Nếu còn có ngày mai ( If Tomorrow Comes)-Sidney Sheldon

Chương 19


Daniel Cooper đã biết về nội dung cuộc họp sáng hôm đó tại văn phòng của J.J.Reynolds, bởi vì, ngày hôm trước, tất cả các điều tra viên của công ty đã được nhận một tường trình về vụ trộm diễn ra cách đó một tuần ở ngôi nhà của LoisA Bellamy. Daniel Cooper rất ghét chuyện học hành. Ông ta luôn sốt ruột khi phải ngồi nghe những bài nói dài dòng và ngu ngốc.
Cooper đến văn phòng của J.J.Reynolds muộn tới bốn mươi lăm phút, giữa lúc Reynolds đang phát biểu.
“Thật hân hạnh là anh đã ghé đến”. J.J.Reynolds nói cạnh khóe. Không có phản ứng gì đáp lại. Chỉ tổ phí lời, Reynolds nghĩ bụng. Cooper không hiểu những lời nói mỉa mai - hay bất kỳ thứ gì khác, theo chỗ mà Reynolds hiểu mỗi việc làm cách nào để tóm được bọn tội phạm mà thôi. Và ở điểm này thì ông ta buộc phải thừa nhận thằng cha kia là một tài năng thật sự.
Ngồi trong phòng của Reynolds là ba điều tra viên cự phách nhất của cộng ty:
Davit Swift, Robert Schiffer và Jerry Davis.
Tất cả các ông đều đã đọc báo cáo về vụ trộm ở nhà bà Bellamy”, Reynolđs nói:
“Nhưng có điều mới cần nói thêm:
Lois Bellamy chính là em họ của ông giám đốc cảnh sát. Ông ta đang làm ầm lên”.
Thế cảnh sát hiện đang làm gì?” Davis hỏi.
“Lẩn tránh báo chí. Không thể trách họ được. Đám cảnh sát điều tra như một lũ ngốc. Họ đã chuyện trò thực sự với tên trộm mà họ bắt gặp trong ngôi nhà, và rồi để ả chuồn mất”.
“Vậy thì họ phải nhớ đúng nhận dạng của ả”, Swift nói.
“Họ chỉ nhớ rõ về cái váy ngủ của ả thôi”, Reynolds đáp nhanh, vẻ khinh thị.
“Tấm thân của ả đã gây ấn tượng mạnh đến nỗi đầu óc họ biến đâu mất cả.
Thậm chí họ không biết cả màu tóc nữa. Ả ta đã đội một thứ mũ giữ tóc gì đó, và mặt thì trét kín kem. Họ mô tả đó là một phụ nữ chừng giữa tuổi hai mươi với bộ mông và cặp vú kỳ diệu. Không có được một dấu vết gì hết. Chúng ta không có thông tin gì để làm cơ sở. Không gì cả”.
Lúc này, Daniel Cooper mới lên tiếng “Có, chúng ta có”.
Tất cả quay sang nhìn ông ta, với nhiều mức độ khó chịu khác nhau:
“Anh đang nói về cái gì vậy?” Reynolds hỏi.
“Tôi biết cô ta là ai”.
Từ hôm trước, khi đọc bản tường trình, Cooper quyết định phải xem xét ngôi nhà của bà Bellamy, vì đó là bước đi lôgic đầu tiên. Đối với Daniel, logic là sự trật tự mà. Chúa đã sắp đặt, là giải pháp cơ sở của mọi vấn đề và để đạt tới sự lôgic, người ta luôn phải bắt đầu từ đâu. Cooper đã lái xe chạy tới khu dinh thự của Benamy trên Đảo Dài, nhìn ngó một chút, vẫn không ra khỏi xe, quay đầu, và chạy tới Manhattan. Ông ta đã biết được tất cả những gì muốn biết.
Ngôi nhà hoàn toàn biệt lập, và không có thứ phương tiện giao thông công cộng nào ở gần đó, điều đó có nghĩa là tên trộm chỉ có thể tới ngôi nhà bằng xe hơi riêng.
Ông ta đang giải thích cho mấy người có mặt trong văn phòng của Reynolds.
“Bởi vì không muốn sử dụng chiếc xe của mình vì sợ bị phát hiện, phương tiện mà cô ta dùng trên thực tế hoặc là đồ bị đánh cắp hoặc là đồ đi thuê. Trước tiên tôi quyết định tìm hiểu ở các hãng cho thuê xe đã. Tôi giả định rằng cô ta đã thuê xe ở Manhattan, nơi dễ che giấu vết tích nhất”.
Jerry Davis không đồng tình. “Anh lại đùa rồi Cooper. Mỗi ngày ở Manhattan phải có tới hàng ngàn chiếc xe được cho thuê”.
Cooper phớt lờ lời cắt ngang đó. “Tất cả các giao dịch thuê mướn xe đều được đưa vào máy tính. Người phụ nữ mà chúng ta đang đề cập đã tới hàng Budget ở số 61 trên đường 23 Tây lúc 20 giờ hôm xảy ra vụ trộm thuê một chiếc Chevy Caprlce và trả lại vào lúc 2 giờ sáng”.
“Làm sao anh biết đó chính là chiếc xe mà ả đã sử dụng vào vụ trộm?”.
Reynolds hỏi một cách hoài nghi.
Cooper bắt đầu bực mình với các câu hỏi ngu ngốc này. “Tôi kiểm tra công tơ mét. Từ Manhattan tới dinh thự của Lois Bellamy là 32 dặm và 32 dặm trở về. Con số này hoàn toàn khớp với chỉ số trên đồng hồ đo của chiếc Caprice.
Chiếc xe được thuê với cái tên Ellen Branch”.
“Một cái tên giả”. David Swift đoán.
“Đúng vậy. Tên thật cô ta là Tracy Wihitney”.
Cả mấy người nhìn chằm chằm vào ông ta. “Làm thế quái nào mà anh biết điều đó?” Schiffer căn vặn.
“Cô ta đã đưa tên và địa chỉ giả, nhưng còn phải ký giao kèo thuê xe. Tơi mang văn bản này qua bên kỹ thuật của cảnh sát để họ kiểm tra dấu tay. Những dấu tay trên đó là của Tracy Wihitney. Cô ta đã có thời gian nằm trong nhà tù dành cho phụ nữ Nam Louisiana. Nếu các ông còn nhớ thì biết rằng tôi đã nói chuyện với cô ta cách đây một năm về vụ mất cắp bức Renoir”.
“Tôi nhớ”, Reynolds gật gù. “Khi đó anh đã nói rằng cô ta vô tội”.
“Khi đó thì đúng vậy. Nhưng bây giờ thì không còn vô tội nữa. Cô ta đã làm vụ trộm ở nhà Bellamy”.
Thằng cha khốn kiếp lại đã mò ra, và hắn ta đã làm cho nó trở nên đơn giản.
Reynolds phải cố để khỏi tỏ ra ghen tị. “Thật là ... thật là một công việc hữu hiệu, Cooper. Thực sự hữu hiệu. Chúng ta sẽ ghim ả lại. Chúng ta sẽ báo cho cảnh sát tóm lấy ả và ...”.
“Trên tội chứng gì? “ Coơper bình thản hỏi. “Tội thuê xe à? Cảnh sát không nhận diện được cô ta, và cũng không có một tý tẹo chứng cớ gì để chống lại cô ta cả”.
“Vậy chúng ta sẽ phải làm gì?” Schiffer hỏi. “Để ả bỏ đi thản nhiên vậy sao?”.
“Lần này thì đúng thế, Cooper trả lời. “Nhưng giờ thì tôi biết rõ rồi. Cô ta sẽ còn dính vào một vụ khác. Và khi đó tôi sẽ tóm cô ta”.
Sau cùng thì cuộc họp đã kết thúc. Cooper muốn tắm lắm rồi. Ông ta lấy ra một cuốn sổ nhỏ màu đen và ghi rất cẩn thận:TRACY WIHITNEY.
 
Chương 20


Đã đến lúc bắt đầu một cuộc sống mới, Tracy quyết định. Nhưng sống thế nào đây? Mình đã từ một nạn nhân thành một ... gì nhỉ? Một kẻ trộm cắp - đúng vậy. Nàng nghĩ về Joe Romano, Anthony Orsatti, Perry Pope, và thẩm phán Lawrence. Không, mình chỉ là một kẻ báo thù. Vậy thôi. Hoặc giả lìa một kẻ phiêu lưu. Nàng đã vượt mặt cảnh sát, hai kẻ lừa gạt chuyên nghiệp, và một lão chủ kim hoàn lá mặt lá trái. Nàng nghĩ về Emestine với Amy, và cảm thấy ray rứt. Rồi vì một sự thôi thức từ đáy lòng, Tracy đi tới cửa hàng Schwarz và mua một bộ đồ chơi gồm nguyên một nhà hát kịch bằng búp bê, với khoảng nửa ta nhân vật, gửi cho Amy bằng đường bưu điện. Tấm thiếp đính kèm ghi dòng chữ MỘT VÀI NGƯỜI BẠN MỚI CHO CHÁU, NHỚ CHÁU NHIỀU. THÂN ÁI, TRACY.
Tiếp đó nàng tới một cửa hàng bán đồ da, lông thú ở đại lộ Madison và mua một cái khăn quàng bằng lông cáo xanh cho Ernestine và gửi bưu điện cùng với một ngân phiếu hai trăm đô la. Tấm bưu thiếp đính kèm ghi một dòng đơn giản:
CÁM ƠN, ERNESTINE. TRACY.
Nợ nần giờ trả xong. Tracy nghĩ. Và đó là một cảm giác thanh thản. Tữ nay nàng hoàn toàn tự do, đi đâu, làm gì tùy thích.
Nàng đã chào mừng sự độc lập của mình bằng việc thuê một căn hộ hạng nhất, trong khách sạn Helmsley Palace. Từ phòng khách của căn hộ trên tầng thứ 47 này, nàng có thể nhìn xuống nhà thờ lớn mang tên thánh Patrich và thấy cả cây cầu mang tên George Washington ở đằng xa. Chỉ cách đó vài dặm, theo một hướng khác, là cái nơi khủng khiếp mà nàng đã ở thời gian qua. Không bao giờ nữa, Tracy nhủ thầm.
Nàng mở chai sâm banh mà bộ phận quản lý gửi tặng rồi ngồi nhấm nháp từng ngụm nhỏ, ngắm mặt trời lặn trên những tòa nhà chọc trời của Manhattan.
Cho tới lúc trăng lên thì Tracy cũng đã có quyết định trong đầu:
Sẽ đi London.
Nàng đã sẵn sàng đón nhận những điều tốt đẹp mà cuộc sống có thể mang lại.
Mình đã hoàn thành nghĩa vụ. Tracy nghĩ. Mình xứng đáng được hưởng một chút hạnh phúc nào đó.
Tracy nằm dài trên gi.ường và bật ti vi xem bản tin muộn trong ngày. Hai người đàn ông đang được phỏng vấn. Boris Melinikov có vóc dáng thấp, đậm, mặc bộ complê màu nâu chẳng vừa vặn chút nào, và Pietr Negulesco ngồi đối diện thì cao, gầy, vẻ hào hoa. Tracy không thể hình dung hai người đàn ông này có thể có điểm gì tương đồng được.
“Trận đấu cờ này sẽ được tổ chức ở đâu vậy?” Người phóng viên truyền hình hỏi.
“Ở Sochi, bên bờ biển Đen tuyệt vời”, Mel1nikov đáp.
“Cả hai anh đều là đại kiện tướng quốc tế, và trận đấu này đã thu hút sự chú ý rất lớn. Trong các trận đấu trước, các anh đã người này giành lại dành lại vô địch từ người kia, và trận cuối cùng mới đây thì ... hòa. Thưa anh Neguleso, hiện nay anh Melinikov đang giữ danh hiệu vô địch. Anh có nghĩ rằng sẽ có thể đoạt lại nó htừ tãy anh ấy không?”.
“Chắc chắn là thế” Negulesco trả lời.
“Anh ta sẽ chẳng có cơ hội đó”. Mel1nikov phản ứng.
Tracy không hề biết gì về môn cờ vua, thế nhưng ở cả hai người đàn ông kia có một vẻ tự phụ mà nàng cảm thấy khó chịu. Nàng bấm điều khiển từ xa để tắt ti vi, rồi ngủ.
Sáng hôm sau, Tracy dừng lại trước quầy vé và đặt một phòng hạng nhất trên con tàu Elizabeth II. Hồi hộp như một đứa trẻ trước chuyến đi ra nước ngoài đầu tiên, nàng dùng cả ba ngày tiếp theo vào việc mua sắm quần áo, hành lý.
Buổi sáng hôm ra khơi, Tracy thuê một chiếc xe hơi sang trọng đưa nàng ra cảng. Khi tới bến số 3, nơi giao nhau của đại lộ 55 Tây và đại lộ 12, bến đỗ mà tàu Nữ hoàng Elizabeth II đang buông neo, cả khu vực này đông nghẹt các phóng viên, và trong giây lát, Tracy co rúm người vì sợ hãi. Rồi nàng nhận ra là họ đang phỏng vấn hai người đàn ông đứng ngay dưới chân cầu tàu - Melinikov và Negulesco, hai đại kiện tướng cờ vua. Tracy đi ngang qua chỗ họ, chìa vé và hộ chiếu cho một sĩ quan đứng ở chân cầu tàu, rồi đi theo cẩu thang dẫn lên tàu.
Một người phục vụ xem vé của Tracy và hướng dẫn cô tới phòng của nàng.
Đó là một nơi tuyệt vời. Giá vé để có nó đắt kinh khủng, thế nhưng Tracy nghĩ rằng nó sẽ đáng với đồng tiền.
Nàng sắp xếp hành lý đâu vào đấy rồi lang thang ra bên ngoài. Gần như ở mọi chỗ trên tàu đều có những cuộc chia tay, với những tiếng cười, những câu chuyện và với sâm banh. Không có ai ra tiễn nàng cả, không có ai để nàng quan tâm tới và cũng không có ai quan tâm tới nàng. Không hẳn thế, Tracy tự nhủ.
Bertha Lớn thèm muốn minh đấy thôi. Và nàng cười chua chát.
Tracy lững thững lên boong trên và không hề nhận thấy những cái nhìn ngưỡng mộ của đám đàn ông và những cái lườm nguýt ghen tị của đám đàn bà đang theo sát từng bước chân nàng.
Tracy nghe thấy tiếng còi trầm trầm cất lên và những lời yêu cầu vang vang.
“Tất cả người đi tiễn xin mời lên bờ” và đột nhiên thấy hết sức hồi hộp. Nàng đang khởi hành tới một tương lai hoàn toàn chưa biết ra sao.
Con tàu khổng lồ rùng mình, những chiếc tàu kéo bắt đầu lôi nó ra khỏi cảng, và cùng với những hành khách khác, Tracy đứng nhìn bức tượng Thần Tự Do đang xa dần. Sau đó nàng đi vớ vẩn ngó nghiêng con tàu.
Nữ hoàng El1zabeth II là cả một thành phố nổi, dài hơn ba trăm mét và cao mười hai tầng. Nó có bốn phòng ăn lớn, sáu tiệm rượu, hai phòng khiêu vũ và hai hộp đêm. Trên tàu còn có cả tá cửa hiệu nhỏ, bốn bể bơi, một phòng tập thể dục, một sân chơi gôn và một đường chạy.
Tracy thấy choáng ngợp, nàng nghĩ - cứ ở mãi trên tàu này cũng được.
Nàng đã đặt sẵn một bàn trong phòng ăn Công Chúa ở tầng trên, hẹp hơn nhưng trang nhã hơn so với phòng ăn chính:
Nàng vừa ngơi xuống bàn thì một giọng nói quen thuộc cất lên. “Ồ, xin chào!”.
Tracy giật mình nhìn lên và thấy Tom Bower.- kẻ mạo nhận FBI hôm nào, đang đứng đó. Ôi, không thể. Sao lại thế này cơ chứ, nàng thầm than vãn.
“Thật là một sự bất ngờ dễ chịu. Cô có bằng lòng cho tôi ngồi cùng không”.
“Rất sẵn sàng”.
Anh ta nhẹ nhàng ngồi xuống ghế đối diện và mỉm cười thân mật. “Chúng ta cớ thể là bạn nhau được đấy. Ít nhất thì cũng đều có mặt ở đây vì cùng một lý do, phải không nào?”.
Tracy không hiểu anh ta đang nói về cái gì. “Này ông Bower”.
“Stevens”, giọng anh ta thật thoải mái. “Jeff Stevens”.
“Gì thì cũng vậy thôi”. Tracy nhỏm dậy.
“Đợi đã nào. Tôi muốn phân trần về dịp gặp lần trước giữa chúng ta”.
“Không có gì phải giải thích cả”, Tracy quả quyết.
“Một đứa trẻ ngớ ngẩn cũng đã có thể đoán ra và đã đoán ra”.
“Tôi nợ Conrad Morgan một chút ân huệ”, anh ta mỉm cười ngượng nghịu.
“Tôi sợ rằng ông ta đã không hài lòng gì với tôi”.
Cũng vẫn cái phong cách thơải mái và vẻ quyến rũ ngây thơ đã từng lừa gạt nàng. Lạy Chúa, Dennis, chẳng cần phải khóa tay cô ta làm gì. Cô ta sẽ không chạy trốn đi đâu Anh ta từng đóng kịch.
Nàng hằn học đáp. “Tôi cũng chẳng hài lòng gì với ông. Ông định sẽ làm gì trên con tàu này vậy? Chẳng lẽ ông lại không nên có mặt trên một con tàu chạy đường sông thì hơn à?”.
Anh ta cười lớn. “Với Maximilian Pierpont trên tàu, đây chính là cơn tàu chạy đường sông đấy”.
“Ai cơ?”.
Anh ta ngạc nhiên. “Nào, thôi đi. Quả thực cô không biết à?”.
“Biết cái gì?”.
“Max Pierpont là một trong những người giàu nhất thế giới. Thói quen của ông ta là buộc các công ty cạnh tranh phải phá sản. Ông ta yêu những con ngựa chậm chạp và những phụ nữ nhanh nhẹn, và cả hai thứ đó ông ta đều có rất nhiều. Đó là kẻ tiêu xài lớn cuối cùng đấy”.
“Và ông định giúp Pierpont tiêu thụ bớt chỗ của cải dư thừa của ông ta chăng?”.
“Quả là đúng thế đấy”. Anh ta nhìn nàng vẻ dò xét. “Cô có biết tôi và cô cần phải làm gì không?”.
“Chắc chắn là tôi biết, thưa ông Stenens. Chúng ta nên nói lời tạm biệt”.
Và anh ngồi đó nhìn khi Tracy đứng dậy đi ra khỏi phòng ăn.
Nàng ăn chiều ngay trong phòng riêng. Và băn khoăn không hiểu số mệnh run rủi thế nào mà lại đặt Jeff chắn trên đường đi của nàng nữa thế. Nàng chỉ muốn quên đi nỗi sợ hãi đã cảm thấy trên chuyến tàu ấy. Hừ mình sẽ không để cho hắn làm hỏng chuyến đi này. Đơn giản là sẽ phớt lờ hắn đi.
Sau bữa ăn chiều, Tracy đi lên trên boong. Một bầu trời đêm huyền dịu với những vì tinh tú được gắn trên nền trời mượt như nhung vậy. Nàng đứng đó trong ánh trắng, ngắm nhìn những làn sóng biển lấp lánh và lặng nghe từng làn gió ào ào. Trong lúc đó, anh đã đến bên nàng.
“Cô không biết là đứng đây trông cô đẹp đến thế nào đâu. Cô có tin vào những chuyện tình trên boong tàu không”.
“Chính ông là người mà tôi không tin. Vậy đấy”. Nói rồi nàng định bỏ đi.
“ôĐợi dã. Tôi có tin tức cho cô đây. Tôi mới phát hiện ra rằng Max Pierpont không có trên tàu, thế đấy Tới phút cuối cùng thì ông ta hủy bỏ chuyến đi”.
“Ồ, thật là xấu hổ. Vậy là ông chịu uổng cái vé”.
“Không hẳn”, anh nhìn nàng dò xét. “Cô có muốn kiếm một tài sản nho nhỏ nhân chuyến đi này không”.
Gã đàn ông này là không thể tin được, nàng nghĩ. “Trừ khi ông có một chiếc tàu ngầm hoặc một máy bay lên thẳng bỏ túi, còn thì tôi cho rằng ông sẽ không thể trốn đi đâu được với những thứ ông cướp của bất kỳ ai đó trên con tàu này”.
“Có ai nói về chuyện cướp bóc đâu nào:
Cô có bao giờ nghe về Boris Meinikov hay Pietr Negulesco chưa?”.
“Có thì sao?”.
“Cả hai đang trên đường đi Nga để thi đấu trận vô địch cờ vua. Nếu như tôi dàn xếp để cô có thể chơi với hai người bọn họ”, Jeff nói hào hứng, “thì chúng ta sẽ kiếm được cả đống tiền. Một cái bẫy hoàn hảo đấy”.
Tracy nhìn anh ta đầy nghi ngờ. “Nếu như ông dàn xếp để tôi có thể chơi với hai người bọn họ? Đó là một cái bẫy hoàn hảo của ông à?”.
“Chứ sao. Cô thấy thế nào?”.
“Tôi thấy thích:
Chỉ có chút vướng mắc nhỏ thôi”.
“Cái gì vậy?”.
“Tôi không biết chơi món này”.
Anh ta mỉm cười, vẻ hiền lành. “Không sao. Tôi sẽ dạy cô”.
“Ông điên rồi. Nếu cần một lời khuyên thì tôi xin nói là ông nên tìm cho mình một bác sĩ tâm thần. Chúc ngủ ngon”.
Sáng hôm sau, trời đất run rủi thế nào mà Tracy thực sự đã va chạm với Milnikov. Anh ta đang chạy buổi sáng trên boong tàu, và khi Tracy đi tới chỗ góc sân thì bị anh ta đâm sầm vào, nàng ngã xuống.
“Không có mắt à”, anh ta quát lên. Và rồi tiếp tục chạy như thường.
Tracy ngồi trên sàn boong tàu, nhìn theo. “Thật là thô bỉ?” Nàng đứng dậy và phủi bụi trên người.
Một nhân viên phục vụ lại gần. “Cô có bị đau không”.
Tôi thấy anh ta ...”.
“Không, tôi không sao, cảm ơn anh”.
Không kẻ nào có thể làm hỏng chuyến đi này, nàng nghĩ.
Khi trở lại ca bin, có sáu lời nhắn là hãy gọi cho ông Jeff Stevens. Nàng lờ chúng đi. Buổi chiều, nàng đi bơi, rồi đọc sách, và cho tới tối khi nàng đi tới một quầy nhỏ để làm một ly trước bữa ăn tối, hoàn toàn thấy khoan khoái, dễ chịu. Song sự hưng phấn chẳng được mấy chốc. Pietr Nugulesco đang ngồi uống trong quán. Nhìn thấy Tracy, anh ta đứng dậy. “Cho phép tôi được mời cô một ly, tiểu thư xinh đẹp?”.
Tracy lưỡng lự, rồi mỉm cười. “Ồ, vâng, cảm ơn ông”.
“Cô uống gì?”.
“Xin ông một ly vodka”.
Nugulesco gọi người phục vụ rồi quay sang Tracy. “Tôi là Pietr Nugulesco”.
“Tôi biết”.
“Lẽ tất nhiên. Mọi người đều biết tôi. Bởi tôi là người chơi cờ vĩ đại nhất thế giới. Còn ở tổ quốc, tôi là một anh hùng dân tộc”. Anh ta ghé sát bên Tracy, đặt một tay lên đầu gối nàng. “Tôi cũng còn là người chơi rất tuyệt trên gi.ường nữa”.
Tracy nghĩ là đã nghe nhầm. “Cái gì cơ?”.
“Tôi là người chơi rất tuyệt trên gi.ường”.
Nàng muốn hắt ly rượu vào mặt anh ta, nhưng đã kịp kìm chế. Và xử sự nhẹ nhàng hơn. “Xin phép”, nàng nói, “Tôi cần gặp một người bạn”.
Nàng đi tìm Jeff Stevens, và thấy anh trong phòng ăn Công Chúa, thế nhưng khi vừa định tiến lại, nàng nhận ra anh ta đang ngồi ăn với một phụ nữ có mái tóc vàng mặt non dễ thương. Nàng quay người lập tức đi ra hành lang. Một giây sau, Jeffđã ở bên cạnh.
Tracy ... Cô muốn gặp tới à?”.
“Tôi không muốn kéo ông khỏi ... bữa ăn”.
“Đó chỉ là thứ tráng miệng, Jeff nói nhẹ nhàng. “Tôi có thể giúp gì cô?”.
“Về chuyện Mel1nikov và Nugulesco, ông nghiêm túc đấy chứ?”.
“Dứt khoát là thế. Sao nào?”.
“Tôi nghĩ rằng cả hai người bọn họ đều cần một bài học về lễ độ”.
“Tôi cũng vậy. Và chúng ta kiếm ra tiền trong khi dạy bảo họ đấy”.
“Tốt. Kế hoạch của ông thế nào?”.
“Cô sẽ đánh bại họ trên bàn cờ ạ”.
“Tôi không đùa với ông đâu”.
“Tôi cũng vậy”.
“Tôi đã nói với ông là tôi không biết chơi cờ. Tôi không biết đâu là quân tốt và đâu là quân vua. Tôi ...”.
“Đừng lo, Jeff quả quyết. Tôi dạy cô đôi chút và cô sẽ giết chết cả hai gã”.
“Cả hai?”.
“Ồ, tôi chưa nói với cô à? Cô sẽ chơi đồng thời cả hai gã”.
Jeff đang ngồi bên Boris Melinikov trong quán Plano trên boong tàu:
“Người phụ nữ này là một tay chơi cờ kỳ lạ”, Jeff rỉ tai Melinikov, “đang trên một chuyến vi hành”.
Boris làu bàu. “Phụ nữ thì biết gì về cờ. Họ không suy nghĩ được”.
Cô này thì khác đấy. Cô ta nói rằng có thể thắng ông dễ dàng.
Boris Melinikov cười vang lên. “Không ai có thể thắng tôi, dù là dễ dàng hay không”.
“Cô ta sẵn sàng cá mười ngàn đô la, rằng cô ta có thể chơi cùng lúc với cả ông và Pietr Nugulesco và hỏa với ít nhất là một trong hai người”.
Boris Melinikov suýt nữa thì bị sặc. “Trời! Thật là ... thật là nực cười. Cùng lúc đấu với cả hai chúng tôi? Cái ... cái cô gái nghiệp dư này á?”.
“Đúng thế. Cá mười ngàn đô la với mỗi người”.
“Tôi sẽ chỉ chơi để dạy cho kẻ ngu ngốc đó một bài học thôi”.
“Nếu ông thắng, khoản tiền đó sẽ được gửi ở bất kỳ ngân hàng nào mà ông chọn”.
Vẻ thèm khát thoáng hiện trên khuôn mặt Boris. “Tôi chưa bao giờ nghe tên người này. Và đấu với cả hai chúng tôi? Trời, cô ta chắc là điên”.
“Cô ta có hai mươi ngàn đô la tiền mặt đấy”.
“Quốc tịch gì?”.
Mỹ”.
“A, đó là lời giải thích. Tất cả những người Mỹ giàu có đều điên khùng, đặc biệt là đám phụ nữ”.
Jeff nhổm dậy. “Tôi cho rằng vậy là cô ta chỉ phải đấu với một mình Nugulescoi.
“Nugulesco sẽ đấu với cô ta à?”.
“Vâng, tôi chưa nói với ông sao? Cô ấy muốn đấu với cả hai nhưng nếu ông sợ ....”.
“Sợ? Boris Melinikov mà sợ” Anh ta gầm lên. “Tôi sẽ giết cô ta như giết con rệp. Khi nào thì trận đánh nực cười này diễn ra vậy?”.
“Cô ấy định vào tối thứ sáu. Tối cuối cùng trên biển khơi”.
Boris Melinikov ngẫm nghĩ. “Tốt nhất là chơi ba ván, ai thắng hai là thần”.
“Không. Một trận thôi”.
“Và được mười ngàn đô la”.
“Đúng thế”.
Boris thở dài. “Tôi không có sẵn ngần ấy tiền mặt”.
“Không sao”, Jeff cam đoan với anh ta. “Tất cả điều mà cô Wihitney muốn là niềm vinh hạnh được đấu với Boris Melinikov lừng danh. Nếu thua, ông tặng cô ấy tấm chân dung của mình. Nếu thắng, ông được mười ngàn đô la”.
“Ai giữ tiền đặt?”:
Vẻ nghi ngờ hiện rõ trên giọng nói anh ta.
“Thủ quỹ con tàu này”.
“Rất tốt”, Melinikov quyết tâm. “Tối thứ sáu. Chính xác là ta sẽ bắt đầu lúc giờ”.
“Cô ấy sẽ hài lòng về điều đó”, Jeff khẳng định.
Sáng hôm sau, Jeff nói chuyện với Nugulesco trong phòng tập thể dục.
“Cô ta là người Mỹ à?” Pietr Nugulesco nói. “Tôi phải biết mới phải. Tất cả người Mỹ đều là những con chim cu cả”.
“Cô ta là một người chơi cờ giỏi”.
Pietr Nugulesco khoát tay ra vẻ khinh thị. “Giỏi thì chưa đủ giải nhất mới đáng nói. Và tôi là người giỏi nhất”.
“Chính vì vậy nên cô ta mới háo hức muốn được đấu với ông. Nếu thua, ông tặng cô ấy một tấm chân dung của mình. Nếu thắng, ông được mười ngàn đô la tiền mặt ...”.
“Nugulesco không đấu với những kẻ nghiệp dư”.
“Gửi vào bất kỳ ngân hàng nào mà ông thích”.
“Tôi không bàn chuyện đó nữa”.
“Ồ, vậy thì tôi chắc là cô ta sẽ phải đấu với mình Boris Melinikov thôi”.
“Gì cơ” Ông nói Melinikov đã đồng ý dấu với người phụ nữ này?”.
“Tất nhiên. Nhưng cô ta hy vọng là được dấu cùng lúc với hai ông”.
“Tôi chưa bao giờ nghe một chuyện mà ... mà ...”.
Nugulesco lắp bắp, lúng túng tìm từ. “Ngạo mạn! Cô ta là ai mà dám nghĩ rằng có thể đánh bại hai đại kiện tướng cờ vua mạnh nhất thế giới hả? Cô ta mới trên trời rơi xuống chăng?”.
“Tâm tính cô ta kể cũng hơi thất thường”, Jeff thừa nhận, “nhưng tiền của cô ta thì quá được. Toàn tiền mặt”.
Ông nói là đánh bại cô ta thì được mười ngàn đô la?”.
“Đúng vậy”.
“Và Boris Melinikov cũng được ngần ấy?”.
“Nếu như ông ta thắng cô ta?”.
Pietr Nugulesco cười. “Ồ, anh ta sẽ thắng, và tôi cũng vậy”.
“Giữa chúng ta thì nói thật, tôi chẳng hề ngạc nhiên về điều đó cả”.
“Ai sẽ giữ tiền đặt?”.
“Thủ quỹ của con tàu này”.
Tại sao lại để Melinikov là người duy nhất mới được tiền ở người phụ nữ này nhỉ? Pietr Nugulesco nghĩ.
“Ông bạn của tôi này, ông và tôi thế là đã thỏa thuận, vậy ở đâu và khi nào?”.
“Tối thứ sáu. 22 giờ. Phòng Nữ hoàng”.
Pietr Nugulesco nở một nụ cười đầy tham lam. “Tôi sẽ có mặt ở đó”.
“Anh nói là họ đã đồng ý phải không”“ Tracy kêu lên.
“Đúng thế”.
“Tôi thấy chóng mặt quá”.
“Tôi sẽ kiếm cái khăn ướt cho cô ngay”.
Jeff lao vào buồng tắm của Tracy, đưa một cái khăn mặt xuống vòi nước ạnh, rồi mang trở lại. Nàng đang nằm duỗi dài trên đi văng. Anh ấp chiếc khăn lên trán nàng. “Cô có thấy dễ chịu hơn không?”.
“Thật khủng khiếp tôi cho rằng tôi mắc chứng đau nửa đầu”.
“Cô đã bị thế này bao giờ chưa?”.
“Chưa”.
“Vậy thì không phải đâu. Tracy, hãy nghe tôi, trước một việc như thế này thì cảm giác lo lắng là hoàn toàn tự nhiên thôi”.
Nàng chồm dậy và quăng cái khăn mặt ướt đi. “Một việc như thế này?
Khơng bao giờ có một việc như thế này cả. Tôi phải đấu với hai đại kiện tướng cờ vua quốc tế mà chỉ với một bài học về cờ do anh dạy và ...”.
“Hai chứ”, Jeff chữa lại. “Cô có một tài năng trời phú về môn cờ đấy”.
“Lạy Chúa, sao tôi để anh lôi vào chuyện này nhỉ?”.
“Bởi vì chúng ta sắp kiếm một đống tiền”.
“Tôi không muốn kiếm tiền nhiều như thế làm gì”, Tracy thét lên. “Tôi muốn con tàu này chìm đi cho rảnh nợ”.
“Nào, hãy bình tĩnh”, Jeffnói giọng vỗ về. “Chuyện sẽ ...”.
“Chuyện sẽ trở thành một thảm họa. Mọi người trên tàu đều sẽ theo dõi tấn kịch này cho mà xem”.
“Đó mới là vấn đề đấy, phải không nào?” Jeff cười.
Jeff đã thu xếp mọi chuyện cần thiết với người thủ quỹ trên tàu. Anh giao cho ông ta giữ số tiền đặt cọc - 20 ngàn đô la và yêu cầu chuẩn bị cho hai bàn cờ vào tối thứ sáu. Chuyện lan đi khắp tàu, và đám hành khách hên tục tìm tới Jeff để hỏi xem có thực là hai trận đấu sẽ cùng xảy ra không.
“Chắc chắn thế”, Jeff cam đoan với họ. “Thật không thể tin được. Tội nghiệp cô Wihitney, cô ta tin là mình có thể thắng. Cô ta lại còn cá cược nữa chứ”.
“Tôi muốn biết”, một hành khách hỏi, “liệu tôi có thể đặt một chút tiền cá không.
“Chắn chắn dược. Bao nhiêu tiền tùy thích. Cô Wihitney sẵn sàng cá mười ăn một đấy”.
Nếu mà là một triệu ăn một thì phải biết lúc khoản tiền cược đầu tiên được đặt, tất cả tàu trở nên báo động. Dường như tất cả ai nấy, từ đôi thợ máy đến các sĩ quan hàng hải đều muốn tham dự. Người ta đặt từ 5 đô la đến 5 ngàn đô la và tất cả đều ném vào cửa Boris và Pietr.
Người thủ quỹ đa nghi đã đến gặp thuyền trưởng, “Thưa ngài, tôi chưa bao giờ thấy có chuyện như thế này. Một sự hoảng loạn. Gần như tất cả hành khách đều đặt tiền cá độ. Tôi đàng giữ phải tới hai trăm ngàn đô la dấy”.
Viên thuyền trưởng ngẫm nghĩ, “Anh nói là cô Wihitney sẽ đồng thời đấu cả với Melinikov và Nugulesco à”.
“Thưa thuyền trưởng, vâng”.
“Anh đã kiểm tra xem hai người đàn ông đó có đúng là Pietr Nugulesco và Boris Melinikov không?”.
“Ồ, chắc chắn là đúng, thưa ngài”.
“Không có khả năng là họ cố tình để thua trận này chứ?”.
“Không có chuyện đó. Tôi nghĩ là họ thà chết còn hơn.
Và nếu họ thua người phụ nữ này thì quả là họ có thể chết khi về đến nước họ”.
Viên thuyền trưởng dùng mấy ngón tay vuốt vuốt tóc, vẻ mặt thoáng lúng túng. “Anh có biết gì về cô Wihitney hoặc ông Stevens này không?”.
“Thưa ngài, không. Tôi chỉ biết chắc chắn rằng họ là hai người khách đi riêng rẽ”.
Viên thuyền trưởng quyết định. “ở đây sặc mùi lừa gạt đấy, và bình thường ra tôi sẽ ngăn chặn nó. Tuy nhiên, tôi biết đôi chút về môn cờ này, và nếu có thứ gì mà tôi có thể mang mạng sống của tôi ra mà đánh cược thì chính là việc không thể lừa gạt trên bàn cờ. Hãy cứ để trận đấu diễn ra”. Ông ta đi lại bên bàn làm việc của mình, lấy ra một cái ví màu đen, “Đặt cho tôi năm mươi bảng. Về cửa mấy tay đại kiện tướng kia”.
Vào lúc 21 giờ tối thứ Sáu phòng Nữ hoàng đã đông nghẹt hành khách đi vé hạng nhất và cả các hành khách đi vé hạng hai, hạng ba, cùng các sĩ quan và thủy thủ đang không phải làm nhiệm vụ. Thể theo yêu cầu của Jeff, hai căn phòng đã được chuẩn bị cho cuộc đấu này. Một bàn chính giữa căn phòng Nữ hoàng, còn bàn kia thì được đặt ở phòng tiếp tân kế bên. Giữa hai phòng có rèm che để tạo nên sự ngăn cách.
“Làm vậy để các đối thủ khỏi bị phân tán suy nghĩ Jeff giải thích. “Và chúng tôi muốn rằng người xem không đi lại từ phòng này sang phòng kia trong khi trận đấu đang diễn ra”.
Những sợi dây thừng bện bằng nhung đã được chăng chung quanh hai chiếc bàn để ngăn người xem lại quá gần. Với hành khách trên tàu, họ cảm thấy đang được chứng kiến một sự kiện không bao giờ còn có thể thấy lại một lần nữa. Họ không biết gì về cô gái Mỹ xinh đẹp kia, trừ điều duy nhất là cô ta không thể - mà bất kỳ ai khác cũng vậy - đấu cùng lúc với cả Nugulesco và Melinikov lừng lẫy và ít nhất cũng hòa một trận.
Jeff giới thiệu Tracy với hai tay đại kiện tướng chỉ ít phút trước khi trận đấu bắt đầu. Trông nàng cứ như trong một bức họa Grecian. Chiếc váy dài bằng lụa mỏng dính màu xanh, để lộ một bên vai. Cặp mắt dường như to ra trên gương mặt trắng xanh.
Pietr Nugulesco nhìn Tracy chăm chú. Cô đã giành thắng lợi trong tất cả các giải quốc gia từng tham dự ư?
Anh ta hỏi vậy.
“Vâng”. Tracy đáp, vẻ thành thật.
Anh ta nhún vai, “Tôi chưa bao giờ nghe nói về cô cả”.
Boris Melinikov cũng thô thiển chẳng kém gì. “Người Mỹ các cô không còn biết dùng tiền vào việc gì”, anh ta nói, “tôi muốn được cảm ơn cô trước. Thắng lợi này sẽ làm gia đình tôi hài lòng”.
Cặp mắt Tracy chuyển sang màu xanh sẫm, “Ông chưa thắng mà, ông Melinikov”.
Melinikov cười vang cả phòng, “Cô tiểu thư quý mến, tôi không biết cô là ai, nhưng tôi biết tôi chứ. Tôi là Boris Melinikov lừng danh tên tuổi.
Vào lúc 22 giờ, Jeff nhìn quanh và thấy cả hai phòng đã đông chật người xem. Anh nói lớn, “Đã đến lúc trận đấu bắt đầu”.
Tracy ngồi xuống bàn, trước mặt là Melinikov và một lần nữa - lần thứ một trăm - nàng dằn vặt mình vì đã để bị lôi cuốn vào chuyện này.
“Chẳng có gì đáng kể hết trong chuyện này”, Jeff đã cam đoan. “Hãy tin ở tôi”.
Và nàng đã tin anh ta như một con mụ ngu ngốc. Mình điên thật rồi, Tracy nghĩ. Nàng sắp đấu với hai kiện tướng cờ vua mà nàng thì không hề biết gì về môn cờ này, trừ có bốn giờ học với Jeff. Và việc phải đến đã bắt đầu đến ...
Melinikov thì quay sang dám đông đang hồi hộp, mỉm cười với họ. Anh ta huýt gió gọi người phục vụ. “Cho một ly Napoleon”.
Để công bằng với tất cả, Jeff đã nói trước với Melinikov, “Tôi đề nghị ông chơi quân trắng và đi trước còn trong trận gặp ông Nugulesco, cô Wihitney sẽ chơi quân trắng và sẽ đi trước”.
Cả hai đại kiện tướng đều đồng ý.
Lúc này, khi đám khán giả đứng im phăng phắc theo dõi cuộc đấu, Boris Melinikov đi nước mở đầu, đưa quân tốt trước mặt quân hậu tiến lên hai ô.
Mình không chỉ đơn giản đánh bại người phụ nữ này, mà là sẽ nghiền nát cô ta.
Anh ta ngước nhìn Tracy. Nàng nhìn bàn cờ, gật đầu, và đứng dậy, chưa động đến một quân nào. Một người phục vụ rẽ đám đông để Tracy đi sang phòng bên, nơi Pietr Nugulesco đang ngồi chờ. Trong gian phòng này ít nhất cũng phải có tới trăm người xem. Tracy ngồi xuống ghế đối diện với Nugulesco.
“A, con bồ câu nhỏ của tôi. Cô đã đánh bại Boris chưa?” Anh ta cười ồ lên với lời đùa đó.
“Tôi đang làm thế đấy, ông Nugulesco”, Tracy thản nhiên đáp.
