnh thanh bạch thời thơ ấu. Hơn nữa, Lý Giáp là người trung thực, đáng mặt trượng phu có thể nương thân. Lý Giáp trong lòng muốn vớt đóa hoa tươi, sớm trôi dưới dòng nước, nhưng e ngại cha mẹ không chấp thuận nên chần chừ chưa quyết. Mụ chủ kỹ viện thấy cặp tình nhân ngày càng khăng khít, ban đầu Lý Giáp còn nhiều tiền bạc nên đón tiếp rất nồng hậu, nay Lý Giáp chỉ còn tay trắng, mụ liền trở mặt...Vả lại, nghe tin con trai ở kinh đô chơi bời đua đòi, cha Lý Giáp là Lý Bồ Chính không gửi tiền lên nữa. Từ đó, mụ càng ra mặt khinh khi. Về tính chân thật, Đỗ Thập Nương khác hẳn. Thấy Lý Giáp hết tiền, trong lòng bứt dứt, nhất là thấy mụ chủ hắt hủi chàng thì lòng nàng không nỡ. Một hôm mụ chủ nói với Đỗ Thập Nương: - Ở nhà này hễ kẻ nào có tiền thì được trọng đãi, kẻ nào không có tiền thì đừng tới. Nếu cứ chiều chuộng mãi cái kẻ túi rỗng kia thì cả nhà phải chết đói hay sao? Thập Nương nói: - Trước kia Lý công tử đâu phải là kẻ túi rỗng? Mụ chủ cười ranh mãnh: - Nếu quả thật nó yêu mày thì bảo nó đem tiền đến chuộc mày ra, để lấy tiền mua người khác cho kỹ viện. Đỗ Thập Nương chưa tin, hỏi: - Quả thực bà bằng lòng sao? Bà định ra giá bao nhiêu? - Người khác thì phải cần ngàn vàng, nhưng với Lý Giáp nghèo khổ, ta chỉ lấy ba trăm lạng thôi. Nội trong ba ngày không có đủ số tiền ấy mà còn lân la đến đây thì đừng có trách ta. Thập Nương suy nghĩ một lúc rồi nói: - Bắt người không có tiền phải có đủ ba trăm lượng trong khoảng thời gian ba ngày e gấp quá. Xin cho hoãn lại mười hôm. Mu chủ biết Lý Giáp lúc này không đào đâu ra tiền nữa, nên mụ làm mặt dễ dãi nói: - Được rồi, ta sẽ cho mười ngày. Thập Nương e ngại nói tiếp: - Nếu trong mười ngày, người ta có đủ số tiền ấy mà bà không giữ lời thì sao? Mụ chủ trợn mắt sẵng giọng: - Nếu ta nói sai, ta không phải là người. Đêm ấy Lý Giáp đến, Đỗ Thập Nương kể lại với chàng. Lý Giáp buồn bã nói: - Ta có ý định ấy đã lâu, ngặt vì bây giờ tay trắng, không kiếm đâu ra tiền, biết làm sao đây? Đỗ Thập Nương nói: - Chàng nên tìm vay mượn nơi bạn bè thân thích, rồi chúng ta sẽ cùng nhau sống đến trọn đời. Thoát khỏi cảnh chim lồng cá chậu này, thiếp xin nguyện làm thân trâu ngựa để báo đền ơn ấy. Lý Giáp phân trần: - Bạn bè thân thích hiện nay thấy ta tới lui chốn kỹ viện đều lánh mặt, khó mà mượn được, chỉ có cách là ngày mai ta giả vờ mượn đỡ ít tiền hồi hương, may ra có được ít nhiều. Hôm ấy Lý Giáp đến các bạn học cáo biệt và hỏi mượn một ít tiền bạc làm lộ phí về quê. Bạn bè đều một mực từ chối. Luôn trong ba ngày như vậy Lý Giáp không tìm đâu ra được tiền, xấu hổ quá, không dám đến kỹ viện nữa, mới lén qua ngủ nhờ người bạn cùng học là Liễu Ngộ Xuân. Lý Giáp đem câu chuyện với Đỗ Thập Nương kể lại đầu đuôi. Liễu Ngộ Xuân nói: - Chưa hẳn Đỗ Thập Nương đã thật yêu anh đâu. Nàng là danh ca đệ nhất của kỹ viện nên tôi e mụ chủ chỉ tìm cách gạt anh mà thôi, chứ lý nào mụ lại chịu buông cái con bò sữa ấy. Lý Giáp nói: - Không, quả thực tình nàng yêu tôi, và mụ chủ cũng hứa chắc vậy. Liễu Ngộ Xuân trầm lặng một lúc rồi nói: - Mà dù anh có yêu nàng thật, dù mụ ta có hứa thật tình như thế thì bây giờ anh kiếm đâu ra tiền, còn với bạn bè, hiện nay anh hỏi vay ba lạng cũng còn không có nữa, nói gì đến ba trăm lạng. Thôi, anh nên chia tay với nàng là hơn. Lý Giáp thở dài: - Phải, anh nói rất có lý. Miệng nói thế nhưng trong lòng chàng lúc nào cũng thấy nóng như bào, qua sáu ngày liền, Lý Giáp vẫn không mượn được tiền. Thập Nương thấy Lý Giáp mấy ngày không đến, trong lòng buồn bực, chẳng biết công việc ra sao, bèn cho người tiểu bộc đi tìm. Người tiểu bộc gặp Lý Giáp đang thơ thẩn trên đường, liền kể lại nỗi niềm nhớ nhung của Thập Nương đang ngóng đợi. Vì xấu hổ, Lý Giáp không dám trở lại kỹ viện, nay có tin nàng Thập Nương dang ngóng đợi, bất giác chàng liều lĩnh theo chân kẻ tiểu bộc. Khi thấy mặt Đỗ Thập Nương, Lý Giáp cúi đầu e ngại, rưng rưng nước mắt, không nói gì cả. Thập Nương biết Lý Giáp vì không tìm được tiền nên xấu hổ không đến, bèn ân cần nói: - Việc ấy không nên để lọt đến tai mụ chủ. Đêm nay công tử đến đây, thiếp có việc cần bàn. Nói xong Thập Nương đi sửa soạn cơm rượu. Lý Giáp buồn bã uống say rồi vào phòng nằm nghỉ. Khi Lý thức dậy, Thập Nương đứng bên bàn nói: - Trong cái đệm thiếp nằm có hơn 150 lượng vàng vụn. Bây giờ trời đã mờ sáng, vậy chàng hãy mang số vàng đó về để lo thêm cho đủ số. Xin chàng lưu tâm cố gắng đừng để lỡ việc. Nói xong Thập Nương sai người tiểu bộc cuốn đệm mang theo cùng Lý đến nhà Liễu Ngộ Xuân. Về nhà Lý Giáp xé đệm ra, đem cân số vàng quả đúng y 150 lạng. Liễu Ngộ Xuân thấy vậy nói: - Người con gái này quả thật hiếm có, một tấm chân tình đáng cho anh quý mến. Lý Giáp nói: - Thế anh có thể giúp tôi tác thành việc này được chăng? Liễu Ngộ Xuân gật đầu. Hai ngày sau, Liễu tìm đến bạn bè vay được đủ số vàng còn thiếu, giao cho Lý Giáp và bảo: - Tôi làm việc này vì tấm lòng của Thập Nương chứ không phải vì anh đâu. Lý Giáp mặt mày hớn hở, cảm ơn thịnh tình của bạn rồi mang đủ ba trăm lạng vàng tới kỹ viện.
Thấy Lý Giáp mang vàng đến, Thập nương mừng rỡ hỏi ra mới biết Liễu Ngộ Xuân giúp, nàng ấp hai tay lên trán rồi nói: - Chúng ta mà đạt được nguyện vọng, một phần lớn cũng nhờ lòng tốt hiếm có của Liễu tiên sinh vậy. Hôm nay chàng đã có tiền rồi, thân thiếp như con én xổ lồng, bay lên trời cao. Hai người ríu rít khen ngợi tình bạn của Liễu Ngộ Xuân, thì mụ chủ đã xô cửa bước vào. Nhìn thấy cặp uyên ương, mụ chủ nói: - Sao? Hôm nay là đúng mười ngày, hẳn Lý tiên sinh có mang tiền theo đó chứ? Lý Giáp vội trao túi vàng cho mụ chủ trước mặt Thập Nương. Mụ chủ lâu nay tưởng Lý Giáp không kiếm đâu ra tiền, nay thấy Lý Giáp đem trao vàng đủ hẳn hoi, mụ ta sững sờ. Nhưng vì đã hứa trước đành phải nghe theo. Thập Nương nói: - Tôi ở nhà bà cũng đã mang cho bà vàng bạc khá nhiều. Nay ơn bà lại cho tôi được giải thoát, xin chúc bà làm ăn phát đạt. Nói xong hai người dắt nhau ra đi. Thập Nương nói nhỏ với Lý sinh: - Chị em hàng viện, thường ngày lui tới đi lại với thiếp, rất là thân thiết, nên đã góp nhau số tiền lệ phí tiến thiếp, vậy trước khi đi, chúng ta nên cảm ơn và giã biệt họ. Hai người dắt nhau vào viện. Giữa lúc ấy các bạn của Thập Nương là Tạ Nguyệt Lãng, Từ Tố Tố đang ngồi trong đợi. Thấy Thập Nương đến, bạn bè xô ra ôm Thập Nương vào lòng, lại lấy cả quần áo, đồ trang sức của mình tặng cho Thập Nương nữa. Tạ Nguyệt Lãng nói: - Nay chị Thập Nương đã bỏ chúng ta theo chồng, đường xa ngàn dặm, vậy chúng ta phải sửa soạn sẵn hành lý để tiễn nhau gọi là một chút tri kỷ của kiếp phấn son. Đêm ấy Lý giáp và Thập Nương nghỉ ở phòng Tạ Nguyệt Lãng. - Hai ta trở về, chàng có thấy gì bất tiện chăng? Lý Giáp đáp: - Cha ta nghe tin ta hoang đàng nơi chốn lầu xanh, nên giận dữ, nếu nay lại đưa một nàng ca kỹ về nữa thì e lụy đến nàng. Thập Nương nói: - Tình cha con là trọng, không thể làm mất lòng. Vậy chúng ta hãy đến Hàng Châu tạm trú ở đó, chàng về nhà trước cầu cứu với thân bằng , cố hữu đến khuyên giải cha già, nếu cha chấp thuận thì lúc đó em sẽ về nhà ở với chàng cũng khồng muộn. Lý Giáp khen phải. Hôm sau hai người dậy sớm đến nhà Liễu Ngộ Xuân để sắp sửa hành trang và chào tiễn biệt. Thập Nương nói: - Vơ chồng tôi hôm nay được sắt cầm hòa hợp thật là nhờ tấm lòng hiếm có của tiên sinh. Ngộ Xuân lễ phép nói: - Cô nương là người chung tình trên đời có một, chẳng vì nghèo túng mà thay lòng, thực là người đáng noi gương chốn hồng lâu, chút tiền của tôi có gì là quý giá? Vùa lúc đó kiệu ngựa thuê đã tới giục lên đường. Hai người phải chia tay cùng Liễu Ngộ Xuân. Tạ Nguyệt Lãng và Từ Tố Tố cũng theo tiễn vài dặm đường. Nguyệt Lãng nói: - Chị Thập Nương, nay đã đi lấy chồng, chúng tôi vì quan san cách trở, không thể nào tâm tình với nhau như xưa, vậy chúng tôi có một chút lễ mọn chúc hai người tân hôn giữ mãi mối tình nồng thắm. Nói xong, gọi người khiêng ra một cái rương thật lớn, phong khóa kiên cố, chẳng biết bên trong đựng những gì. Thập Nương không từ chối, cũng không cần mở ra xem, cảm tạ hai người rồi lên kiệu khởi hành. Lý Giáp cùng Thập Nương đến Lộ Hà thì gặp được thuyền trở lại Qua Châu, bèn xuống thuyền đi cho đỡ vất vả. Lý sinh buồn rầu vì số tiền lệ phí của mình thiếu hụt. Thập Nương nói: - Xin chàng chớ có lo. Chị em kỹ viện đã tặng cái hộp ấy, ắt không phải là thứ không quý giá. Nói rồi Thập Nương rút khóa mở ra một ngăn kéo thấy có vô số vàng bạc vụn. Còn các ngăn khác đựng những thứ gì, hình như Thập Nương không cần biết đến. Nàng nói: - Tặng vật của chị em kỹ viện chẳng những giúp chúng ta có đủ số tiền lộ phí mà còn có thể đủ cho ta ngao du một thời gian dài nữa. Đêm đó thuyền tới Qua Châu, đậu nơi cửa sông. Trên trời trăng cao gió mát, sóng gợn như những chiếc vảy vàng rung động. Trước cảnh vật nên thơ ấy, Thập Nương vô cùng hào hứng, nói với Lý Giáp: - Chúng ta lâu nay yêu nhau trong đau khổ, giờ mới có được phút tự do, ngồi bên nhau nơi đầu thuyền tâm tình đêm nay, chúng ta sẽ đối ẩm với nhau cho say để thỏa lòng mong ước. Hai người cùng nâng chén. Lý Giáp nói: - Đã lâu, ta chưa được nghe giọng oanh réo rắt của nàng, tiện đây xin nàng hát lên vài khúc để nhớ lại những đêm tự tình xa xưa. Thập Nương chiều chồng, bèn cất giọng hát, âm thanh vang vang trong cảnh tĩnh mịch u huyền... Gần đó có một chiếc thuyền buôn của một người họ Tôn tên Phúc. Chàng này người quận Tân An chuyên nghề buôn muối, là phú thương giàu có nổi tiếng khắp vùng. Thoạt nghe tiếng hát véo von, chàng ta nhìn cảnh vật mông lung, lòng say đắm theo nhạc điệu. Nghe tiếng hát trong đêm trăng quả là một mãnh lực ảo huyền. Tôn Phúc không thể chịu nổi nữa, sai người đi xem thuyền ai có người hat hay đến thế. Bọn đầy tớ dùng thuyền nhỏ bơi chèo một hồi rồi trở lại bảo: - Thuyền của Lý công tử, còn người ca hát ấy là ai thì không rõ. Tôn nghĩ thầm: - Giọng hát này không phải là kẻ khuê môn, hẳn là một ca sĩ. Vậy ta tìm cách gặp mặt mới được. Đêm ấy Tôn nằm trằn trọc mãi không sau ngủ được. Giọng hát cứ văng vẳng mãi bên tai. Đến sáng, trời bỗng nổi mưa, tuyết rơi lả tả, bao nhiêu thuyền bè phải vào bến tìm chỗ nấp. Lợi dụng cơ hội ấy, Tôn Phúc cho thuyền mình ghé sát thuyền Lý Giáp rồi tìm cách lân la chuyện vãn. Nhưng Lý Giáp ở mãi trong thuyền cùng vợ say sưa không ra ngoài. Tôn Phúc đứng mãi ở đầu thuyền chờ đợi. Lâu lắm, chàng mới thấy một người phụ nữ có vẻ đẹp chim sa cá lặn, đứng chải đầu bên thuyền Lý Giáp. Tôn Phúc bỗng nổi cơn khao khát, nhưng làm sao để dụ được Lý Giáp qua thuyền mình nói chuyện. Ngẫm nghĩ hồi lâu, chàng ngâm nho nhỏ hai câu thơ: Tuyết phủ núi ngàn cao sĩ ngự Trăng soi rừng thẳm mĩ nhân về... Khi nghe hai câu thơ ấy, Lý Giáp bèn ra khỏi khoang thuyền xem ai. Tôn Phúc được dịp vợi vàng thi lễ, rồi làm quen với Lý Giáp và mời qua thuyền mình. Tôn Phúc khiến bày tiệc trong thuyền mình, hai người đối ẩm. Thừa lúc vắng người, Tôn Phúc hỏi nhỏ Lý Giáp: - Người nào ca hát trong thuyền huynh thế? Lý Giáp thật tình đem câu chuyện mình với nàng kỹ nữ yêu nhau, nhưng vì cha già nghiêm khắc không dám đường đột đem về, phải cho thuyền đậu nơi đây để mình về thương lượng trước đã. Tôn Phúc hỏi rõ ngọn ngành, cười híp mắt nói: - Huynh tính như thế là sai rồi. Quyền cha già là quyền tuyệt đối, mà tình cha già xũng là tình thiêng liêng, nếu huynh làm thế e bá phụ giận thì nguy. Vả chăng các nàng ca sĩ xưa nay mấy ai mà chấn thành với nghĩa đá vàng đâu? Chẳng qua thấy huynh say mê nên giả vờ để gạt huynh đó. Một thời gian nữa huynh sẽ thấy ,tình nghĩa không bền. Thói đời "ngựa quen đường cũ", chi bằng trả lại cho nàng cuộc đời son phấn, giữ trọn tình nghĩa với cha già. Lý Giáp trong lòng lo lắng, nghe Tôn Phúc nói vậy, ngồi thừ ra không biết trả lời sao cả. Thấy thế Tôn Phúc bồi thêm: - Tôi với huynh tuy mới quen đã nên thân, vì thông cảm với hoàn cảnh của huynh tôi mới nói như vậy. Bây giờ tôi còn một ý nữa, chẳng biết huynh nghĩ thế nào? Lý Giáp nói: - Được, xin cứ nói. Tôn Phúc làm ra vẻ dè dặt: - Huynh trôi nổi hơn một năm trời, tôn đường giận dữ, cho huynh là kẻ đắm sắc say hoa. Bây giờ nếu huynh trở về với hai bàn tay trắng thì sao nghiêm đường không nghi kỵ?Tôi là một người giàu có, có thể giúp huynh một trăm lạng vàng, đem về nhà, nghiêm dường sẽ không còn ngờ vực chuyện lâu nay huynh chơi bời nữa. Còn nàng Thập Nương, huynh cứ giao cho tôi giữ, chừng nào nghiêm đường cho phép tôi sẽ đưa sang. Lý Giáp nghe nói rụng rời, phần vì sợ cha già trách mắng, phần vì lo công việc bất thành. Chàng ta sụt sùi nói: - Lời Tôn huynh dạy rất phải, ngặt vì nàng Thập Nương và tôi đã nặng tình không nỡ xa nhau. Vậy xin để tôi bàn lại đã. Tôn Phúc ân cần nói: - Huynh phải dùng lời nhỏ nhẹ mà khuyên nhủ nàng, nếu quả thật nàng yêu huynh thì phải tránh cho huynh những nổi khổ tâm. Hai người cạn thêm tuần rượu rồi mới chia tay. Về đến thuyền mình, Lý Giáp thấy Thập Nương thẫn thờ ngồi đợi. Chàng vừa bước vào nàng đã vồn vã nói: - Chàng đi chơi đâu mà để thiếp mong đợi hoài thế? Lý Giáp buồn rầu không đáp: - Hôm nay chàng đi chơi gặp điều gì buồn bã chăng? Lý Giáp buông tiếng thở dài...Thập Nương lại hỏi đôi ba phen, Lý Giáp đem chuyện gặp Tôn Phúc kể lại. Thập Nương kinh hoàng, nước mắt đầm đìa, nghẹn ngào không nói được, giây lâu mới hỏi: - Chẳng hay chàng có bằng lòng theo lời Tôn Phúc hay chăng? Lý Giáp nói: - Tình chúng ta nặng như Thái Sơn, biết làm sao phai nhạt được. Tuy nhiên, nếu không nghe lời Tôn Phúc thì ắt mang họa xa tình cốt nhục. Thập Nương chết điếng, ngồi lúc lâu rồi hỏi: - Chẳng hay chàng đã nhận một trăm lạng vàng của Tôn Phúc chưa? Lý Giáp nói: - Chưa, ta còn hẹn trở về hỏi ý kiến nàng đã. Như tiếng sét đánh vào tai, nỗi đau đớn đã làm cho nàng như điên dại. Nàng nói: - Người ấy vì chàng bày kế thật đáng mặt trượng phu, vậy chàng cứ lấy một trăm lạng vàng về sống an vui với gia đình đi, còn thân thiếp, thiếp sẽ tự liệu. Sáng hôm sau, trời vừa sáng, Thập Nương đã trang điểm cực kỳ lộng lẫy. Nhìn thấy Lý Giáp vui vẻ, Thập Nương đứt từng khúc ruột. Lý Giáp thân hành đến thuyền Tôn Phúc để nhận tiền. Tôn Phúc nói: - Đưa tiền là điều dễ, nhưng phải có một món gì của Thập Nương để làm tin. Lý Giáp về nói lại, Thập Nương chỉ chiếc rương lớn và nói: - Hãy đem của ấy theo tôi. Khi thấy Lý giáp đã nhận đủ số vàng, Thập Nương ngồi tựa mui thuyền, lấy tay vẫy Tôn Phúc bảo: - Hãy đưa chiếc rương lại đây, trong đó có giấy tờ của Lý Giáp, tôi cần phải tả hết. Tôn Phúc tưởng thật, sai đầy tớ khiêng cái rương của nàng trả lại. Thập Nương mở chiếc rương ra, bên trong có nhiều ngăn nhỏ dầy những ngọc ngà, châu báu, vàng bạc thì vô số. Mọi người dêu hoa mắt trước số tiền của và bảo vật ấy. Thập Nương không nói gì cả, lẳng lặng hốt từng nắm vàng bạc, châu báu quẳng xuống sông. Mọi người trông thấy thất kinh, đứng trơ ra như những pho tượng gỗ. Khi đã ném hết vàng bạc, nàng quay lại mắng vào mặt Tôn Phúc: - Ta cùng Lý lang trải qua bao cay đắng, nay mới được sum họp cùng nhau vậy mà mi nỡ đem lòng dèm xiểm, mang ý gian dâm, cắt đứt dây tình ái của ta. Ta chết xuống tuyền đài nguyện tố cáo mi với thần linh cho đáng tội. Mắng xong, Thập Nương quay lại nói với Lý Giáp: - Lòng thiếp quyết trọn nghĩa, lòng chàng một phút đổi thay, nay thiếp còn sống trên đời này cũng chẳng ích gì, vậy chàng cứ lấy trăm lạng vàng của kẻ phản phúc kía mà sinh sống. Tỷong rương của thiếp có bao nhiêu bạc tiền, nhưng vì mắt chàng không trông thấy nên không được hưởng. Nói xong, Thập Nương thừa lúc mọi người bất ý, nhảy xuống sông tự vẫn.