Nàng với tay và tiến quân tốt trước mặt quân hậu trắng lên hai ô, Nugulesco nhìn và cười nhạo. Anh ta đã hẹn tới phòng xoa bóp trong vòng một giờ tới, nhưng lúc này anh ta còn muốn kết thúc cuộc cờ sớm hơn nữa, bên đi quân tốt trước quân hậu đen của mình lên hai ô. Tracy nhìn bàn cờ trong giây lát và đứng dậy. Người phục vụ hộ tống nàng trở lại bàn của Bons Melinikov.
Tracy ngồi xuống và đi quân tốt trước quân hậu đen của mình lên hai ô, và thoáng thấy cái gật đầu tán thưởng của Jeff.
Không một giây lưỡng lự, Boris Melinikov tiến quân tốt đứng trước quân tượng hậu lên hai ô.
Hai phút sau đó, tại bàn của Nugulesco, Tracy tiến quân tốt đứng trước quân tượng hậu lên hai ô.
Nugulesco đi quân tốt đứng trước quân vua.
Tracy đứng dậy đi sang phòng bên, nơi Boris Melinikov đang chờ, lặp lại nước đi của Nugulesco.
Ra thế! Cô ta không hoàn toàn là một kẻ nghiệp dư đâu, Melinikov thầm nghĩ, để xem cô ta xử nước này thế nào. Anh ta đi quân mã hậu tới chỗ quân tượng 3.
Tracy nhìn nước đi của anh ta, gật đầu, và trở lại trước Nugulesco, nàng cóp lại nước cờ của Melinikov.
Nugulesco dịch quân tốt trước quân tượng hậu lên hai ô, và Tracy sang phòng Melinikov, lặp lại nước cờ đó của Nugulesco.
Với sự ngạc nhiên mỗi lúc một tăng, hai nhà đại kiện tướng đi tới chỗ nhận ra rằng họ đang đứng trước một đối thủ tài năng. Dù những nước cờ của họ thông minh đến thế nào đi chăng nữa, kẻ nghiệp dư này vẫn có thể chống đỡ được.
Bởi vì mỗi người mỗi nơi nên Boris Melinikov và Pietr Nugulesco không hề hay biết rằng, trên thực tế, họ đang đấu với nhau. Tracy lại Nugulesco từng nước cờ của Melinikov. Và khi Nugulesco phản công thì Tracy lại dùng nước đi đó để chống lại Melinikov.
Tới chừng giữa cuộc cờ thì cả hai nhà đại kiện tướng không còn dám tự phụ gì nữa. Thựe sự là họ đang phải đánh vật để giữ lấy tiếng tăm của mình. Họ đi đi lại lại trong lúc cân nhắc tính toán các nước cờ và hút thuốc rất nhiều. Tracy tỏ ra là người duy nhất giữ được vẻ bình thản.
Lúc đầu, để kết thúc trận đấu nhanh chóng. Melinikov đã thí một quân mã mở đường cho quân tượng trắng của anh ta uy hiếp quân vua đen. Tracy đã mang nước cờ này sang chơi ở bàn của Nugulesco và đã khiến anh ta phải xem xét nó một cách thận trọng, rồi đập lại bằng cách che sườn bị hở, và khi Nugulesco bỏ tượng để đưa quân xe lên hàng thứ bảy phía bên trắng. Melinikov đã chống đỡ trước khi quân xe đen cớ thể làm rối loạn hàng tất phòng ngự.
Tracy đi lại giữa hai gian phòng. Trận đấu đã diễn ra suốt bốn giờ đồng hồ, và không một ai trong đám khán giả nhúc nhích gì hết.
Mỗi đại kiện tướng đều mang trong đầu hàng trăm trận đấu với các đại kiện tướng khác. Bởi vậy, khi trận đấu đặc biệt này đang đi vào giai đoạn cuối, thì cả Melinikov và Nugulesco đều nhận ra dấu ấn của nhau.
Đồ lợn, Meiinikov thầm nghĩ. Cô ta đã học với Nugulesco. Hắn truyền nghề cho cô ta.
Còn Nugulesco thì nghĩ cô ta là kẻ được Melinikov bảo trợ. Thằng cha khốn kiếp đã dạy cô ta hết cả.
Càng cố đấu với Tracy bao nhiêu, họ càng đi tới chỗ nhận ra rằng quả là không có cách nào đánh bại nàng được. Trận đấu đang đi đến chỗ phải hòa.
Đến giờ thứ sáu của trận đấu, 4 giờ sáng, khi các đấu thủ đã đi vào thế cờ tàn, mỗi bên chỉ còn lại ba quân tốt, một quân xe và một quân vua. Không còn khả năng giành phần thắng cho bất kỳ bên nào nữa. Melinikov xem xét bàn cờ hồi lâu, rồi thở dài nghẹn ngào và nói, “Tôi đề nghị hòa”.
Giữa những tiếng ồn ào nổi lên, Tracy đáp. “Tôi chấp thuận”.
Đám đông trở nên náo nhiệt.
Tracy đứng dậy, len qua đám đông sang phòng bên. Khi cô vừa định ngồi xuống ghế, Nugưlesco, bằng giọng nói nghẹn lại, lên tiếng, “Tôi đề nghị hòa”.
Đám đông lại ồn cả lên. Họ không thể nào tin được cái điều họ vừa chứng kiến. Một phụ nữ không tên tuổi gì mà lại đồng thời thủ hòa dược với cả hai đại kiện tướng lừng danh thế giới.
Jeff xuất hiện bền cạnh Tracy. “Nào”, anh mỉm cười, “cả hai chúng ta đều cần uống một chút”.
Khi họ đi rồi, Boris Melinlkov và Pietr Nugulesco vẫn ngồi chết lặng trên ghế, đờ đẫn nhìn lên bàn cờ trước mặt.
Tracy và Jeff ngồi trong một tiệm rượu ở boong trên.
“Cô thật tuyệt vời”, Jeff cười lớn. “Cô không để ý vẻ mặt của Melinikov à?
Tôi đã nghĩ rằng hắn ta sắp bị một cơn đau tim đấy”.
“Tôi sắp bị một cơn đau tim thì đúng hơn”, Tracy nói, “chúng ta được bao nhiêu?”.
“Khoảng hai trăm ngàn đô la. Chúng ta sẽ nhận ở tay thủ quỹ vào sáng mai, khi tàu cập bến Southamton. Tôi sẽ đợi cô ở phòng ăn vào giờ sáng”.
“Tốt”.
“Tôi nghĩ là tôi phải đi ngủ đây. Cho phép tôi được đưa cô trở về phòng”.
“Tôi chưa thể ngủ được, anh Jeff ạ. Tôi vẫn còn hồi hộp quá. Anh cứ về ngủ trước đi thôi”.
“Cô đã là một nhà vô địch”. Jeff nói và cúi người hôn nhẹ lên má nàng “Chúc cô ngủ ngon, Tracy”.
“Chúc ngủ ngon, Jeff.”.
Nàng nhìn theo anh ta. Đi ngủ ư? Chẳng nên tí nào!
Đây là một trong những đêm kỳ diệu nhất trong đời nàng. Hai gã kia đã quá tự phụ và ngạo mạn. Jeff thì nói “Hãy tin ở tôi” và nàng đã nghe theo. Nàng không hề có ảo tưởng gì về Jeff. Anh ta là một kẻ lừa đảo chuyên nghiệp. Anh ta có vẻ khôi ngô, hóm hỉnh, thông minh và phong cách thoải mái. Song dĩ nhiên, Tracy sẽ không thực sự để tâm đến anh ta làm gì.
Jeff đang về phòng thì gặp một sĩ quan của tàu.
“Ông Stevens này, trận đấu thật tuyệt diệu. Tin tức về nó đã bay theo sóng vô tuyến rồi đấy. Tôi đang hình dung ra cảnh giới báo chí sẽ đón chào hai vị ở Southamton. Ông là bầu của cô Wihitney à?”.
“Không, chúng tôi vừa mới quen nhau trên tàu thôi”.
Jeff trả lời nhẹ nhàng song đầu thì căng lên. Nếu như người ta liên hệ anh ta với Tracy lại, chuyện sẽ mang vẻ một vụ lừa đảo. Thậm chí sẽ có thể có cả một cuộc điều tra. Anh quyết định phải thu tiền trước khi bất kỳ một sự nghi ngờ nào nảy sinh.
Jeff viết cho Tracy một mẩu giấy. ĐÃ LẤY TIỀN, VÀ SẼ GẶP CÔ TRONG BỮA ĂN SÁNG MỪNG THẮNG LỢI TẠI KHÁCH SẠN SAVOY.
CÔ THẬT LÀ TUYỆT VỜI. JEFF. Anh cho mẩu giấy vào phong bì dán lại và đưa cho người phục vụ.
“Làm ơn chuyển giúp tôi cho cô Wihitney ngay khi vừa sáng”.
“Thưa ngài, vâng”.
Jeff rảo bước về phòng làm việc của người thủ quỹ.
“Xin lỗi vì làm phiền ông, nhưng mà chỉ còn vài giờ nữa là chúng ta cập bến và tôi biết là lúc đó ông sẽ rất bận, bởi vậy tôi muốn biết liệu ông có thể trao lại tiền cho tôi ngay bây giờ không?”.
“Không có gì khó khăn cả”. Người thủ quỹ nở một nụ cười. Cô tiểu thư của ông quả là một phù thủy đấy, phải không nào?”.
“Quả có thế”.
“Xin phép cho tôi hỏi, ông Stevens, cô ta học chơi cờ ở đâu vậy?”.
Jeff ghé lại, nói nhỏ. “Tôi nghe nói cô ta học với Bobby Fischer” Người thủ quỹ lấy ra khỏi két sắt hai phong bì khổ lớn. “Mang ngần này tiền mặt thì quá nhiều đấy. Ông có muốn tôi đổi sang cho ông thành một ngân phiếu không?”.
“Thôi, khỏi phiền ông. Tiền mặt cũng tết rồi”, Jeff quả quyết “Tôi đang băn khoăn không biết liệu ông có thể làm ơn giúp tôi một chút việc được không?
Chiếc tàu chở thư và bưu phẩm sẽ ra cặp mạn tàu này trước khi ta cập bến, phải không ạ?”.
“Thưa ông, đúng thế. Hai tàu sẽ cặp mạn lúc 6 giờ”.
Tôi sẽ rất biết ơn nếu ông có thể thu xếp để tôi vào bờ trên chiếc tàu bưu điện đó. Bà mẹ tôi đang ốm rất nặng, và tôi muốn được gặp bà trước khi ...”.
giọng anh trầm xuống ... “trước khi quá muộn”.
“Ô, ông Stevens, tôi xin chia buồn. Tất nhiên là tôi có thể giải quyết chuyện đó cho ông. Tôi sẽ dàn xếp trước với bên hải quan”.
Vào lúc 6 giờ 15, với hai chiếc phong bì lớn nhét cẩn thận dưới đáy va li, Jeff Stevens trèo dọc theo chiếc thang xuống con tàu chở thư tín bưu phẩm. Anh ngoảnh lại nhìn lần cuối con tàu lớn - với những hành khách còn đang ngủ say.
Jeff sẽ vào bờ trước tàu Nữ hoàng Elilabeth rất nhiều, “Một chuyến đi thứ vị”.
Jeff nới với một thủy thử của chiếc tàu thư.
“Quả là thế đấy!” Một giọng nói cất lên đồng tính Jeff quay lại. Tracy đang ngồi trên đống dây chào, những sợi tóe lòa xòa trên mặt.
“Tracy. Cô làm gì ở đây thế?”.
“Anh nghĩ là tôi đang làm gì nào?”.
Anh thấy rõ vẻ mặt nàng. “Đợi một phút? Cô không nghĩ là tôi đang lẩn đi chứ?”.
“Tại sao tôi lại phải nghĩ thế nhỉ.” Giọng nàng cay nghiệt.
“Tracy, tôi có viết giấy nhắn lại cho cô. Tôi dự định gặp cô ở khách sạn Savoy và ...”.
“Tời biết rồi”, nàng cắt ngang. “Ông sẽ không bao giờ từ bỏ cái kiểu đó, phải không”.
Anh nhìn nàng, không còn gì để nói nữa.
Trong phòng của Tracy ở khách sạn Savoy, nàng chăm chú nhìn Jeff đếm tiền. “Phần của cô là một trăm lẻ một ngàn đô la”.
“Cám ơn ông.” Giọng nàng lạnh băng.
Jeff nôi. “Cô phải biết là cô đã nghĩ sai về tôi đấy Tracy. Tôi mong rằng cô cho tôi cơ hội để phân trần. Cô có bằng lòng ăn cơm tối cùng tôi hôm nay không?”.
Tracy lưỡng lự rồi gật đầu. “Được thôi”.
“Tốt. Tôi sẽ đón cô lúc 20 giờ nhé”.
Tối, hôm đó, khi Jeff đến và xin gặp Tracy, người nhân viên khách sạn đáp.
“Rất tiếc, thưa ngài. Cô Wihitney đã trả buồng hồi chiều. Cô ấy không để lại địa chỉ sẽ tới”.
 
Chương 21


Mãi về sau này, Tracy mới quả quyết rằng chính cái lời mời viết tay đó đã thay đổi cuộc sống của nàng.
Sau khí lấy ở Jeff phần tiền của mình, Tracy trả buồng, rời khỏi khách sạn Savoy và chuyển tới số 47 đường Công Viên - một khách sạn yên tĩnh với các phòng rộng rãi, dễ chịu và sự phục vụ thượng hạng.
Vào ngày thứ hai ở London, tấm thiếp mời được người hầu phòng chuyển tới nàng. Những dòng chữ rất đẹp và, ngay ngần:
Một người bạn chung có cho ý rằng chúng ta mà làm quen được với nhau thì thật có lợi. Cô sẽ tới uống trà cùng tôi ở khách sạn Ritz chiều nay vào lúc 16 giờ chứ? Mong cô thứ lỗi vì sự đường đột, tôi sẽ cài một bống cẩm chướng đỏ trên ve áo”. Tấm thiệp được ký tên.
“Gunther Hartog..”.
Tracy chưa từng nghe cái tên này. Ý định đầu tiên của nàng là lờ lời mời này đi, thế nhưng tính tò mò đã thắng, và vào lúc 16 giờ 15, nàng xuất hiện trước cửa căn phòng sang trọng của khách sạn Ritz, và nhận ra ông ta ngay. Tracy đoán ông ta chừng độ 60 vẻ dễ ưa, khuôn mặt nghị lực, có học và nước đa mịn màng, khỏe mạnh.
Ông ta mặc một bộ đồ màu xám cật rất khéo và trên ve áo có bông cẩm chướng.
Khi Tracy đi lại, ông ta đứng dậy và nghiêng đầu chào. “Cám ơn cô đã nhận lời mời của tôi”.
Hartog mời Tracy ngồi với vẻ lịch sự cổ điển mà nàng thấy dễ chịu. Ông ta có vẻ như thuộc về một thế giới khác. Tracy không hình dung nổi ông ta muốn gì ở nàng.
Tôi tới đây vi tính tò mò”, Tracy thú nhận. “Nhưng ông có chắc rằng ã không nhầm tôi với một Tracy Wihitney nào khác không?”.
Gunther Hartog mỉm cười. “Theo chỗ tôi được biết thì chỉ có duy nhất Tracy Wihitney thôi”.
“Nói cho chính xác thì ông đã nghe những gì nào?”.
“Có lẽ là ta nên nói chuyện đó khi uống trà thì hơn”.
Người ta dọn ra những chiếc bánh mỳ nhỏ nhồi trứng, món cá hồi, dưa chuột, rau cải xoong và gà quay cùng với cả những chiếc bánh nương nóng hổi phết lẫn kem và mứt, những chiếc bánh ngọt và thứ trà Twinings.
“Ổng có nhắc tới một người bạn chung”. Tracy mở đầu.
“Conrad Morgan. Tôi vẫn làm ăn với ông ta mà”.
Tôi cũng đã làm với ông ta một lần, Tracy nghĩ, và ông ta đã lừa gạt tôi.
“Conrad rất ngưỡng mộ cô”. Gunther Hartog nói.
Tracy nhìn ông ta kỹ hơn. Hartog có dáng dấp của một nhà quý tộc giàu có.
Vậy thì ông ta muốn gì ở mình?
Tracy lại băn khoăn, quyết định cứ để Hartog theo đuổi câu chuyện của ông ta, thế nhưng không hề có sự đề cập nào nữa tới Morgan hay cái gì có thể là chuyện lợi cho cả hai người.
Tracy cảm thấy hứng thú với cuộc nói chuyện này. Gunther đã kể lại với nàng tiểu sử ông ta. “Tôi sinh ra ở Munich. Cha tôi là một chủ nhà băng. Ông giàu có, nhưng tôi e rằng mình đã lớn lên trong sự chán chường, được vây quanh bởi những bức họa tuyệt đẹp và những đồ cổ đắt tiền. Mẹ tôi là người Do Thái, và khi Hítle lên nắm quyền, cha tôi đã không chịu từ bỏ mẹ tôi, bởi vậy ông bị lột sạch hết. Cả hai đều chết trong một trận ném bom. Bạn bè đưa tôi thoát khỏi nước Đức, trốn sang Thụy Sĩ và khi chiến tranh qua đi, tôi đã quyết định chuyển tới London và mở một cửa hiệu đồ cổ nhỏ ở phố Mount. Tôi hy vọng rằng một ngày nào đó cô sẽ tới thăm cửa hiệu của tôi”.
Hóa ra tất cả là vậy, Tracy ngạc nhiên nghĩ, chắc ông ta muốn bán cho mình một thứ gì đó?
Nhưng rồi nàng thấy mình đã nhầm.
Khi trả tiền, Gunther Hartog bình thản nới. “Tôi có một trang viên nhỏ ở Hampshire. Cuối tuần có vài người bạn đến chơi, tôi sẽ rất sung sướng nếu được cô có mặt ở đó”.
Tracy lưỡng lự, người đàn ông này hoàn toàn xa lạ, và vẫn chưa hề biết là ông ta muốn gì ở nàng. Song nàng nghĩ mình cũng chẳng còn gì để mất cả.
Chuyến đi chơi cuối tuần này hóa ra thật tuyệt diệu.
“Cái trang viên nhỏ” của Hartog là một biệt thự cổ thời thế kỷ Mười bảy nằm trong khu đất rộng chừng ba mươi mẫu Anh. Gunther Hartog góa vợ, và nếu không tính những người hầu, thì có thể nói là hoàn toàn độc thân.
Ông ta đưa Tracy đi xem cơ ngơi của mình, kể cả một chuồng ngựa sáu, bảy con và sân nuôi gà, lợn.
“Nhờ vậy, chúng tôi sẽ không bao giờ đới”, ông ta nói vẻ âu sầu “Còn bây giờ xin để tôi giới thiệu với cô sở thích thực sự của tôi”.
Ông ta dẫn Tracy tới một chuồng lớn đấy chim bồ câu.
“Chúng là những con bồ câu đưa thư đấy”, giọng Gunther đầy vẻ tự hào.
“Cô nhìn những con chim tuyệt diệu này xem. Có thấy con màu xám biếc xanh kia không. Đó là Margo”. Ông ta tóm con chim lên, giữ trong tay. “Mi thực sự là một con bé đanh đá, mi có biết vậy không nào? Nó ăn hiếp những con khác nhưng là một con tuyệt vời nhất đấy”. Ông ta dịu dàng vuốt ve đám lông cổ chim và rồi cẩn thận đặt nó xuống.
Màu sắc của đàn chim quả là đa dạng, xanh đen xanh xám, với các viền khác nhau, và xám bạc.
“Không có những con màu trắng sao?” Tracy hỏi.
“Không bao giờ người ta dùng bồ câu trắng đưa thư cả, Gunther giải thích.
“Bởi lẽ những lông vũ trắng rất dễ rụng, thế mà trên đường .về, bồ câu bay với tốc độ bình quân bốn mươi dặm một giờ”.
Tracy đứng xem Gunther cho đàn chim ăn với khẩu phần đặc biệt cộng thêm các vitamin khác nữa.
“Chúng là những con vật kỳ diệu”, Gunther nói. “Cô có biết là chúng có thể tìm đường trở về từ khoảng cách hơn năm trăm dặm không?”.
“Thật tuyệt”.
Và những người khách của Gunther cũng tuyệt vời”.
Có một vị bộ trưởng trong nội các đến cùng với vợ, một bá tước, một vị tướng cùng bạn gái của ông ta, và quận chúa xứ Morvi, một phụ nữ trẻ trung, hấp dẫn. “Xin gọi tôi là VJ”, chị ta nói bằng cái giọng không ngữ điệu, mặc chiếc xa ri màu hồng sẫm điểm những đường thêu màu vàng, và mang trên mình những đồ nữ trang bằng kim cương đẹp nhất mà Tracy từng thấy.
“Tôi giữ phần lớn đồ nữ trang của tôi, trong két sắt VJ”, phân bua. Dạo này nhiều trộm cướp lắm”.