Tình tiết truyện này thấy sao sao ấy. Thập Nương thấy cũng tội:(( mà thôi cũng kệ
 
1-Sac-dep-cua-Dieu-Thuyen-khien-trang-cung-phai-then_7cd9f.jpg


Điêu Thuyền

Điêu Thuyền là một cô gái xinh đẹp, giỏi ca múa, khéo cư xử, từ nhỏ đã vào hầu dinh quan Tư đồ Vương Doãn(cuối đời Tây Hán). Lúc đó vận Hán suy vi, Đổng Trác làm thừa tướng chuyên quyền, ép vua Hán dời đô từ Lạc Dương tới Trường An. Còn Trác thì xây cung điện ở Mi Ổ, cách Trường An hơn 200 dặm...Đi về tự ý, không ai dám nói gì. Một hôm trong bữa tiệc, Trác sai con nuôi là Lã Bố lôi quan Tư không Trương Ôn ra chém đầu, rồi lại đưa vào bàn tiệc cho mọi người xem. Trác nói: - Vì Trương Ôn đã viết thư liên kết với Viên Thiệu ở Ký Châu định làm loạn, nên ta phải trừ đi. Các quan im lặng ra về. Vì vậy, đêm đó Tư đồ Vương Doãn trằn trọc không sao ngủ được, bèn đi ra vườn hoa, nét mặt rầu rầu, nhìn trăng mà ứa nước mắt. Bỗng thấy trong bụi mẫu đơn bên cạnh có tiếng động, lại có tiếng thở dài. Tư đồ họ Vương giật mình, nhìn kỹ lại hoá ra Điêu Thuyền. Vương Doãn nghĩ thầm:"Đứa con gái mười sáu mười bảy tuổi đầu, đêm hôm khuya khoắt lại ở ngoài vườn một mình, chắc có chuyện tư tình chi đây... Họ Vương bèn sẵng giọng: - Đêm hôm khuya khoắt mà mi ra đây thở ngắn than dài, hẳn có chuyện hẹn hò vụng trộm gì? Nàng bèn quỳ sụp xuống đất rồi thưa: - Trăm lậy đại nhân, tiểu nữ ơn người nuôi nấng như con đẻ, đâu dám làm việc vô luân? Vương Doãn hỏi: - Vậy tại sao lại thở than một mình đêm khuya vườn vắng? Điêu Thuyền thưa: - Gần đây tiểu nữ thấy đại nhân nét mặt luôn buồn rầu. Chiều nay lại thấy người ở triều về có vẻ thảng thốt, đứng ngồi không yên, cho nên tiểu nữ áy náy dạo vườn, không ngờ nỗi niềm than thở lại kinh động đến người. Nếu đại nhân đã coi như con cái, có việc gì cần, xin cứ dạy bảo. Cho dù gan óc nay lầy đất cũng nguyện chẳng từ nan. Họ Vương nhìn dáng điệu, nghe giọng nói Điêu Thuyền tha thiết...Bụng nghĩ thầm: "Có khi vận hội nhà Hán lại được cứu vãn bở đứa con gái này chăng?". Nghĩ rồi bảo Điêu Thuyền vào phong đọc sách. Sau đó, bảo nàng ngồi lên sập và Doãn quỳ xuống lạy. Nàng hoảng hốt bước xuống thềm sụp lạy dưới chân họ Vương, nức nở run giọng nói: - Sao đại nhân lại làm như vậy? Vương Doãn cũng ứa nước mắt nói: - Con hãy thương lấy trăm họ nhà Hán... Nói rồi họ Vương kể cho Điêu Thuyền nghe chuyện Đổng Trác ức hiếp vua, đè nén các quan, và chuyện Trác sai con nuôi là Lã Bố giết Tư không Trương Ôn ngay trong bữa tiệc sáng nay giữa triều đường, vì cớ Trương Ôn có hẹn thư với Viên Thiệu đem quân Ký Châu về trừ khử gian thần họ Đổng...rồi nói với Điêu Thuyền: - Lã Bố sức mạnh phi thường, nhưng cũng là loại hiếu sắc, chả kém gì bố nuôi Đổng Trác. Nay ta định bàn với con làm kế liên hoàn, dùng sắc đẹp để ly gián hai đứa, rồi xúi giục làm cho Lã Bố giết Đổng Trác đi là được việc. Vậy ý con thế nào? Điêu Thuyền thưa: - Con đã thưa rằng dấu phải gan óc lầy đất cũng cam lòng. Xin người cứ nghĩ kế, con sẽ làm theo. Vương Doãn nói: - Chuyện mà bị lộ thì ta sẽ bị giết cả ba họ. Điêu Thuyền nói: - Xin cha đừng ngại, com mà không đền đáp được nghĩa lớn nguyện sẽ chết dưới muôn ngàn gươm giáo. Sau khi đã bàn định xong, Tư đồ Vương Doãn cho người mang mấy viên ngọc quý và một chiếc mũ dát vàng tới biếu Lã Bố. Bố rất thích, bèn nói với người nhà họ Vương: - Ngàu mai ta sẽ đến dinh quan Tư đồ để đáp lễ. Hôm sau, quả nhiên Lã Bố đến nhà Vương Doãn. Doãn sai người bày tiệc khoản đãi. Lã Bố dè dặt nói: - Lã Bố chỉ là một tên tiểu tướng ở dinh quan thừa tướng, dám đâu sánh với bậc đại thần như ngài. Vương Doãn ân cần nói: - Thiên hạ ngày nay không có ai đáng là anh hùng như tướng quân cả. Tôi nay kính trọng tướng quân không phải vì địa vị chức tước, mà vì tài đức của tướng quân đó. Lã Bố nghe nói vui mừng. Trong tiệc rượu, Tư đồ họ Vương luôn ca ngợi Đổng Trác thí sư và Lã Bố. Bố càng cao hứng uống cạn những ly lớn. Thấy Bố đã ngà ngà chuyếnh choáng, Vương Doãn sai thị nữ gọi Điêu Thuyền ra chào Lã Bố. Bố thấy Điêu Thuyền cực kỳ xinh đẹp, ngẩn ngơ hồn phách nói: - Người nào thế? Vương Doãn nói: - Đó là con gái nhỏ của lão phu, tên là Điêu Thuyền. Nay được tướng quân hạ cố đến chơi lại đối xử thân như người một nhà, nên lão phu cho gọi cháu ra chào bậc anh hùng thiên hạ. Nói rồi sai Điêu Thuyền rót rượu vào ly lớn bưng mời Lã Bố. Vừa mới đưa mắt nhìn Lã Bố, Bố cao hứng uống một hơi hết ngay. Điêu Thuyền lại rót đầy một ly rượu và lại tủm tỉm cười mời Lã Bố, Lã Bố lại uống một hơi mấy ly liền. Điêu Thuyền giả dò thẹn thùng, vờ xin phép lui vào trong, Vương Doãn nhỏ nhẹ nói: - Lã tướng quân đây là bạn chí thân của cha, con cứ tự nhiên không phải e ngại. Nàng bèn nhè nhẹ ngồi gần sát bên cạnh Lã Bố. Lúc này Lã Bố cứ nhìn chằm chặp vào Điêu Thuyền và lại uống mấy cốc rượu lớn do Điêu Thuyền mời...Tư đồ Vương Doãn giả đò say rượu nói với Lã Bố: - Lão phu có điều này muốn nói, e làm phật ý tướng quân. Bố nói: - Xin đại nhân cứ dạy. - Nếu tướng quân không chê tiện nữ xấu xí, xin cho nó được lạm dự vào hàng tỳ thiếp của người anh hùng. Lã Bố đứng bật dậy vái Vương Doãn: - Nếu quả thật được như vậy, Bố này xin một đời làm thân trâu ngựa để tạ ơn sâu. Nói rồi nhìn Điêu Thuyền, Thuyền cũng đong đưa mắt đáp tình. Vương Doãn nói: Vậy nay mai xin chọn ngày lành tháng tốt, lão phu sẽ đưa tiện nữ đến phủ đệ tướng quân. Lã Bố vái tạ mấy lần rồi ra về. Vài ngày sau gặp Đổng Trác ở triều đinh, Tư đồ Vương Doãn kính cẩn vái chào, thưa: - Lão phu muốn rước Thái sư hạ cố đến thăm tệ xá, nhưng e làm phật ý ngài. Đổng Trác nói: - Vương Tư đồ đã có nhã ý, lẽ nào ta dám chối từ? Hôm sau Đổng Trác cùng đoàn tùy tùng mang đầy gươm giáo đến nhà Vương Doãn. Vương Doãn mặc phẩm phục. ra xe chào đón, rồi mời vào nhà. sau đó lại vái lậy dưới thềm. Trác đuổi bộ hạ ra, dắt Vương Doãn vào ngồi bên cạnh, Doãn nói: - Công đức của Thái sư vô cùng to lớn, xưa nay chưa có ai sánh nổi. Đổng Trác đắc ý, mỉm cười. Doãn sai bày tiệc và gọi nhạc công ra hát. Trác uống khá say. Vương Doãn mời Trác vào nhà trong. Trác bảo vệ sĩ lui ra ngoài. Doãn rót một ly rượu mời Trác và nói: - Hiện nay Thiên tử nhu nhược, làm mất lòng dân, nếu như những đáng hùng tài như Thái sư mà thay trời trị nước thì phúc cho thiên hạ lắm. Trác cười bảo: - Nếu vận trời như thế, thì Vương Tư đồ xứng đáng công đầu. Doãn sai đốt đèn đuốc sáng trưng, lại bày tiệc rượu và nói với Trác: - Xin Thái sư cho múa hát mừng vui. Đổng Trác bảo: - Thế thì tốt. Vương Doãn cho vén bức rèm lên. Điêu Thuyền đứng phía trong vừa múa vừa hát, mát luôn luôn liếc nhìn Đổng Trác mỉm cười. Trác thấy Điêu Thuyền rất kiều diễm, bèn gọi Thuyền lại gần và hỏi Vương Doãn: - Bé gái này ở đâu thế? - Dạ, nó là ca nhi trong phủ, tên gọi Điêu Thuyền. Rồi lại sai Điêu Thuyền hát múa và mời rượu Thái sư. Trác uống một hơi hết ly rượu rồi chằm chằm nhìn Điêu Thuyền, hỏi: - Năm nay bao nhiêu tuổi rồi? Điêu Thuyền e lệ liếc nhìn t.ình tứ rồi nói nho nhỏ: - Tiện thiếp vừa đôi tám xuân xanh. Trác cười bảo: - Quả là trần gian hiếm có. Vương Doãn nói luôn: - Lão phu có ý muốn dâng lên quý phủ, không biết Thái sư có đồng ý nhận cho chăng? Đổng Trác cười ha hả nói ngay: - Ý tốt của quan Tư đồ, như vậy ta biết lấy gì tạ lại? Doãn thưa: - Nếu tiểu nữ được hầu hạ tỏng Quý phủ thì đó là phúc lớn cho nhà lão phu. Trác cảm ơn hai ba câu rồi đứng dậy ra về. Vương Doãn sai Điêu Thuyền cùng đi theo xe Đổng Trác. Bản thân Doãn còn cưỡi ngựa theo tận đến phủ Thái sư. Doãn đi được một quãng thì có tiếng ngựa đi nước kiệu phía sau, và có nhiều binh sĩ cầm đèn lồng chạy hối hả. Doãn vừa nhìn đã thấy Lã Bố cầm kích phi ngựa tới nắm tay áo Doãn, hỏi gắt: - Vương tư đồ đã nhận gả con gái cho ta, sao nay lại cung tiến cho Thái sư? Doãn giả dò nhìn trước nhìn sau, rồi nói nhỏ: - Xin tướng quân bớt nóng, nói chuyện dọc đường không tiện, xin tướng quâb quá bộ lại tệ xá. Lã Bố dong ngựa cùng về ngay nhà Vương Doãn. Sau khi mời ngồi, Doãn nói: - Thái sư nghe tin lão phu gả Điêu Thuyền cho tướng quân nên muốn tới coi mặt mũi con dâu ra sao. Khi đến, Thái sư có truyền gọi Điêu Thuyền ra chào. Rồi bảo hôm nay đẹp ngày ông ta sẽ đưa dâu về. Như vậy thì tướng quân bảo lão phu khước từ sao được? Cháu nó còn ít tư trang, hôm nào tôi sẽ xin đưa tới. Lã Bố nghe thấy thế, vội vã từ biệt họ Vương, phi ngựa ngay về nhà để đợi Điêu Thuyền. Nhưng qua một đêm không thấy gì cả, bèn sang phủ tướng nghe ngóng, rồi vào trong nhà hỏi người hầu. Họ nói: - Đêm qua Thái sư nghỉ với nàng hầu mới, bây giờ vẫn còn an giấc.
Lã Bố bèn lẻn vào sau phòng ngủ của Đổng Trác xem sao. Vừa lúc Điêu Thuyền đang ngồi trong song cửa chải tóc, chợt thấy Lã Bố bên hồ sen, nàng vội vã lấy tay áo đưa lên lau nước mắt. Bố nhìn một lúc, trở ra rồi quay vào. Lúc này Đổng Trác đã dậy, thấy vậy, bèn gọi Bố lên nhà hỏi: - Bên ngoài có việc gì khẩn không? Bố lễ phép thưa: - Không ạ! Trác bảo: - Thế thì cho Phụng Tiên lui ra. Lã Bố trở ra, trong lòng hậm hực tức tối. Vài ngày sau, Đổng Trác mệt. Điêu Thuyền hầu hạ thuốc men cơm nước bên gi.ường suốt ngày đêm không hề thay áo quần. Trác cho là Điêu Thuyền thực lòng yêu quý mình, nên càng chiều chuộng hơn. Bố nghe tin Đổng Trác mệt ốm, mượn cớ vào thăm để tìm cách gặp Điêu Thuyền. Lúc ấy, Trác chưa dậy. Thấy Lã Bố đến, Điêu Thuyền ngó ra nhìn, dùng một tay trỏ vào trái tim, rồi lại trỏ vào Đổng Trác, một tay lấy vạt áo lau mắt đẫm lệ. Bất chợt Trác thức giấc, nhìn thấy Lã Bố bên gi.ường, còn Điêu Thuyền nép sau gi.ường, bỗng nổi con thịnh nộ, quát to: - Phụng Tiên ra ngay. Từ nay cấm chỉ không cho vào nhà. Lã Bố hậm hực đi ra. Vừa gặp con rể Trác là Lý Nho từ ngoài vào. Nho thấy mặt Bố hầm hầm hỏi lý do. Lã Bố gắt gỏng: - Ông vào mà hỏi. lý do tai sao quát mắng Lã Bố. Trác bèn kể lại chuyện Bố trêu ghẹo nàng hầu của mình, Nho thưa: - Thái sư muốn có được thiên hạ, thì phải sử dụng anh hùng. Lỡ ra Lã Ôn hầu thay lòng đổi dạ, thì hỏng hết việc lớn. Trác có vẻ suy nghĩ, hỏi Nho: - Giờ nên làm thế nào? Nho thưa: - Ngày mai nên gọi Lã Ôn hầu vào, cho ít vàng lụa, ngọt ngào vỗ về mấy câu sẽ êm thấm được. Trác nghe lời, sáng sau cho gọi Lã Bố vào, cho mấy chục cân vàng và gấm vóc, rồi ngọt ngào nói: - Gần đây, nhiều lúc ta bị hoảng hốt tâm thần, hôm qua quá nóng nẩy, mong con đừng chấp. Lã Bố nhận vàng và gấm, lạy tạ. Cách đó mấy ngày, Đổng Trác vào triều bàn việc. Bố mang kích theo hầu, nhưng bụng dạ vẫn nghĩ tới Điêu Thuyền. Khi các quan tan chầu, Hán Hiến đế mời riêng Thái sư Đổng Trác ở lại để trao đổi thêm nhiều chuyện. Thấy thế, Bố nghĩ bụng: "Sao không nhân cơ hội này đi tìm nàng hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện". Nghĩ vậy, Lã Bố bèn ra khỏi cung, nhảy lên ngựa phi về lối phủ Tướng. Bố mang cả cây kích vào nhà trong, tìm Điêu Thuyền. Chưa kịp hỏi câu nào thì nàng đã bảo: - Xin tướng quân hãy ra Phụng Nghi đnh đợi thiếp. Lã Bố nghe lời, ra luôn hiên đình, lát sau Điêu Thuyền ra. Vừa nhìn thấy Bố, nàng đã chạy tới như người thân thiết, nắm vạt áo Bó, nức nở kể: - Từ hôm được gả về tướng quân, thiếp cho là phúc lớn đời mình. Nào ngờ Thái sư lại sinh lòng bất lương... Tới đó, Điêu Thuyền òa khóc, rồi nói tiếp: - Ngay lúc đầu thiếp đã định liều chết ngay. Nhưng nghĩ rằng chưa từ biệt tướng quân một lời. Bây giờ xim cho thiếp chết luôn trước mặt tướng quân để tỏ tấm lòng. Nói rồi, lao về phía hồ sen và sắp nhảy xuống, thì Lã Bố kịp chạy theo ôm lấy nàng và nói: - Kiếp này ta không lấy được nàng thì không đáng mặt anh hùng. Điêu Thuyền khóc nói: - Ở đây một ngày đối với thiếp dài như một năm, ngày đêm đợi chàng cứu vớt. Lã Bố nói: - Hôm nay là ta phải lén tới đây. Ở lâu sợ thằng giặc già đó nghi ngờ, thôi ta phải đi đây. Điêu Thuyền nắm lấy vạt áo Lã Bố lôi lại nói: - Từ trước tới nay, thiếp từng nghe uy danh tướng quân lừng lẫy, sai khi gặp mặt lại càng rõ khí thế anh hùng. Nào ngờ chàng cũng bị kẻ khác kiềm chế. Thôi cứ để thiếp thác cho rồi. Nói đoạn lại toan vùng ra phía bờ hồ. Lã Bố nghe nói, ngượng đỏ mặt, một tay giữ Điêu Thuyền, một tay ném chiếc kích sang một bên, ôm lấy nàng an ủi... quyến luyến không nỡ dời nhau. Đổng Trác ở trên điện, chợt quay lại không thấy Lã Bố, vội cáo từ Hiến Đế, lên xe về ngay phủ. Thấy ngựa xích thố của Bố buộc trước cổng lớn, trong lòng sôi sùng sục, hỏi lính canh cổng. Lính canh thưa: - Ôn hầu vào nhà trong đã lâu. Trác vội vào luôn trong nhà cũng không thấy Bố, lên tiếng gọi Điêu Thuyền cũng khồng thấy thưa. Hỏi hầu gái thì mới biết Điêu Thuyền đã ra vườn xem hoa. Đổng Trác vội đi ra vườn thấy cây kích dựa ở bên, nhìn lên thấy Lã Bố và Điêu Thuyền quấn quít bên nhau. Trác cả giận quát to một tiếng bước xấn tới. Bố nhìn thấy Trác, bất giác luống cuống, vội đẩy Điêu Thuyền ra rồi chạy đi. Trác nắm cây kích lao theo, nhưng cây kích quá nặng, Trác lại phục phịch, nên ngã lăn ra đất. Đến lúc vùng đứng dậy th.ì Bố đã chạy xa rồi. Lã Bố chạy ra cửa vườn, lại gặp Lý Nho đi vào. Nho lên tiếng gọi. Bố miệng đáp nhưng chân vẫn chạy ra ngoài cửa. Nho vội vàng rảo bước vào trong nhà thì bất ngờ gặp Đổng Trác hầm hầm xô ra. Hai người va phải nhau, cùng ngã lăn xuống đất. Lý Nho vội nâng Đổng Trác lên và luôn miệng tạ tội. Trác nói: - Chuyến này không thể tha cho thằng giặc ấy được. Nho thưa: - Xin Thái sư bớt giận, Điêu Thuyền chẳng qua chỉ là một đứa con gái. Còn Lã Bố là một viên mãnh tướng tâm phúc của Thái sư.sao Thái sư không nhân dịp này đem Điêu Thuyền cho hắn, chắc hắn sẽ chịu ơn mà đền đáp hết lòng. Đổng Trác có vẻ đăm chiêu rồi bảo: - Được, để ta suy nghĩ. Lý Nho ra rồi, Đổng Trác vào nhà trong, gọi Điêu Thuyền ra mắng: - Sao nhà ngươi dám tư tình với Lã Bố? Điêu Thuyền khóc lóc thưa: - Tiện thiếp đang đứng xem hoa thì Lã Bố ở đâu xộc đến. Thiếp toan tránh vào nhà thì hắn cầm kích và kéo thiếp tới bệ đình. Thiếp định lao xuống hồ sen, thì hắn nắm lấy vạt áo rồi ôm lấy thiếp. Đang lúc thiếp giằng co cựa quậy thì may được Thái sư vào. Nói xong khóc òa, nước mắt dàn dụa. Đổng Trác bảo: - Ta đang định gả mi cho Lã Bố đây. Điêu Thuyền giật mình, khóc rống lên, nói: - Tiện thiếp đã đội ơn hầu hạ Thái sư, nay Thái sư lại đem gả thiếp cho một đứa tôi đòi. Thiếp thà chết chứ không chịu nhục. Nói đoạn, rút thanh gươm treo trên tường chực đâm vào người. Đổng Trác thấy thế, vội vàng ôm lấy, giằng gươm rồi vỗ về. - Vừa rồi là câu ta bỡn nàng đó thôi. Điêu Thuyền ngã ngay vào vòng tay Đổng Trác. Hôm sau, Lý Nho vào gặp Trác thưa: - Hôm nay đẹp ngày, Thái sư nên đưa Điêu Thuyền đến chỗ Lã Bố đi. Đổng Trác nói: - Ta nghĩ lại thấy làm như vậy không hợp lẽ. Ta với Bố là tình cha con. Lý Nho thưa: - Xin Thái sư đừng vì một đứa con gái mà để lỡ việc lớn. Trác sẵng giọng bảo Lý Nho: - Liệu nhà ngươi có đem vợ nhà ngươi cho Lã Bố không? Từ nay cấm chỉ không được nhắc câu nào tới Điêu Thuyền nữa.
Nho thở dài đi ra. Trác vào nhà, Điêu Thuyền hỏi: - Thái sư có điều gì không được vui thì phải? Trác liền kể lại chuyện Lý Nho đến giục đưa nàng sang chỗ Lã Bố. Điêu Thuyền vừa nghe dứt lời đã khóc òa, sà vào lòng Đổng Trác, nức nở nói: - Nho với Bố thân thiết từ lâu. Đây là mưu mẹo của Nho.Thân phận thiếp thế nào cũng tan nát vì bọn mày mất thôi. Trác vội an ủi: - Nàng đừng lo, mọi việc còn có ta chứ. Điêu Thuyền thưa: - dù Thái sư có lòng thương yêu thực, nhưng nếu ở đây lâu, e Lã Bố sẽ làm điều bất trắc. - Thôi được, để ta đưa nàng về Mi Ổ. Điêu Thuyền lấy vạt áo lau nước mắt, lạy tạ. Ngay hôm ấy, Đổng Trác ra lệnh đưa Điêu Thuyền về Mi Ổ. Điêu Thuyền ngồi trong xe, thấy Lã Bố đứng xa trông vào xe. Điêu Thuyền giả cách lấy áo che mặt như đang khóc. Lã Bố thấy vậy lòng đau như cắt, rồi ghì cương ngựa, đứng đợi cho xe đi khuất mới quay về. Chợt đâu có tiếng hỏi: - Sao tướng quân không đi cùng Thái sư mà lại đứng một mình buồn rười rượi thế kia? - Thôi thế thằng giặc già chiếm mất rồi. Vương Doãn nói: - Thái sư chiếm đoạt cái gì? - Chiếm đoạt con gái của Tư đồ chứ gì nữa. Tư đồ Vương Doãn giả đò kinh ngạc: - Mấy bữa nay, người mệt, nên không ra ngoài. Tiện nữ vẫn còn ở chỗ tướng quân cơ mà? Lã Bố hậm hực nói: - Nó ngủ với Điêu Thuyền từ hôm đầu rồi. Vương Doãn ngẩng mặt lên trời, thở dài: - Ôi! Sao mà có thể như vậy nhỉ? Rồi mời Lã Bố tới nhà uống rượu. Rượu ngà ngà...Bố liền kể cặn kẽ chuyện gặp Điêu Thuyền ở Phụng Nghi đình. Vương Doãn đỏ mặt nói: - Thế là con gái tôi bị người ta làm nhục rồi, còn tướng quân thì mất vợ. Tôi e thiên hạ sẽ chê cười thôi. Lã Bố hỏi: - Quan Tư đồ bảo thiên hạ sẽ chê cười ai? Vương Doãn nói: - Họ sẽ chê cười chúng ta. Tôi già yếu rồi chẳng lamg gì được chỉ tiếc cho tướng quân là bậc anh hùng lừng lẫy mà cũng phải chịu nhục. Nghe vậy, Lã Bố bất giác dằn mạnh cốc rượu đang uống dở, quát lên một tiếng. Vương Doãn giả đò hốt hoảng xin lỗi. - Tôi chót lỡ lời, mong tướng quân đừng giận. Lã Bố nói dằn giọng: - Thế này thì không chịu nổi được nữa, phải giết nó mới thôi. Doãn vội lấy tay bịt miệng Lã Bố và nói: - Xin tướng quân đừng nói như thế, lỡ liên lụy đến lão phu. Lã Bố nói luôn: - Quan Tư đồ không phải ngại gì. Trượng phu ở đời không thể luồn cúi kẻ khác mãi được. Có điều tôi và thằng giặc già ấy lại có tình bố con, làm thế sợ người ta chê cười. Doãn mỉm cười rồi nói: - Thế lúc ở Phụng Nghi đình thì tình bố con để ở đâu? Tướng quân họ lã chứ có phải họ Đổng đâu? Lã Bố vụt đứng dậy nói: - Quan Tư đồ không nói thì tôi còn mơ hồ. Khi thấy Lã Bố đã quyết tâm, Vương Doãn bèn rót rượu mời Lã Bố cạn chén rồi nói: - Vì nhà Hán mà trừ hại thì tướng quân sẽ được tiếng là tôi trung. Nhưng lão phu e việc lớn lại không thành thì chuốc phải vạ lớn. Lã Bố bèn rút thanh dao ngắn đeo bên mình, chích máu ở đầu ngón tay cho vào chén rượu, vái đưa cho Vương Doãn và nói: - Xin quan Tư đồ yên tâm, chén rượu thề này xin làm chứng. Vương Doãn cũng quỳ theo, nói: - Cơ nghiệp nhà Hán không đồi bại đều là do tướng quân. Xin tướng quân đừng tiết lộ việc này cho ai. Lão phu sẽ báo với tướng quân sau. Lã Bố nhận lời, chào từ biệt. Tư đồ Vương Doãn bèn cùng các quan triều thần thân tín là Sỹ Tôn Thụy và Hoàng Uyển bàn mưu trừ Đổng Trác. Sỹ Tôn Thụy nói: - Ta có thể viên cớ nhà vua mệt mỏi, nên muốn được gặp quan Thái sư bàn việc nước, một mặt viết mật chỉ cho Vua trao cho Lã Bố đem quân mai phục sẵn ở Triều đường, đợi Trác đến giết. Mọi người thấy được, nhưng chưa biết sai ai đi Mi Ổ mời Đổng Trác. Sỹ Tôn Thụy lại bảo: - Theo tôi Kỵ Đô Úy Lý Túc vốn cùng quê với Lã Bố. Ít lâu nay không được Đổng Trác thăng chức, nên vẫn mang trong lòng oán hận, nay nên sai đi. Vương Doãn bèn cho người mời Lã Bố đến bàn việc. Lã Bố đồng ý tất cả. Lại cho người đi mời Lý Túc. Khi Túc tới, Lã Bố vái chào nói: - Ngày trước chính túc hạ khuyên tôi nên trừ Đinh Kiến Dương để về với Đổng Trác, quy phuc triều đình, nay Trác lại cậy thế làm liều át vua, át dân, thần và người đều căm giận. Vậy tôi muốn trừ khử, ông thấy thế nào? Lý Túc nghe xong bèn nói: - Tôi không ngờ tướng quân là con người trọng nghĩa đến vậy, vậy tôi xin hết lòng. Nói rồi Lý Túc lấy một chiếc tên bẻ đôi cùng thề với mọi người. Sau đó dẫn mấy chục kị binh đem chiếu vua đến Mi Ổ mời Đổng Trác. Trác cho vào, hỏi: - Chiếu chỉ của Thiên tử về việc gì vây? Lý Túc cung kính nói: - Nhà vua ốm mệt mới khỏi, nay muốn họp các quan văn võ lại để bàn việc nhường ngôi cho Thái sư, nên sai tôi mang chiếu chỉ tới. Đổng Trác còn nghi ngờ, bèn hỏi thêm: - Vậy quan Tư đồ Vương Doãn có ý kiến gì? Lý Túc nói: - Vương Doãn trông coi việc đắp đàn "Nhường ngôi", chỉ chờ Thái sư về thôi. Đổng Trác mừng rỡ, sai các tướng tâm phúc như Lý Thôi, Quách Dĩ, Trương Tế, Phàn Trù ở lại giữ Mi Ổ, Trác bảo Lý Túc: - Công việc xong xuôi, ta sẽ phong cho ngươi làm Chấp Kim Ngô. Lý Túc vái tạ. Đổng Trác vào từ biệt Điêu Thuyền, bảo: - Nàng sắp làm Phi hậu tới nơi rồi. Cứ yên tâm ở đây chờ ta. Điêu Thuyền mừng rỡ, sụp xuống lạy tạ. Xe ngựa Trác về Trường An, trăm quan ra đón rước. Chỉ có Lý Nho cáo ốm không đến. Khi Đổng Trác vào Tướng phủ, Lã Bố tới chào, Trác bảo: - Ta sẽ cho Ôn hầu thống lĩnh tất cả binh tướng thiên hạ. Lã Bố cúi đầu tạ ơn. Sáng hôm sau, Đổng Trác hiên ngang lên xe vào triều. Trăm quan đứng đón hai bên đường, Lý Túc cầm gươm trần, đi bộ làm tiên phong. Tại cửa cung, quân lính của Trác đều đợi ở ngoài. Chỉ có vài chục tùy tùng đi theo. Vào khỏi cửa cung mấy chục bước, Đổng Trác chợt thấy Tư đồ Vương Doãn và những người khác đều cầm gươm trần đứng ở dưới chân điện, Trác hơi nghi ngại, hỏi Lý Túc: - Những người kia cầm gươm là ý gì? Lý Túc không trả lời. Bỗng Vương Doãn hô to: - Phản tặc đã tới, các võ sĩ đâu? Hàng trăm võ sĩ xông ra đâm Trác. Nhưng áo giáp của Trác dày không thủng, nên chỉ bị thương ở cánh tay và ngã ra ngoài xe. Trác gọi to: - Phụng Tiên con ta đâu mau lại đây. Lã Bố ở sau xe, nghe goi đến tên, bèn nhảy ra dùng kích đâm thẳng vào cổ Đổng Trác. Lý Túc cầm gươm cắt đầu Đổng Trác giơ lên. Lã Bố liền cầm tờ chiếu chỉ của vua ra và nói: - Có chiếu chỉ của nhà vua! Chỉ giết phản tặc Đổng Trác, còn mọi người đều không có tội, ai ở đâu xin về đấy. Quân sĩ reo hò rồi giải tán. Vương Doãn sai Lã Bố cùng Hoàng Phủ Tung đem quân tới Mi Ổ bắt gia quyến Đổng Trác và tịch thu của cải. Bọn tướng giữ Mi Ổ, nghe tin Trác bị giết, và Lã Bố lại đem quân tới, nên ngay đêm đó trốn đi luôn. Lã Bố tới Mi Ổ, việc trước tiên là tìm tới chỗ Điêu Thuyền.