Chiều chủ nhật trước hôm Tracy phải trở về London Gunther mời nàng vào phòng làm việc của ông ta. Họ ngồi đối diện nhau, giữa là một khay trà. Vừa rót trà vào những ly Beueek mỏng tang, Tracy vừa nói, “Ông Gunther, tôi không hiểu vì sao ông lại mời tôi tới đây, nhưng dù sao chăng nữa thì tôi cũng vẫn thấy thật dễ chịu”.
“Tôi rất hài lông, cơ Tracy”. Thế rồi ngừng một lát ông ta nối tiếp. “Tôi đã để ý quan sát cô”.
“Tôi biết thế”.
“Cô có dự định gì cho tương lai không?”.
Cô ngập ngừng. “Không. Hiện thời, tôi chưa quyết định sẽ phải làm gì”.
“Tôi nghĩ rằng chúng ta có thể làm việc với nhau”.
“Ý ông nói là với tiệm đồ cổ của ông ư?”.
Ông ta cười lớn. “Không, cô bé thân mến. Sẽ thật là xấu hổ nếu phung phí tài năng của mình. Cô thấy đấy, tôi biết về hành động táo bạo của cô trước Morgan.. Cô đã ứng xử tuyệt vời”.
“Ông Gunther ... tôi đã bỏ tất cả những thứ đó lại phía sau rồi”.
“Nhưng phía trước cô là gì nào? Cô vừa nói là không có dự định gì. Cô phải nghĩ về tương lai của mình chứ. Dù cô có một đống tiền đi chăng nữa thì rồi một ngày nào đó cũng sẻ hết. Tôi đề nghị với cô một sự hợp tác. Tôi giao thiệp với các giới có thế lực ở phạm vi quốc tế. Tôi tham gia các hội từ thiện, các hội săn bắn và các hội đua thuyền. Tôi biết việc đi về của những kẻ giàu có”.
“Tôi không thấy điều đó có liên quan gì tới mình”.
“Tôi có thể đưa cô gia nhập giới thượng lưu đó. Tôi có thể cung cấp cho cô thông tin về những món nữ trang, những bức họa cực kỳ đắt giá và những chỉ dẫn giúp cô đoạt được chúng một cách an toàn. Đó chỉ là việc tước đoạt lại của những kẻ làm giàu trên sự thiệt hại của người khác mà thôi. Mọi thứ đều sẽ được chia một cách công bằng giữa chúng ta. Cô trả lời thế nào?”.
“Tôi trả lời là không”.
Ông ta nhìn cô, nghĩ ngợi. “Tôi hiểu. Cô sẽ gọi cho tôi một khi cô thay đổi ý kiến chứ?”.
“Tôi sẽ không đổi ý đâu, ông Gunther”.
Tracy yêu thích London. Nàng ăn ở các nhà hàng Le Gavroche, Bill Bentley, Coin du Feu và những khi rời khỏi nhà hát sau các buổi diễn nàng tới tiệm Drones để thưởng thức món humberger Mỹ chính cống. Nàng tới thăm nhà hát Quốc gia, nhà hát Ôpêra Hoàng gia và tham dự các cuộc bán đấu giá các tác phẩm của Christie và Sotheby. Nàng đi mua sắm ở các cửa hàng sang trọng như Harrods, Fortnum và Mason, thuê một chiếc xe và một người lái, và đã có một kỳ nghỉ cuối tuần đáng ghi nhớ ở khách sạn Checoton Glen, New Hampshire.
Nhưng tất cả đều rất đắt tiền. Dù có một đống tiền đi chăng nữa thì một ngày nào đó nàng cũng tiêu hết.
Gunther Hartog nói đúng. Số tiền nàng éo chẳng thể đủ để chỉ dùng mãi được, và Tracy nhận thấy nàng phải có dự tính cho tương lai.
Nàng còn được mời tới nghỉ cuối tuần vài lần nữa ở trang viên của Gunther, và ngày càng thấy dễ chịu hơn khi tiếp xúc với ông ta.
Một tối chủ nhật, trong bữa ăn, một nghị sĩ quốc hội quay sang hỏi Tracy.
“Cô Wihitney, tôi chưa bao giờ gặp một người Texas chính cống cả. Họ thế nào nhỉ?”.
Tracy liền làm các điệu bộ bắt chước một quả phụ Texas mới phất lên và đã làm cho tất cả cười thích thú.
Sau đó, khi chỉ có riêng Tracy và Gunther, ông ta hỏi.
“Cô có muốn giả bộ như thế để kiếm được một khoản nhỏ không?”.
“Ông Gunther, tôi đâu có phải diễn viên”.
“Cô tự đánh giá mình quá thấp đấy. Có một hãng kim hoàn ở London, Paker and Paker, vốn quen với cái việc, như người Mỹ các cô vẫn nói, tước đoạt ngay khách hàng của mình. Cô vừa làm tôi nảy ra một cách thức hay trong việc bắt họ phải trả giá cho sự bất lương đó”. Rồi Gunther nói ra kế hoạch của mình”.
“Không”, Tracy đáp. Nhưng càng nghĩ về câu chuyện của Gunther, nàng càng thấy bị hấp dẫn. Nàng nhớ lại cái cảm giác đầy kích động khi lừa được mấy viên cảnh sát ở Long Island, rồi đến Jeff Stevens và Boris Melinikov, Pietr Nugulesco. Đó là những cảm giác không thể nào quên nổi. Tuy nhiên tất cả đã thuộc về quá khứ.
“Không, thưa ông Gunther”. Tracy nói lại. Nhưng lần này giọng nàng đã bớt đi vẻ chắc chắn.
Trời tháng Mười mà London ấm lạ thường và người Anh cũng như khách du lịch đã tận dụng ánh nắng mặt trời rực rỡ. Dòng xe cộ buổi trưa tấp nập đã gây những ùn tắc ở khu Trafalgar Square, Charing Cross và Piccadil1y Cirens. Một chiếc xe Daimler màu trắng rẽ khỏi phố Oxford chạy vào phố New Bond, len lỏi giữa dòng xe cộ và dừng lại trước một cửa hiệu kim hoàn lớn. Một tấm biển trang trọng, bóng lộn gắn bên cửa ra vào:
PR AND PARKER. Người tài xế mặc đồng phục mở cửa sau ra. Một phụ nữ trẻ, tóc vàng, mặt trát son phấn, trong một chiếc váy bó sát người kiểu Ý và chiếc áo khoác ngoài bằng lông chồn - hoàn toàn không hợp với thời tiết nhảy ra khỏi xe.
“Đi lối nào vậy, anh bạn trẻ?” Giọng cô ta oang oang, nặng thổ âm Texas.
Người tài xế chỉ về phía cửa tòa nhà. “Kia, thưa bà”.
“Tốt. Đợi quanh đâu đấy, không lâu đâu”.
“Tôi có thể sẽ phải chạy vòng vòng khu phố này, thưa bà ở đây không được phép đỗ xe”.
Cô ta vỗ vỗ lên lưng anh ta và nói:
“Cứ làm việc mình phải làm, công tử bột ạ”.
Công tử bột? Người tài xế bực bội. Phải lái loại xe cho thuê này thật là một sự trừng phạt. Anh ta không ưa dân Mỹ, nhất là người Texas. Họ là những kẻ thô bạo, ỷ vào đồng tiền. Anh ta hẳn sẽ phải kinh ngạc nếu biết rằng người khách này chưa bao giờ đặt chân tới vùng đất đó.
Tracy kiểm tra lại diện mạo qua cửa kính của gian trưng bày, nở một nụ cười thoải mái và đền đàng bước lại cửa ra vào mà một người gác mặc đồng phục đã mở sẵn cho nàng.
“Xin chào bà”.
“Chào cậu. Các người có bán gì nữa không ngoài ba thứ đồ nữ trang giả hả?
“ Rồi nàng cười khoái trá với câu đùa ấy.
Người gác cổng sa sầm mặt. Còn Tracy phớt lờ bước vào cửa hiệu, mang theo một mùi thơm quá mức của nước hoa Chloe.
Arthur Chilton, người bán hàng, bước về phía khách.
“Cho phép tôi được phục vụ bà”.
“Có thể được đấy, mà cũng có thể không. P.J thân yêu của tôi bảo tôi hãy tự mua cho mình một món quà sinh nhật, vì vậy tôi đang ở đây. Các anh có gì nào?”.
“Bà có ý muốn đặc biệt về một thứ gì không?”.
“Này, anh bạn, người Anh các anh là những người làm việc nhanh nhẹn, có phải không?” Nàng cười khàn khàn trong cổ họng và vỗ vai anh ta. “Có thể là một vài viên ngọc chẳng hạn. P.J yêu quý của tôi muốn mua cho tôi thứ đó đấy”.
“Xin mời bà đi lối này ...”.
Chilton đưa nàng lại bên một tủ kính, nơi trưng bày vài chiếc khay đựng những viên ngọc.
Nàng ném một cái nhìn khinh khỉnh. “Đây là loại nhóc con:
Cỡ bố mẹ chúng đâu hả?”.
Chilton cứng cỏi đáp. “Những viên ngọc này giá cũng tới ba mươi nghìn đô la đấy ạ”.
“Quỷ quái thật, chừng đó chỉ đáng tiền tôi trả người làm đầu cho tôi mà thôi”. Người đàn bà cười hô hố P.J yêu quý của tôi sẽ cảm thấy bị xúc phạm nếu như tôi mang về mấy cái hòn sỏi tý tẹo này”.
Chilton cố thử hình dung ra cái ông P.J yêu quý kia.
Hẳn là to béo và cũng ồn ào, đáng ghét như người đàn bà này. Họ xứng với nhau lắm.. Tại sao tiền bạc lại cứ chảy vào những kẻ không đáng được hưởng thế nhỉ? Anh ta bực dọc nghĩ.
“Bà quan tâm đến loại có giá trị tiền bao nhiêu ạ?”.
“Tại sao không bắt đầu từ thứ gì đó có giá khoảng một trăm tờ lớn nhỉ”.
Anh ta ngây người ra. “Môt trăm tờ lớn ạ?”.
“Quỷ quái thật, tôi cứ nghĩ rằng các người phải nói thứ tiếng Anh của nhà vua cơ đấy. Một trăm tờ lớn. Một trăm ngàn”.
Anh ta nuốt nước bọt. “Ô, Nếu vậy thì có lẽ bà nên nói chuyện với ông quản lý của chúng tôi”.
Viên quản lý Gregory Halston, nhất quyết đòi đích thân làm các vụ giao dịch lớn, và đối với những người làm công thì điều đó chẳng hề gì vì lẽ nhân viên của hãng Parker and Parker này không được nhận chút xíu hoa hồng nào hết. Và với một khách hàng như thế này thì Chilton chỉ cảm thấy dễ chịu khi có thể giao lại cho Halston mà thôi. Chilton bấm một nút điện dưới quầy hàng, và giây lát sau một người đàn ông với khuôn mặt tai tái, vẻ tham lam ló ra từ một cánh cửa phía sau. Anh ta thoáng nhìn người phụ nữ tóc vàng ăn mặc kỳ cục kia và thầm mọng sao đừng có khách hàng quen nào xuất hiện cho tới khi người phụ nữ này đi khỏi.
Chilton nói, “Ông Halston, đây là bà ... ờ ...? “ Anh ta quay sang phía người phụ nữ.
“Benecke, anh bạn, Mary Lou Benecke. Vợ của P.J. Benecke Chắc rằng các anh đều đã nghe tiếng ông chồng cao quý của tôi, P.J. Benecke?”.
“Thì dĩ nhiên rồi”. Gregory Holston hơi nhếch môi.
“Bà Benecke muốn mua viên ngọc, thưa ông Halston”.
Gregnry Halston chỉ các khay ngọc. “Chúng tôi có những viên ngọc xinh xắn ở kia ...”.
“Bà ấy muốn thứ có giá khoảng một.trăm ngàn đô la”.
Lần này nụ cười trên gương mặt Gregory Halston là hoàn toàn thành thực.
Một ngày được mở đầu thế này thì thật tuyệt.
Anh biết đấy, nhân ngày sinh nhật tôi, P.J. yêu quý muốn tôi tự mua cho mình một thứ gì đó thật đẹp”.
“Phải vậy, Halston nói. “Xin mời bà theo tôi”.
“Anh chàng bịp bợm này, liệu có gì để giới thiệu với tôi không hả?” Người đàn bà tóc vàng cười khúc khích.
Halston và Chilton giận tái mặt, đưa mắt nhìn nhau. Bọn người Mỹ khốn kiếp.
Halston đưa người đàn bà tới trước một cánh cửa và dùng chìa khóa mở nó ra. Họ bước vào căn phòng nhỏ, sáng trưng, và Halston thận trọng khóa cánh cửa sau lưng lại.
Đây là nơi chúng tới dành riêng cho các khách quý”, anh ta nói.
Ở giữa phòng là một cái tủ chứa đầy những viên kim cương ru bi, ngọc bích sáng lấp lánh.
“Ô, cái này khá hơn đây. P.J. yêu quý của tôi chắc sẽ rất thích”.
Bà có thấy ưng ý với viên ngọc, hay kim cương nào chưa ạ?”.
“Ồ; để xem đã”. Nàng bước tới bên ngăn tủ chứa những viên ngọc bích.
“Cho tôi thử xem cái đám kia nào”.
Halston lấy ra khỏi túi mình một chìa khóa nhỏ khác, mở ngăn tủ, nhấc một khay ngọc bích ra và đặt lên trên mặt bàn. Có mười viên ngọc lớn dựng trong một cái hộp lót nhung. Halston thấy người đàn bà nhặt lên viên lớn nhất, một viên ngọc bích nằm trên một cái cặp tóc bằng bạch kim.
“Như cách nói của P.J. yêu quý thì thứ này có ghi tên tôi ở trên đó”.
“Bà có con mắt tuyệt vời. Đây là một viên ngọc Colombia, 10 ca ra màu xanh cỏ. Nó không hề có vết và ...”.
“Ngọc nào mà chẳng có vết”.
Halston đắn đo một tích tắc và nhượng bộ ngay. “Tất nhiên, bà nói rất phải.
Ý tôi muốn nói là ... Bây giờ anh ta mới để ý thấy rằng cặp mắt người đàn bà xanh thẳm như màu của viên ngọc mà bà ta đang mân mê trong tay, xoay đi xoay lại, xem xét các mặt của nó.
“Chúng tôi còn có một bộ lớn hơn nếu ...”.
“Thôi khỏi, anh bạn yêu quý. Tôi sẽ lấy viên này”.
Việc mua bán diễn ra chưa đầy ba phút đồng hồ.
“Quý hóa quá”, Halston nói. Rồi anh ta tế nhị thêm vào, “Tính ra đô la là một trăm ngàn. Bà sẽ thanh toán thế nào ạ?”.
“Halston, đừng có bận tâm chuyện đó, cậu công tử bột ạ. Ngay tại London này, tôi có một tài khoản bằng đô la. Tôi sẽ viết một tấm séc nhỏ. Rồi P.J. sẽ trả tôi sau”.
“Tuyệt diệu. Tôi sẽ cho lau chùi viên ngọc cho bà và rồi cho chuyển tới tận khách sạn nơi bà ở”.
Thực ra thì chẳng cần phải lau chùi viên ngọc, nhưng Halston không hề có ý định rời nó ra cho tới khi tấm séc của bà ta được chuyển khoản xong, vì lẽ anh ta biết quá nhiều nhà kim hoàn đã bị mất tiền bởi những kẻ lừa đảo thông minh.
Halston vẫn lấy làm hãnh diện về việc chưa bao giờ để ai bịp, dù chỉ là một đồng bảng.
“Tôi sẽ cho chuyển viên ngọc tới đâu ạ?”.
“Chúng tôi ở khách sạn Dorch”.
Halston ghi lại:
Khách sạn Dorchester”.
“Một khách sạn lộn xộn”, nàng cười mỉa. “Bây giờ người ta không thích khách sạn này nữa vì nó đầy người Ả Rập, thế nhưng P.J. của tôi lại có rất nhiều công chuyện làm ăn với bọn họ. Ông ấy luôn mồm nói, Dầu lửa, bản thân nó là cả một vương qươc. P:J. Benecke là một người đàn ông tuyệt vời.
“Tôi tin là như vậy”. Halston đáp theo bổn phận.
Anh tá đứng nhìn người đàn bà xé ra một tờ séc và bắt đầu viết, rồi nhận ra rằng đó là mẫu séc của ngân hàng Barclays. Tất. Anh ta có bạn ở đó và người bạn này có thể xác minh cái tài khoản của gia đình Benecker.
Anh ta nhận tấm séc. “Tôi sẽ chuyển viên ngọc tới tận tay bà vào sáng mai”.
“P.J yêu quý sẽ thích nó lắm đấy”, nàng cười rạng rỡ.
“Tôi chắc là ông nhà sẽ thích nó”, Halston lịch sự đáp.
Anh ta tiễn nàng ra cửa trước.
“Halson ...” .
Anh ta đã toan nói “Halston”, song lại thôi. Việc quái gì? Lạy Chúa, anh ta sẽ chẳng bao giờ để mắt tới bà ta nữa cơ mà. “Dạ, bà muốn gì ạ?”.
“Một chiều nào đó, anh phải tới uống trà với chúng tôi nhé. Anh sẽ rất khoái ông P.J của tôi cho mà xem”.
Tôi thật tình muốn được vinh hạnh đó. Nhưng đáng tiếc, tôi đều phải làm việc các buổi chiều”.
“Thật chán chết”.
Anh ta nhìn theo bà khách đang bước ra hè đường. Một chiếc Daimler màu trắng trườn tới và người tài xế bước ra mở cửa xe. Bà ta quay lại giơ ngón tay trái làm hiệu chao alston khi chiếc xe lăn bánh.
Halston trở lại phòng làm việc của mình, tức khắc nhấc điện thoại gọi tới người bạn ở nhà băng Barcelays.
“Peter thân mến, tớ có trong tay tờ séc một trăm ngàn đô la tính vào tài khoản của một_bà Mary Lou Beneckẹ nào đó Cậu xem hộ có vấn đề gì không?”.
“Cầm máy, anh bạn”.
Halston đợi. Gần đấy, hàng họ ế ẩm nên anh ta càng mong là tấm séc ấy không có vấn đề gì. Anh em nhà Parker, chủ cửa hàng này, đã khô ng ngớt trách cứ anh ta, cứ như chính anh ta chứ không phải sự suy thoái kinh tế là nguyên nhân của sự ế ẩm đó vậy. Tất nhiên, phần lợi nhuận thì vẫn không đến nỗi quá tệ, bởi vì hãng Parker and Parker này có một xưởng chuyên gia công đồ kim hoàn, và thường thường những thứ đồ kim hoàn này khi được giao lại cho khách hàng thì chất lượng không còn bằng so với lúc nhập vào ban đầu nữa. Có nhiều lời phàn nàn, song chẳng có chứng cớ cụ thể gì cả.
Peter đã trở lại máy. “Không có vấn đề gì, Gregory, tài khoản đó có dư tiền để thanh toán cho tấm séc”.
Halston thở phào nhẹ nhõm. “Peter, cảm ơn cậu”.
“Có gì đâu”.
“Tuần sau đi ăn trưa nhé, tớ trả tiền”.
Sáng hôm sau, tấm séc được thanh toán và chiếc cặp gắn viên ngọc Colombia được một người giao hàng chuyển lại cho bà P.J Benecke tại khách sạn Dorchester.
Buổi chiều, khi gần tới giờ đóng cửa, thư ký của Gregory Halston bước vào nói. “Có một bà Benecker đến gặp ông, thưa ông Halston”.
Anh ta lặng người đi. Hẳn là mụ ta đến để trả cái cặp, và anh ta khó có thể từ chối nhận lại. Quỷ tha ma bắt cái đám đàn bà, cái bọn người Mỹ, và tất cả cái bọn người Texas ấy đi cho rảnh? Halston cố lấy vẻ tươi cười bước ra chào.
“Xin chào bà, bà Benecke. Tôi cho là ông nhà đã không thích món quà ...”.
Bà ta mỉm cười. “Anh nhầm rồi, anh chàng kỳ cục này. P.J của tôi thích nó đến phát điên lên ấy chứ?”.
Tim Halston rộn cả lên. “Thật vậy à?”.
“Đúng ra thì ông ấy thích nó tới mức muốn mua một cái nữa để rồi sửa thành một cặp khuyên tai. Cho tôi lấy thêm một cái cùng cặp với cái này đi”.
Gregory thoáng nhăn mặt. “Sợ rằng chúng ta đã gặp khó khăn một chút đây, bà Benecker”.
“Khó khăn gì vậy, anh bạn thân mến?”.
“Viên ngọc của bà là viên duy nhất. Không còn một viên nào khác giống nó cả. Bây giờ, xin giới thiệu với bà một viên rất đẹp, khác kiểu, mà tôi có thể ...”.
“Tôi không muốn kiểu khác. Tôi muốn một viên giống như viên này thôi”.