Vậy mà hồi xưa coi phim còn chế Điêu Thuyền thương Quan Công rồi Điêu Thuyền bị cây gươm của Quan Công tự bay tới chém
 
Lan Thanh chị xem hoạt hình Tam Quốc diễn nghĩa ấy , trong đấy Điêu Thuyền đóng vai hai mang , diễn xuất tài tình lắm :))
 
i10.jpg


Đát Kỷ

Lúc ấy vào thời vua Trụ (theo chữ Hán, Trụ nghĩa là tàn bạo, thất đức, thật ra tên chính thức của vị vua này là Ân Thọ), đời thứ 20 nhà Ân (tính từ Thành Thang). Vua ngày càng ăn chơi hoang dâm. Sách kể, có lần vua Trụ vào đền bà Nữ Oa, thấy tượng bà Nữ Oa đẹp quá, đến nỗi phải nói: - Ta tuy làm vua, giàu có bốn biển, nhưng trong ba cung, sáu viện không có ai sắc đẹp như thế này.
Rồi truyền đem bút mực, đề một bài thơ tám câu ngay trên tường đền. Hai câu cuối như sau:
Thần tượng ví mà đi lại được Đem về cung điện sáng long nhan
Từ khi thăm đền về, Trụ Vương đâm ra mơ ước một cô gái đẹp, bèn ra lệnh cho mỗi trấn kém một trăm mĩ nữ, không kể sang hèn, miễn là đẹo đẻ đưa vào cung. Nhưng bị Thương Dung ngăn cản phải thôi.
Trong số các quan phần lớn đều a dua theo vua Trụ. Tuy vậy, vẫn có những người cương trực như Thương Dung, Tô Hộ. Do đó, Tô Hộ, làm chức Thứ sử Ký Châu, thường bị chúng dèm pha. Hộ có một con gái xinh đẹp tên là Đát Kỷ. Trung gián đại phu là Bí Trọng cùng Vưu Hồn, là hai người thân cận vua và không được Tô Hộ ưa liền tâu rằng: - Thần nghe nói Thứ sử Ký Châu họ Tô có người con gái nhan sắc vào loại nghiêng nước nghiêng thành, nếu Bệ hạ tuyển vào ung một người thì chẳng ai bàn tán gì. Trụ Vương mừng rỡ, liền cho người mời Tô Hộ vào, nói là để bàn việc nước. Tô Hộ vào cung Long Đức, Trụ Vương nói: - Trẫm nghe nói nhà ngươi có người con gái nết na, hiền hậu, muốn tuyển vào cung. Khanh sẽ vinh hiển giàu sang, danh lừng bốn cõi. Chẳng rõ ý kiến khanh thế nào? Tô Hộ lạnh lùng thưa: - Bệ hạ có ba vị hoàng hậu họ Khương, họ hoàng, họ Dương, đều là những bậc quốc sắc thiên hương, đoan trang đức hạnh tuyệt vời. Ngoài ra lại còn hơn nghìn cung nữ, tất thảy đều mặt hoa da phấn, như thế còn chưa đủ sao. Con gái thần tuổi còn nhỏ, nhan sắc tính tình đều kém cỏi. Xưa vua Kiệt nhà Hạ vì đam mê sắc đục làm điều càn rỡ mà mất nước. Nay dám xin Bệ hạ đừng nhọc lòng nghĩ đến việc ấy nữa. Vua Trụ nghe thấy thế tức giận quát: - Xưa nay đạo làm tôi phải giữ chữ Trung. Vua bảo chết cũng không tiếc thân. Nay trẫm chỉ muốn tuyển một người con gái làm hậu phi mà ngươi không nghe, lại đem so sánh với Hạ Kiệt là một gã vua mất nước. Như thế là đại vô lễ. Nói rồi truyền lệnh cho ba quân đem Tô Hộ ra xử vì tội khi quân. Vưu Hồn, Bí Trọng vội tâu: - Tội khi quân của Tô Hộ là đáng xử phạt, nhưng nếu Bệ hạ muốn tuyển con gái Tô Hộ vào cung không được, rồi bắt tội Hộ, thì người trong thiên hạ sẽ bảo nhà vua là "trọng sắc khinh hiền". Nay Bệ hạ tha cho Tô Hộ về, Hộ sẽ cảm ơn đức mà dâng con gái vào cung, như vậy Bệ hạ sẽ được tiếng là nhân đức và vẫn thỏa được ước muốn. Vua Trụ nghe có lý, tha cho Tô Hộ về. Hộ giận đề mấy câu thơ tỏ ý chống đối. Bọn quan triều đình tâu lên. Trụ Vương nổi giận lôi đình, sai Sùng Hiền Hầu đem quân đến Ký Châu đánh Tô Hộ. Con trai Hộ là Tô Toàn Trung chống lại, bị bắt. Sùng Hiền hầu định giết, nhưng tướng là Hắc hổ can: - Hiền huynh hãy bớt giận, không nên tự tiện giết đi. Bởi vì Thiên tử sai chúng ta mang quân đi đánh Tô Hộ, là do mơ ước con gái của Hộ là Đát Kỷ, lỡ mai mốt Đát Kỷ được hầu hạ Thiên tử, xin tha tội cho Tô Hộ. Lúc đó Tô Hộ sẽ thành quốc thích, quyền hành trong tay, muốn trả thù hiền huynh là chuyện rất dễ.
Sùng Hiền hầu nghe lời không giết nữa.
Nói về Tô Hộ đêm đó suy nghĩ mông lung...Ôi, chỉ tại ta có đứa con gái Đát Kỷ có chút nhan sắc mà đến nỗi này. Nay con là Toàn Trung đã bị bắt, chi bằng ta hy sinh cả vợ con, còn hơn để chúng bắt về triều làm nhục nhã. Nghĩ vậy, khoảng canh hai, Hộ cầm gươm trần đi vào hậu dinh. Lúc này Đát Kỷ còn chưa ngủ, thấy cha cầm gươm lúc đêm khuya, vừa lạ, vừa sợ, bèn nhỏ nhẹ run giọng thưa: -Đêm khuya rồi, sao phụ thân chưa đi nghỉ, lại xách gươm trần vào hậu dinh? Nhìn vẻ mặt con gái ngây thơ xinh đẹp, Tô Hộ mủi lòng. Bất giác nước mắt dàn dụa, nói: - Chỉ vì con mà gây nên vạ lớn đó. Đát Kỷ ngạc nhiên hỏi: - Chẳng rõ cha phạm tội gì, mà mấy ngày nay Thiên tử cho quân đến đánh Ký Châu ta? Tô Hộ liền kể lại mọi chuyện gặp vua Trụ, và anh Toàn Trung bị quân triều đình bắt...Nghe xong,Đát Kỷ thưa: - Chỉ vì con mà cả nhà khổ, thôi để con liều mình vậy. Hộ bảo: - Mình con chết cũng không cứu được cả nhà và dân Châu Ký. Chỉ trừ con bằng lòng vào triều hầu hạ hôn quân Trụ Vương mà thôi. Đát Kỷ nói: - Như vậy cha cứ cho con vào triều, một mình con vào đó mà cả nhà bình an thì cũng là đạo làm con thôi. Đang lúc ấy, người hầu vào báo có thư của Tây Bá hầu Cơ Xương. Hộ bóc thư ra xem. Trong thư có đoạn viết: "Nếu hiền hầu dầng con vào cung sẽ có ba điều lợi: một là con gái được làm hậu phi, hai là cha mẹ sẽ vinh hiển uy phong lừng lẫy, không ai dám động chạm tới, Ba là dân chúng và tướng sĩ Ký Châu thoát nạn binh hỏa...". Đát Kỷ đứng bên cạnh cùng xem, buột miệng nói: - Hay lắm, phụ thân nên làm theo lời Tây Bá hầu. Tô hộ bèn cho người tới chỗ Tây Bá hầu nhờ thu xếp dùm. Sau đó, Tô Toàn Trung được tha, và gia đình Tô Hộ cũng chuẩn bị vào chầu để đưa Đát Kỷ tiến cung.
Vua Trụ thấy Tô Hộ chịu đưa con gái vào cung, nhưng vẫn chưa hết giận vì chuyện ngày trước, nên khi Tô Hộ mặc áo tù nhân vào quỳ lạy trước sân rồng vẫn đập bàn hét: - Võ sĩ đâu, đưa tên phản bội Tô Hộ ra pháp trường ngay. Thấy thế, tể tướng Thượng Dung bèn tâu: - Tô Hộ đúng là tội rất nặng, nhưng lý do chỉ vì không tuân lệnh Bệ hạ đưa con gái Đát Kỷ vào cung. Nay Hộ đã ăn năn hối cải làm theo lệnh vua, vậy xin bệ hj rộng lòng tha cho. Bí Trọng cũng tâu: - Xin Bệ hạ cho vời Đát Kỷ vào chầu, nếu quả là bậc giai nhân tuyệt sắc, thì truyền tha cho Tô Hộ, Bệ hạ càng được thêm tiếng là nhân nghĩa. Nhược bằng Đát Kỷ xấu xí, thì lúc đó giết cả hai cha con cũng chưa muộn gì. Vua Trụ thấy có lý, bèn cho truyền Đát Kỷ vào. Lúc này, Đát Kỷ vốn đã xinh đẹp tuyệt thế, lại đầu mày cuối mắt, uyển chuyển khơi gợi, quỳ lạy dưới sân rồng. Vua Trụ thoạt nhìn Đát Kỷ, mặt hoa da phấn. mắt phượng mày ngài, không khác tiên nương giáng trần, thế là tâm thần mê mẩn ngay. Tới lúc chợt nghe giọng oanh dìu dặt: - Thiếp là con gái kẻ tội phạm xin vào chầu, kính chúc Thánh Hoàng vạn tuế. Nói rồi Đát Kỷ liếc nhẹ nhà vua. Vua Trụ như mất hồn. Lặng đi giây lát, rồi phán gọi cung phi đến ra lệnh: - Mau dẫn Tô nương nương đến lầu Thọ Tiên đợi trẫm. Sau đó vua Trụ tha cho Tô Hộ và phong làm quốc thích, rồi bãi chầu luôn, để mặc các quan trơ ra đó. Trụ Vương về cung Thọ Tiên, uống rượu với Đát Kỷ. Đêm đó vua say Đát Kỷ như quên trời đất. Liền hai tháng trời, Trụ Vương chỉ ở với Đát Kỷ tại cung Thọ Tiên không ra chầu, không bàn việc nước. Trăm quan dâng sớ xin hầu đều bị gạt bỏ. Ngay cả tể tướng Thượng Dung xin vào tâu việc quan trọng, mãi mới được Trụ Vương cho vào. Thượng Dung liền dâng tờ sớ của Ngự sử Đỗ Nguyên Tiến nói về việc cung cấm có nhiều yêu khí, mong nhà vua sớm bỏ rượu chè, thôi say mê con gái Tô Hộ, trở lại kỷ cương, bàn việc triều đình. Vua Trụ quay sang hỏi Đát Kỷ: - Trong sơ, Đỗ Ngự sử có nói đến chuyện yêu quái và khuyên ta nên trừ bỏ ngay là sao? Đát Kỷ chợt nhớ đến chuyện tháng trước Vân Trung Tử cũng lấy cớ yêu quái để h.ãm hại mình, bèn rền rĩ tâu: - Ngày trước Vân Trung Tử đã bày việc trong cung có yêu quái làm cho lòng dân không yên, nay Đỗ Ngự sử lại lặp lại giọng điệu ấy. Vậy yêu quái chính là bọn định gây xao động lòng người, mong Bệ hạ truyền lệnh cho chém đầu những loại người như thế. Vì chính chúng là yêu quái nơi cung điện đó. Vua Trụ nghe lời Đát Kỷ, ra lệnh chém đầu Đỗ Nguyên Tiến. Khi nghe quan tể tướng Tượng Dung truyền lệnh này, và sai lực sĩ tới bắt Tiến, thì quan Đại phu là Mai Bá vội xin đao phủ chưa động tay. Còn ông kéo Thượng Dung đến ngay cung Thọ Tiên xin gặp Trụ Vương can ngăn. Nói một hồi, vua Trụ không chịu tha Đỗ Nguyên Tiến, Mai Bá thét lên: - Hôn quân nghe lời Đát Kỷ, sát hại hiền nhân chẳng khác nào phá nát cơ nghiệp của tổ tiên. Trụ nổi giận sai võ sĩ lôi Mai Bá ra pháp trường lấy dùi đập cho vỡ đầu. Bỗng dưng Đát Kỷ quỳ xuống tâu: - xin hãy khoan đã. Trụ hỏi: - Bầy tôi dám mắng nhiếc vua như vậy, mỹ nhân còn đòi ta khoan hoãn gì? Đát Kỷ tâu: - Tội thì đáng rồi, nhưng xin Bệ hạ nghĩ cách nào, để làm cho việc xử tội này khiến cho những kẻ nghịch thần khác khiếp sợ không dám càn rỡ như Mai Bá. Mai Bá bị giam vào trong ngục - ngay đêm đó, Đát Kỷ nói vua Trụ cho người đúc một loại cột đồng cao gần ba chục thước, rộng tám thuớc và có ba miệng để đốt than lửa cho nóng, rồi bắt phạm nhân đi vào trong cho cháy thiêu. Cột đó được gọi là Bào Lạc. Mấy ngày sau Bào Lạc làm xong. Vua sai đốt lửa rồi bắt Mai Bá vào. Tỷ Can chú vua nói với các quan: - Đây là mẹo của Đát Kỷ thôi. Trụ Vương xem hành hình Mai Bá xong, trở về cung Thọ Tiên, sai bày tiệc cùng Đát Kỷ vui vầy. Hoàng hậu họ Khuơng biết chuyện, bèn tới cung Thọ Tiên xin gặp nhà vua. NHà vua đang say sưa nhưng vẫn đủ tỉnh táo bảo Đát Kỷ: - Có chánh cung tới, nàng nên ra chào đón. Đát Kỷ nghe lời ra đón, rồi cùng Khuơng hoàng hậu vào chỗ vua Trụ. Vua sai bày tiệc mời Hoàng hậu. Đát Kỷ đứng hầu vua và Hoàng hậu rất lễ độ. Vua Trụ liền bảo ca múa. Trong khi ấy nhà vua chỉ nhìn chăm chăm Đát Kỷ múa hát. Nhà vua nói: - Sao trông nét mặt Hoàng hậu không vui như vậy? - Trong lòng thần thiếp có một việc lo buồn, thì dù tiên nữ múa cũng không làm sao khuây khoả được. Trụ Vương hỏi: - Mỹ nhân họ Tô hơn tiên nữ Bồng Lai chứ. Tưởng Hoàng hậu cũng nên thưởng thức báu lạ đi. Hoàng hậu nói: - Múa hát như Đát Kỷ thì có gì là báu vật? Thần thiếp trộm nghĩ, nhà vua trừ bọn nịnh thần, xa lánh tửu sắc, mới là báu vật. Nhà vua cười ha hả: - Trẫm là Thiên tử, giàu có bốn biển, vậy thì các thứ báu lạ trong thiên hạ trẫm đều được hưởng. Khương hoàng hậu khuyên can vua không động, bèn đứng dậy bỏ về cung.
Theo lệ, mồng một hàng tháng các cung phi phải vào chầu Hoang hậu. Hai quý phi họ Hoàng và họ Dương đã tới cung hoang hậu họ Khương từ trước. Chợt có cung nữ vào tâu: - Có Tô Đát Kỷ đang đứng hầu ngoài cửa. Khương hoàng hậu nói: - Cho vào. Đát Kỷ khép nép rón rén bước vào. Thấy Hoàng hậu và hai quý phi ngồi hai bên, nàng vội quỳ lạy làm lễ ra mắt, rồi cung kính đứng hầu một bên. Dương Quý phi nói: - Có phải đây là người đẹp họ Tô không? - Đúng. Đó là Tô Đát Kỷ con Tô hầu ở Ký Châu. Nhưng bất chợt nhớ tới chuyện gì, Khương hoàng hậu nhìn Đát Kỷ quở trách: - Thánh thượng ở cung Thọ Tiên đã mấy tháng, ngày đêm rượu, hat, vui chơi, bỏ hết việc triều chính, sao nhà ngươi không biết can ngăn, mà cứ nhởn nhơ hát múa...Nếu còn giữ thói ấy nữa, ta sẽ trị tội. Đát Kỷ nghe thấy rất buồn bực, nhưng vẫn im lặng. Tan buổi hầu, trở về cung Thọ Tiên, Đát Kỷ buồn bã ngồi thừ. Cung nữ hầu cận là Cổn Quyên hỏi: - Chắc nương nương vào hầu Hoàng hậu gặp chuyện gì không vui? Đát Kỷ bèn đem chuyện bị Hoàng hậu họ Khương trách mắng và đe dọa trị tội. Cổn Quyên thưa: - Thánh thượng chẳng từng hứa cho nương nương làm hoàng hậu. Và khi đã là Hoàng hậu thì bực dọc chi mà chẳng có cách gỡ? Nghe nói Đát Kỷ thấy mừng, nhưng chưa biết làm thế nào, bèn hỏi thị nữ. Cổn Quyên thưa: - Thiếp biết có đại thần Bí Trọng được nhà vua tin yêu, nương nương nên kết giao với người ấy. Ngày mai, nhân lúc Thánh thượng dạo chơi vườn ngự, nương nương cho mời Bí Trọng vào đây, thiếp sẽ hiến kế. Đát Kỷ còn ngần ngại, Cổn Quyên nói: - Danh lợi là miếng mồi ngon, ở đời không ai không ham. Khi là Hoàng hậu rồi, nương nương sẽ tâu cho Bí Trọng quyền cao hơn nũa thì ngại gì? Hôm sau trời nóng oi, Đát Kỷ mời vua Trụ ra dạo vườn. Trong khi đó, Cổn Quyên cho mời Bí Trọng vào cung, trao cho phong thư và nói: - Thư này của Tô nương nương, quan Đại phu mang về nhà, xem một mình, không được tiết lộ cho ai biết. Việc càng sớm thành, thì quyền lực của ngài không biết đâu mà lường được. Bí Trọng về nhà, mở thư ra coi thấy Đát Kỷ nhờ mình tìm kế mưu sát Khương Hậu. Thoạt đầu Bí Trọng nghĩ thầm: "Khương hậu là con gái Khương Hoàn, trấn thủ Đông Lỗ, hùng mạnh át các chư hầu. Hơn nữa, Khương Hậu đã sinh với vua hai hoàng tử - khó lòng mà làm gì được". Nhưng rồi lại nghĩ, vua hiện nay đang sủng ái Đát Kỷ lại có lúc hứa lập làm Hoàng hậu. Nếu mình không làm theo, lỡ Đát Kỷ tâu vua xúc xiểm thì tính mạng mình cũng chẳng còn...". Đang băn khoăn lo lắng,, chợt có người đi vào. Nhìn ra thì là một kẻ hầu tên là Khương Hoàn, dáng vóc to cao khoẻ mạnh, vốn quê Đông Lỗ, vì nghèo nên xin vào hầu hạ... Bèn gọi Khương Hoàn đến hỏi: - Khương Hoàn, ngươi đi đâu vậy? - Tôi thấy trên sảnh đường vắng đại nhân nên đi tìm, xin đại nhân thứ lỗi. - Lỗi lầm gì? Ngươi làm vậy là tốt chứ. Ngươi đã ở đây được bao lâu? - Thưa được năm năm, trước đây khổ cực, nay được thế này là toàn nhờ đại nhân mà nên. Cho dù thịt nát xương tan cũng không làm sao đền đáp được công ơn trời bể ấy. Bí Trọng chợt nảy ra một ý, bèn gọi Hoàn lại gần, nói nhỏ: - Ta thấy nhà ngươi là một kẻ có dũng khí, nên thu nhận, vốn mong nhà ngươi giúp được việc lớn. Nay thời cơ đã tới, nếu ngươi làm được thì sẽ có quyền cao lộc lớn. Rồi cùng nhỏ to bàn việc với Khương Hoàn. Khương Hoàn nhất nhất đồng ý nói: - Xin đại quan hãy tin vào tấm lòng trung thành của kê hèn này. Bí Trọng bèn tìm cách gặp Cổn Quyên, trình cho Đát Kỷ. Đát Kỷ mừng lắm, một hôm đang vui đùa, bỗng Đát Kỷ đăm chiêu nét mặt. Trụ Vương hỏi: - Cớ sao Tô mỹ nhân đang vui lại rầu rĩ thế? Đát Kỷ thưa: - Thần thiếp đội ơn Thánh thượng quyến luyến, tình nghĩa ấy dù núi mài sông cạn cũng không sao đền đáp được. Nhưng mấy tháng nay, Thánh thượng chưa ra ngự chầu, e lại có kẻ sinh tà tâm dị ý gì chăng? Vậy ngày mai kính mong Thánh thượng bớt chut thời giơg ra triều đường nghe trăm quan tâu trình việc nước. Vua Trụ khen: - Mỹ nhân lại quan tâm tới xã tắc như thế, đàn bà ít ai sánh kịp, cho tới các vị hậu phi hiền đức mấy cũng không bằng. Sau đó truyền lệnh cho các cận thần sáng mai ra triều đường nổi trống họp trăm quan văn võ. Sáng sau, khi nghe trống nổi, các quan đều ngạc nhiên. Có người vui mừng nói với nhau: - Nếu nhà vua mà bỏ được nữ sắc, rượu chè thì phúc cho trăm họ. Sớm tinh mơ, khi vua Trụ từ cung Thọ Tiên đi xe rồng ra, hai bên có vệ sĩ hộ giám. Khi tới phấn cung, đèn đuốc sáng trưng, hương bay sực nức, chợt đâu có một người cao lớn, đầu bịt khăn đen, tay cầm gươm trần nhảy ra hét to: - Hôn quân say mê tửu sắc, nay ta vâng lệnh Hoàng hậu tới trừ khử đi, đem cơ nghiệp Thành Thang cho chúa ta coi trị. Hét xong, xông lên vung gươm, nhưng lập tức bị binh sĩ hộ giá vây chặt lại và bắt trói ngay. Vua Trụ vừa sợ vừa tức giận, truyền chocacs võ sĩ đưa ra triều đường cho các quan biết và trị tội. Trăm quan vừa ngạc nhiên vừa chúc tụng. vua Trụ hỏi: - Ai sẽ thay trẫm xét xử vụ này? Liền thấy Bí Trọng bước ra, quỳ xuống tâu: - Hạ thần xin phụng mệnh. Vua đồng ý. Bí Trọng liền sai dẫn kẻ thích khách ra cửa lớn, cho người tra hỏi. Thích khách là Khương Hoàn khai ra những điều đã được dặn trước. Bí Trọng liền trở vào sân rồng, Trụ Vương hỏi: - Kẻ gian khai ra những gì? Bí Trọng đập đầu tâu: - Việc này hệ trọng vô cùng, hạ thần không dám tấu trình ở đây. Trụ Vương bực quát: - Nhà ngươi lãnh nhận việc tra xét, sao lại không nói? Bí Trọng tâu: - Nếu Thánh thượng tha tôi chết cho, thì hạ thần mới dám nói. Vua Trụ gật đầu, Bí Trọng nói: - Tên thích khách là Khương Hoàn, gia nhân của Đông Lỗ hầu, nó vâng lời Khương hoàng hậu làm chuyện thí nghịch để cướp ngôi báu. May nhờ Thánh Hoàng phúc lớn, vận hội nhà Ân còn bền, nên kẻ gian bị bắt ngay. Nhà vua bất giác nổi giận đùng đùng, hét to như sấm: - A! Gan to thực, giặc từ buồng the mà ra. Thế này thì còn tình nghĩa gì nữa? Rồi truyền cho Hoàng Quý Phi tra xét Khương hậu. Hoàng phi biết hậu oan, vào cung Thọ Tiên tâu xin nhà vua tha thứ, thì bị Đát Kỷ tâu với vua là Hoàng Phi bị Khương hậu kéo bè cánh. Vua Trụ bảo Hoàng phi: - Chứng cớ rành rành, trăm quan đều nghị tội, trước hãy cho khoét một con mắt. Hoàng phi buồn rầu phải cho khoét mắt Khương hậu. Nhưng dù bị khoét mắt, Khuơng hậu vẫn kêu oan. Vua Trụ có vẻ ân hận, hỏi Đát Kỷ: - Bây giờ làm thế nào cho Khương thị nhận tội? Đát Kỷ tâu: - Xin cứ dùng nhục hình là sẽ tỏ mọi tội. Bây giờ Thánh hoàng cứ truyền cho Hoàng Quý phi dùng hai tấm sắt nung đỏ rồi ấn vào tay Khương hậu, xem có chối cãi được không? Trụ Vương nghe theo, truyền lệnh cho quan Phụng ngự mang hai tấm sắt nung đỏ tới cung Khương hậu. Khương hậu thản nhiên đưa hai bàn tay ra chịu nhục hình đến lúc ngất đi. Hoàng Quý phi tới cung Thọ Tiên kêu oan cho Khương hậu. Đát Kỷ tâu với vua Trụ: - Cho đưa Khương Hoàn vào đối chất thì Khương hậu sẽ hết đường chối cãi. con trai Khương hậu là Ân Giao nghe tin chạy tới , thấy mẹ chết oan, bèn rút gươm chém chết Khương Hoàn và định đến cung Thọ Tiên giết Đát Kỷ. Nhưng bị vua Trụ cho tướng sĩ đuổi bắt, đành phải chạy trốn. Dương Quý phi thấy tình hình ấy, biết khó tránh khỏi tai ương bèn tự vẫn trước. Tể tướng Thượng Dung đã nghỉ hưu, nghe tin vội vã vào triều gặp vua Trụ xin trị tội Đát Kỷ. Vua không nghe, sai võ sĩ lôi Thượng Dung ra hành hình. Dung liền đập đầu chết ngay trước mặt Trụ. Triệu Khải can ngăn cũng bị đưa vào Bào Lạc đốt cháy thành than. Đát Kỷ chính thức được phong làm Hoàng hậu. Tiếp đó lại thông mưu với Bí Trọng tìm cách khiến cho vua Trụ sát hại nhiều trung thần khác. Đát Kỷ khi đã có quyền thế, liền bày nhiều cực hình, sai người bắt các loại rắn độc bỏ vào hố sâu, hễ cung nữ nào chê bai gì bị lột quần áo quẳng xuống đó. Ngay đợt đầu có 72 cung nữ chết vì trò này. Lúc đó, viên quan là Dao Cách liền bước tới can ngăn, nhưng mới nói được một câu, đã bị Trụ Vương sai võ sĩ lột quần áo rồi quẳng xuống Sái bồn (hố chứa trăm rắn độc). Biết không thoát, Dao Cách chỉ vào mặt Trụ Vương mắng lớn rồi lao đầu từ lầu Trích Tinh xuống đất. Tuy đã chết, nhưng vua Trụ vẫn bắt quăng xác Dao Cách xuống hố rắn. Tiếp đó, Trụ Vương còn nghe lời Đát Kỷ cho chất đá làm núi, cắm cành cây treo thịt các chim muông gọi là Nhục lâm (Rừng thịt) và cho xây một cái hồ chưa rượu gọi là Tửu trì. Rồi cho hoạn quan và cung nữ đánh nhau, ai thắng thì được ăn ở Nhục lâm và uống ở Tửu trì. Cung nữ vốn yếu sức nên bị thua, lại bị Đát Kỷ quăng xuống hố rắn. Những người trung thực bi vua giam cầm cũng nhiều, trong đó có Tây Bá hầu Cơ Xương. Đã mấy năm trôi qua, con trai Xương là Bá Ấp Khảo tìm mấy thứ báu vật lỳ lạ tìm đến kinh đô Triều Ca, nhờ Tỷ Can đưa vào gặp Trụ Vương xin dâng báu vật chuộc tội cha. Gặp Đát Kỷ ở sau rèm, thấy Bá Ấp Khảo khôi ngô đẹp đẽ bèn nổi lòng dâm, bảo thị nữ vén rèm bước ra. Vua Trụ bèn nói cho Đát Kỷ rõ việc Bá Ấp Khảo dâng báu vật. Đát Kỷ tâu: - Thần thiếp từ lâu đã nghe đồn Bá Ấp Khảo ở Tây kỳ là người giỏi về âm nhạc, xin cho ở lại cung cấm dạy đàn. Vua Trụ sức ngày càng kém, Đát Kỷ lại ham kh.oái lạc, nay vì muốn thỏa mãn t.ình d.ục với chàng trai trẻ lực lưỡng tài hoa hơn ôm ấp mãi một ông vua già yếu sức, do đó nghĩ ra mẹo này, để sau nay mỗi khi có yến tiệc, Đát Kỷ tự tay đàn hát dâng vui và ân ái. Vua Trụ không biết âm mưu đó, nên nghe theo, cho giữ Bá Ấp Khảo ở lại trong cung dạy đàn. Chiều ấy, Đát Kỷ tìm cách chuốc rượu cho vua say mèm ngủ lăn để một mình tiện việc thỏa cuộc mây mưa với chàng trai trẻ đẹp.
Đát Kỷ bảo Khảo cùng uống rượu, Khảo giữ lễ không chịu theo. Đát Kỷ bảo Khảo ngồi sau lưng mình rồi cầm tay dạy gẩy đàn. Khảo biết Đát Kỷ có ý khác, nên cũng không nghe theo...Không còn cách nào khác, Đát Kỷ căm tức đuổi Khảo ra. Hôm sau, Đát Kỷ tìm cách nói cho vua Trụ rằng Khảo muốn hại mình, thế là Trụ Vương lại giao Khảo cho Đát Kỷ trị tội. Đát Kỷ truyền cho võ sĩ lột quần áo của Khảo, nhìn cho sướng mắt, rồi sai lấy bốn chiếc đinh lớn đóng vào chân tay, rồi lấy dao xẻo từng miếng thịt ngay trước mặt. Sau đó lai lấy thịt Khảo làm nhân bánh đưa xuống nhà giam cho bố Khảo là Tây Bá Hầu ăn.
Trụ Vương ngày càng đắm đuối hưởng lạc, không thiết việc triều chính, nhưng Đát Kỷ vốn ham mê nhiều kẻ trai trẻ khác, nên bày lễ kiếm thêm gái đẹp (như Hỷ Mị) đưa vào cung để hầu vua.Vua Trụ lại càng hào hứng cho rằng Đát Kỷ rộng lượng bao dung. Có đêm cả ba ngủ chung một gi.ường. Sau này, Đát Kỷ còn đưa thêm một cô gái đẹp nữa là Ngọc Nương vào hầu vua Trụ. Rừng thịt, Ao rượu, Hố rắn chưa đủ, Đát Kỷ lại tâu xin xây Lộc Đài. Đài cao 49 thước, cột ngọc thềm vàng, vô cùng lộng lẫy. Đêm tối ánh ngọc dạ quang toả sáng như ánh trăng. Tôi trung bị giết oan, gian thần lộng hành, Đát Kỷ ngày càng hoang dâm tai quái...Lòng dân ai oán cực độ. Cho tới khi quân nhà Chu vây chiếm Triều Ca. Trong lời kể tội Trụ Vương trước quân sĩ các nước, có những điều nói về Trụ Vương nghe lời Đát Kỷ như: - Theo lời Đát Kỷ chế ra Bào Lạc giết quan ngự sử, lập Hố rắn hại các cung nga...ngày đêm cùng Đát Kỷ vui chơi ở Lộc đài, quên cả chính sự, còn làm bao nhiêu chuyện cuồng bạo như thiến trẻ con, mổ gan người lớn làm thức ăn...
Nghe xong, quân sĩ căm giận, hò hét xông vào.
Kết cục là Đát Kỷ bị giết còn Trụ Vương tự thiêu trên lầu Trích Tinh.

Con mụ Đác Kỉ này ác như gì vậy đó, hèn chi phim nào cũng cho con mẻ là yêu quái cáo chín đuôi, cuối cùng cũng bị trừng trị, đáng đời
 
7374213.jpg


Dương Quý Phi và trường hận ca thứ nhất

Truyện cũ kể: Sau khi Đường Minh Hoàng bằng lòng cho An Lộc Sơn nhận Dương Quý Phi làm mẹ nuôi, thì để cho y được cùng ăn cơm và ra vào cung cấm tự do, Những năm này vua Đường đã yếu sức, nên không bao lâu Quý phi tư thông con nuôi và ngày càng trắng trợn. Một lần ở cung Hoa Thanh, hai người đang tắm dưới suối nóng, Quý Phi bám vào An Lộc Sơn thì vua Đường vào. Nhà vua hỏi: - Làm trò gì thế? Quý Phi thản nhiên tâu: - Tâu bệ hạ, thằng con nuôi của bệ hạ bẩn quá, hôm nay thần thiếp phải đưa nó ra tắm và kỳ ghét cho nó.
Có lần do đùa bỡn mạnh, móng tay của An Lộc Sơn cào xuớc một chỗ trên ngực Quý Phi - nàng phải lấy một vuông vải nổ đeo trước ngực. Khi vua hỏi, Quý Phi tâu: - Đây là một kiểu trang phục mới, thiếp mới nghĩ ra.
Nhà vua khen khéo và bắt các cung nữ từ đó trở đi đeo vuông lụa trước ngực. Vật đó chữ Hán gọi là kha tử, nghĩa tiếng Việt là cái yếm. Chữ kha này có nghĩa là mắng. Do đó có ý kiến cho rằng: Có thể lúc đầu là "yểm kha tử", "yểm" nghĩa là che giấu - như vậy vuông lụa đó là thứ che dấu vết sẹo do tay của An Lộc Sơn cào, và từ chữ "yểm" mà thành chữ yếm chăng?Giả thuyết chỉ là giả thuyết, người soạn tập sách nhỏ này chỉ nêu ra để bạn đọc tham khảo.
Cũng ở nơi có suối nước nóng này, sau khi An Lộc Sơn bị anh em Quý Phi ghen ghét, tìm mọi cách đẩy đi trấn thủ nơi xa - Thì Dương Ngọc Hoàn cùng tỳ nữ Trương Vân Dung đã dan díu với Kiếm Hồng. Nghe nói Kiếm Hồng đã giả gái để đi lẫn vào đám nữ nhà họ Dương (vì anh em nhà Quý Phi đều la quan to, ra vào cung cấm rất dễ) để vào cung. Khi thấy bị lộ, Quý Phi và cung nữ họ Trương đã cho Kiếm Hồng tự tử bằng thuốc độc. Sau đó lại nói với vua Đường là thử nghiệm để phòng khi cấp bách thì dùng.
Trong Đường thi, hiện còn một bài thơ của Dương Quý Phi tặng cung nữ họ Trương, nàng này cũng giỏi múa khúc Vũ y nghê thường. Bài thơ viết:
La tụ động hương bất dĩ
Hồng cử niểu niểu thu yên lý
Khinh vân lĩnh thượng sạ dao phong
Nộn liễu trì biên sơ phất thủy

Tạm dịch:
Vạt lụa rung hương mãi chẳng thôi
Ngòi hồng man mác khói thu bời
Mây lan đỉnh núi vừa bay gió
Liễu mảnh bên hồ bóng nước rơi

Quý Phi tên là Ngọc Hoàn người Hoa Âm, Hoằng Nông, sau rời nhà tới thôn độc đầu ở Vĩnh Lạc châu Bồ. Cụ là lệnh bản, làm thứ sử châu Kim, cha là Huyền Diễm, làm tư hộ đất Thục. Ngọc Hoàn sinh ở Thục, đi chơi thường hay ngã xuống hồ. Nay gọi là hồ "Phi ngã". Sớm mồ côi, được gửi nuôi ở nhà Sĩ Khích tỉnh Hà Nam. Tháng 11 năm Khai Nguyên thứ 22 (735) được tuyển vào cung làm vợ Lý Mạo (Thọ Vương). Sáu năm sau, tháng mười năm Khai Nguyên thứ 28 (741), Đường Huyền Tông (cha của Mạo) tới cung Ôn Tuyền (nơi có suối nước nóng - sau đổi thành Hoa Thanh), sai Cao Lực Sĩ tới Thọ Để, đưa Ngọc Hoàn ra đền miếu làm đạo sĩ, đổi tên thành Thái Chân, rồi cho cưới con gái Vi Chiêu Huấn làm vợ Lý Mạo ở Thọ Để.
Cùng tháng này, Huyền Tông ở vườn Phượng Hoàng ra chiếu phong cho Dương Thái Chân làm Quý Phi (gần như Hoàng hậu). Về sau có tư liệu chép, có lúc Ngọc Hoàn hỏi nhà vua: - Thánh thượng không sợ quỷ thần quở trách hay sao? thì Huyền Tông cười bảo: "ta là hoàng đế, còn sắc phong cho các thần thánh. Làm gì mà chẳng được?". Nửa tháng sau, Quý Phi múa hat khúc "Nghê thường vũ y" cho vua xem. Khúc hat do Huyền Tông sáng tác ở trại Tam Hương, khi ngắm phong cảnh nước Nữ Nhi. Lưu Tích có bài thơ về tích đó như sau:
Đức vua Khai Nguyên thỏa hết mức
Khi ấy quang cảnh như thôi thúc
Ở trạm Tam Hương ngó non tiên
Về viết Nghê thường vũ y khúc
Hồn tiên từ ấy ở Dao Trì
Khắp chốn cung điện cùng đi về
Một buổi cưỡi mây bay đi mất
Cõi đời còn suông thu phong từ

Dã sử có chép rằng: Hồi đầu niên hiệu Thiên Bảo, nhân ngày rằm tháng tám, La Công Viễn đang hầu vua Huyền Tông ngắm trăng, bỗng tâu: - Bệ hạ có thể đi cùng thần lên chơi cung trăng không? Nhà vua bằng lòng, họ La bèn bẻ một cành quế, quăng lên trên không, hoá thành một chiếc cầu sáng loáng như bạc. Rồi mời nhà vua bước lên. Đi chừng mấy chục dặm, gặp một toà thành lớn, họ La tâu: - Đây là cung Trăng. Bên trong có mấy trăm tiên nữ, mặc áo lụa Bạch rộng, đang múa ở sân. Nhà vua bước tới hỏi: - Múa hát khúc gì thế? Tiên nữ thưa: - Khúc Nghê thường Vũ y.
Huyền Tông ghi lại các âm thanh, trở về cầu, quay lại nhìn, thì không thấy gì nữa, sáng hôm sau gọi các ban nhạc phỏng theo lời đó mà sáng tác điệu Nghê thường Vũ y. Sau khi Quý Phi múa hát khúc Nghê thường Vũ y, Huyền Tông rất say mê thích thú. Tối hôm ấy, vua mang mấy trâm vàng đến cung, tự tay cài vào mái tóc nàng. Có lần Huyền Tông nói với mọi người: - Trẫm được Quý Phi, như được trời ban cho báu vậy. Rồi lại sai đặt ra khúc hát "Được của báu".
...Năm đầu niên hiệu Khai Nguyên, Đường Huyền Tông có vợ là Vương hoàng hậu nhưng không có con. Lại có Huệ Phi họ Vũ. Vũ Phi xinh đẹp lại sinh được con trai, nên được nhà vua rất ưa chuộng. Tới năm thứ 13, sau khi phế bỏ Hoàng hậu họ Vương, thì Huệ Phi là bậc nhất trong cung, nhưng tới năm Khai Nguyên thứ 21, Huệ Phi qua đời. Dẫu có nhiều cung tần nhưng nhà vua không thích ai, chỉ âu sầu buồn chán. Đến khi gặp Dương Quý Phi, thì lại vô cùng yêu quý, còn hơn cả thời vũ Huệ Phi.
Ba chị em Ngọc Hoàn cùng đẹp, lại tài năng, đều gây thích thú, nên mỗi khi vào cung đều chơi rất lâu mới về. Trong cung mọi người gọi Ngọc Hoàn là "nương tử", nghi lễ đối xử giống như Hoàng hậu. Cha mẹ Quý Phi đều được ban danh hiệu Thái Thú và Phu Nhân, chú được làm Đại phu, anh họ tên Chiêu(sau đổi là Quốc Trung) được làm chức Thị Lang, anh là Điểm cũng được ban tước, em họ được lấy công chúa Thái Hoa(con của Vũ Huệ Phi) và cho mẹ nàng ở liền ngay trong cung cấm.
Họ Dương bỗng chốc giàu sang quyền quý, các nơi đua nhau đem dâng của ngon vật lạ không thiếu thứ gì, kẻ hầu người hạ đầy nhà, ngựa xe luôn chật ngoài cổng.