“Thưa bà Benecker, hoàn toàn ngay thẳng mà nói thì không có nhiều viên ngọc Colombia không hề có vết”, anh ta nhìn vẻ mặt hà khách. “Gẩn như không hề có vết đâu ạ”.
Nào, anh chàng công tử bột này. Phải có một viên ở đâu đó chứ”.
Thành thực mà nói, tôi thấy rất ít những viên ngọc cỡ đó và tìm kiếm một viên ngọc khác cùng cỡ, cùng màu hệt như thế này thì gần như là không thể được”.
“Người Texas chúng tôi có câu nói rằng cái điều gọi là không thể được là điều làm ta mất thêm một chút thì giờ mà thôi. Thứ bảy này là sinh nhật. P. J.
muốn tôi có cặp khuyên tai đó và P.J. muốn là phải được”.
“Tôi thực sự không nghĩ rằng tôi có thể ...”.
“Tôi đã trả cho cái cặp vừa rồi bao nhiêu nhỉ? Một trăm tờ lớn phải không?
Tôi tin rằng P.J của tôi sẽ có thể chấp nhận giá hai hoặc ba trăm ngàn để có một viên như thế nữa đấy”.
Gregory Halston vội vã nhẩm tính. Phải có một phiên bản nữa của viên ngọc ở đâu đó, và nếu P.J Benecke chịu trả tới 200.000 đô la thì quả là một món lời lớn. Mà thật ra, Halston nghĩ, mình có thể biến nó thành khoản lời cho riêng mình.
Anh ta đáp. “Thưa bà Benecke, tôi sẽ cố gắng tìm. Tôi quả quyết với bà là không éo một cửa hiệu kim hoàn nào ở London có một viên ngọc bích giống hệt như thế được, nhưng thường vẫn có thể có từ các vụ bán đấu giá. Tôi sẽ đăng quảng cáo xem có kết quả gì không.
“Anh có thời gian từ giờ tới cuối tuần”, bà khách tóc vàng nói. “Và giữa anh, tôi và cái cột đèn thì có thể nói thật là P.J yêu quý của tôi chịu trả tới giá ba trăm năm mươi ngàn đấy”.
Rồi bà Benecke bước ra phía cửa, cái áo lông chồn xù xù sau lưng.
Gregơry Halston vào ngồi trong phòng làm việc mơ màng. Định mệnh đã đẩy vào tay anh ta một ả đàn bà tóc vàng đỏng đảnh đến nỗi sẵn sàng trả 350 ngàn đô la để mua cho được một viên ngọc giá 100 ngàn. Một khoản lãi ròng .000 đô la, Gergory Halston thấy rằng không cần phải làm bận lòng anh em nhà Parker với các chi tiết của vụ mua bán này. Chỉ việc đơn thuần ghi lại vụ bán viên ngọc thứ hai với giá 100000 đô la và bỏ túi phần còn lại. Khoản .000 đô la kia sẽ đủ để anh ta gây dựng cuộc sống mới.
Tất cả việc mà anh ta phải làm bây giờ là kiếm một viên ngọc y hệt viên đã bán cho bà P.J Benecke.
Hóa ra việc này khó khăn hơn nhiều so với dự tính của Halston. Không một chủ hiệu kim hoàn nào, qua liên hệ bằng điện thoại, có được thứ anh ta yêu cầu.
Anh ta đăng lời rao tìm trên các tờ báo của London và liên hệ với các hãng Christie và Sotheby và hàng tá văn phòng đại lý khác nữa. Trong mấy ngày sau đó Halston chết ngập trong một thác những ngọc là ngọc, tốt có, xấu có, có cả những viên cỡ hạng nhất, thế nhưng không có viên nào trong số đó gần giống với thứ mà anh ta đang tìm kiếm.
Vào thứ tư, bà Benecke gọi điện đến. “P.J yêu quý của tôi bắt đầu thấy sốt ruột rồi đấy. Anh đã tìm được chưa?”.
“Chưa, thưa bà Benecke”, Halston cam đoan. “Nhưng bà đừng lo, chúng tôi sẽ tìm được”.
Vào ngày thứ sáu, Tracy lại gọi điện tới nhắc. Ngày mai là sinh nhật tôi”.
“Tôi biết, thưa bà Benecke. Nếu mà có thêm một vài ngày nữa thì tôi chắc là có thể ...”.
“Ồ thôi, đừng bận tâm làm gì, anh chàng công tử bột ạ Nếu sáng mai mà anh không kiếm được viên ngọc đó, tôi sẽ trả lại viên mà tôi đã mua ở chỗ anh. P.J của tôi, cầu Chúa phù hộ cho trái tim của ông ấy, định sẽ mua chó tôi một dinh thự ở nông thôn thay vào đó. Anh đã bao giờ nghe nói về khu Sussex chưa?
Halston toát mồ hôi. “Bà Benecke”, anh ta khẩn khoản. “Bà sẽ thấy rất khó sống ở Sussex:
Bà sẽ thấy chán ngắt khi phải sống trong một biệt thự ở nông thôn.
Đa phần những ngôi nhà này đang ở trong tình trạng tồi tàn. Chúng không có hệ thống lò sưởi và ...”.
“Giữa riêng anh và tôi”, nàng ngắt lời. “Nói thật là tôi thích cặp khuyên tai hơn. P.J của tôi thậm chí còn tỏ ý chịu trả bốn trăm ngàn đô la để mua một viên ngọc như thế nữa. Anh không thể biết P.J yêu quý của tôi là người bướng bỉnh đến thế nào đâu”.
Bốn trăm ngàn Halston như cảm thấy những đồng tiền đang lọt qua giữa các ngón tay mình. “Bà cứ tin ở tôi, tội đang làm tất cả những gì có thể”, anh ta nài nỉ. “Tôi cần thêm chút ít thời gian nữa”.
“Việc đó đâu phụ thuộc vào tôi, anh bạn thân mến. Tùy vào P.J thôi”.
Rồi máy im bặt.
Halston ngồi lặng, nguyền rủa số mệnh. Anh ta có thể tìm viên ngọc 10 ca ra như thế ở đâu ra cơ chứ? Quá mải mê với những ý nghĩ dằn vặt trong đầu, anh ta không nghe thấy tín hiệu gọi của máy đàm thoại nội bộ. Mãi tới hồi thứ ba, anh ta mới giật mình bấm nút và gắt lên. “Cái gì thế?”.
“Có một bà Marissa gọi điện tới, thưa ông Halston. Bà ấy đề cập tới lời rao của ta tìm mua viên ngọc ạ”.
Một viên ngọc nữa? Đã có ít nhất chục cú điện thoại gọi tới trong buổi sáng, và chẳng được việc gì cả. Anh ta nhấc máy lên và nói, giọng khiếm nhã. “Nghe đây”.
Một giọng phụ nữ mềm mại mang âm hưởng của Ý cất lên, “Xin chào ngài.
Tới đọc thấy trên báo rằng ngài muốn mua một viên ngọc bích phải không ạ?”.
“Nếu như nó phù hợp với các yêu cầu chất lượng của tôi thì đúng vậy”. Anh ta không giấu nổi vẻ sốt ruột trong giọng nới của mình.
“Tôi có một viên ngọc vốn là kỷ vật của gia đình trong nhiều năm qua. Nó đúng là một kỷ vật, thật đáng buồn, nhưng hoàn cảnh giờ đây buộc tôi phải bán nó”.
Anh ta đã từng nghe những chuyện kiểu đó. Mình phải liên hệ lại với hãng Christie, Halston nghĩ. Hoặc với hãng Sothaby. Có khi tới phút cuối cùng lại được việc cũng nên, hoặc giả ...
“Thưa, ngài đang tìm mua một viên ngọc bích mười ca ra phải không ạ?
“Đúng thế”.
“Tôi có một viên mười ca ra - màu xanh - Colombia”.
Halston cảm thấy cổ họng như nghẹn lại khi toan cất tiếng. “Xin ... xin bà nói lại xem nào?”.
“Vâng. Tôi có một viên ngọc Colombia mười ca ra, màu xanh cỏ. Ông có muốn mua không?”.
Anh ta thận trọng đáp. “Không biết bà cô thể ghé qua và cho tôi xem được không?”.
“Không, thật dáng tiếc, tôi sợ rằng tôi đang bận. Chúng tôi đang chuẩn bị cho nhà tôi một bữa tiệc tại đại sứ quán mà. Có thể là tuần tới tôi mới. ..”.
Không! Tuần tới thì quá muộn. “Tôi có thể đến gặp bà được không ạ?” Anh ta cố giấu vẻ sốt sắng. “Tôi có thể tới ngay bây giờ”.
“Ôi, không. Tôi đang bận mà. Tôi đang định đi mua bán ...”.
“Bà đang ở đâu, thưa bà?”.
“Khách sạn Savoy”.
“Tôi sẽ có mặt sau mười lăm phút, mười phút thôi”.
Giọng anh ta hăng hái.
“Cũng được. Và tên ngài là ...”.
“Halston. Gregory Halston”.
“Xin mời tới phòng hai mươi sáu”.
Tắc xi chạy sao chậm thế? Tâm trạng Halston thoắt sung sướng thoắt lo âu, rồi lại sung sướng đến nghẹt thở. Nếu viên ngọc này mà giống với viên ngọc kia, anh ta sẽ trở nên giàu có tới mức cả trong giấc mơ cũng không dám. Ông P.J. kia sẽ trả 400 ngàn đô la. Một khoản lãi ròng 300 ngàn. Ta sẽ mua một cơ ngơi bên sông Riviere, và một chiếc thuyền cao tốc nữa chứ. Với một biệt thự riêng, một chiếc thuyền riêng, ta sẽ tha hồ cám dỗ những cậu trai trẻ trung, xinh xắn mà ta thích ...
Gregory Halston là một kẻ theo thuyết vô thần, ấy vậy mà khi bước vào hành lang của khách sạn Savoy, trên đường tới căn phòng số 26, anh ta thấy mình đang thầm cầu nguyện:
xin để cho viên ngọc này vừa lòng ông P.J Benecke.
Anh ta đứng trước cửa phòng 26, cố thở sâu và chậm để lấy lại vẻ bình tĩnh rồi gõ cửa, và không nghe rõ tiếng trả lời.
Ôi, lạy Chúa, Halston nghĩ. Bà ta đã đi rồi. Bà ta đã không đợi mình. Bà ta đi mua sắm và ...
Cánh cửa mở ra, và Halston thấy mình đúng trước một người đàn bà trạc 50 vẻ trang nhã, với cặp mắt sẫm màu, gương mặt đầy nếp nhăn và mái tóc đã điểm bạc.
Khi nói, giọng bà ta mềm mại với cái âm hưởng của tiếng Ý mà Halston đã biết. “Cái gì vậy, thưa ông”.
“Tôi là G ... Gregory Halston. Bà đã gờ ... gọi điện cho tôi” Anh ta lắp bắp vì quá hồi hộp.
“À, vâng? Tôi là Marissa đây. Xin mời ngài vào”.
“Cám ơn bà”.
Anh ta bước vào phòng, cố khép hai đầu gối lại nhau cho đỡ run. Suýt nữa anh ta đã buột miệng, “Viên ngọc đâu? “Nhưng biết là phải kìm chế. Không được tỏ ra quá sốt sắng. Nếu viên ngọc là đáng hài lòng, anh ta sẽ có lợi thế trong việc mặc cả. Dù sao thì mình cũng là chuyên gia còn bà ấy chỉ là một kẻ nghiệp dư.
“Xin mời ngồi”, bà ta nói.
Anh ta ngồi xuống cái ghế tựa.
“Xin lỗi. Tôi nói tiếng Anh kém quá”.
“Không, không? Tiếng Anh của bà rất tuyệt”.
“Cám ơn. Ngài có muốn dùng một chút cà phê? Hay trà?”.
“Không, xin cám ơn bà”.
Anh ta thấy nôn nao trong bụng. Hỏi đến viên ngọc ngay thì có vội quá không? Nhưng cũng không thể đợi thêm, dù chỉ một giây. “Cái viên ngọc ...”.
Bà ta đáp ngay, “A, vâng. Bà nội trao viên ngọc này cho tôi và tôi muốn được chuyển lại cho con gái khi nó 25 tuổi, nhưng nhà tôi đang mở một cuộc kinh doanh mới ở Milano, và tôi ...”.
Halston có nghe thấy gì đâu. Anh ta không quan tâm đến chuyện đời sống tẻ nhạt của người đàn bà xa lạ này, mà chỉ nóng lòng muốn được thấy viên ngọc.
Anh ta không thể chịu đựng nổi sự trì hoãn dài dòng và vô ích này.
“Điều quan trọng là giúp chồng tôi có thể bắt tay vào việc” Bà ta gượng cười phiền muộn. “Có thể là tôi đang phạm sai lầm trong việc này”.
“Không, không”. Halston vội nói. “Chẳng sai gì cả, thưa bà. Giúp chồng là bổn phận của người vợ. Viên ngọc giờ ở đâu ạ?”.
“Tôi có ở ngay đây”, bà ta đáp rồi thò tay vào túi lấy ra viên ngọc được gói kỹ đưa cho Halston. Anh ta nhìn nó và thấy bừng bừng cả người. Đó là một viên ngọc Colombia 10 ca ra óng ả, màu xanh cỏ. Nó giống viên ngọc mà anh ta đã bán cho bà Benecke về kích cỡ, màu sắc đến mức gần như không thể phát hiện sự khác nhau giữa chúng. Thật giống hệt, Halston tự nhủ, và chỉ chuyên gia mới cớ thể thấy sự khác biệt được. Hai bàn tay Halston run run, cố buộc mình phải trấn tĩnh lại.
Anh ta xoay xoay viên ngọc, ngắm nghía các mặt lung linh tuyệt đẹp của nó, và rồi bình thản nói. “Một viên ngọc khá xinh xắn”.
“Vâng, thật là đẹp. Trong bao nhiêu năm qua tôi thật yêu thích nó, và chả muốn phải rời nó ra”.
“Bà đang làm một việc đúng đắn”, Halston vỗ về. “Một khi mà việc làm ăn của ông nhà thành đạt thì bà sẽ có thể mua bao nhiêu viên ngọc này chẳng được”.
Chính đó là điều tôi nghĩ đấy. Ngài thật biết thông cảm”.
“Việc này là tôi giúp cho một người bạn, thưa bà. Cửa hiệu chúng tôi có những viên ngọc đẹp hơn thế này nhiều, nhưng bạn tôi muốn có một viên hợp với viên mà vợ anh ta đã mua. Tôi nghĩ rằng anh ta sẽ chịu trả tới sáu mươi ngàn đô la để có được viên ngọc này đấy”.
Halston mím chặt môi. Mình có thể chấp nhận giá cao hơn cơ mà? Anh ta mỉm cười. “Biết nói thế nào nhỉ ... Tôi nghĩ rằng tôi có thể thuyết phục bạn tôi mua với giá một trăm ngàn. Kể thì đó là một đống tiền, nhưng anh ta nóng lòng muốn có viên ngọc này”.
“Nghe cũng được”, người đàn bà nói.
Và tim Gregory Halston như căng phồng lên trong lồng ngực. “Tốt! Tôi có mang theo cuốn séc của mình, tôi sẽ viết một tấm séc cho bà ...”.
“Ô, không ... Tôi sợ rằng chừng ấy chẳng đủ để giải quyết khó khăn của tối được”, Giọng đầy buồn rầu.
Halston nhìn bà ta chằm chằm. “Khó khăn của bà ư?”.
“Vâng. Như tôi đã giải thích đấy, chồng tôi đang đi vào một công cuộc làm ăn mới, và ông ấy cần ba trăm năm mươi ngàn đô la. Tôi có một trăm ngàn, tiền riêng, để đưa ông ấy, và tôi còn cần hai trăm năm mươi ngàn nữa. Tôi cứ ngỡ là bán viên ngọc này sẽ được ngần ấy”.
Anh ta lắc đầu. “Thưa bà, toàn thế giới này không có viên ngọc bích nào đáng giá ngần ấy tiền cả. Xin bà tin tôi, một trăm ngàn đô là cái giá hơi cao rồi đấy.
“Ông Halston, tôi tin là vậy, “ bà ta nói. “Nhưng cũng chẳng giúp gì được ông nhà tôi, có phải không nào?” Bà ta đứng lên. “Tôi sẽ giữ lại cho con gái tôi vậy”. Bà ta chìa bàn tay thanh tú của mình ra. “Xin cám ơn ngài. Cám ơn ngài đã đến đây”.
Halston chết lặng. “Xn đợi một chút”, anh ta nói.
Lòng tham đang vượt lên tên mọi cảm giác thông thường và anh ta quyết không để tuột mất viên ngọc khỏi tay mình. “Xin mời bà ngồi lại. Tôi chắc là chúng ta có thể đi tới một sự dàn xếp có tình có lý Nếu tôi có thể thuyết phục khách hàng của tôi trả một trăm năm mươi ngàn đô la.”.
“Hai trăm năm mươi ngan đô la”.
“Nào thôi, hại trăm ngàn vậy?”.
“Hai trăm năm mươi ngàn đô la”.
Bà ta không hề lay chuyển. Halston tính toán phần mình. Món lời 150.000 đô lá rõ ràng còn hơn là không có gì Có nhà là một biệt thự và một con thuyền nhỏ hơn, nhưng vẫn là cả một gia sản. “Và cũng đáng để đổi với những cư xử bủn xỉn của anh em nhà Parker. Halston sẽ đợi một hai ngày rồi thông báo cho họ quyết định của mình. Tuần sau thì mình sẽ ở Cote d Azur của nước Pháp rồi.
“Xin theo ý bà”, anh ta nói.
“Tuyệt. Tôi rất hài lòng”.
Thì dĩ nhiên là mụ mãn nguyện còn gì, đồ chó, Halston thầm nghĩ. Thế nhưng phần anh ta cũng không có gì phải phàn nàn. Anh ta có thể gây dựng cả một cuộc sống. Halston nhìn viễn ngọc một lần nữa rồi bỏ nó vào túi “Tôi sẽ trao cho bà tấm séc tính vào tài khoản của cửa hiệu”.
“Tốt. Cám ơn ngài”.
Halston viết séc rồi trao nó cho bà ta. Mình sẽ yêu cầu bà P.J Benecke viết tờ séc 400.000, Peter sẽ giúp rút ra tiền mặt, và mình sẽ bỏ túi khoản chênh lệch.
Mình cũng sẽ thu xếp với Peter để sao cho tấm séc 250.000 đô la này không xuất hiện trong báo cáo tài chính hàng tháng của anh em nhà Parker.
Một trăm năm mươi ngàn đô la. Halston như đã cảm thấy nắng ấm của bờ biển miền Nam nước Pháp mơn man trên mặt ...
Chuyến tắc xi trở về cửa hiệu dường như chỉ mất ít giây đồng hồ. Halston hình dung ra vẻ sung sướng của bà Benecke khi nghe anh ta báo tin. Không những đã kiếm được viên ngọc bà ta yêu thích, mà còn giúp bà ta khỏi phải sống trong một ngôi nhà nông thôn tàn tạ nữa.
Khi Halston bước thấp bước cao đi vào cửa hiệu, Chilton nói. “Thưa ngài, có một khách hàng ở đây đang muốn ...”.
Halston vui vẻ gạt anh ta sang bên. “Đợi đã”.
Anh ta không có thì giờ cho các thứ khách hàng. Lúc này, và không bao giờ nữa. Từ giờ trở đi, người ta sẽ phải phục vụ Halston. Anh ta sẽ có thể đi mua hàng ở các cửa hiệu Hermes, Gucci, Lanvin, và ...
Halston khấp khởi bước vào phòng làm việc, đóng cửa lại, đặt viên ngọc lên bàn, và quay số điện thoại.
Giọng người nhân viên tổng đài vang lên “Khách sạn Dorchester đây”.
“Xin phòng Oliver Messel”.
“Ông muốn nói chuyện với ai ạ?”.
“Bà P.J. Benecke”.
“Xin đợi một chút”.
Halston huýt sáo miệng khe khẽ.
Tiếng người nhân viên tổng đài lại vang lên. “Xin lỗi ông, bà Benecke đã trả buồng rồi ạ”.
“Vậy bà ta đã chuyển sang buồng nào thì hãy cứ gọi buồng ấy”.
“Bà Benecke đã thôi không còn ở khách sạn này ạ”.
“Thật vô lý. Bà ấy ...”.
“Tôi sẽ để ông nói chuyện với bộ phận tiếp tân”.
Một giọng đàn ông cất lên. “Bộ phận tiếp tân đây. Xin phép được giúp đỡ ông ...?”.
“Vâng. Bà Benecke đang ở buồng nào vậy?”.
Bà Benecke đã rời khỏi khách sạn sáng nay”.
Phải có một lý do. Một sự việc khẩn cấp nào đấy.
“Xin cho địa chỉ tiếp theo của bà ấy vậy. Đây là ...”.
“Xin lỗi, bà ấy không để địa chỉ lại”.
“Dứt khoát bà ấy có để địa chỉ lại”.