An Lộc Sơn lúc này làm tiết độ sứ ở Phạm Dương, được nhà vua nhận làm con nuôi, cho vào cung điện, cùng dự tiệc với Dương Quý Phi. Mỗi lần vào cung, An Lộc Sơn chỉ vái chào Quý Phi mà không lạy vua. Vua Đường hỏi lý do, y thưa: - Phong tục nước Hồ chúng con chỉ vái lạy mẹ chứ không vái lạy bố. Nhà vua cười và đồng ý cho về sau cứ như thế và bảo Dương Điềm làm anh em kết nghĩa với An Lộc Sơn. Lúc đầu thân thiện, nhưng sau ganh tị quyền hành nhau nên sinh oán.
Có lần Quý Phi ghen tuông, nói lời xúc phạm. Vua giận, sai Cao Lực Sĩ đem xe đưa nàng trở về nhà Dương Điềm. Anh em nhà họ Dương sợ hãi khóc lóc. Trưa tới, do nhớ nhung, nhà vua không ăn được cơm, luôn luôn cáu gắt. Cao Lực Sĩ biết ý bèn tâu xin cho đưa Quý Phi về. Tối hôm đó gặp gỡ ở cung Thái Hòa, nàng khóc xin vua tha tội. Nhà vua yêu hơn xưa. Từ ấy, không còn cung nữ nào được hầu đêm Huyền Tông nữa.
Năm Thiên Bảo thứ 7, cho Dương Chiêu làm ngự sử đại phu, quyền chức Lệnh doãn kinh đô, và đổi tên là "Quốc Trung", phong cho chị gái Quý Phi làm "Phu nhân nước Hàn", em gái Quý Phi làm "Phu nhân nước Quắc", em gái thứ tám làm "Phu nhân nước Tần"...cấp cho tiền vạn để mua son phấn. Bấy giờ Đỗ Phủ có bài thơ tạm dịch như sau:
Phu nhân nước
Quắc đội ơn chúa
Tinh mơ cưỡi ngựa vào trong cung
Nhưng ghét son phấn làm xấu mặt
Để nguyên mày ngài chầu bệ rồng

Mấy anh em nhà họ Dương xây dựng dinh thự tập trung ở một khu, gọi là làng "Tuyên Dương" - Ngày đêm không ngớt việc xây dựng, xa xỉ vô cùng. Từ thời Khai Nguyên đến giờ chưa có ai được vinh hiển bằng anh chị em họ Dương.
Đường Huyền Tông đi đâu cũng có Quý Phi đi theo, Cao Lực Sĩ cầm cương xe ngựa. Trong cung có 700 thợ dệt gấm vóc, thợ trạm khắc vài trăm người. Sai Dương Ích đi Lĩnh Nam (mạn Lưỡng Quảng, Vân Nam...) tìm cảu ngon vật lạ. Tiết độ sứ Lĩnh Nam, nhân ngày tết mồng năm tháng năm, dâng Quý Phi quần áo đẹp lạ, và vải thiều ngon, được thăng chức Quang Lộc đại phu.
Tháng 2 năm Thiên Bảo thứ 9, nhà vua cho kê sập, treo rèm, cùng ở một nơi với các vương tử. Quý Phi lấy vụng sáo ngọc của Ninh Vương đem ra thổi. Nhà thơ Trương Hồ viết:
Nhà trò con hát không có ai
Vụng đem sáo ngọc Ninh Vương thổi

Việc thổi sáo này làm phật ý nhà vua, vua sai Trung Sứ đuổi ra. Quý Phi khóc lóc nói với Trung Sứ là Trương Thao Quang rằng: - Nhờ Trung Sứ tâu với Thánh thượng rằng: Tội thần thiếp đáng chết. Mọi thứ đều là do ơn ban của nhà vua, chỉ có da tóc này là của cha mẹ, không có gì để đền đáp lại. Nay xin dâng lên một món tóc. Thao Quang đem món tóc dâng lên Huyền Tông, nhà vua vừa kinh ngạc vừa thương xót, vội sai Cao Lực sĩ triệu Quý Phi về. Sạu chuyện này, vua càng nâng niu chiều chuộng hơn.
... Anh em nhà họ Dương ngày càng lộng quyền. Dân gian lúc đó đã có câu: "Sinh gái đừng sầu thương, sinh trai chớ vui mừng". Lại có câu: "Trai không được phong hầu, nhưng gái làm Quý Phi, được vua yêu chuộng, vinh hiển kém chi?"...
Có lần yến tiệc ở điện nhỏ Thanh Nguyên, Ninh Vương thổi sáo ngọc, nhà vua gõ trống da, Quý Phi gẩy đàn tỳ bà...từ sáng tới trưa, vui vẻ khác thường. Sau đó mọi người đều tới xin Quý Phi dạy cách gẩy đàn tỳ bà.
Giữa thời Khai Nguyên, mẫu đơn trong cung cấm nở hoa nhiều màu, nhà vua sai đem trồng ở đình Trầm Hương. Khi hoa nở đẹp, Lý Quy Niên và ban nhạc định hát 16 khúc nhạc cũ, nhà vua phán: - Cùng Quý Phi ngắm hoa thơm thế này mà cứ nghe nhạc cũ thì chán lắm.
Bèn sai ngay Lý Quy Niên mang chiếu vàng mời ngay Hàn lâm học sĩ Lý Bạch vào viết thơ (xem thêm phần phụ lục cuối truyện).
...Có lần đường Minh Hoàng đang xem truyện Hán Thành Đế, Quý Phi tới hỏi xem gì. Nhà vua cười bảo: - Cho hỏi, biết lai buồn thôi. Quý Phi xem ra thì thấy đó là chuyện vua Thành đế nhà Hán được nàng Triệu Phi Yến, người thanh thoát ẻo lả, gió thổi có thể bay... bèn dựng đài tránh gió cho nàng Triệu ở. Nhà vua liền bảo: - Ái Phi thì tha hồ cho gió thổi. Câu nói có ý đùa Quý Phi hơi béo mập. Quý Phi thưa: - Múa khúc "Nghê thường Vũ y" như bay, xem xưa nay đã ai làm được thế chưa? Vua nói: - Trẫm mới hơi đùa một chút mà khanh đã bực sao?
Bèn sai lấy bức bình phong được chế từ thời Tùy, trong dùng các thứ châu báu tạo hình các mỹ nữ ban cho Quý Phi.
Trong cung có thứ cam quýt quý, năm Thiên Bảo thứ 10, các căy này sai quả, nhà vua ban cho các quan. Có một loại là "Hợp hoan", nhà vua nói: - Có lẽ trời cũng biết ý người. Vì trẫm với khanh là một, bởi vậy ta cùng hợp hoan.
Nói rồi cùng Quý Phi ăn chung, rồi cho mọi người vào vẽ tranh.
Quý Phi sinh ra ở đất Thục, rất thèm ăn quả vải. Vải thiều Nam Hải rất ngon. Nhưng thứ quả này để qua đêm thì không ngon. Do đó, Nam Hải phải dùng ngựa Lưu tinh (chạy rất nhanh) để đưa vải kịp dâng lên Quý Phi. Giao Chỉ, Ba Tư cống long não, nhà vua ba ncho Quý Phi. Quý Phi lấy một số người chạy ngựa đi tặng lại An Lộc Sơn...
Năm Thiên Bảo thứ 11, tể tướng Lý Lâm Phủ mất, anh họ Dương Quý Phi là Dương Quốc Trung được vua Đường cho làm tể tướng, sau đó tiếp tục phong tặng nhiều chức tước và vàng ngọc châu báu cho bố mẹ, anh chị em, họ hàng nhà Dương Quý Phi. Lại gả công chúa cho Họ Dương, và kén gái họ Dương làm vợ các Vương tử. Hàng năm cứ tới tháng 10, vua cùng Quý Phi ngồi chung một kiệu, ra cung Hoa Thanh (có suối nóng) ở hết mùa đông mới về triều. Ở đây có lầu Đoạn Chính cho Quý Phi chải tóc, tô son, phòng Hoa sen để Quý Phi tắm gội. Mồng 1 tháng 6 năm Thiên Bảo thứ 14 (756) là sinh nhật của Dương Quý Phi, vua ra cung Hoa Thanh, sai nhóm nhạc "Tiểu Bộ" (nhóm có 30 người tuổi dưới 15) tấu nhạc ở điện Trường Sinh. Nhạc mới chưa có tên, nhân dịp Nam Hải cống vải lên Phi, bèn đặt tên là: Bản nhạc "Chùm vải thơm".
Tháng 11 năm đó, An Lộc Sơn làm phản (chính tên là Ái Lạc Sơn, lai giống người Hồ, mẹ làm thầy cúng)...Trước đó, có lần Huyền Tông cho An Lộc Sơn ngồi cùng một gi.ường, xem tuồng xiếc...Con trai là Túc Tông can, nhưng nhà vua không nghe và bảo hắn có tướng quý.
An Lộc Sơn mượn cớ tìm giết Dương Quốc Trung và Quắc Phu nhân. Nhà vua định trao quyền cho con trai và truyền ngôi cho Đường Túc Tông, còn mình thì mang quân đi đánh dẹp An Lộc Sơn.
Quốc Trung và Quắc Phu nhân biết tin vào báo cho Dương Quý Phi, nêu rõ sự việc ấy mà thành thì họ Dương sẽ bị Túc Tông diệt. Quý Phi miệng ngậm hòn đất van nài Huyền Tông đừng làm thế, Huyền Tông lại thôi.
Tháng 6 năm Thiên Bảo thứ 15, An Lộc Sơn chiếm Đồng Quan.. Nhà vua chuyển sang Thục đưa cả Quý Phi đi theo. Khi tới gò Mã Ngôi, tướng Trần Huyền Lễ e ngại binh sĩ không nghe, bèn nói với ba quân: - Sở dĩ thiên hạ rối ren thế này đều do Dương Quốc Trung gây nên, nếu bây giờ không diệt Dương Quốc Trung, thì không làm yên lòng người. Ba quân hò reo: - Chúng tôi muốn làm như vậy từ lâu lắm rồi! Gặp lúc sứ nước Thổ Phồn vào cổng, chào hỏi Dương Quốc Trung ở sứ quán, quân sĩ bao vây, hô to: - Quốc Trung với người Hồ mưu làm phản.
Rồi ồ ạt kéo vào giết bố con Dương Quốc Trung (Quốc Trung chính là con của Trương Dịch Chi, một người yêu của Võ Tắc Thiên, mỗi khi Trương Dịch Chi về thăm nhà, Võ hậu sai cất thang để không cho ai lên, và cấm không cho nữ tỳ hầu hạ. Mẹ Trương sợ Trương sẽ tuyệt tự, bèn ngầm sai một người hầu gái tên là Tần Châu, ẩn sẵn trên lầu, rồi ngủ cùng với Trương Dịch Chi. Tần Châu có mang, sinh ra Chiêu - Tên cũ của Quốc Trung, sau lấy chồng về nhà họ Dương).
Thấy binh sĩ đã giết Dương Quốc Trung, Đường Huyền Tông bèn ra trạm quán nhằm úy lạo ba quân. Nhưng quân sĩ vẫn không rút. Vua hỏi nguyên cớ, Cao Lực Sĩ tâu: - Quốc Trung có tội quân sĩ đã giết rồi. Nhưng Quý Phi còn ở bên bẹ hạ, nên mọi người vẫn lo ngại. Mong thánh thượng nên tính đến ch.uyện ấy mới gỡ được (có tài liệu chép: "Ba quân tâu: gốc rễ của giặc còn đó, sao chúng tôi rút được?"). Nhà vua theo một ngõ nhỏ trở về hành cung, mặt buồn rười rượi. Quan Tư lục Kinh Triệu là Vi Ngạc tâu: - Cúi mong bệ hạ cẳt đứt ái ân để yên đất nước. Lát sau, vua Huyền Tông đành về hành cung, cho vời Quý Phi tới cửa Bắc chia tay rồi sai Cao Lực Sĩ đưa đi thắt cổ. Quý Phi gào khóc: - Xin mọi người hãy yên lòng, thiếp phụ ơn nước nhà, chết không ân hận gì, chỉ mong được lễ Phật. Nhà vua nói: - Cầu xin cho ái khanh đầu sinh vào đất lành.
Cao Lực Sĩ bèn dùng dải lụa để thắt cổ Quý Phi ở cây lê trước cổng chùa (có sách nói là cây liễu), gặp lúc phương Nam lai cống vải thiều. Vua nhìn vải khóc mấy tiếng rồi sai Cao Lực Sĩ lấy vải tế lễ.
...Tuy vậy, binh sĩ vẫn còn chưa giải tán. Phải tới khi Trần Huyền Lễ vào xem thấy Quý Phi đã chết thực, ba quân mới chịu giải vây.
Lúc này Quý Phi mới ba mươi tám tuổi.
Lại có chuyện rằng: Khi Quý Phi chết ở Mã Ngôi,có bà lão nhặt được chiếc tất gấm. Sau này, du khách muốn xem đều biếu bà cụ một trăm đồng tiền.
Dẹp loạn xong, Đường Minh Hoàng về kinh đô, không nguôi thương tiếc Dường Quý Phi.
Hai nhân vật chính được miêu tả trong các tác phẩm nổi tiếng hơn mười thế lý nay là Đường Huyền Tông và Dương Quý Phi. Cuối mùa đông năm đầu tiên niên hiệu Nguyên Hoà (Đường Hiến Tông -806) - Bạch Lạc Thiên người Thái Nguyên làm chức Hiệu Thư Lang ra coi đất Chu Trí(tỉnh Thiểm Tây). Ở đó có nhà Trần Hồng và Lang Dạ Vương Chất Phu, rỗi rãi ba người thường rủ nhau đi chơi chùa Du Tiên - Nhân nhắc chuyện Đường Minh Hoàng nhờ đạo sĩ đánh đồng thiếp lên cung trăng tìm Dương Quý Phi, nghe xong ai nấy bùi ngùi.
Chất Phu nâng chén rượu nói với Bạch Lạc Thiên: - Chuyện lạ trên đời nếu không có người tài nghệ hơn đời ghi chép thì sẽ bị mai một đi. Ông Bạch vốn thạo về thơ, lại sẵn tình cảm, thử làm một bài, nên chăng?
Bạch Lạc Thiên bèn viết Trường hận ca. Trần Hồng sao cho nhiều bạn bè ở các nơi: Trường hận ca thứ nhất (lược phần nguyên văn chữ Hán, đây là bản dịch)
Vua Hán quý nụ cười nghiêng nước
Khắp chốn đi về tìm chẳng được
Họ Dương cô gái mới lớn lên
Vốn ở khuê sâu chưa ai biết
Trời sinh của báu khó bị quên
Một sớm vào hầu bên điện ngọc
Quay đầu mỉm cười ngàn vạn xinh
Son phấn sáu cung hết nhan sắc
Mùa xuân ra tắm hồ Hoa Thanh
Suối ấm, thân ngà nước long lanh
Nàng hầu đỡ dậy như không sức
Bắt đầu mây mưa đội ơn lành
Tóc mượt, mũ hoa gót vàng dạo
Màn ấm phù dung suốt đêm thâu
Đêm xuân ngắn quá trời cao tỏ
Từ đấy nhà vua bỏ buổi chầu
Hầu hạ kề bên không lúc rỗi
Ngày lại qua ngày tối liền tối
Cung sau gái đẹp ba ngàn người
Dồn hết chiều chuộng vào một thân
Nhà vàng chuyển thành đêm hoan lạc
Lầu ngọc tiệc tan say tràn xuân
Chị em họ hàng đều giàu sang
Cửa cao nhà rộng khó sánh nổi
Khiến cho thiên hạ bảo mẹ cha
Không muốn sinh trai mà sinh gái
Ly cũng cao ngang với xanh mây
Đàn nhạc véo von khắp chốn hay
Múa nhẹ hát nhỏ ngừng tơ trúc
Suốt ngày nhà vua nghe không nhọc
Ngư Dương tiếng trống rung đất trời
Tuyệt vời Vũ y
Nghê thường khúc
Chín lần thành quách khói bụi tan
Ngàn xe muôn ngựa về tây nam
Ra khỏi kinh đô trăm dặm đường
Thúy hoa cờ bay, người lẫn lữa
Sáu quân không tiến, biết sao giờ
Mày ngài đành cam thác trước ngựa
Vòng thoa quăng đất không người thu
Tơi bời xiêm áo và ngọc châu
Nhà vua che mặt không cứu nổi
Quay nhìn máu lệ cùng rơi mau
Cát vàng mù mịt gió xào xạc
Thang mấy quanh co vào
Kiếm Các
Dưới núi Nga Mi ít người đi
Cờ phướn tiêu điều ánh chiều nhạt
Sông Thục nước biếc, núi Thục xanh
Thánh chúa sớm chiều ngơ ngẩn tình
Hành cung thương tâm ánh trăng dọi
Đêm mưa nghe nhạc tiếng buồn tênh
Trời xoay đất chuyển kiệu rồng về
Tới đây dùng dằng không đi được
Chân gò
Mã ngôi cát bụi mù
Chỗ nào người ngọc thác ngày trước
Vua tôi nhìn nhau lệ đầm đìa
Phía đông cửa đô vó ngựa phi
Trở về vườn hồ không gì khác
Rặng liễu Vị Ương sen
Thái Dịch
Phù dung như mặt liễu như mày
Nhìn cảnh ai không chảy nước mắt
Gió xuân đào mận đua nở hoa
Mùa thu ngô đồng lá lác đác
Nội nam cung tây cỏ thu rạc
Lá đỏ đầy thềm không người quét
Con em Lê Viên đầu hoa râm
Cung nữ phòng tiêu mày ngài bạc
Rầu rầu nền điện đóm bay quanh
Đèn khêu hết bấc ngủ không thành
Rời rạc đồng hồ nhỏ từng giọt
Loang loáng sông
Ngân sáng đêm thanh
Ngói uyên ương lạnh sương gieo nặng
Gối cũ chăn xưa ai chung bóng
Dằng dặc sống chết cách bao năm
Hồn phách chưa hề vào giấc mộng
Lâm cùng đạo sĩ một vị khách
Có thể dùng phép gọi hồn phách
Cảm thương nhà vua nhiều ban ơn
Chiêu hồn đạo sĩ bèn hiến cách
Bay vút tầng mây nhanh hơn chớp
Đi hết lên trời lại xuống đất
Cao mãi thiên đường, dưới suối vàng
Khắp chốn lại qua, tìm chẳng được
Chợt nghe ngoài biển có non tiên
Non tiên lơ lững giữa hư huyền
Lầu điện chói ngời mây sặc sỡ
Nơi ấy dập dìu bao tiên nữ
Trong có một người tên Ngọc Phi
Da tuyết mày hoa phải nàng đó?
Cửa vàng hiên tây động then ngọc
Nhắn truyền Tiêu Ngọc báo Song Thành
Nghe có sứ giả vua nhà Hán
Trong màn Cửu hoa mơ...giật mình
Kéo áo đẩy gối, dậy bùi ngùi
Rèm châu móc bạc kéo lên trời
Tóc mây ngủ dậy còn tung rối
Mũ hoa đội lệch bước tới nơi
Vạt tiên phơ phất động làn gió
Trông như Nghê thường điệu múa cũ
Mặt ngọc rầu rầu lệ chứa chan
Một cành hoa lệ thấm mưa nhỏ
Yêu kiều t.ình tứ tạ ơn vua
Một biệt âm dung thấy mịt mờ
Chiêu Dương điện xưa dứt ân ái
Tháng ngày Bồng Lai Cung ngẩn ngơ
Quay đầu hỏi thăm nơi
Trần gian
Chỉ thấy bụi mù, không Trường An Vật cũ cầm suông tình sâu tỏ
Vàng ngọc xuyến thoa gửi người mang
Để lại một vòng cùng một quạt
Chia đôi thoa vàng làm tin vật
Lòng dạ ví bền như ngọc vàng
Trên trời cõi người sẽ lại gặp
Trao thơ ân cần lúc chia tay
Trong thơ thề nguyền đôi lòng hay
Trường Sinh điện ấy
Bảy tháng Bảy
Gặp nhau chuyện trò giữa canh chày
Ở trời nguyện làm chim liền cánh
Ở đất nguyện làm cây liền chi
Trời dài đất lâu có lúc hết
Hận này dằng dặc không hạn kỳ.

Tại vùng Châu Cẩm, tỉnh Tứ Xuyên, đời vua Huyền Tông nhà Đường , có người đàn bà nằm mộng thấy sao Trường Canh sa vào minh, nên có thai, sinh ra con trai. Vì sao Tràng Canh có tên là Thái Bạch, nên đặt tên con là Lý Bạch, hiệu là Thái Bạch. Lý Bạch mới mười tuổi mà dung nhan phong nhã, cốt cách phi phàm, lại tinh thông thi sử, xuất khẩu thành thơ, ai ai cũng cho Lý Bạch là một vị tiên giáng thế. Do đó mọi người gọi Lý Bạch là Ký Trích Tiên; Lý Bạch cũng tự đặt cho mình biệt hiệu là Thanh Liên cư sĩ, càng lớn càng nổi tiếng. Tại Hồ Châu, quận Ô Tinh đồn rằng có rượu rất ngon,Lý Bạch chẳng quản ngại đường xa, lần tới, lên lầu gọi rượu uống say mèm. Lúc đó, Tư Mã Hồ Châu là Gài Điệp đi qua, nghe trên lầu có người ngâm thơ bèn cho người hỏi dò xem ai?
Lý Bạch bèn đáp bằng bốn câu thơ:
Thanh Liên cư sĩ vốn tiên thần
Quán rượu quên danh ba chục xuân
Tư Mã Hồ Châu hà cớ hỏi
Đấng Phật Như Lai chính hậu thân.

Tư Mã Hồ Châu xem thơ, giật mình: - A! Té ra là Lý Bạch người đất Thục mà tôi không biết, xin được lượng thứ. Tư Mã Hồ Châu mời Lý Bạch vào công đường, hàng tuần tiếp đãi rất hậu. Tư Mã Hồ Châu hỏi: - Túc hạ là người tài cao học rộng, dễ đoạt đai vàng mũ bạc, tại sao không đến Trường An ứng thí? Lý Bạch đáp: - Cuộc đời hỗn loạn, kẻ nào có tiền lo lót thì được đỗ cao. Chính vì thế nên đành ngao du đây đó, uống rượu ngâm thơ, để tránh bọn khảo quan dốt nát mà cứ tự cho mình là thần thánh. Tư Mã Hồ Châu nói: - Danh tiếng túc hạ lừng lẫy, nhiều người biết, nếu tới Trường An, lo gì không có người tiến cử.
Lý Bạch nghe theo, lên đường về Trường An ứng thí.
Khi đến Trường An, Lý Bạch vào chơi cung Tử Cục thì gặp được Hạ Chi Chương đang giưc chức Hàn Lâm tại triều. vì nghe danh đã lâu nên rất hâm mộ, Hạ Chi Chương mời Lý Bạch về nhà kết nghĩa anh em, rất là tương đắc. Mùa thi đã đến. Hạ Chi Chương bảo Lý Bạch: - Mùa thi năm nay quan chủ khảo Nam tỉnh là Thái sư Dương Quốc Trung, anh họ của Dương Quý Phi, còn quan giám sát lại là Thái Úy Cao Lực Sĩ, cả hai người này đều thuộc vào bọn tham ô, nhũng lạm. Hiền đệ tính khẳng khái, không chịu luồn cúi kẻ tiểu nhân, lại không có vàng bạc để đút lót cho chúng, thì dẫu có tài xuất quỷ nhập thần đi nữa, cũng khó mà chiếm được bảng vàng. Nhân tiện tôi có quen với hai người đó, để tôi viết cho hiến đệ một bức thư giới thiệu. Lý Bạch đem thư đến cho Dương Quốc Trung và Cao Lực Sĩ. Hai người này xem xong, cười nhạt bảo nhau: - Chẳng biết lão Hạ mắc nợ Lý Bạch bao nhiêu vàng bạc mà ân cần biết thư giới thệu với chúng ta, lại nói miệng suông. Vậy chúng ta thấy cái tên Lý Bạch là cứ việc đánh hỏng ngay. Ngày thi đến...Bọn giám khảo tham ô nên ra câu thi:
"Bất nguyện văn chương quán thiên hạ, chỉ nguyện văn chương trúng khảo quan".
Nghĩa là: "Chẳng mong văn chương hơn mọi người, chỉ mong sao hợp ý quan trường".
Chỉ trong chốc lát, Lý Bạch đã làm xong quyển thi nộp.
Dương Quốc Trung xem qua thấy Lý Bạch bèn lấy bút son gạch chéo, đánh hỏng, rồi chỉ vào mặt Lý Bạch nói: - Văn chương như ngươi chỉ đáng mài mực để hầu người... Cao Lực Sĩ cũng nói theo: - Hạng ấy chỉ đáng tháo giầy, xỏ tất mà thôi. Nói xong đuổi Lý Bạch ra khỏi trường thi. Lý Bạch uất hận về kể với Hạ Chi Chương rằng: - Nếu sau này, tôi có quyền thế, quyết bắt Dương Quốc Trung mài mực và Cao Lực Sĩ tháo giày. Hạ Chi Chương khuyên giải: - Hiền đệ chớ nản lòng, hãy cứ ở lại chờ kì thi sau, may ra gặp khảo quan thanh liêm chính trực, chừng ấy bảng hổ đề tên cũng chưa muộn. Lý Bạch nghe theo. Từ đó hai người tri kỷ, lúc vọng nguyệt, lúc ngao du không nhắc gì đến chuyện thi cử nữa.
Bỗng một hôm, có sứ giả nước Phiên đến dâng thư, vua Huyền Tông lâm triều, truyền cho sứ giả dâng thư, và khiến Hạ Chi Chương mở ra xem trước long án.
Hạ Chi Chương mở thư nhưng không dọc được chữ nào cả. Huyền Tông giận phán: - Trong triều bao nhiêu người bảng vàng bia đá, lộc cả quyền cao, lúc bình thường thì khua môi múa mép, đến lúc hữu sự thì nín tiếng câm hơi. Trẫm hạn cho sáu ngày nếu không đọc được bức thư của Phiên quốc thì trẫm sẽ cắt chức hết. Về nhà, Hạ Chi Chương buồn bực kể lại cho Lý Bạch nghe. Lý Bạch cười nói: - Có lẽ cũng chẳng khó lắm. Sáng hôm sau, Hạ Chi Chương vào triều thật sớm, tâu vua: - Muôn tâu bệ hạ, muốn đọc Phiên thư, theo hạ thần phải mời một người là Lý Bạch,học rộng tài cao. Nhà vua hỏi: - Lý Bạch hiện nay ở đâu? - Tâu bệ hạ, hiện đang ở nhà hạ thần. Vua Huyền Tông cho người đến ngay dinh Hạ Chi Chương để mời Lý Bạch: Sứ gải đi một lúc, về tâu: - Tâu bệ hạ, hạ thần đã đến mời Lý Bạch, song Lý Bạch không chịu yết kiến, viện lẽ là kẻ vô tài kém đức, không dám vào triều kiến bệ hạ. Nhà vua hỏi Hạ Chi Chương: - Sao Lý Bạch không chịu phụng chiếu? Hạ Chi Chương thưa: - Tâu bệ hạ, năm trước Lý Bạch đi thi vào trường thì bị khảo quan đánh hỏng đuổi ra khỏi trường. Nay áo vải vào triều nên hổ thẹn. Vậy xin bệ hạ rộng ban ân huệ, thế nào Lý Bạch cũng sẽ phụng chiếu.
Huyền Tông sai người đến phong chức Học vi Tiến sĩ cấp đệ cho Lý Bạch, lại cấp đai vàng, bào tía, hốt ngà, mũ gấm. Hạ Chi Chương còn khuyên Lý Bạch: - Nay thiên tử đã có lòng ái mộ hiền tài, vậy hiền đệ đừng vì tị hiềm lũ tham quan mà lỡ dịp may.
Bạch vâng lời, theo Hạ Chi Chương vào triều bái yết. Huyền Tông thấy Bạch cốt cách đoan trang. tuấn tú như vị tiên giáng thế, trong lòng thầm ưa, phán rằng: - Nay có thư Phiên quốc đưa đến, cả triều thần không ai đọc nổi, vậy triệu khanh đến. Lý Bạch tâu: - Tâu bệ hạ, khoa thi vừa qua tài năng của thần chưa đủ làm vừa ý khảo quan thì dám đâu mong làm vừa lòng bệ hạ. - Xem tướng mạo của khanh, trẫm đã phần nào đoán biết được tài năng của khanh đến bực nào rồi.
Trước mặt quần thần, Lý Bạch mở thư đọc to:
"Đại Khả Độc nước Bột Hải gửi Đường Triều khẩn khán: Từ khi người chiếm nước Cao Ly đến nay, hai biên giới tiếp liền, binh sĩ hai bên nhiều lần gây hấn. Bản quốc không thể nhẫn nại trước hành động của quân gia Đường quốc nữa, nên sai sứ đến Đường Triều. Nếu thuận thì đem tất cả một trăm bảy mươi sáu thành của Cao Ly nhường lại cho bản quốc, bản quốc cũng có những tặng phẩm sau đây phụng tặng: nai Hanh Sơn, Vóc Nam Hải, trống Bành Thành, hươu Phù Dư, lợn Trịnh Hiệt, ngựa Suất Tân, lụa Ốc Châu, cá Vị Đà, mận Cửu Lộ, lê Lạc Ty. Nếu không nghe theo, bản quốc sẽ cho tiến binh,chừng ấy máu dây ngàn dặm, ăn năn thì đã muộn. Chớ trách bản quốc không cho biết trước".
Huyền Tông nghe xong cho sứ Phiên ra quán nghỉ, và hỏi văn võ bá quan: - Nay Phiên Vương ngạo mạn doạ chiếm đoạt Cao Ly, vậy các khanh có cách gì chế ngự không? Các quan im bặt. Hạ Tri Chương tâu: - Tâu bệ hạ, xin thử hỏi Thái Bạch có cao kiến gì chăng? Huyền Tông hỏi Lý Bạch. Họ Lý tâu: - Việc này không có gì đáng để bệ hạ phải nhọc lòng. Ngày mai, xin cho đòi sứ Phiên Vương vào triều, hạ thần sẽ viết một phong thư bằng chữ phiên trả lời, cho chúng một bài học, bắt chúng phải phục tùng. Huyền Tông hỏi: - Trong thư chúng tự xưng là Khả Độc, vậy Khả Độc là người nào? Lý Bạch tâu: - Khả Độc là vua nước Bột Hải.
Thấy Lý Bạch đối đáp thông suốt, vua Huyền Tông bèn phong cho Bạch làm Hàn lâm đại học sĩ, lại truyền ban yến tại điện Kim Loan, cho phép Lý Bạch tự do uống rượu không phải gò bó vào nghi lễ. Bạch uống rượu say, nhà vua sai thị vệ đỡ nằm trên điện. Sáng hôm sau, vua Huyền Tông ra chầu, Lý Bạch vẫn còn chưa tỉnh. Nội thị lay gọi, Lý Bạch vẫn nằm. Nhà vua sai bếp nấu canh giải rượu cho Lý Bạch, rồi tự mình cầm thìa khuấy cho mau nguội.
Lý Bạch uống xong mấy thìa canh, trong người tỉnh hẳn.
Một lúc sau, Phiên sứ vào triều kiến, Lý Bạch đứng bên vua, cầm bức thư của Phiên sứ đọc to, không lầm một chữ nào.
Phiên sứ thấy thế vẻ mặt hoảng sợ vô cùng. Lý Bạch nói: - Nhà ngươi là sứ một nước nhỏ lại dám vô lễ với thiên triều, lẽ ra phải xử tội.Tuy nhiên, thánh thượng rộng lượng bao dung, vậy ngươi hãy phục sẵn dưới thềm chờ nghe chiếu chỉ.
Huyền Tông cho đặt giấy bút bên ngự toạ, và sai mang đôn gấm lên đặt trước ngự toạ để Lý Bạch thoả chiếu.
Lý Bạch tâu: - Giày của hạ thần không được thanh khiết cho lắm,e phạm đến Thánh thượng, vậy xin bệ hạ cho thần cởi giày đi tất không, để lên điện ngọc. Vua Huyền Tông nghe nói, đang định truyền bọn nội thị lên cởi giày cho Lý Bạch, nhưng họ Lý tâu thêm: - Hạ thần có một lời cúi xin bệ hạ tha cho tội cuồng vọng này. - Được, khanh muốn gì cứ việc, trẫm không chấp trách. Lý Bạch tâu: - Ngày trước hạ thần vào thi, bị Thái sư Dương Quốc Trung và Thái úy Cao Lực Sĩ đánh hỏng. Nay hai người đó có mặt ở đây làm cho văn khí hạ thần bị bế tắc.
Vậy muốn cho văn ý được phấn khởi, rửa nhục cho triều đình, cúi xin bệ hạ cho Thái Úy tháo giầy và Thái sư mài mực.
Vua Huyền Tông sửng sốt, nhưng không biết phải làm sao, đành truyền chỉ bắt Dương Quốc Trung mài mực và Cao Lực Sĩ tháo giầy cho Lý Bạch. Hai người đành phải cúi đầu tuân lệnh. Lý Bạch bèn ngồi trên đôn gấm múa bút viết thư:
Thảo xong thư, Lý Bạch dâng lên nhà vua. Huyền Tông thấy tự tích không khác gì bức thư của Phiên bang, rất đẹp ý. Rồi truyền cho Phiên sứ nghe chỉ:
Trước ngự toạ, Lý Bạch cao giọng đọc chiếu thư:
"Hoàng đế thiên triều dụ cho Khả Độc nước Bột Hải biết:Trước đây Thạch Noãn đầu phục, Đà Long lại hàng. Bản triều theo mệnh trời mà lập ngôi Hoàng đế, lấy đức vỗ về bốn phương, lấy oai trị vì thiên hạ, binh hùng tướng mạnh, các nước lân cận đều khiếp oai. Điệt Lợi bội thề nên bị bắt, Tán Phổ khiếp vía phải đầu hàng, Tán La, Thiên Trúc, Ba Tư hàng năm phải dâng cống lễ; Lâm Ấp, Cốt Lợi, Nệ Đà La đều sợ uy thế mà chẳng dám giở trò đao binh. Cao Ly vì trái ý thiên triều nên bị thiên triều hỏi tội, tấm gương ấy cũng đáng cho các ngươi soi. Bột hải chỉ là một nước phụ thuộc của Cao Ly, đem so sánh với Trung Quốc chỉ là một quận bé nhỏ. Binh tướng lương thực có bao nhiêu mà dám châu chấu đá voi. Nếu nghịch mạng trời ắt không khỏi tội. Nay Thiên Triều đức trọng ơn dầy, lấy lời nhân nghĩa dung thứ cho kẻ cuồng si; vậy khuyên Khả Độc mau sớm tỉnh ngộ, xưng thần nộp cống. Ví như cãi lệnh sẽ xương phơi đầy núi, máu chảy thành sông, mua cười cho thiên hạ. Nay dụ".
Vua Huyền Tông nghe đọc, vô cùng khoan khoái, truyền cho nội giám trao chiếu chỉ cho sứ Phiên. Khi ra đến cửa Ngọ Môn, sứ Phiên hỏi Hạ Tri Chương: -Người thảo chiếu làm chức gì trong triều mà khiến Thái sư mà mực, thái Úy tháo giầy như thế? Hạ Tri Chương đáp: - Người ấy họ Lý tên Bạch, được phong chức Hàn lâm đại học sĩ. Đấy là một bặc thần tiên trên trời sai xuống để giúp Thiên Triều. Phiên sứ về đến kinh đô tâu lên vua Bột Hải rõ. Khả Độc nghe nói có thần tiên giáng trần giúp sức nên khiếp sợ, vội vã viết thư sai người đem lễ vật triều cống như trước. Vì vậy, vua Huyền Tông trọng đãi Lý Bạch vô cùng hậu, muốn gia phong cho Lý Bạch thêm chức tước, nhưng Lý Bạch thưa: - Tâu Bệ hạ, đối với hạ thần không gì thích thú bằng tiêu dao nhàn hạ,cúi xin bệ hạ cho thần giữ chức học sĩ, du ngoạn khắp nơi, hễ gặp rượu ngon là uống là muôn vàn đội ơn rồi. Lúc bấy giờ, hoàng cung đến mùa mẫu đơn đua nở, khoe sắc đủ màu. Hoa này cảu Dương Châu đem hiến, gồm bốn thứ là: Đại Hồng, Thâm Tử, Thiển Hồng và Thông Bạch. Vua Huyền Tông truyền rời những hoa ấy đến điện Trầm Hương để ngắm cùng phi, thưởng hoa dưới nguyệt, lại đòi bọn đệ tử Lê Viên đến để hoà nhạc cho vui. Vì chán nghe những bản nhạc cũ, nên vua phán rằng: - Ngắm cung phi, xem hoa đẹp, không nên nghe mãi những khúc nhạc cổ nhàm tai mãi. Vua truyền một con hát nổi tiếng là Lý Quy Niên đến triệu Lý Bạch vào cung. Lý Quy Niên tìm mãi mới thấy Lý Bạch đang say mèm trong quán rượu. Lý Bạch ngủ ly bì, chẳng kể đến lệnh vua chúa... Lý Quy Niên thấy thế, gọi tùy tùng leo lên lầu khiêng Lý Bạch xuống rồi đặt lên lưng ngựa, đỡ hai bên, cho ngựa chở thẳng về trước lầu Ngũ Phượng, vào tâu cho vua Huyền Tông rõ. Nhà vua đặc cách cho Lý Bạch được đi ngựa thẳng vào điện Trầm Hương, rồi cùng các Quý Phi lên lầu. Vào đến điện Trầm Hương, Lý Bạch vẫn còn say mê mệt. Quý Phi tâu: - Thần thiếp nghe người ta nói nước lạnh có thể giải rượu được.
Vua liền sai thị vệ đem khăn nước lạnh đặt vào đầu Lý Bạch. Lý Bạch tỉnh rượu vội vàng quỳ mọp xuống đất xin tha tội.
Nhà vua đỡ Lý Bạch dậy và nói: - Nay trẫm cùng Phi tử thưởng hoa, muốn có khúc nhạc mới, nên triệu khanh đến viết khúc ca theo điệu thanh bình. Thấy bút mực đã đặt sẵn trước mặt, Lý Bạch bèn viết thơ ngay:
I. Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung
Xuân phong phất hạm, lộ hoa nùng
Nhược phi quần ngọc sơn đầu kiến
Hội hướng dao đài nguyệt hạ phùng.

Tạm dịch:
Mặt tưởng là hoa, áo ngỡ mây,
Hiên sương phơ phất gió xuân bay.
Nếu không gặp gỡ trên Quần Ngọc,
Dưới nguyệt Dao Đài sẽ gặp ai.

II Nhất chi hồng diễm lộ ngưng hương,
Vân vũ Vu sơn uổng đoạn trường.
Tá vấn Hán cung thuỳ đắc tự,
Khả lân Phi Yến ỷ tân trang.

Tạm dịch:
Một nhánh hồng tươi, móc đọng sương,
Mây mưa Vu giúp uổng sầu thương.
Hỏi nơi cung Hán ai người giống ?
Phi Yến còn nhờ mới điểm trang.

III. Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoan,
Trường đắc quân vương đới tiếu khan.
Giải thích xuân phong vô hạn hận,
Trầm Hương đình bắc ỷ lan can.

Tạm dịch:
Hoa trời, sắc nước thảy đều vui,
Luôn được vua trông với nụ cười.
Mối hận gió xuân bay thoảng hết, Bên đình, thơ thẩn tựa hiên chơi.

Lý Bạch viết xong dâng lên, Huyền Tông thấy ý tứ tuyệt trần, trong lòng phơi phới, truyền cho Lý Quy Niên theo điệu mà hát.
Quý Phi lạy tạ ơn vua đã chiếu cố đến mình. Huyền Tông nói: - Không phải tạ ơn trẫm, khanh nên tạ ơn học sĩ mới phải. Quý Phi lấy chén ngọc rót đầy chén rượu, sai cung nữ mời Lý Bạch. Từ đó trong cung lúc nào có yến tiệc cũng mời Lý Bạch đến. Quý Phi yêu mến Lý Bạch khác thường, mối tình tài tử giai nhân chớm nở. Nhưng nhà thơ tài hoa có vẻ lạnh nhạt trước mối tình thầm kín ấy, Quý Phi yêu mà không được yêu lại nên bực mình sinh ra thù oán. Lúc bấy giờ có Cao Lực Sĩ lòng dạ vốn ấp ủ mối thù với Lý Bạch bắt tháo giày thuở nọ. Một hôm Cao Lực Sĩ hỏi Quý Phi: - Bài thơ của Lý Bạch lẽ ra Quý Phi nên ghét mới phải, cớ sao lại khen ngợi thế? Quý Phi hỏi: - Tại sao nhà ngươi cho là phải oán ghét? Cao Lực Sĩ nói: - Câu: "Khả lân Phi Yến ỷ tân trang" hàm một ý châm biếm vô cùng. Chắc nương nương cũng hiểu rõ Triệu Phi Yến khi xưa là bậc hậu phi của vua Hán Thành đế, được nhà vua quý chuộng hơn cả. Phi Yến lại say mê Xích Phượng và cùng người ấy tư thông. Chẳng may vua Thành đế biết được, bắt gặp Xích Phượng trong tủ áo, đem giết ngay trước mặt Phi Yến. Nay Lý Bạch đem Phi Yến sánh ngang với nương nương thì đó chính là một lời nhạo báng bóng bảy.
Thuở ấy, Quý Phi, Huyền Tông nhận An Lộc Sơn làm con nuôi cho tự do vào cung. An Lộc Sơn và Quý Phi ngang tuổi nhau. Có lần một ngày Quý Phi ba lần thân hành tắm rửa cho con nuôi trước mặt Huyền Tông, mà nhà vua cũng không nói gì cả.
Quý Phi thấy có lý bèn tâu với Huyền Tông rằng Lý Bạch ngạo nghễ không giữ nghi lễ quân vương.
Lý Bạch biết Cao Lực Sĩ và Quý Phi có ý nói xấu mình, nên xin vua cho đi rong chơi sông núi. Huyền Tông an ủi: - Khanh là kẻ có tài năng lỗi lạc, thanh bạch. Nay tạm cho khangh đuược toại nguyện. Vậy khanh có cần gì trẫm sẽ ban cấp cho. Lý Bạch tâu: - Hạ thần không cần gì cả, ngoài một món tiền để uống rượu thôi. Do đó, vua Huyền Tông cho Lý Bạch một đạo chỉ dụ, đi đến đâu uống rượu cũng không phải trả tiền. Số tiền ấy sẽ do ngân khố thanh toán.
Nhà vua lại ban thêm vàng bạc, mũ áo và cấp cho mười hai người tùy tùng đi theo.

Hồi đó xem trọn một bộ phim nói về Dương Quý Phi, DQP trong phim rất đáng yêu chứ không như vầy. Mà sao Dương chết rồi mà truyện còn dài quá vậy, Lý Bạch gì nữa.. Cơ mà hôm nay đọc tới đây thôi chi chít nhức mắt quá @@
Quỳnh có vẻ rành rẽ quá hen:x :x
 
Lan Thanh mấy cái này là thơ và nhận định của các học giả đương thời về Dương Quý Phi thôi ,còn có bài thơ Thượng Dương Nhân nữa

Thượng Dương nhân

Người cung Thượng Dương
上陽人,上陽人,
紅顏暗老白發新。
綠衣監使守宮門,
一閉上陽多少春。
玄宗末歲初選入,
入時十六今六十。
同時采擇百余人,
零落年深殘此身。
憶昔吞悲別親族,
扶入車中不教哭。
皆雲入內便承恩,
臉似芙蓉胸似玉。
未容君王得見面,
已被楊妃遙側目。
妒令潛配上陽宮,
一生遂向空房宿。
宿空房,秋夜長,
夜長無寐天不明。
耿耿殘燈背壁影,
蕭蕭暗雨打窗聲。
春日遲,
日遲獨坐天難暮。
宮鶯百囀愁厭聞,
梁燕雙棲老休妒。
鶯歸燕去長悄然,
春往秋來不記年。
唯向深宮望明月,
東西四五百回圓。
今日宮中年最老,
大家遙賜尚書號。
小頭鞋履窄衣裳,
青黛點眉眉細長。
外人不見見應笑,
天寶末年時世妝。
上陽人,
苦最多。
少亦苦,
老亦苦。
少苦老苦兩如何?
君不見昔時呂向美人賦,
又不見今日上陽宮人白發歌!