“Tôi đích thân làm thủ tục thanh toán, trả buồng với bả Benecke mà. Bà ấy không để lại cái gì cả”.
Thật như một nhát dao đâm thẳng vào bụng. Halston chậm chạp buông máy và ngồi lặng người, hoang mang. Phải tìm cách liên hệ để báo cho bà. ấy biết rằng sau cùng thì anh ta đã tìm được viên ngọc. Trong khi chờ đợi, phải lấy lại tờ séc 250.000 đô la ở chỗ bà Marissa.
Anh ta hấp tấp quay số gọi khách sạn Savoy.
“Xin buồng hai mươi sáu”.
“Xin cho biết ông gọi ai ạ?”.
“Bà Marissa”.
“Xin đợi”.
Nhưng thậm chí khi người nhân viên tổng đài chưa trở lại, một inh cảm khủng khiếp đã báo trước cho Halston cái thảm họa mà anh ta sẽ phải chịu.
“Xin lỗi. Bà Marissa đã trả buồng.
Anh ta gác máy. Những ngón tay run bần bật đến mức phải khó khăn lắm mới quay nổi số máy của nhà băng. “Cho tôi nói với kế toán trưởng ... nhanh lên Tôi muốn chặn một tấm séc”.
Dĩ nhiên là đã quá muộn. Halstơn đã bán một viên ngọc bích với giá một trăm ngàn đô la và rồi mua lại chính viên ngọc đó với giá hai trăm năm chục ngàn.
Gregory_Halston rũ người trên ghế, dằn vặt nghĩ cách giải thích với anh em nhà Parker.
 
Chương 22


Một cuộc sống mới bắt đầu đối với Tracy. Nàng mua ngôi nhà cổ rất đẹp a 45 Quảng trường Eaton - thật hoàn hảo cho việc tiếp bạn bè, khách khứa. Ngôi nhà có “Nữ hoàng Anne” cách người Anh dùng để chỉ một khu vườn phía trước nhà, và “Mary Anne”, một khu vườn phía sau, và vào mùa họa thì cả hai đều thật hấp dẫn. Gunther đã giúp Tracy trong việc sắm sửa đồ đạc, và ngay khi công việc chưa hoàn thành thì ngôi nhà đã là một trong những nơi kỳ thú của London.
Gunther đã giới thiệu Tracy là một quả phụ trẻ tuổi, giàu có nhờ tài sản của chồng - một nhà kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu - để lại. Nàng mau chóng nổi danh, đẹp lộng lẫy, thông minh và quyến rũ, nhanh chóng bị ngập bởi những lời mời mọc.
Rảnh rỗi, Tracy làm những chuyến đi ngắn sang Pháp, Thụy Sĩ, BI và Ý, và mỗi lần như vậy nàng cùng Gunther Hartog đều kiếm được tiền.
Dưới sự hỗ trợ của Gunther, Tracy Tracy đã nghiên cứu các cuốn Niên giám Gotha và Các tước vị quý tộc của Debrett - những cuốn sách chính thống cung cấp tốt cả các thông tin về giới hoàng tộc ở châu Âu. Tracy đã biến thành con kỳ nhông đổi màu, một chuyên gia trong lĩnh vực hóa trang và thay đổi giọng nói, âm điệu. Nàng đã có trong tay tới nửa tá hộ chiếu khác nhau ở nhiều nước, khi thì nàng là nữ hầu tước Anh, khi thì là một chiêu đãi viên hàng không Pháp, và khi lại là một quả phụ Nam Mỹ. Trong một năm nàng đã tích lũy được món tiền quá mức cần thiết. Nàng lập ra một quỹ riêng và lấy ở đó để đóng góp những khoản tiền lớn, nặc danh, cho các tổ chức giúp đỡ những phụ nữ mới ra tù, và nàng thu xếp để hàng tháng, một khoản tiền lớn được chuyển đến cho Otto Schmidt. Thậm chí, giờ đây nàng không hề còn ý nghĩ từ bỏ những hành động tội lỗi này nữa. Nàng thích thú tính thách đố của việc lừa gạt những người thông minh và thành đạt trong cuộc sống. Chỉ có một nguyên tắc sống mà nàng tôn trọng:
Tránh gây đau khổ cho những người lương thiện. Những kẻ phải nhảy dựng lên trước mánh khóe của nàng đều là những kẻ hoặc tham lam hoặc vô đạo đức, hoặc cả hai. Tracy tự hứa với mình không ai phải tự tử vì những gì mình làm với họ.
Báo chí bắt đầu đăng tải tin tức về những hành vi lừa gạt táo tợn đang xảy ra khắp chậu Âu, và bởi vì Tracy luôn luôn cải trang dưới những diện mạo khác nhau, nên cảnh sát đã tin rằng có một băng phụ nữ đang tiến hành một loạt các vụ đó. Tổ chức cảnh sát Quốc tế cũng đã bắt đầu quan tâm đến việc này.
Tại trụ sở ở Manhattan của Hiệp hội Bảo hiểm quốc tế, J.J Reynolds triệu tập Daniel Cooper đến.
“Chúng ta đang gặp khó khăn”, Reynolds nói. “Nhiều khách hàng châu Âu của chúng ta đang bị tiến công mà rõ ràng là do một băng nhóm phụ nữ. Tốt cả đang ầm ĩ cả lên. Họ đòi phải bắt giữ chúng lại. Tổ chức Cảnh sát Quốc tế đã nhận hợp tác với chúng ta. Đó là công việc của cậu, Dan ạ, cậu phải đi Paris”.
Tracy đang ăn chiều với Gunther Hartog tại tiệm Seott trên phố Mount.
“Tracy này, cô đã bao giờ nghe nói về Maximilian Pierpont chưa?”, Cái tên có vẻ quen quen. Nàng đã nghe ở đâu rồi nhỉ?
Và chợt nhớ ra. Jeff Stevens đã nói tới khi họ ở trên boong tàu Nữ hoàng El1zabeth? “Chúng ta có mặt ở đây vì cùngmột lý do. Maximilian Pierpont?
“Ông ta rất giàu chứ gì?”.
“Và bỉ ổi. Chuyên mua các Công ty rồi cướp phá chúng”.
Tracy nhớ lại lời Otto Schmldt. “Khi Joe Romano nắm lấy toàn hộ công việc, hắn đuổi tốt cả mọi người và đưa người của hắn vào thay thế. Rồi hắn bắt đầu cướp phá công ty Họ đã lấy mọi thử công việc kinh doanh ngôi nhà, chiếc xe của mẹ cô ...
Gunther ngạc nhiên nhìn nàng. “Tracy, cô có khỏe không?”.
“Tôi khỏe”. Đôi khi cuộc sống thật là bất công, nàng nghĩ, và chính chúng ta phải là người làm cho mọi chuyện công bằng trở lại.
“Hãy cho tôi biết thêm về Maximil1an Pierpont đi”, nàng nói với Gunther. .
“Cô vợ thứ ba mới ly dị, và giờ đây ông ta sống một mình. Tôi nghĩ có thể Anh kiếm được tiền nếu như cô làm quen với quý ông này. Ông ta đã đặt mua vé trên chuyến tàu tốc hành phương Đông vào ngày thứ sáu, từ London đi Ixtambun.
Tracy mỉm cười. “Tôi chưa bao giờ được đi trên tàu tốc hành Phương Đông.
Tôi cho rằng sẽ thấy thích thú”.
Gunther mỉm cười. “Tốt. Maximil1an Pierpont có trong tay bộ sưu tập trứng chim Faberge đáng kể nhất nằm ngoài ảo tàng Hermitage ở Leningrađ. Nó vẫn được ước đoán là có giá tới hai mươi triệu đô la”.
Tracy hỏi. “Nếu mà tôi lấy được mấy quả trứng đó cho ông thì ông sẽ làm gì với chúng, Gunther? Chúng nổi tiếng thế thì làm sao mà bán được?”.
“Tracy thân mến, còn có những nhà sưu tầm tư nhân chứng. Hãy đem những quả trứng bé nhỏ đó về, và tôi sẽ tìm được ổ cho chúng.
“Để tôi xem liệu có thể làm gì được”.
“Cũng không dễ tiếp cận Maximilian Pierpont đâu. Tuy vậy, có hai con bồ câu khác cũng đặt vé trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông vào ngày thứ sáu - đi dự Liên hoan phim ở Venice. Tôi nghĩ rằng chúng cũng đủ béo để có thể được vặt lông rồi. Cô đã nghe nói về Silvana Luadi chưa?”.
“Minh tinh màn bạc người Ý?”.
“Cô ta kết hôn với Aiberto Fornati, người sản xuất những bộ phim anh hùng ca khủng khiếp. Fornati thì đầy tai tiếng về chuyện thuê mướn diễn viên và đạo diễn với một khoản tiền mặt nhỏ nhoi, hứa với họ về một khoản chia phần trăm khá lớn trong số lợi nhuận về sau, rồi thì chẳng cho họ tý gì nữa. Hắn ta đủ sức để mua cho vợ những món nữ trang khá đắt tiền. Hắn càng không chung thủy với vợ bao nhiêu thì càng cho vợ nhiều đồ nữ trang bấy nhiêu. Bây giờ thì Silvana phải dư sức mở cửa hiệu kim hoàn của riêng ả ta ấy chứ. Tôi nghĩ rằng cô sẽ thấy họ là những người bạn đồng hành thú vị”.
“Tôi thấy thích đấy”. Tracy đáp.
Đoàn tàu tốc hành Phương Đông khởi hành từ ga Victoria ở London vào, các thứ sáu hàng tuần lúc 11 giờ 44 phút, chạy đi Ixtambun, với các điểm tạm dừng ở Boulogue, Paris, Lausanne, Milan và Venice. Ba mươi phút trước giờ khởi hành, một bàn kiểm soát được đặt ngay lối cửa ra vào để lên tàu, và hai nhân viên lực lưỡng mặc đồng phục trải một tấm thảm đỏ trước chiếc bàn rồi đứng sang hai bên đón khách.
Những ông chủ mới của đoàn tàu tốc hành Phương Đông đã hy vọng làm sống lại dĩ vãng vẻ vang của những đoàn xe lửa chở khách thời cuối thế kỷ 19, và đoàn tàu mới này được đóng giống hệt như đoàn tàu ngày trước với một toa kiểu Ănglê dùng làm nơi ngồi chơi, giải trí, vài toa dùng làm phòng ăn, một toa dùng làm tiệm giải khát, và các toa dùng làm phòng ngủ.
Một nhân viên trong bộ đồng phục xanh nước biển thời năm 1920 với những chiếc tua vàng mang hai chiếc va li và chiếc xắc nhỏ của Tracy tới tận ca bin của nàng, một chổ hơi nhỏ. Có một chiếc ghế duy nhất phủ thảm len, nền thêu hoa. Thảm trải sàn, cũng như cái thang để leo lên gi.ường, đều một màu xanh.
Ca bin cứ giống như một hộp kẹo.
Tracy đọc tấm thiếp gắn trên chai sâm banh nhỏ để sẵn trên bàn:
OLIVER AUBERT, TRƯỞNG TÀU.
Mình sẽ chờ khi có cái gì đó đáng chúc mừng, Tracy nghĩ.
Maximilian Pierpont. Jeff Stevens đã bị lỡ. Được hớt tay trên ông Stevens thì cũng thú vị đấy. Tracy mỉm cười với ý nghĩ đó.
Nàng loay hoay sắp xếp hành lý và treo sẵn ra ngoài mấy bộ quần áo cần dùng tới. Nàng thích đi trên chiếc máy bay phản lực của hãng Pan American hơn là trên một xe lửa, nhưng chuyến đi này thì đầy hứa hẹn là hứng thú.
Đúng giờ, đoàn tàu tốc hành Phương Đông rời khỏi ga. Tracy ngồi tựa mình trên ghế ngắm nhìn vùng ngoại ô phía Nam London lướt qua khung cửa sổ.
giờ 15 hôm đó, đoàn tàu tới cảng Folkestone nơi hành khách xuống phà để vượt eo biển sang Boulogne thuộc Pháp, và từ đây, họ lên một đoàn tàu tốc hành Phương Đông khác chạy tiếp về phía Nam.
Tracy gặp một nhân viên trên tàu, hỏi anh ta. “Tôi nghĩ rằng ông Maximilan Pierpont đang cùng đi với chúng ta. Anh có thể chỉ ông ta cho tôi không A. Anh nhân viên lắc đầu. “Rất tiếc, thưa cô. Ông ta đặt buồng, trả tiền, nhưng không thấy mặt dâu cả. Tôi nghe nói ông ấy là người tính nết rất thất thường.
Ở Boulogne, hành khách được đưa lên đoàn tàu tốc hành Phương Đông chạy trên phần lục địa châu Âu.
Không may là cabin của Tracy cũng giống hệt như trên đoàn tàu trước, và cái gi.ường chẳng êm ái gì cả làm nàng khó chịu, nằm lỳ trong cabin suốt cả ngày dế tính toán kế hoạch, và tới tôi mới bắt đầu mặc áo xống.
Tàu tốc hành Phương Đông quy định ăn mặc trang trọng vào buổi tối, và Tracy lựa một chiếc váy dài màu trắng sữa lộng lẫy may bằng hàng tơ mỏng dính, tốt chân và đôi giày màu xám. Trước khi ra khỏi cabin, nàng đứng trước gương ngắm lại thật kỹ. Cặp mắt màu xanh lục đầy vẻ ngây thơ, gương mặt toát lên vẻ vụng về, yếu đuối. Cái gương mặt thật dối trá. Tracy thầm nghĩ. Mình đấu còn là một phụ nữ như vậy nữa. Mình đang sống một cuộc sống giả tạo, Nhưng thú vị.
Vừa ra khỏi cabin, cái ví trên tay nàng tuột rơi xuống sàn và khi cúi xuống nhặt, nàng nhanh nhẹn xem xét các ổ khóa. Mỗi cánh cửa cabin trên tàu có hai ổ khóa. Một Yale, và một kiểu Universal. Không có vấn đề gì đáng kể Tracy tiếp tục đi về phía toa xe, nơi đặt phòng ăn.
Đoàn tàu có ba toa xe dùng làm nơi ăn uống. Các ghế ngồi đều phủ thảm len, các bức vách được ốp gỗ, và những ngọn đèn gắn trên trần tỏa ra một thứ ánh sáng dịu dàng. Tracy bước vào phòng ăn thứ nhất và thấy có dăm ba bàn còn trống. Một nữ tiếp viên đón nàng. “Tiểu thư dùng bàn cho một người ạ?”.
Tracy đưa mắt nhìn quanh. “Tôi đang tìm bạn:
Cảm ơn”.
Nàng đi tiếp sang toa ăn sau. Phòng này Đông hơn, nhưng cũng vẫn còn vài bàn trống chỗ.
“Chúc một buổi tối tốt lành cô tiếp viên chào. “Tiểu thư ăn một mình sao?”.
“Không, tôi ăn với bạn. Cám ơn”.
Nàng đi sang toa ăn thứ ba. Tốt cả các bàn đều đã có người.
Cô tiếp viên đón ngay ở cửa. “Thưa, tôi e rằng bà phải đợi Tuy nhiên, ở hai toa kia vẫn còn bàn đấy ạ”.
Tracy nhìn quanh và đã thấy mục tiêu của mình tại một bàn trong tít tận góc phòng. “Không sao”, Tracy nói, “Tôi có bạn mà”.
Nàng bước lại cái bàn ở góc xa đó. “Xin lỗi”, nàng nói dè dặt. “Dường như tốt cả các bàn đều chật rồi. Các vị có cho phép tôi ngồi cùng không ạ?”.
Người đàn ông nhanh nhẹn đứng dậy, nhìn nàng chằm chằm và thốt lên “Tốt thôi. Xin mời ngồi. Tôi là Alberto Fornati và đấy là vợ tôi, Silvana Luadi”.
“Tôi là Tracy Wihitney”:
Chuyến đi này nàng dùng hộ chiếu thật.
“A, một phụ nữ Mỹ. Tôi nói tiếng Anh thì tuyệt vời”.
Alberto Fornati người thấp, béo và hói đầu. Ô Rome, người ta bàn tán rất nhiều trong suốt mười hai năm qua kể từ khi họ chung sống với nhau, về nguyên nhân gì đã làm cho Silvana Luadi chịu cưới Fomati. Silvana Luadi là một người phụ nữ in vẻ đẹp quý tộc, với thân hình gợi cảm và tài năng bẩm sinh. Cô ta đã giành một Oscar, một Cành cọ bạc và luôn luôn được mời đóng phim. Tracy nhận thấy cô ta mặc chiếc váy dài buổi tối biểu Valentino - giá năm ngàn đô la, và đồ nữ trang mà cô tạ mạng trên người phải trị giá tới gần một triệu. Nàng nhớ lại lời Gunther:
Hắn càng không chung thủy với vợ bao nhiêu thì càng cho vợ nhiều đồ nữ trang bấy nhiêu. Bây giờ thì Silvana phải được sức mở hiệu kim hoàn riêng của cô ta ấy chứ.
“Đây là lần đầu tiên cô đi tàu tốc hành Phương Đông phải không, tiểu thư”.
Sau khi nàng ngồi xuống, Fornati mở đầu câu chuyện.
“Thưa vâng”.
“A, đoàn tàu này đẩy những câu chuyện lãng mạn cặp mắt ông ta ướt rượt.
“Có nhiều mẩu chuyện lý thú. Ví dụ, ngài Basil Zaharoff, trùm lái súng, vẫn thường đi trên đoàn tàu này ngày trước - luôn luôn ở cabin số 7. Một đêm ông ta nghe có tiếng kêu và cửa cabin ông ta bi xô bật. Một người phụ nữ Tây Ban Nha trẻ trung, xinh đẹp ngã nhào vào ông ta”. Fornati dừng lời, phết bơ lên miếng bánh và đưa vào miệng. “Cô ta đang bị chồng dọa giết. Các bên cha mẹ đã thu xếp cho cuộc hôn nhân, và cô gái tội nghiệp đến lúc đó mới biết người chồng bị bệnh tâm thần. Zaharoff đã ngăn cản người chồng và an ủi cô gái trẻ trung đang khiếp sợ và rồi từ đó bắt đầu một cuộc tình đầy lãng mạn kéo dài suốt bốn mươi năm”.
“Thật thú vị”. Tracy đáp, cặp mắt mở to thích thú.
“Đúng thế đấy. Sau đó, họ lại gặp nhau trên tàu tốc hành Phương Đông, ông ta ở cabin số 7 và cô ấy ở số 8.
Khi người chồng kia chết, cô tiểu thư này và Zaharoff đã kết hôn, và để làm một biểu tượng cho tình yêu của mình, ông ta đã tặng cô ấy cả một sòng bạc ở Monta Carlo, như một món quà cưới”.
“Một câu chuyện thật hay, thưa ông Fornati Silvana ngồi câm lặng như một tảng đá.
“Ăn đi”, Fornati giục Tracy. “Ăn đi”.
Bữa ăn gồm có sáu món, và Tracy để ý thấy Alberto Fornati ăn hết từng món một và ăn nốt luôn cả phần dư lại trên đĩa của vợ. Giữa những miếng ăn, ông ta liên tục tán nhăng nhít.
“Cô là một diễn viên hẳn?” ông ta hỏi Tracy.
Nàng cười lớn. “Ồ, không. Tôi chỉ là một khách du lịch bình thường”.
Ông ta mỉm cười. “Cô làm diễn viên dược đấy, vì cô đẹp lắm”.
“Cô ấy đã nới không phải là diễn viên”. Giọng Slivana gay gắt.
Alberto Fornati vẫn phớt lờ. “Tôi sản xuất phim”, ông ta kể với Tracy. “Cô chắc đã nghe về những bộ phim đó?
Những kẻ man rợ, Người Titan chống lại người đàn bà siêu phàm ...”.
“Tôi không được xem nhiều phim”. Tracy đáp, vẻ có lỗi, cảm thấy cái chân to béo của ông ta áp vào chân mình dưới gầm bàn.
“Có thể tôi sẽ thu xếp để cô xem một vài phim của tôi”.
Mặt Silvana trắng bệch ra vì giận dữ.
“Cô đã bao giờ tới Rọme chưa, cô bạn thân mến?
Chân ông ta bắt đầu cọ vào chân Tracy.
“Thực sự là tôi đang định đi Rome sau khi đến Venice”.
“Tuyệt diệu! Rất hay! Chúng ta sẽ ăn một bữa với nhau. Có phải không, em yêu”“ Ông ta hét nhanh sang Silvana trước khi nối tiếp. “Chúng tôi có một biệt thự tuyệt đẹp kế bên con đường Appian. Mười mẫu ...” Ông ta dang tay ra để mô tả và gạt rơi bát xúp xuống lòng cô vợ. Tracy không thể biết đó là một cử chỉ vô tình hay hữu ý nữa.