Thượng Dương
icon_popup_comment.gif
nhân! Thượng Dương nhân!
Hồng nhan ám lão, bạch phát tân.
Lục y giám sử thủ cung môn,
Nhất bế Thượng Dương đa thiểu xuân?
Huyền Tông
icon_popup_comment.gif
mạt tuế sơ tuyển nhập
Nhập thời thập lục, kim lục thập,
Đồng thời thái trạch bách dư nhân,
Linh lạc niên thâm tàn thử thân.
Ức tích thôn bi biệt thân tộc,
Phù nhập xa trung bất giao khốc.
Giai vân nhập nội tiện thừa ân,
Kiểm tự phù dung, hung tự ngọc
Vị dung quân vương đắc kiến diện,
Dĩ bị Dương phi
icon_popup_comment.gif
dao trắc mục
Đố linh tiềm phối Thượng Dương cung,
Nhất sinh toại hướng không phòng túc.
Túc không phòng, thu dạ trường,
Dạ trường vô mỵ thiên bất minh.
Cảnh cảnh tàn đăng bối bích ảnh,
Tiêu tiêu ám vũ đả song thanh.
Xuân nhật trì,
Nhật trì độc toạ thiên nan mộ,
Cung oanh bách chuyển sầu yếm văn
Lương yến song thê lão hưu đố,
Oanh quy yến khứ trường tiễu nhiên,
Xuân vãng thu lai bất ký niên,
Duy hướng thâm cung vọng minh nguyệt.
Đông tây tứ ngũ bách hồi viên
icon_popup_comment.gif
.
Kim nhật cung trung niên tối lão,
Đại gia dao tứ thượng thư hiệu,
Tiểu đầu hài lý trách y thường,
Thanh đại điểm mi, mi tế trường.
Ngoại nhân bất kiến, kiến ưng tiếu,
Thiên Bảo
icon_popup_comment.gif
mạt niên thời thế trang!
Thượng Dương nhân,
Khổ tối đa.
Thiếu diệc khổ,
Lão diệc khổ.
Thiếu khổ, lão khổ lưỡng như hà?
Quân bất kiến tích thời Lã Thượng Mỹ nhân phú
icon_popup_comment.gif
,
Hựu bất kiến kim nhật Thượng Dương cung nhân bạch phát ca.

Người Thượng Dương, người Thượng Dương,
Má phấn phai hồng mái tóc sương,
Thái giám cắt vào việc giữ cửa,
Đã mấy mươi xuân chịu bẽ bàng.
Năm ngoái Huyền Tông mới kén vào,
Khi vào mười sáu, nay sáu mươi
Trăm người kén vào cung một lúc,
Mòn mỏi xuân xanh suốt cả đời.
Nhớ lúc ra đi biệt họ hàng,
Dìu lên xe tiễn cấm buồn thương,
Bảo vào cung cấm, được sung sướng,
Mày mặt tươi hồng, ngực nở nang.
Chưa được đức vua nhìn thấy mặt,
Đã bị Dương Phi để ý ngầm.
Ghen bắt đầy vào cung Thượng Dương,
Phòng không từ đó sống âm thầm.
Sống phòng không, đêm thu dài,
Đêm dài không ngủ giời tối hoài.
Bên ngọn đèn tàn ngơ ngẩn bóng,
Tí tách mưa đêm dội cửa ngoài.
Ngày xuân chẩy,
Ngày chẩy, võ võ trời lâu tối,
Oanh vàng hát mãi chẳng buồn nghe,
Trông én đậu đôi già chẳng ngơi
Oanh đi én lại bao âm thầm
Xuân tới thu qua chẳng nhớ năm
Cung sâu chỉ biết nhìn trăng sáng
Tình tuần trăng đã bốn năm trăm
Ngay nay trong cung tuổi già nhất
Ai nấy gọi đùa cụ Thượng thư
Giày dép đi chật, áo quần hẹp
Sáp xanh tô mày, mày nhỏ sẹp,
Người ngoài không nhìn, nhìn phải cười,
Cuối đời Thiên Bảo thế mới đẹp.
Người Thượng Dương,
Khổ rất nhiều.
Trẻ cũng khổ,
Già cũng khổ.
Trẻ khổ già khổ đều ra sao ?
Anh không thấy bài phú "Mỹ nhân" xưa kia của Lã Thượng,
Lại không thấy bài ca "người Thượng Dương tóc bạc" ngày nay ru?
 
Lan Thanh mấy cái này là thơ và nhận định của các học giả đương thời về Dương Quý Phi thôi ,còn có bài thơ Thượng Dương Nhân nữa

Thượng Dương nhân

Người cung Thượng Dương
上陽人,上陽人,
紅顏暗老白發新。
綠衣監使守宮門,
一閉上陽多少春。
玄宗末歲初選入,
入時十六今六十。
同時采擇百余人,
零落年深殘此身。
憶昔吞悲別親族,
扶入車中不教哭。
皆雲入內便承恩,
臉似芙蓉胸似玉。
未容君王得見面,
已被楊妃遙側目。
妒令潛配上陽宮,
一生遂向空房宿。
宿空房,秋夜長,
夜長無寐天不明。
耿耿殘燈背壁影,
蕭蕭暗雨打窗聲。
春日遲,
日遲獨坐天難暮。
宮鶯百囀愁厭聞,
梁燕雙棲老休妒。
鶯歸燕去長悄然,
春往秋來不記年。
唯向深宮望明月,
東西四五百回圓。
今日宮中年最老,
大家遙賜尚書號。
小頭鞋履窄衣裳,
青黛點眉眉細長。
外人不見見應笑,
天寶末年時世妝。
上陽人,
苦最多。
少亦苦,
老亦苦。
少苦老苦兩如何?
君不見昔時呂向美人賦,
又不見今日上陽宮人白發歌!

Thượng Dương
icon_popup_comment.gif
nhân! Thượng Dương nhân!
Hồng nhan ám lão, bạch phát tân.
Lục y giám sử thủ cung môn,
Nhất bế Thượng Dương đa thiểu xuân?
Huyền Tông
icon_popup_comment.gif
mạt tuế sơ tuyển nhập
Nhập thời thập lục, kim lục thập,
Đồng thời thái trạch bách dư nhân,
Linh lạc niên thâm tàn thử thân.
Ức tích thôn bi biệt thân tộc,
Phù nhập xa trung bất giao khốc.
Giai vân nhập nội tiện thừa ân,
Kiểm tự phù dung, hung tự ngọc
Vị dung quân vương đắc kiến diện,
Dĩ bị Dương phi
icon_popup_comment.gif
dao trắc mục
Đố linh tiềm phối Thượng Dương cung,
Nhất sinh toại hướng không phòng túc.
Túc không phòng, thu dạ trường,
Dạ trường vô mỵ thiên bất minh.
Cảnh cảnh tàn đăng bối bích ảnh,
Tiêu tiêu ám vũ đả song thanh.
Xuân nhật trì,
Nhật trì độc toạ thiên nan mộ,
Cung oanh bách chuyển sầu yếm văn
Lương yến song thê lão hưu đố,
Oanh quy yến khứ trường tiễu nhiên,
Xuân vãng thu lai bất ký niên,
Duy hướng thâm cung vọng minh nguyệt.
Đông tây tứ ngũ bách hồi viên
icon_popup_comment.gif
.
Kim nhật cung trung niên tối lão,
Đại gia dao tứ thượng thư hiệu,
Tiểu đầu hài lý trách y thường,
Thanh đại điểm mi, mi tế trường.
Ngoại nhân bất kiến, kiến ưng tiếu,
Thiên Bảo
icon_popup_comment.gif
mạt niên thời thế trang!
Thượng Dương nhân,
Khổ tối đa.
Thiếu diệc khổ,
Lão diệc khổ.
Thiếu khổ, lão khổ lưỡng như hà?
Quân bất kiến tích thời Lã Thượng Mỹ nhân phú
icon_popup_comment.gif
,
Hựu bất kiến kim nhật Thượng Dương cung nhân bạch phát ca.

Người Thượng Dương, người Thượng Dương,
Má phấn phai hồng mái tóc sương,
Thái giám cắt vào việc giữ cửa,
Đã mấy mươi xuân chịu bẽ bàng.
Năm ngoái Huyền Tông mới kén vào,
Khi vào mười sáu, nay sáu mươi
Trăm người kén vào cung một lúc,
Mòn mỏi xuân xanh suốt cả đời.
Nhớ lúc ra đi biệt họ hàng,
Dìu lên xe tiễn cấm buồn thương,
Bảo vào cung cấm, được sung sướng,
Mày mặt tươi hồng, ngực nở nang.
Chưa được đức vua nhìn thấy mặt,
Đã bị Dương Phi để ý ngầm.
Ghen bắt đầy vào cung Thượng Dương,
Phòng không từ đó sống âm thầm.
Sống phòng không, đêm thu dài,
Đêm dài không ngủ giời tối hoài.
Bên ngọn đèn tàn ngơ ngẩn bóng,
Tí tách mưa đêm dội cửa ngoài.
Ngày xuân chẩy,
Ngày chẩy, võ võ trời lâu tối,
Oanh vàng hát mãi chẳng buồn nghe,
Trông én đậu đôi già chẳng ngơi
Oanh đi én lại bao âm thầm
Xuân tới thu qua chẳng nhớ năm
Cung sâu chỉ biết nhìn trăng sáng
Tình tuần trăng đã bốn năm trăm
Ngay nay trong cung tuổi già nhất
Ai nấy gọi đùa cụ Thượng thư
Giày dép đi chật, áo quần hẹp
Sáp xanh tô mày, mày nhỏ sẹp,
Người ngoài không nhìn, nhìn phải cười,
Cuối đời Thiên Bảo thế mới đẹp.
Người Thượng Dương,
Khổ rất nhiều.
Trẻ cũng khổ,
Già cũng khổ.
Trẻ khổ già khổ đều ra sao ?
Anh không thấy bài phú "Mỹ nhân" xưa kia của Lã Thượng,
Lại không thấy bài ca "người Thượng Dương tóc bạc" ngày nay ru?

Nói chung mặc dù chẳng có hiểu lắm nhưng cũng cảm ơn Quỳnh nha:D
 
Lan Thanh mình cũng không hiểu rõ lắm nhưng nói chung bài thơ này nói về người cung nữ từ khi còn xuân trẻ đến khi về già mà vẫn sống lẻ loi , chưa từng một lần được diện kiến long nhan. Ở Việt Nam mình có bài thơ Cung oán ngâm khúc cũng viết về chủ đề này:)
Cung oán ngâm khúc

Trải vách quế gió vàng hiu hắt,
Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng,
Oán chi những khách tiêu phòng,
Mà xui phận bạc nằm trong má đào.

Duyên đã may cớ sao lại rủi,
Nghĩ nguồn cơn dở dói sao đang,
Vì đâu nên nỗi dở dang,
Nghĩ mình, mình lại thêm thương nổi mình.

Trộm nhớ thuở gây hình tạo hoá,
Vẽ phù dung một đoá khoe tươi,
Nụ hoa chưa mỉm miệng cười,
Gấm nàng Ban đã lạt mùi thu dung

Áng đào kiểm đâm bông não chúng,
Khoé thu ba rợn sóng khuynh thành,
Bóng gương lấp loáng trong mành,
Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa.

Chìm đáy nước cá lừ đừ lặn,
Lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa,
Hương trời đắm nguyệt say hoa,
Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình.

Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương,
Cờ tiên rượu thánh ai đang,
Lưu Linh, Đế Thích là làng tri âm.

Cầm điếm nguyệt phỏng tầm Tư Mã,
Địch lầu thu đường gã Tiêu Lang,
Dẫu nghề tay múa miệng xang,
Thiên tiên cũng xếp nghê thường trong trăng.

Tài sắc đã vang lừng trong nước,
Bướm ong còn xao xác ngoài hiên,
Tai nghe nhưng mắt chưa nhìn,
Bệnh Tề Tuyên đã nổi lên đùng đùng.

Hoa xuân nọ còn phong nộn nhị,
Nguyệt thu kia chưa hé hàn quang,
Hồng lâu còn khóa then sương,
Thâm khuê còn rấm mùi hương khuynh thành.

Làng cung kiếm rắp ranh bắn sẻ,
Khách công hầu ngấp nghé mong sao,
Vườn xuân bướm hãy còn rào,
Thấy hoa mà chẳng lối vào tìm hương.

Gan chẳng đá khôn đường khá chuyển,
Mặt phàm kia dễ đến Thiên Thai,
Hương trời sá động trần ai,
Dẫu vàng nghìn lạng dễ cười một khi.

Ngẫm nhân sự cớ gì ra thế,
Sợi xích thằng chi để vướng chân,
Vắt tay nằm nghĩ cơ trần,
Nước dương muốn rẩy nguội dần lửa duyên.

Kìa thế cục như in giấc mộng,
Máy huyền vi mở đóng khôn lường,
Vẻ chi ăn uống sự thường,
Cũng còn tiền định khá thương lọ là.

Đòi những kẻ thiên ma bách chiết,
Hình thì còn bụng chết đòi nau,
Thảo nào khi mới chôn nhau,
Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra!

Khóc vì nỗi thiết tha sự thế,
Ai bày trò bãi bể nương dâu,
Trắng răng đến thuở bạc đầu,
Tử, sinh, kinh, cụ làm nau mấy lần.

Cuộc thành bại hầu cằn mái tóc,
Lớp cùng thông như đúc buồng gan,
Bệnh trần đòi đoạn tâm toan,
Lửa cơ đốt ruột, dao hàn cắt da.

Gót danh lợi bùn pha sắc xám,
Mặt phong trần nắng rám mùi dâu,
Nghĩ thân phù thế mà đau,
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê.

Mùi tục vị lưỡi tê tân khổ,
Đường thế đồ gót rỗ kỳ khu,
Sóng cồn cửa bể nhấp nhô,
Chiếc thuyền bào ảnh lô xô mặt ghềnh.

Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán,
Chết đuối người trên cạn mà chơi.
Lò cừ nung nấu sự đời,
Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương.

Đền vũ tạ nhện giăng cửa mốc,
Thú ca lâu dế khóc canh dài,
Đất bằng bỗng rấp chông gai,
Ai đem nhân ảnh nhuốm mùi tà dương.

Mồi phú quí dữ làng xa mã,
Bả vinh hoa lừa gã công khanh,
Giấc Nam Kha khéo bất bình,
Bừng con mắt dậy thấy mình tay không.

Sân đào lý mây lồng man mác,
Nền đỉnh chung nguyệt gác mơ màng.
Cánh buồm bể hoạn mênh mang,
Cái phong ba khéo cợt phường lợi danh.

Quyền họa phúc trời tranh mất cả,
Chút tiện nghi chẳng trả phần ai,
Cái quay búng sẵn lên trời,
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm.

Hình mộc thạch vàng kim ố cổ,
Sắc cầm ngư ủ vũ ê phong,
Tiêu điều nhân sự đã xong,
Sơn hà cũng ảo, côn trùng cũng hư.

Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ,
Quán thu phong đứng rũ tà huy.
Phong trần đến cả sơn khê,
Tang thương đến cả hoa kia cỏ này.

Tuồng ảo hóa đã bày ra đấy,
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau.
Trăm năm còn có gì đâu,
Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh rì!

Mùi tục lụy đường kia cay đắng,
Vui chi mà đeo đẳng trần duyên.
Cái gương nhân sự chiền chiền,
Liệu thân này với cơ thiền phải nao.

Thà mượn thú tiêu dao cửa Phật,
Mối thất tình quyết dứt cho xong,
Đa mang chi nữa đèo bòng,
Vui gì thế sự mà mong nhân tình!

Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa,
Mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên.
Thoát trần một gót thiên nhiên,
Cái thân ngoại vật là tiên trong đời.

Ý cũng rắp ra ngoài đào chú,
Quyết lộn vòng phu phụ cho cam.
Ai ngờ trời chẳng cho làm,
Quyết đem dây thắm mà giam bông đào.

Hẳn túc trái làm sao đây tá,
Hay tiền nhân hậu quả xưa kia.
Hay thiên cung có điều gì,
Xuống trần mà trả nợ đi cho rồi.

Kìa điểu thú là loài vạn vật,
Dẫu vô tri cũng bắt đèo bòng.
Có âm dương, có vợ chồng,
Dẫu từ thiên địa cũng vòng phu thê.

Đường tác hợp trời kia run rủi,
Trốn làm sao cho khỏi nhân tình.
Thôi thôi ngoảnh mặt làm thinh,
Thử xem con tạo gieo mình nơi nao?

Tay Nguyệt lão khờ sao có một,
Bỗng tơ tình vướng gót cung phi.
Cái đêm hôm ấy đêm gì,
Bóng dương lồng bóng đồ my trập trùng.

Chồi thược dược mơ mòng thụy vũ,
Đóa hải đường thức ngủ xuân tiêu.
Cành xuân hoa chúm chím chào,
Gió đông thôi đã cợt đào ghẹo mai.

Xiêm nghê nọ tả tơi trước gió,
Áo vũ kia lấp ló trong trăng.
Sênh ca mấy khúc vang lừng,
Cái thân Tây Tử lên chừng điện Tô.

Đệm hồng thúy thơm tho mùi xạ,
Bóng bội hoàn lấp ló trăng thanh,
Mây mưa mấy giọt chung tình,
Đình trầm hương khóa một cành mẫu đơn.

Tiếng thánh thót cung đàn thúy địch,
Giọng nỉ non ngón địch đan trì.
Càng đàn càng địch càng mê,
Càng gay gắt điệu, càng tê tái lòng.

Mày ngài lẫn mặt rồng lồ lộ,
Sắp song song đôi lứa nhân duyên.
Hoa thơm muôn đội ơn trên,
Cam công mang tiếng thuyền quyên với đời.

Trên chín bệ mặt trời gang tấc,
Chữ xuân riêng sớm chực trưa chầu.
Phải duyên hương lửa cùng nhau,
Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào.

Khi ấp mận ôm đào gác nguyệt,
Lúc cười sương cợt tuyết đền phong.
Đóa lê ngon mắt cửu trùng,
Tuy mày điểm nhạt nhưng lòng cũng xiêu.

Vẻ vưu vật trăm chiều chải chuốt,
Lòng quân vương chi chút trên tay.
Má hồng không thuốc mà say,
Nước kia muốn đổ thành này muốn long.

Vườn Tây Uyển khúc trùng Thanh Dạ,
Gác Lâm Xuân điệu ngã Đình Hoa.
Thừa ân một giấc canh tà,
Tờ mờ nét ngọc lập lòa vẻ son.

Trên trướng gấm chí tôn vòi vọi,
Những khi nào gần gũi quân vương.
Dẫu mà tay có nghìn vàng,
Đố ai mua được một tràng mộng xuân.

Thôi cười nọ lại nhăn mày liễu,
Ghẹo hoa kia lại diễu gót sen.
Thân này uốn éo vì duyên,
Cũng cam một tiếng thuyền quyên với đời.

Lan mấy đóa lạc loài sơn dã,
Uổng mùi hương vương giả lắm thay.
Gẫm như cân trất duyên này,
Cam công đặt cái khăn này tắc ơ.

Tranh tỷ dực nhìn ưa chim nọ,
Đồ liên chi lần trỏ hoa kia.
Chữ đồng lấy đấy làm ghi,
Mượn điều thất tịch mà thề bách niên.

Hạt mưa đã lọt miền đài các,
Những mừng thầm cá nước duyên may.
Càng lâu càng lắm điều hay,
Cho cam công kẻ nhúng tay thùng chàm.

Ai ngờ bỗng mỗi năm một nhạt,
Nguồn ân kia chẳng tát mà vơi.
Suy di đâu biết cơ trời,
Bỗng không mà hóa ra người vị vong.

Đuốc vương giả chí công là thế,
Chẳng soi cho đến khóe âm nhai.
Muôn hồng nghìn tía đua tươi,
Chúa xuân nhìn hái một hai bông gần.

Vốn đã biết cái thân câu chõ,
Cá no mồi cũng khó nhử lên.
Ngán thay cái én ba nghìn,
Một cây cù mộc biết chen cành nào!

Song đã cậy má đào chon chót,
Hẳn duyên tươi phận tốt hơn người.
Nào hay con tạo trêu ngươi,
Hang sâu chút hé mặt trời lại râm.

Trong cung quế âm thầm chiếc bóng,
Đêm năm canh trông ngóng lần lần.
Khoảnh làm chi bấy chúa xuân,
Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi.

Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ vũ,
Gác thừa lương thức ngủ thu phong.
Phòng tiêu lạnh ngắt như đồng,
Gương loan bẻ nửa, dải đồng xé đôi.

Chiều ủ dột giấc mai khuya sớm,
Vẻ bâng khuâng hồn bướm vẩn vơ.
Thâm khuê vắng ngắt như tờ,
Cửa châu gió lọt, rèm ngà sương gieo.

Ngấn phượng liễn chòm rêu lỗ chỗ,
Dấu dương xa đám cỏ quanh co.
Lầu Tần chiều nhạt vẻ thu,
Gối loan tuyết đóng, chăn cù giá đông.

Ngày sáu khắc tin mong nhạn vắng,
Đêm năm canh tiếng lắng chuông rền.
Lạnh lùng thay giấc cô miên,
Mùi hương tịch mịch, bóng đèn thâm u.

Tranh biếng ngắm trông đồ tố nữ,
Mặt buồn trông trên cửa nghiêm lâu.
Một mình đứng tủi ngồi sầu,
Đã than với nguyệt lại rầu với hoa.

Buồn mọi nỗi lòng đà khắc khoải,
Ngán trăm chiều bước lại ngẩn ngơ.
Hoa này bướm nỡ thờ ơ,
Để gầy bông thắm để xơ nhụy vàng.

Đêm năm canh lần nương vách quế,
Cái buồn này ai dễ giết nhau.
Giết nhau chẳng cái lưu cầu,
Giết nhau bằng cái u sầu độc chưa!

Tay nguyệt lão chẳng xe thì chớ,
Xe thế này có dở dang không ?
Đang tay muốn dứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra!

Nào dạo lối vườn hoa năm ngoái,
Đóa hồng đào hái buổi còn xanh.
Trên gác phượng, dưới lầu oanh,
Gối du tiên hãy rành rành song song.

Bây giờ đã ra lòng rẻ rúng.
Để thân này cỏ úng tơ mành.
Đông Quân sao khéo bất tình,
Cành hoa tàn nguyệt, bực mình hoài xuân.

Nào lúc tựa lầu Tần hôm nọ,
Cành liễu mành bẻ thuở đương tơ.
Khi trướng ngọc, lúc rèm ngà,
Mảnh xuân y hãy sờ sờ dấu phong.

Bây giờ đã ra lòng ruồng rẫy,
Để thân này nước chảy hoa trôi.
Hóa công sao khéo trêu ngươi,
Bóng đèn tà nguyệt tẻ mùi ký sinh.

Cảnh hoa lạc nguyệt minh hôm ấy,
Lửa hoàng hôn như cháy tấm son.
Hoàng hôn thôi lại hôn hoàng,
Nguyệt hoa thôi lại thêm buồn nguyệt hoa!

Buồn vì nỗi nguyệt tà ai trọng,
Buồn vì điều hoa rụng ai nhìn.
Tình buồn cảnh lại vô duyên,
Tình trong cảnh ấy, cảnh bên tình này.

Khi trận gió lung lay cành bích,
Nghe rì rầm tiếng mách ngoài xa.
Mơ hồ nghĩ tiếng xe ra,
Đốt phong hương hả mà hơ áo tàn.

Ai ngờ tiếng dế than ri rỉ,
Giọng bi thu gọi kẻ cô phòng.
Vắng tanh nào thấy vân mồng,
Hơi thê lương lạnh ngắt song phi huỳnh.

Khi bóng nguyệt chênh vênh trước ốc,
Nghe vang lừng tiếng giục bên tai:
Đè chừng nghĩ tiếng tiểu đòi,
Nghiêng bình phấn mốc mà nhồi má nheo.

Ai ngờ tiếng quyên kêu ra rả,
Điệu thương xuân khóc ả sương khuệ
Lạnh lùng nào thấy ỏ ê,
Khí bi thu sực nức hè lạc hoa.

Tiếng thúy điện cười già ra gắt,
Mùi quyền môn thắm rất nên phai.
Nghĩ nên tiếng cửa quyền ôi,
Thì thong thả vậy cũng thôi một đời.

Ví sớm biết lòng trời đeo đẳng,
Dẫu thuê tiền cũng chẳng mang tình.
Nghĩ mình lại ngán cho mình,
Cái hoa đã trót gieo cành biết sao!

Miếng cao lương phong lưu nhưng lợm,
Mùi hoắc lê thanh đạm mà ngon.
Cùng nhau một giấc hoành môn,
Lau nhau ríu rít cò con cũng tình.

Ví sớm biết phận mình ra thế,
Dải kết điều ỏe ọe làm chi.
Thà rằng cục mịch nhà quê,
Dầu lòng nũng nịu nguyệt kia hoa này.

Chiều tịch mịch đã gầy bóng thỏ,
Vẻ tiêu tao lại võ hoa đèn.
Muốn đem ca tiếu giải phiền,
Cười nên tiếng khóc, hát nên giọng sầu.

Ngọn tâm hỏa đốt dàu nét liễu,
Giọt hồng băng thấm ráo làn son.
Lại buồn đến cảnh con con,
Trà chuyên nước nhất, hương đùn khói đôi.

Trong gang tấc mặt trời xa bấy,
Phận hẩm hiu nhường ấy vì đâu?
Sinh ly đòi rất thời Ngâu,
Một năm còn thấy mặt nhau một lần.

Huống chi cũng lạm phần son phấn,
Luống năm năm chực phận buồng không.
Khéo vô duyên bấy cửu trùng,
Son nào nhuộm được má hồng cho tươi.

Vườn thượng uyển hoa cười với nắng,
Lối đi về ai chẳng chiều ong.
Doành Nhâm một dải nông nông,
Bóng dương bên ấy đứng trông bên này.

Tình rầu rĩ làm ngây nhĩ mục,
Chốn phòng không như giục mây mưa.
Giấc chiêm bao những đêm xưa,
Giọt mưa cửu hạn còn mơ đến rày.

Trên chín bệ có hay chăng nhẽ,
Khách quần thoa mà để lạnh lùng!
Thù nhau ru hỡi đông phong,
Góc vườn đãi nắng cầm bông hoa đào.

Tay tạo hóa cớ sao mà độc,
Buộc người vào kim ốc mà chơi.
Chống tay ngồi ngẫm sự đời,
Muốn kêu một tiếng cho dài kẻo căm!

Nơi lạnh lẽo nơi xem gần gặn,
Há phai son lạt phấn ru mà.
Trêu ngươi chi bấy trăng già,
Trao con chỉ thắm mà ra tơ mành!

Lòng ngán ngẫm buồn tênh mọi nỗi,
Khúc sầu tràng bối rối đường tơ.
Ngọn đèn phòng động đêm xưa,
Đài hoa tịnh đế trơ trơ chưa tàn.

Mà lượng thánh đa đoan kíp bấy,
Bỗng ra lòng ruồng rẫy vì đâu?
Bõ già tỏ nỗi xưa sau,
Chẳng đem nỗi ấy mà tâu ngự cùng.

Đêm phong vũ lạnh lùng có một,
Giọt ba tiêu thánh thót cầm canh.
Bên tường thấp thoáng bóng huỳnh,
Vách sương hót gió đèn xanh lờ mờ.

Mắt chưa nhắp đồng hồ đã cạn,
Cảnh tiêu điều ngao ngán dường bao.
Buồn này mới gọi buồn sao?
Một đêm nhớ cảnh biết bao nhiêu tình.

Bóng câu thoáng bên mành mấy nỗi,
Những hương sầu phấn tủi bao xong.
Phòng khi động đến cửu trùng,
Giữ sao cho được má hồng như xưa.
 
Lan Thanh mình cũng không hiểu rõ lắm nhưng nói chung bài thơ này nói về người cung nữ từ khi còn xuân trẻ đến khi về già mà vẫn sống lẻ loi , chưa từng một lần được diện kiến long nhan. Ở Việt Nam mình có bài thơ Cung oán ngâm khúc cũng viết về chủ đề này:)
Cung oán ngâm khúc

Trải vách quế gió vàng hiu hắt,
Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng,
Oán chi những khách tiêu phòng,
Mà xui phận bạc nằm trong má đào.

Duyên đã may cớ sao lại rủi,
Nghĩ nguồn cơn dở dói sao đang,
Vì đâu nên nỗi dở dang,
Nghĩ mình, mình lại thêm thương nổi mình.

Trộm nhớ thuở gây hình tạo hoá,
Vẽ phù dung một đoá khoe tươi,
Nụ hoa chưa mỉm miệng cười,
Gấm nàng Ban đã lạt mùi thu dung

Áng đào kiểm đâm bông não chúng,
Khoé thu ba rợn sóng khuynh thành,
Bóng gương lấp loáng trong mành,
Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa.

Chìm đáy nước cá lừ đừ lặn,
Lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa,
Hương trời đắm nguyệt say hoa,
Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình.

Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương,
Cờ tiên rượu thánh ai đang,
Lưu Linh, Đế Thích là làng tri âm.

Cầm điếm nguyệt phỏng tầm Tư Mã,
Địch lầu thu đường gã Tiêu Lang,
Dẫu nghề tay múa miệng xang,
Thiên tiên cũng xếp nghê thường trong trăng.

Tài sắc đã vang lừng trong nước,
Bướm ong còn xao xác ngoài hiên,
Tai nghe nhưng mắt chưa nhìn,
Bệnh Tề Tuyên đã nổi lên đùng đùng.

Hoa xuân nọ còn phong nộn nhị,
Nguyệt thu kia chưa hé hàn quang,
Hồng lâu còn khóa then sương,
Thâm khuê còn rấm mùi hương khuynh thành.

Làng cung kiếm rắp ranh bắn sẻ,
Khách công hầu ngấp nghé mong sao,
Vườn xuân bướm hãy còn rào,
Thấy hoa mà chẳng lối vào tìm hương.

Gan chẳng đá khôn đường khá chuyển,
Mặt phàm kia dễ đến Thiên Thai,
Hương trời sá động trần ai,
Dẫu vàng nghìn lạng dễ cười một khi.

Ngẫm nhân sự cớ gì ra thế,
Sợi xích thằng chi để vướng chân,
Vắt tay nằm nghĩ cơ trần,
Nước dương muốn rẩy nguội dần lửa duyên.

Kìa thế cục như in giấc mộng,
Máy huyền vi mở đóng khôn lường,
Vẻ chi ăn uống sự thường,
Cũng còn tiền định khá thương lọ là.

Đòi những kẻ thiên ma bách chiết,
Hình thì còn bụng chết đòi nau,
Thảo nào khi mới chôn nhau,
Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra!

Khóc vì nỗi thiết tha sự thế,
Ai bày trò bãi bể nương dâu,
Trắng răng đến thuở bạc đầu,
Tử, sinh, kinh, cụ làm nau mấy lần.

Cuộc thành bại hầu cằn mái tóc,
Lớp cùng thông như đúc buồng gan,
Bệnh trần đòi đoạn tâm toan,
Lửa cơ đốt ruột, dao hàn cắt da.

Gót danh lợi bùn pha sắc xám,
Mặt phong trần nắng rám mùi dâu,
Nghĩ thân phù thế mà đau,
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê.

Mùi tục vị lưỡi tê tân khổ,
Đường thế đồ gót rỗ kỳ khu,
Sóng cồn cửa bể nhấp nhô,
Chiếc thuyền bào ảnh lô xô mặt ghềnh.

Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán,
Chết đuối người trên cạn mà chơi.
Lò cừ nung nấu sự đời,
Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương.

Đền vũ tạ nhện giăng cửa mốc,
Thú ca lâu dế khóc canh dài,
Đất bằng bỗng rấp chông gai,
Ai đem nhân ảnh nhuốm mùi tà dương.

Mồi phú quí dữ làng xa mã,
Bả vinh hoa lừa gã công khanh,
Giấc Nam Kha khéo bất bình,
Bừng con mắt dậy thấy mình tay không.

Sân đào lý mây lồng man mác,
Nền đỉnh chung nguyệt gác mơ màng.
Cánh buồm bể hoạn mênh mang,
Cái phong ba khéo cợt phường lợi danh.

Quyền họa phúc trời tranh mất cả,
Chút tiện nghi chẳng trả phần ai,
Cái quay búng sẵn lên trời,
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm.

Hình mộc thạch vàng kim ố cổ,
Sắc cầm ngư ủ vũ ê phong,
Tiêu điều nhân sự đã xong,
Sơn hà cũng ảo, côn trùng cũng hư.

Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ,
Quán thu phong đứng rũ tà huy.
Phong trần đến cả sơn khê,
Tang thương đến cả hoa kia cỏ này.

Tuồng ảo hóa đã bày ra đấy,
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau.
Trăm năm còn có gì đâu,
Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh rì!

Mùi tục lụy đường kia cay đắng,
Vui chi mà đeo đẳng trần duyên.
Cái gương nhân sự chiền chiền,
Liệu thân này với cơ thiền phải nao.

Thà mượn thú tiêu dao cửa Phật,
Mối thất tình quyết dứt cho xong,
Đa mang chi nữa đèo bòng,
Vui gì thế sự mà mong nhân tình!

Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa,
Mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên.
Thoát trần một gót thiên nhiên,
Cái thân ngoại vật là tiên trong đời.

Ý cũng rắp ra ngoài đào chú,
Quyết lộn vòng phu phụ cho cam.
Ai ngờ trời chẳng cho làm,
Quyết đem dây thắm mà giam bông đào.

Hẳn túc trái làm sao đây tá,
Hay tiền nhân hậu quả xưa kia.
Hay thiên cung có điều gì,
Xuống trần mà trả nợ đi cho rồi.

Kìa điểu thú là loài vạn vật,
Dẫu vô tri cũng bắt đèo bòng.
Có âm dương, có vợ chồng,
Dẫu từ thiên địa cũng vòng phu thê.

Đường tác hợp trời kia run rủi,
Trốn làm sao cho khỏi nhân tình.
Thôi thôi ngoảnh mặt làm thinh,
Thử xem con tạo gieo mình nơi nao?

Tay Nguyệt lão khờ sao có một,
Bỗng tơ tình vướng gót cung phi.
Cái đêm hôm ấy đêm gì,
Bóng dương lồng bóng đồ my trập trùng.

Chồi thược dược mơ mòng thụy vũ,
Đóa hải đường thức ngủ xuân tiêu.
Cành xuân hoa chúm chím chào,
Gió đông thôi đã cợt đào ghẹo mai.

Xiêm nghê nọ tả tơi trước gió,
Áo vũ kia lấp ló trong trăng.
Sênh ca mấy khúc vang lừng,
Cái thân Tây Tử lên chừng điện Tô.

Đệm hồng thúy thơm tho mùi xạ,
Bóng bội hoàn lấp ló trăng thanh,
Mây mưa mấy giọt chung tình,
Đình trầm hương khóa một cành mẫu đơn.

Tiếng thánh thót cung đàn thúy địch,
Giọng nỉ non ngón địch đan trì.
Càng đàn càng địch càng mê,
Càng gay gắt điệu, càng tê tái lòng.

Mày ngài lẫn mặt rồng lồ lộ,
Sắp song song đôi lứa nhân duyên.
Hoa thơm muôn đội ơn trên,
Cam công mang tiếng thuyền quyên với đời.

Trên chín bệ mặt trời gang tấc,
Chữ xuân riêng sớm chực trưa chầu.
Phải duyên hương lửa cùng nhau,
Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào.

Khi ấp mận ôm đào gác nguyệt,
Lúc cười sương cợt tuyết đền phong.
Đóa lê ngon mắt cửu trùng,
Tuy mày điểm nhạt nhưng lòng cũng xiêu.

Vẻ vưu vật trăm chiều chải chuốt,
Lòng quân vương chi chút trên tay.
Má hồng không thuốc mà say,
Nước kia muốn đổ thành này muốn long.

Vườn Tây Uyển khúc trùng Thanh Dạ,
Gác Lâm Xuân điệu ngã Đình Hoa.
Thừa ân một giấc canh tà,
Tờ mờ nét ngọc lập lòa vẻ son.

Trên trướng gấm chí tôn vòi vọi,
Những khi nào gần gũi quân vương.
Dẫu mà tay có nghìn vàng,
Đố ai mua được một tràng mộng xuân.

Thôi cười nọ lại nhăn mày liễu,
Ghẹo hoa kia lại diễu gót sen.
Thân này uốn éo vì duyên,
Cũng cam một tiếng thuyền quyên với đời.

Lan mấy đóa lạc loài sơn dã,
Uổng mùi hương vương giả lắm thay.
Gẫm như cân trất duyên này,
Cam công đặt cái khăn này tắc ơ.

Tranh tỷ dực nhìn ưa chim nọ,
Đồ liên chi lần trỏ hoa kia.
Chữ đồng lấy đấy làm ghi,
Mượn điều thất tịch mà thề bách niên.

Hạt mưa đã lọt miền đài các,
Những mừng thầm cá nước duyên may.
Càng lâu càng lắm điều hay,
Cho cam công kẻ nhúng tay thùng chàm.

Ai ngờ bỗng mỗi năm một nhạt,
Nguồn ân kia chẳng tát mà vơi.
Suy di đâu biết cơ trời,
Bỗng không mà hóa ra người vị vong.

Đuốc vương giả chí công là thế,
Chẳng soi cho đến khóe âm nhai.
Muôn hồng nghìn tía đua tươi,
Chúa xuân nhìn hái một hai bông gần.

Vốn đã biết cái thân câu chõ,
Cá no mồi cũng khó nhử lên.
Ngán thay cái én ba nghìn,
Một cây cù mộc biết chen cành nào!

Song đã cậy má đào chon chót,
Hẳn duyên tươi phận tốt hơn người.
Nào hay con tạo trêu ngươi,
Hang sâu chút hé mặt trời lại râm.

Trong cung quế âm thầm chiếc bóng,
Đêm năm canh trông ngóng lần lần.
Khoảnh làm chi bấy chúa xuân,
Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi.

Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ vũ,
Gác thừa lương thức ngủ thu phong.
Phòng tiêu lạnh ngắt như đồng,
Gương loan bẻ nửa, dải đồng xé đôi.

Chiều ủ dột giấc mai khuya sớm,
Vẻ bâng khuâng hồn bướm vẩn vơ.
Thâm khuê vắng ngắt như tờ,
Cửa châu gió lọt, rèm ngà sương gieo.

Ngấn phượng liễn chòm rêu lỗ chỗ,
Dấu dương xa đám cỏ quanh co.
Lầu Tần chiều nhạt vẻ thu,
Gối loan tuyết đóng, chăn cù giá đông.

Ngày sáu khắc tin mong nhạn vắng,
Đêm năm canh tiếng lắng chuông rền.
Lạnh lùng thay giấc cô miên,
Mùi hương tịch mịch, bóng đèn thâm u.

Tranh biếng ngắm trông đồ tố nữ,
Mặt buồn trông trên cửa nghiêm lâu.
Một mình đứng tủi ngồi sầu,
Đã than với nguyệt lại rầu với hoa.

Buồn mọi nỗi lòng đà khắc khoải,
Ngán trăm chiều bước lại ngẩn ngơ.
Hoa này bướm nỡ thờ ơ,
Để gầy bông thắm để xơ nhụy vàng.

Đêm năm canh lần nương vách quế,
Cái buồn này ai dễ giết nhau.
Giết nhau chẳng cái lưu cầu,
Giết nhau bằng cái u sầu độc chưa!

Tay nguyệt lão chẳng xe thì chớ,
Xe thế này có dở dang không ?
Đang tay muốn dứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra!

Nào dạo lối vườn hoa năm ngoái,
Đóa hồng đào hái buổi còn xanh.
Trên gác phượng, dưới lầu oanh,
Gối du tiên hãy rành rành song song.

Bây giờ đã ra lòng rẻ rúng.
Để thân này cỏ úng tơ mành.
Đông Quân sao khéo bất tình,
Cành hoa tàn nguyệt, bực mình hoài xuân.

Nào lúc tựa lầu Tần hôm nọ,
Cành liễu mành bẻ thuở đương tơ.
Khi trướng ngọc, lúc rèm ngà,
Mảnh xuân y hãy sờ sờ dấu phong.

Bây giờ đã ra lòng ruồng rẫy,
Để thân này nước chảy hoa trôi.
Hóa công sao khéo trêu ngươi,
Bóng đèn tà nguyệt tẻ mùi ký sinh.

Cảnh hoa lạc nguyệt minh hôm ấy,
Lửa hoàng hôn như cháy tấm son.
Hoàng hôn thôi lại hôn hoàng,
Nguyệt hoa thôi lại thêm buồn nguyệt hoa!

Buồn vì nỗi nguyệt tà ai trọng,
Buồn vì điều hoa rụng ai nhìn.
Tình buồn cảnh lại vô duyên,
Tình trong cảnh ấy, cảnh bên tình này.

Khi trận gió lung lay cành bích,
Nghe rì rầm tiếng mách ngoài xa.
Mơ hồ nghĩ tiếng xe ra,
Đốt phong hương hả mà hơ áo tàn.

Ai ngờ tiếng dế than ri rỉ,
Giọng bi thu gọi kẻ cô phòng.
Vắng tanh nào thấy vân mồng,
Hơi thê lương lạnh ngắt song phi huỳnh.

Khi bóng nguyệt chênh vênh trước ốc,
Nghe vang lừng tiếng giục bên tai:
Đè chừng nghĩ tiếng tiểu đòi,
Nghiêng bình phấn mốc mà nhồi má nheo.

Ai ngờ tiếng quyên kêu ra rả,
Điệu thương xuân khóc ả sương khuệ
Lạnh lùng nào thấy ỏ ê,
Khí bi thu sực nức hè lạc hoa.

Tiếng thúy điện cười già ra gắt,
Mùi quyền môn thắm rất nên phai.
Nghĩ nên tiếng cửa quyền ôi,
Thì thong thả vậy cũng thôi một đời.

Ví sớm biết lòng trời đeo đẳng,
Dẫu thuê tiền cũng chẳng mang tình.
Nghĩ mình lại ngán cho mình,
Cái hoa đã trót gieo cành biết sao!

Miếng cao lương phong lưu nhưng lợm,
Mùi hoắc lê thanh đạm mà ngon.
Cùng nhau một giấc hoành môn,
Lau nhau ríu rít cò con cũng tình.

Ví sớm biết phận mình ra thế,
Dải kết điều ỏe ọe làm chi.
Thà rằng cục mịch nhà quê,
Dầu lòng nũng nịu nguyệt kia hoa này.

Chiều tịch mịch đã gầy bóng thỏ,
Vẻ tiêu tao lại võ hoa đèn.
Muốn đem ca tiếu giải phiền,
Cười nên tiếng khóc, hát nên giọng sầu.

Ngọn tâm hỏa đốt dàu nét liễu,
Giọt hồng băng thấm ráo làn son.
Lại buồn đến cảnh con con,
Trà chuyên nước nhất, hương đùn khói đôi.

Trong gang tấc mặt trời xa bấy,
Phận hẩm hiu nhường ấy vì đâu?
Sinh ly đòi rất thời Ngâu,
Một năm còn thấy mặt nhau một lần.

Huống chi cũng lạm phần son phấn,
Luống năm năm chực phận buồng không.
Khéo vô duyên bấy cửu trùng,
Son nào nhuộm được má hồng cho tươi.

Vườn thượng uyển hoa cười với nắng,
Lối đi về ai chẳng chiều ong.
Doành Nhâm một dải nông nông,
Bóng dương bên ấy đứng trông bên này.

Tình rầu rĩ làm ngây nhĩ mục,
Chốn phòng không như giục mây mưa.
Giấc chiêm bao những đêm xưa,
Giọt mưa cửu hạn còn mơ đến rày.

Trên chín bệ có hay chăng nhẽ,
Khách quần thoa mà để lạnh lùng!
Thù nhau ru hỡi đông phong,
Góc vườn đãi nắng cầm bông hoa đào.

Tay tạo hóa cớ sao mà độc,
Buộc người vào kim ốc mà chơi.
Chống tay ngồi ngẫm sự đời,
Muốn kêu một tiếng cho dài kẻo căm!

Nơi lạnh lẽo nơi xem gần gặn,
Há phai son lạt phấn ru mà.
Trêu ngươi chi bấy trăng già,
Trao con chỉ thắm mà ra tơ mành!

Lòng ngán ngẫm buồn tênh mọi nỗi,
Khúc sầu tràng bối rối đường tơ.
Ngọn đèn phòng động đêm xưa,
Đài hoa tịnh đế trơ trơ chưa tàn.

Mà lượng thánh đa đoan kíp bấy,
Bỗng ra lòng ruồng rẫy vì đâu?
Bõ già tỏ nỗi xưa sau,
Chẳng đem nỗi ấy mà tâu ngự cùng.

Đêm phong vũ lạnh lùng có một,
Giọt ba tiêu thánh thót cầm canh.
Bên tường thấp thoáng bóng huỳnh,
Vách sương hót gió đèn xanh lờ mờ.

Mắt chưa nhắp đồng hồ đã cạn,
Cảnh tiêu điều ngao ngán dường bao.
Buồn này mới gọi buồn sao?
Một đêm nhớ cảnh biết bao nhiêu tình.

Bóng câu thoáng bên mành mấy nỗi,
Những hương sầu phấn tủi bao xong.
Phòng khi động đến cửu trùng,
Giữ sao cho được má hồng như xưa.

Thơ dài quá hà mà buồn ngủ nữa nên hông có đọc nổi:(( Cơ mà lúc đọc truyện về nàng Tiểu Thanh trong đây là tui nhớ đến ngay bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du luôn óh;))
Không biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Ngư chăng
:D

Tố Như....
 
Hình như Điêu Thuyền chỉ là một nhân vật hư cấu trong Tam Quốc Chí. Còn Đắc Kỷ thì không là nhân vật thực hay hư cấu nữa...
 
cowlove cũng có giả thiết như bạn nói, nhưng mà mình chắc rằng Đát Kỷ không phải là cáo chín đuôi đâu nhé :))
 
Lan Thanh nói đến Nguyễn Du thì nhớ đến Truyện Kiều, nếu nói đến nữ nhân Trung Quốc chắc phải kể thêm nàng Kiều nữa=))=))=))
 
nàng Kiều là nguyên mẫu 1 kĩ nữ ở Trung Quốc dưới triều Minh được tác giả Thanh Tâm Tài Nhân sử dụng để viết cuốn tểu thuyết chương hồi Kim Vân Kiều truyện, có một số ảnh nè ;))
4huyetphung07vuongthuykcl3.jpg

kieu_o_lau_ngung_bich.jpg.jpg


Qu%C3%A2n-L%C3%A2m-Thi%C3%AAn-H%E1%BA%A1.jpg


201310151041350.jpg

4935e809_r3.jpg
 
×
Quay lại
Top