Silvana đứng phắt dậy nhìn những vết loang lổ trên váy “Thật thô bỉ!” Cô ta kêu lên rồi đùng dùng bỏ ra khỏi phòng ăn, tốt cả các cặp mắt đều đổ dồn theo.
“Thật đáng tiếc”. Tracy lẩm nhẩm. “Một bộ váy áo đẹp đến thế, Nàng chỉ muốn tát vào mặt gã đàn ông vì đã hạ nhục người vợ. Cũng là đáng với số nữ trang mà cô ta nhận được, Tracy nghĩ.
Ông ta thở dài. “Fornati này sẽ mua cho cô ta một bộ đồ khác. Đừng để ý tới.
Cô ta rất ghen”.
“Tôi tin rằng cô ấy có lý do để ghen như vậy”. Tracy cố che giấu sự mỉa mai bằng một nụ cười.
Ông ta vênh váo. “Cũng có thể. Mọi phụ nữ đều thấy Fornati này rất hấp dẫn”.
Tracy cố lắm mới khỏi cười phá lên. “Tôi hiểu điều đó”.
Ông ta với qua bàn và cầm lấy tay Tracy. “Fomati thích cô, Fomati rất thích cô. Cô làm gì để sống nhỉ?”.
“Tôi là một thư ký thôi. Tôi đã phải dành dụm tiền để có chuyến đi này đấy”.
“Tôi hy vọng là cô có được một chỗ làm việc thú vị ở châu Âu”.
Cặp mắt lồi của ông ta đảo khắp thân hình nàng. “Cô sẽ không gặp khó khăn gì, Fornati này hứa như vậy.
Fornati xử đẹp với những ai chơi đẹp với Fornati”.
“Ông thật là tuyệt vời”, Tracy nói vẻ ngượng nghịu.
Ông ta hạ giọng thì thào. Có thể chúng ta nên thảo luận chuyện này ở cabin của cô vào cuối buổi tối này được không?”.
“Thế thì ngượng chết”.
“Tại sao?”.
“Ông nổi tiếng như vậy. Có thể là mọi người trên tàu đều biết ông”.
“Hiển nhiên là thế”.
“Nếu họ thấy ông tới cabin của tôi ... ờ, ông biết đấy, có thể có người hiểu lầm. Tất nhiên, nếu như cabin của ông ở gần chỗ tôi thì ... Ông ở cabin số mấy”.
“Số 70”. Ông ta nhìn nàng, đầy hy vọng.
Tracy thở dài. “Tôi lại ở toa xe khác. Sao chúng ta sẽ không gặp nhau ở Venice nhỉ?”.
Ông ta mỉm cười. “Được. Vợ tôi, cô ấy ở lỳ trong phòng suốt. Không chịu được nắng trên mặt. Cô đã đến Venice bao giờ chưa?”.
“Chưa”.
“A! Cô và tôi sẽ đi Torcello, một hòn đảo tuyệt đẹp với tiệm ăn thượng hạng, tiệm Locanda Gipriani. Nó cũng là một khách sạn nhỏ nữa”. Cặp mắt ông ta sáng lên. “Hết sức kín đáo”.
Tracy nhoẻn nụ cười, vẻ hiểu ý. “Nghe hấp dẫn nhỉ”.
Nàng hạ hàng mi xuống, vẻ như không nói nên lời.
Fornati xiết chặt tay nàng và thì thào t.ình tứ. “Em chưa biết thế nào là sự hấp dẫn đâu, em yêu ạ”.
Nửa giờ sau, Tracy đã trở về cabin của mình.
Đoàn tàu tốc hành Phương Đông lao nhanh trong màn đêm tẻ nhạt, ngang qua Paris, Diìon và .Vallarbe, trong khi hành khách đều ngủ yên giấc. Họ đã nộp hộ chiếu từ tối hôm trước và các thủ tục qua biên giới là do các nhân viên trên tàu giải quyết.
Vào lúc 3 giờ 30 sáng, Tracy lặng lẽ rời khỏi cabin của mình. Thời điểm là vấn đề có tính quyết định. Đoàn tàu sẽ băng qua biên giới Thụy Sĩ và tới Lausane lúc 5 giờ 21 phút và phải tới Milan, Ý, lúc 9 giờ 15.
Phong phanh trong bộ đồ lót và chiếc rốp mỏng, với một túi giấy, Tracy đi dọc theo hành lang, tốt cả các giác quan đều căng thẳng, sự kích động quen thuộc lâm tim nàng đập mạnh. Trong cabin không có toa lét riêng, nhưng ở đầu mỗi toa tàu. Nếu bị hỏi, nàng đã sẵn sàng để trả lời rằng đang đi tìm phòng vệ sinh dành cho nữ, nhưng chưa thấy. Song nhân viên toa xe đang tranh thủ mấy giờ đồng hồ về sáng để ngon giấc.
Tracy đến được cabin E70 không gặp trở ngại gì. Nàng nhẹ nhàng xoay tay nắm. Cửa khóa. Tracy mở túi giấy, lấy ra một dụng cụ bằng kim loại, một chai nhỏ, và một xilanh, rồi bắt tay vào việc.
Mười phút sau nàng đã trở lại cabin của mình và ba mươi phút sau đó, đã ngủ say với nụ cười còn đọng lại trên khuôn mặt mới được rửa ráy sạch sẽ, thơm tho.
Vào lúc 7 giờ sáng, khoảng hai giờ đồng hồ trước lúc đoàn tàu đến Milan, có những tiếng kêu rầm rĩ vọng ra từ cabin E70 đã làm hành khách thức giấc. Một nhân viên của đoàn tàu chạy vội vào cabin E70.
Silvana Luadi đang kêu thét điên loạn. “Trời ơi! Giúp tôi với, cô ta gào lên.
“Bao nhiêu đồ nữ trang của tôi mất sạch rồi. Đoàn tàu khốn kiếp này đầy những kẻ cắp”.
“Xin bà bình tĩnh nào”, người phụ trách toa xe nài nỉ, Những người khách ...”.
“Bình tĩnh?” Cô ta rít lên. “Làm sao mà anh còn dám bảo tôi bình tĩnh hả, đồ ngốc? Có kẻ nào đó đã ăn cắp chỗ nữ trang trị giả tới hơn một triệu đôla của tôi”.
“Làm sao mà chuyện này có thể xảy ra nhỉ?” Alberto Fornati kêu lên. “Cửa vẫn khóạ., và Fornati này rất thính ngủ cơ mà. Nếu có kẻ lẻn vào thì tôi sẽ bĩết ngay”.
Phụ trách toa xe thở dài. Ông ta quá biết chuyện xảy ra như thế nào, bởi vì trước đây đã từng như thế. Trong đêm, ai đó lần mò dọe theo hành lang và xịt nguyên một xi lanh đầy ê te qua lỗ khóa. Các ổ khóa chỉ là đồ chơi với những kẻ biết rõ chúng đang làm gì. Sau khi đã lấy được thứ mình muốn, hắn sẽ lặng lẽ trở ra trong khi các nạn nhân vẫn còn đang mê mệt. Nhưng có một điểm khác.
Trước đây thì các vụ trộm đều chỉ được phát giác sau khi tàu đã đến ga cuối cùng, do vậy bọn trộm đã có cơ hội tẩu thoát. Còn vụ này lại khác. Chưa một ai xuống tàu kể từ khi xảy ra, vậy thì chỗ đồ nữ trang đó vẫn còn trên tàu.
“Xin đừng lo”, người phụ trách toa xe hứa hẹn với vợ chồng Fornati. “Các vị sẽ lấy lại được số châu báu đó. Tên trộm vẫn eòn ở trên tàu mà”.
Nói rồi, ông ta chạy đi gọi điện cho cảnh sát.
Khi đoàn tàu tốc hành Phương Đông từ từ dừng bánh tại ga Milan, hai mươi cảnh sát mặc sắc phục đã giăng hàng chờ sẵn với mệnh lệnh không để bất kỳ một hành khách hoặc một thứ hành lý nào rời con tàu.
Luigi Ricci, viên thanh tra phụ trách nhóm công tác này, được đưa thẳng tới cabin Fornati.
Chẳng có gì khác ngoài việc Silvana Luadi càng trở nên điên cuồng, tuyệt vọng hơn. “Tốt cả số nữ trang mà tôi có đều nằm trong cái hộp đó”, cô ta gào thét. “Và lại không được bảo hiểm gì cơ chứ?”.
Viên thanh tra xem xét cái hộp đựng đồ nữ trang đã trống rỗng. “Cô có chắc đêm qua đã cho tốt cả nữ trang c vào đây không, tiểu thư?”.
“Tốt nhiên chứ còn gì. Đêm nào tôi cũng bỏ vào đây cả Cặp mắt long lanh eủa cô ta - từng làm run rẩy hang triệu người hâm mộ - nhòa lệ, và thanh tra Ricci cảm thấy sẵn lòng lao vào lửa.
Ông ta bước ra cửa cabin và ghé mũi ngửi ngửi lỗ khóa. Có thể thấy phảng phất mùi ê te còn vương lại.
Chắc chắn là đã có chuyện trộm cắp và ông ta quyết định bắt cho được cái bọn vô đạo ấy.
Thanh tra Ricci đứng thẳng người lên và nói. “Xin đừng lo quá, tiểu thư.
Không cách nào chuyển được chỗ nữ trang đó khỏi đoàn tàu này. Nó sẽ trở lại với cô”.
Thanh tra Ricci có đầy đủ lý do để tin tưởng vậy. Sợi dây thòng lọng đang được thắt lại và không hề có khả năng nào cho tên trộm tẩu thoát.
Từng hành khách được các nhân viên điều tra đưa vào một phòng đợi của nhà ga đã được canh chừng cẩn thận, và người ta đã khám xét họ kỹ càng. Hành khách nói chung, mà phần nhiều trong số họ là những người có tên tuổi, đã hết sức bất bình vì sự xúc phạm này.
“Tôi xin lỗi”, thanh tra Ricci giải thích với từng người một. “Nhưng một vụ trộm eả triệu đôla là một việc hết sức nghiêm trọng”.
Trong lúc đó, các nhân viên khác đang lật ngược cabin của họ lên, kiểm tra từng phân vuông, kỹ lưỡng. Một cơ hội quý giá cho thanh tra Ricci và ông ta quyết tận dụng nó. Khi thu hồi lại được số nữ trang, ông ta cẩm chắc là được đề bạt và tăng lương. Tiếng tăm của ông ta sẽ nổi lên như cồn. Silvana Luadi sẽ biết ơn vả có thể sẽ mời ...
Ông ta đưa ra những mệnh lệnh kiên quyết hơn.
Có tiếng gõ trên cửa cabin Tracy và một nhân viên điều tra bước vào.
“Xin lỗi tiểu thư. Đã có một vụ trộm. Chúng tôi cần khám xét tốt cả các hành lý. Xin mời đi theo tôi”.
“Một vụ trộm à?” Giọng nàng đầy hoảng hốt. “Trên chuyến tàu này ư?”.
“Tôi e là như vậy, thưa tiểu thư”.
Khi Tracy bước ra khỏi cabin của mình họ ập vào mở các vali và khám xét kỹ lưỡng từng thứ đồ bên trong.
Sau bốn giờ đồng hồ, kết quả của cuộc khám xét là dăm gói thuốc phiện, vài gam cocain, một con dao và một khẩu súng bất hợp pháp. Không hề thấy dấu vết chỗ châu báu kia.
Thanh tra Ricci không thể nào tin vào kết quả đó. “Các anh đã lục lọi toàn bộ đoàn tàu chưa?” Ông ta chất vấn.
“Thưa ông thanh tra, chúng tôi đã kiểm tra từng xăng ti mét một, đầu máy, các phòng ăn, tiệm giải khát, các toa lét, tốt cả các cabin. Chúng tơi đã khám hành lý cả các nhân viên trên tàu. Tôi có thể thề với ông rằng đám nữ trang đó không có trên đoàn tàu này. Có thể là cô ta đã tưởng tượng ra vụ trộm”.
Nhưng thanh tra Ricci thì biết rõ hơn. Ông ta đã nói chuyện với những người bồi bàn và họ xác nhận Silvana Luadi quả thực có mang những thứ nữ trang đẹp mê hồn vào bữa ăn chiều hôm trước.
Một đại diện của hãng tốc hành Phương Đông đã đáp máy bay tới Milan.
“Các ông không được giữ đoàn tàu lâu hơn nữa”, ông ta kiên quyết. “Tàu chúng tôi đã chậm nhiều so với lịch trình rồi”.
Thanh tra Ricci đành chịu thua. Không có lý do gì để giữ đoàn tàu lại.
Không còn làm gì được nữa. Cách giải thích duy nhất mà ông nghĩ tới là có thể trong đêm, tên trộm đã quẳng chỗ nữ trang xuống cho đồng bọn chờ sẵn bên đường tàu. Nhưng liệu có thể xảy ra theo cách đó không nhỉ? Việc tính toán cho khớp thời gian là không thể được. Tên trộm không thể biết trước khi nào thì hành lang trên tàu yên ắng, rồi khi nào thì đoàn tàu chạy qua điểm hẹn trước, tại một nơi hoang vắng? Đây thực sự là một việc bí ẩn mà ông ta không đủ sức lý giải.
“Cho đoàn tàu tiếp tục chạy”. Ricci ra lệnh rồi bất lực nhìn theo nó từ từ rời khỏi sân ga. Vậy là hết việc đề bạt, lên lương, hay một cơ hội sung sướng với c nàng Silvana Luadi xinh xắn nữa.
Chủ đề bàn tán duy nhất trong phòng ăn sáng hôm đó là vụ trộm này.
“Hàng mấy năm nay tôi mới lại được thấy một sự việc kích động thế này”, một bà giáo vẻ mô phạm thú nhận.
Bà ta nhón tay cầm vào sợi dây chuyền vàng mỏng manh có gắn viên kim cương bé xíu và nói thêm, “Thật may là chúng đã không lấy mất của tôi”.
“May thật đấy”, Tracy nghiêm trang tán thành.
Khi Alberto Fornati bước vào phòng ăn, ông ta thoáng thấy Tracy và vội vã đi tới, “Dĩ nhiên là cô đã biết chuyện xảy ra. Nhưng cô có biết người bị cướp đoạt lại chính là vợ của Fornati này không?”.
“Không!”.
“Đúng thế đấy! Cuộc sống của tôi đầy rẫy những đe dọa. Một băng cướp đã lẻn vào cabin của tôi và dùng thuốc mê làm tôi ngủ vui. Fornati này đã có thể chết luôn rồi còn gì”.
“Thật khủng khiếp quá”.
“Thật tai hại cho tôi. Bây giờ tôi sẽ lại phải mua bù cho Sllvana toàn bộ số bị mất đó. Cả một gia tài ấy chứ”.
Cảnh sát không tìm lại được à?”.
“Không, nhưng Fornati thì biết chúng đã tẩu tán số nữ trang đó thế nào?”.
“Thật à! Sao nào?”.
Ông ta nhìn quanh và hạ giọng. “Một tên đồng bọn đã chờ sẵn tại một trong các ga mà chúng ta đã chạy qua trong đêm. Tên trộm chỉ việc ném chỗ nữ trang xuống khỏi đoàn tàu, và thế là xong”.
Tracy thán phục. “Ông phải thật là thông minh mới đoán ra điều đó được”.
“Ờ, ông ta nhướng cặp lông mày lên một cách đầy ý nghĩa.
“Cô sẽ không quên cuộc hẹn hò nho nhỏ ở Venice chứ;”.
Tracy mỉm cười. “Sao tôi có thể quên được?”.
Ông ta siết chặt cánh tay nàng. “Fornati này mong ngóng cuộc hẹn hò đó.
Bây giờ tôi phải quay lại để an ủi Silvana. Cô ta đang phát cuồng lên kia”.
Khi đoàn tâu tốc hành Phương Đông dừng bánh tại nhà ga Senta Lucia ở Venice, Tracy ở trong số những người khách đầu tiên xuống tàu. Nàng mang hành lý ra thẳng sân bay và lên chuyến bay đầu tiên đi London.
Cùng với hành lý của nàng là toàn bộ nữ trang của Silvana Luadi.
Gunther Hartog sắp được sung sướng.
 
Chương 23


Tòa nhà trụ sở cao bảy tầng của INTERPOL, Tổ chức cảnh sát hình sự quốc tế, nằm ở số 26 phố Armengaud, trong khu đồi mang tên thánh Clond, cách Paris khoảng sáu dặm về phía Tây, hoàn toàn khuất sau một hảng rào cây xanh và những bức tường xây bằng đá trắng. Cổng vào lối mặt phố luôn được khóa kín 24 giở trong ngày, khách khứa chỉ bước vào sau khi đã được kiểm tra kỹ bằng một hệ thống truyền hình mạch kín. Bên trong tòa nhà, ở mỗi đầu cầu thang của mỗi tầng là những cánh cửa sắt màu trắng được khóa vào ban đêm, và mỗi tầng đều có trang bị một hệ thống báo động riêng và hệ thống theo dõi bằng truyền hình mạch kín.
Chế độ bảo vệ đặc biệt là một yêu cầu nghiêm ngặt, bởi lẽ tòa nhà này chứa các tài liệu và hồ sơ chi tiết nhất và hai triệu rưỡi tội phạm. INTERPOL là một ngân hàng thông tin cho 126 lực lượng cảnh sát thuộc 78 quốc gia, và phối hợp các hoạt động của lực lượng cảnh sát trên khắp thế giới, trong việc đối phó vớinhững kẻ lừạ đảo, làm bạc giả, buôn lậu ma túy và trộm cướp, giết người. Nhờ các thiết bị radio, truyền ảnh và vệ tinh thông tin, nó phân tích, xử lý các thông tin mới nhất và đăng lên một tạp chí nội bộ. Các nhân viên ở trụ sở này đều là cựu thám tử của Bộ Nội vụ hoặc Sở Cảnh sát Paris.
Buổi sáng đầu tháng Năm, một cuộc họp đã diễn ra trong phòng làm việc của thanh tra Andre Trignant người chịu trách nhiệm về các hoạt động tại trụ sở INTERPOL. Căn phòng rất tiện nghi nhưng đơn giản và phong cảnh bên ngoài thì thật tuyệt vời.
Thanh tra Andre Trignant chừng giữa tuổi bốn mươi, một người đàn ông hấp dẫn, đầy vẻ uy quyền với khuôn mặt thông minh, mái tóc đen và cặp mắt nâu chính trực ẩn sau cặp kính gọng sừng. Ngồi cùng với ông trong căn phòng lúc này là các thám tử tập hợp đến từ Anh, Bỉ, và Ý.
“Thưa quý vị”, thanh tra Trignant bắt đầu. “Tôi đã nhận được yêu eầu khẩn cấp từ mỗi quốc gia của các vị, kể cả của nước Pháp chúng tôi, về việc một loạt vụ án xảy ra gần đây trên khắp châu Âu. Tại đó đã xảy ra một nạn dịch trộm cắp, lừa đảo và có những nét giống nhau ở các vụ này. Nạn nhân đều là những người từng có tai tiếng xấu và không hề có bạo lực, còn thủ phạm luôn luôn là một phụ nữ. Có thể đi tới kết luận rằng chúng ta đang phải đối phó với một băng tội phạm mang tính chất quốc tế gồm toàn phụ nữ. Chúng ta có những chân dung dựng lại trên cơ sở mô tả của các nạn nhân và các nhân chứng.
Như quý vị sẽ thấy, không bức chân dung nào của các phụ nữ này cớ những nét giống nhau cả. Kẻ thì tóc vàng, kẻ lại tóc hung. Và người ta nói lại họ gồm cả người Anh, người Pháp, người Tây Ban Nha, người Ý, người Mỹ hay Đúng hơn, người Texas”.
Thanh tra Trignant bấm nút, một loạt bức hình hiện lên trên màn ảnh gắn trên tường. “Đây là chân dung dựng lại về một phụ nữ tóc hung, cắt ngắn”. Ông ta lại nhấn nút. “Đây là tóc vàng, để bù xù ... Một người tóc vàng khác, nhưng được uốn ... Một người phụ nữ tóc hung cùng với người phục vụ .... Một phụ nữ đã luống tuổi với một mớ tóc giả kiểu Pháp ...” Ông tắt máy chiếu. “Chúng ta chưa hề biết kẻ cầm đầu là ai hoặc hang ổ của chúng ở đâu chúng chưa bao giờ để lại dấu vết, và chung biến mất như làn khói. Sớm hay muộn chúng ta cũng sẽ tóm được một tên và khi đósẽ có thể tóm tốt cả. Còn bây giờ, thưa quý vị, chừng nào quý vị chưa cung cấp thêm một vài thông tin cụ thể, tôi e rằng chúng ta đang hoàn toàn bế tắc ...!.
Khi máy bay của Daniel Cooper hạ xuống Paris, ông ta được đón bởi một số những phụ tá của thanh tra Trigllant và được đưa về khách sạn Hoàng đế George để Ngũ nổi tiếng.
“Chúng tôi đã thu xếp để ông gặp thanh tra Trignant vào sáng mai”, viên phụ tá nói với Cooper. “Tôi sẽ đón ông lúc 8 giờ 15”.
Daniel Cooper vốn không sốt sắng gì với chuyến đi này. Ông ta dự định sẽ kết thúc công việc càng sớm cảng tốt để về ngay, bởi biết rõ những cám dỗ của Paris và không hề có ý định để mình bị lôi cuốn vào đấy.
Cooper làm thủ tục rồi lên phòng, đithẳng vào buồng tắm. Cái bồn tắm thật đáng hài lòng, làm ông ta phải ngạc nhiên, tự thú nhận rằng nó lớn hơn nhiều so với ở nhà. Ông ta xả nước đầy bồn rồi đi vào phòng ngủ lấy đồ.
Dưới đáy va li là một cái hộp nhỏ, khóa kỹ, nằm kẹp giữa bộ complê dự trữ và đám đồ lót. Ông ta cầm nó lên, nhìn chằm chằm và dường như thấy cái hộp có cuộc sống riêng của nó. Với chiếc chìa nhỏ xíu trong chùm chìa khóa mang theo, Cooper mở cái hộp ra và những hàng chữ từ một mẫu báo đã ố vàng đập vào mắt ông ta.
CẬU BÉ LÀM CHỨNG TRONG PHIÊN TÒA ĐẠI HÌNH Hôm nay Daniel Cooper, 12 tuổi, đã làm chứng trước phiên tòa xử Fređ Zimmer, kẻ bị buộc tội cưỡng dâm rồi giết hại mẹ cậu bé. Theo lời khai trước tòa, cậu bé từ trường trở về và thấy Zimmer, một người hàng xóm, từ trong nhà cậu đi ra, mặt và tay đầy máu. Khi vào nhà, cậu bé thấy xác mẹ trong bồn tắm.
Bà đã bị đâm chết, một cách đã mán, Zimmêr thú nhận là tình nhân của bà Cooper, nhưng phủ nhận việc giết hại bà.
Cậu bé đã được một người dì nhận chăm sóc.
Hai bàn tay run rẩy của Daniel Cooper buông rơi mảnh báo vào chiếc hộp, rồi khóa nó lại. Ông ta nhìn quanh điên dại. Các bức tường và trần của căn phòng tắm loang lổ vết máu, và th.ân thể lõa lỗ của mẹ bập bềnh trong bồn nước màu đỏ. Cooper thấy mệt mỏi. Những tiếng thét bên trong đã trở thành những tiếng rền rĩ, và ông ta vội vã lột bỏ quần áo, trầm mình vào bồn nước ấm.
“Ông Cooper, tôi phải báo để ông rõ”, thanh tra Trignant nói, “rằng tư cách của ông hết sức bất thường.
Ông không phải là thành viên của bất kỳ một lực lượng cảnh sát nào, và sự có mặt của ông ở đây là không chính thức Tuy nhiên cảnh sát của một số nước châu Âu đã yêu cầu chúng tôi mở rộng sự hợp tác”.
Daniel Cooper lặng thinh.
“Theo chỗ tôi hiểu, ông là một nhân viên điều tra của Hiệp hội bảo hiểm quốc tế. một côngxoocxiom của các công ty bảo hiểm”.
“Một số khách hàng châu Âu của chúng tôi mới đây phải chịu những thiệt hại nặng nề. Tôi nghe nói là không hề có dấu vết gì”. Cooper thong thả nói, Thanh tra, Trigllant thở dài. “Tôi e rằng Đúng như vậy Chúng tôi biết mình đang phải đối phó với một băng gồm những phụ nữ rất thông minh, nhưng hơn thế nữa ...”.
“Không có tin tức gì từ mạng lưới thông tin viên à?”.
“Không. Không có tin tức gì cả”.
“Điều đó không làm ông thấy lạ à?”.
“Ý ông là gì vậy?”.
Với Cooper thì mọi chuyện đã rõ ràng đến mức không còn buồn giấu vẻ khó chịu trong giọng nói của ông ta.
“Khi đã là một băng thì luôn luôn có một kẻ nào đó nói quá nhiều, uống quá nhiều, tiêu xài quá nhiều:
Môt nhóm Đông người thì không thể nào giữ bí mật được. Ông cho phép tôi xem hồ sơ của ông về băng này chứ?”.
Viên thanh tra đã -toan từ chối. Ông nghĩ Daniel Cooper là một trong những người đàn ông xấu xí nhất mà ông từng thấy. Song lại là kẻ tự phụ nhất. Ông nghĩ rằng Cooper sẽ là một cái gai, “một cái nhọt ở mông”, thế nhưng người ta đã yêu cầu ông phải hợp tác đầy đủ.
Vẻ miễn cưỡng, ông nói, “ôTối sẽ cho sao các tài liệu gửi ông”.
Ông bấm má đàm thoại nồi bộ và ra những lệnh cần thiết. Rồi nói. “Một báo cáo thú vị vừa được dưa tới. Cả triệu đôla nữ trang đã bị đánh cắp trên đoàn tàu tốc hành Phương Đông trong lúc nó ...”.
“Tôi mới đọc tin này. Tên trộm đã biến cảnh sát Ý thành một lũ ngốc”.
“Không ai phán đoán nổi vụ trộm đó đã diễn ra thế nào cả?”.
“Nó rất rõ ràng”. Daniel Cooper sẵng giọng. “Một logic đơn giản”.
Thanh tra Trignant nhìn ông ta qua phía trên cặp mắt kính. Lạy Chúa; hắn ta có lối xử sự của lớp hạ đẳng.
Ông lạnh lùng,nói. “Trong trường hợp này, lôgic không giúp ích. Đoàn tàu được kiểm tra từng ly từng tý, và tất cả nhân viên, hành khách, hành lý đều bị khám xét”.
Daniel Cooper lắc lắc đầu.
Thằng cha này điên rồi, thanh tra Trignant kiên quyết “Tôi đã xem báo cáo của cảnh sát”.
“Người phụ nữ bị mất cũng là Silvana Luadi phải không”.
“Sao?”.
“Cô ta đã để toàn bộ nữ trang vào một chiếc hộp và rồi bị mất, có phải không?”.
“Đúng thế”.
“Cảnh sát có khám xét hành lý của cô Luadi không?”.
“Chỉ xem cái hộp thôi. Cô ta là nạn nhân. Tại sao lại phải khám hành lý của cơ ta?”.
“Bởi lẽ về mặt lôgic thì đó là nơi duy nhất tên trộm có thể cất giấu đồ ăn cắp, ở đáy một chiếc vali nào đó của cô ta.
Có thể hắn có một chiếc khác giống hệt, và khi hành lý được chất đống xuống ga Venice, tốt cả việc mà hắn phải làm là đánh tráo chiếc vali đó rồi chuồn”. Daniel Cooper đứng dậy.
“Nếu những bản báo cáo kia có rồi, tôi xin đi đây”.
Ba mươi phút sau, thanh tra Trignant đã đang nói chuyện qua điện thoại với Alberto Fornati ở Venice.
“Thưa ông”, viên thanh tra nói. “Tôi gọi để hỏi xem có rắc rối gì xảy ra với hành lý của vợ ông khi ông bà tới Venice không?”.
“Có, có Fornati phàn nàn. “Thằng cha bốc vác ngu xuẩn đã lầm lẫn chiếe vali của cô ấy với vali của ai đó.
Khi vợ tôi mở đồ ra ở khách sạn, trong cái ví kia chẳng có gì ngoài một đống tạp chí cũ. Tôi đã báo cho văn phòng của hãng tốc hành Phương Đông. Họ đã tìm ra chiếc va li của vợ tôi rồi à?” Ông ta hỏi, giọng hy vọng.
Thưa ông, chưa”. Viên thanh tra đáp. Và ông lẩm nhẩm trong đầu, nếu là ông, tôi sẽ không trong chờ gì việc đó.
Sau khi gác máy, ông ngồi xuống và ngẫm nghĩ thằng cha Daniel Cooper này thật kinh khủng.
 
Chương 24


Ngôi nhà Tracy ở quảng trường Eaton là một thiên đường. Nó nằm trong khu vực đẹp vào loại nhất của London, gồm toàn những ngôi nhà cổ kính với những khu vườn đầy cây xanh. Những chị bảo mẫu trong những bộ đồ phục hồ bột thẳng nếp đầy những chiếc xe nôi trên các lối đi rải sỏi, bọn trẻ lớn hơn thì chơi đùa vui vẻ. Mình nhớ Amy quá - Tracy chạnh lòng.
Nàng bước dọc theo những phố cổ đã đi vào truyền thuyết, ghé qua cửa hàng rau quả và một hiệu thuốc trên phố Elizabeth, lặng ngắm những bông hoa rực rỡ màu được bày bán nay bên ngoài các cửa hiệu nhỏ nằm hai bên đường phố.
Gunther Hartog đã lưu ý để sao cho Tracy đóng góp Đúng cho những tổ chức từ thiện chân chính và gặp gỡ những người đáng gặp. Nàng đã hẹn hò với những công tước giàu có và cả các bá tước khánh kiệt, và nhiều người đã ngỏ lờỉ xin được kết hôn với nàng.
“Mỗi người đều nghĩ cô là mục tiêu lý tưởng”. Gunther Hartog cười lớn. “Cô đã thực sự làm được cho mình những điều tuyệt diệu, Tracy ạ. Giở đây cô hoàn toàn vững vàng trong cuộc sống. Tốt, cả những gì cô cần nay đều đã có rồi”.
Đúng như vậy. Tracy có tiền gửi ở khắp châu Âu, có nhà ở London và một nhà nghỉ ở St. Moritz. Có tất cả những gì mà nàng cần. Trừ một người để chia sẻ những thứ đó. Tracy nghĩ tới cuộc sống mà lẽ ra mình đã có, với một người chồng và một đứa trẻ. Liệu còn có thể có được nữa không? Không bao giờ nàng có thể tiết lộ với một người đàn ông nào đó rằng nàng thực sự là ai, lại cũng không thể sống dối trá với việc giấu kín quá khứ của mình, nhưng lại biết rõ rằng sẽ không bao giờ có thể quay lại cuộc sống mà nàng đã từng sống. Cũng được thôi, Tracy kiêu hãnh nghĩ. Rất nhiều người cô độc. Gunther nói Đúng.
Mình đã có tốt cả mà.
Chiều tối hôm sau, nàng mở tiệc, bữa tiệc đầu tiên kể từ khi từ Venice trở về.
“Tôi trông chờ việc này” Gunther nói. “Các bữa tiệc của cô đắt giá nhất London đấy”. Tracy dịu dàng đáp. “Hãy xem người đỡ đầu của tôi là ai nào”.
“Những ai sẽ đến dự?”.
“Tốt cả mọi người”.
Chiều tối, hóa ra còn một khách nữa không nằm trong cái số “Tất cả mọi người” mà Tracy dự kiến. Nàng đã mời nữ nam tước Howarth, một người thừa kế trẻ đẹp, hấp dẫn, và khi thấy nữ nam tước đến, Tracy đã ra đón. Nụ cười vụt tắt trên môi Tracy. Đi cùng với nữ nam tước là JeffStevens.
“Tracy thân mến, tôi chắc chị chưa biết anh Stevens, còn Jeff, đây là Tracy Wihitney, nữ chủ nhân”.
Tracy nói vẻ cứng nhắc, “Rất hân hạnh, anh Stevens”. Jeff đỡ lấy tay Tracy và giữ nó hơi lâu quá mức cần thiết. “Chị Tracy Wihitney ư?” Anh ta nói. “Dĩ nhiên rồi.
Tôi là một người bạn của chồng chị. Chúng tôi cùng ở Ấn Độ với nhau mà”.
“Thật thú vị làm sao!” Nữ nam tước Howarth kêu lên.
“Lạnh, anh ấy chưa bao giờ nói về anh cả”. Tracy lạnh lùng.
“Thật thế à? Tôi ngạc nhiên đấy. Anh bạn cũ đáng yêu của tôi. Thật buồn vi việc xảy ra cho anh ấy”.
“Ôi; chuyện gì đã xảy ra vậy?” Nữ nam tước hỏi.
Tracy nhìn chằm chằm vào Jeff. “Thực ra cũng chẳng có gì đấu”.
“Chẳng có gì!” Jeff nói với vẻ trách cứ. “Nếu tôi nhớ chính xác thì anh ấy đã bị treo cổ ở Ấn Độ”.
“Ở Pakistan”, Tracy nói chắc nịch. “Và tôi đã nhớ là chồng ti có nói về anh thật. Vợ anh thế nào?”.
Nữ nam tước Howarth nhìn Jeff. “Anh chưa bao giờ nói là anh có vợ cả, Jeff.
“Cecily và tôi đã ly dị”.
Tracy mỉm cười ngọt ngào. “Ý tôi muốn nói tới Rose”.
“Ồ, cô vợ đó”.
Nữ nam tước Howarth sững người. “Anh đã hai lần cưới vợ?
“Một lần thôi”, Jeff dễ dàng đáp. “Rose và tôi đã bỏ nhau lâu rồi. Khi đó chúng tôi đều còn quá trẻ mà”. Anh dậm chân toan bước đi.
Tracy hỏi thêm. “Còn hái đứa trẻ sinh đôi thì sao?”.
Nũ nam tước Howarth kêu lên. “Sinh đôi à?”.
“Hai lúa sống chung với mẹ”. Jeff nói với Howarth, rồi nhìn Tracy, “Tôi không thể nói hết sự thú vị khi được trò chuyện cùng chị, chị Wihitney ạ.
Nhưng chúng tôi không được phép độc giữ chủ nhân”. Nói rồi anh nắm tay nữ nam tước, bước đi.
Sáng hôm sau, Tracy chạm trán với Jeff trong buồng thang máy của cửa hiệu Harlods, lúc đó đang Đông khách.
Tracy bước ra khi thang máy dừng lại ở tầng ba, và nàng quay lại nói với Jeff, giọng to và rõ ràng. “Nhân đây, xin hỏi, làm cách nào anh thoát ra khỏi những lời cáo buộc hôm trước thế” “Cửa thang máy khép lại để mặc Jeff trong buồng thang máy đầy những người lạ soi mói nhìn.
Đêm đó, Tracy nằm nghĩ tới Jeff, và bật cười. Anh ta thật có sức quyến rũ, một gã khốn kiếp nhưng đầy hấp dẫn. Khi nghĩ tới mối quan hệ của Jeff với nữ nam tước Howarth, nàng biết đó là mối quan hệ kiểu gì. Jeff và mình đều cùng một giuộc mà, Tracy nghĩ:
Cả hai sẽ không bao giờ ngừng lại trên bước đường đời. Cuộc sống của cả hai đầy những kích động, hồi hộp và những phần thưởng.
Nàng hướng ý nghĩ của mình sang công việc sắp tới. Vụ này sẽ diễn ra ở miền Nam nước Pháp, và nó là cả một thách thức. Gunther cho biết cảnh sát đang lùng kiếm một băng các phụ nữ bất lương, Nàng ngủ thiếp đi với nụ cười đọng trên môi.
Trong căn phòng khách sạn của mình ở Paris, Daniel Cooper đang xem xét các báo cáo mà thanh tra Trignant gửi tới. Một số vụ ông ta đã biết còn các vụ khác thì chưa. Đúng như thanh tra Trignant nói, tốt cả nạn nhân đều là những kẻ có nhiều tai tiếng xấu. Cooper ngẫm nghĩ rõ ràng các thành viên của băng này tự coi họ là những Robin Hoods.
Chỉ còn ba bản báo cáo nữa. Bản trên cùng có tiêu đề BRUCXEN. Một số đồ kim hoàn trị giá hai triệu đôla đã bị đánh cắp khỏi cái két gắn a trong tường của ông Van Ruysen nào đó, một nhà kinh doanh cổ phiếu người Bỉ, người có dính dáng tới một số vụ mờ ám về tài chính.
Các chủ nhân đang đi nghỉ ở xa, ngôi nhà hoàn toàn vắng người và ...
Cooper để mắt tới một chi tiết, tim ông ta dập dồn lên, quay lại từ dòng đầu tiên và đọc lại bản báo cáo, chú ý tới từng từ. Vụ này khác các vụ trước ở một chi tiết đầy ý nghĩa:
Tên trộm đã đụng phải hệ thống báo động, và khi cảnh sát ập tới, họ được một phụ nữ, trên mình chỉ mặc chiếc váy ngủ hở hang, trong suốt, đón tận cửa. Tóc cô ta được nhét gọn trong một cái mũ chụp và mặt thì đang đầy kem. Cô ta nhận là khách của gia đình Van Ruysen. Cảnh sát đã tin như vậy, và đến khi họ liên lạc được với các chủ nhân thì người phụ nữ kia và chỗ kim hoàn đã biến mất.
Cooper đặt tập báo xuống bàn. Lôgic, lôgic!
Thanh tra Trignant nóng nảy. “Ông nhầm rồi. Tôi nói với ông là một phụ nữ thì không thể gây ra tốt cả các vụ phạm tội này được”.
“Có một cách để kiểm tra điều đó”, Daniel Cooper nói.
“Cách gì?”.
“Tôi muốn có các số liệu từ một máy tính về thời gian và địa điểm xảy ra các vụ trộm cắp và lừa đảo trong thời gian gần đây nhất”.
“Điều đó quá đơn giản nhưng ...”.
Sau đó, tôi muốn có một báo cáo về việc nhập cảnh của tốt cả các nữ du khách người Mỹ có mặt ở các thành phố trên vào thời điểm xảy ra các vụ phạm tội đó. Có thể là cô ta đã sử đụng hộ chiếu giả phần lớn thời gian, nhưng cũng có khả năng cô ta sử dụng cả hộ chiếu thật”.
Thanh tra Trignant ngẫm nghĩ. “Tôi thấy cách lập luận của ông có lý, ông Cooper”. Ông chăm chú nhìn người đàn ông nhỏ thó trước mặt và có phần nào mong rằng Cooper đã nhầm lẫn. Ông ta quá tự tin. “Được thôi. Tôi sẽ cho bộ máy của chúng tôi hoạt động”.
Vụ trộm đầu tiên trong loạt này xảy ra ở Stôckhôn, Thụy Điển. Báo cáo của chi nhánh INTERPOL tại đây đã liệt kê danh sách các du khách Mỹ tới đây trong tuần lễ đó, và tên của các phụ nữ được đưa vào máy tính. Thành phố tiếp theo được kiểm tra là Milan. Khi tên của các nữ du khách Mỹ tại Milan trong thời gian xảy ra vụ trộm được mang tới đối chiếu với vụ Stơckhôn kia thì có 55 tên trùng lặp Danh sách này được đối chiếu một lần nữa với tên của các phụ nữ Mỹ có mặt ở Irelan trong thời gian xảy ra một vụ lường gạt, số trùng lặp giảm xuống còn 15. Thanh tra Trignant đưa bản danh sách này cho Daniel Cooper.
“Tôi sẽ so danh sách này với vụ ở Berlin nữa”, thanh tra Trignant nói.
“Và.”.
Daniel Cóoper ngước mắt lên. “Thôi không cần”.
Cái tên đầu tiên trong danh sách này là TRACY WIHITNEY.
Sau cùng thì đã có một dấu vết cụ thể, bộ máy của INTERPOL bắt đầu làm việc. Các thông báo đỏ mức ưu tiên tối cao - được gửi đi các nước thành viên, nhắc cảnh sát hãy theo dõi Tracy Wihitney.
“Chúng tôi cũng đã gửi đi các thông báo Xanh”, thanh tra Trignant cho biết.
“Thông báo Xanh là thế nào?” Cooper hỏi.
“Chúng tôi sử dụng một hệ thống mã bằng màu sắc. Một thông báo Đỏ là ưu tiên hàng đầu, Xanh da trời là yêu cầu thông tin về một kẻ bị tình nghi. Xanh lục thông báo cho các cơ quan cảnh sát biết một cá nhân nào đó đang bị nghi vấn và cần theo dõi. Đen là yêu cầu tin tức về những xác chết không nhận dạng được.
Các chữ X – D lưu ý tính thượng khẩn của một bức điện, còn chữ D là khẩn.
Bây giờ thì bất luận cô Wihitney này đi đến đâu, từ lúc bắt đầu làm thủ tục hải quan, là cô ta sẽ bị đặt dưới sự giám sát chặt chẽ”.
Ngày hôm sau những tấm hình của Tracy Wihitney do nhà tù nữ ở Nam Louisiana gửi đi đã nằm trong tay INTERPOL.
Daniel Cooper gọi điện thoại đường dài tới nhà riêng của J.J. Reynolds Sau cả chục hồi chuông mới có người nghe máy.
“Hello?”.
“Tôi cần một vài thông tin”.
“Cậu đấy à, Cooper? Lạy Chúa, ở đây đang là 4 giờ sáng. Tời đang ngủ ngon”.
“Tôi muốn ông gửi cho tôi tốt cả những gì ông có được về Tracy Wihitney.
Các bài báo, băng videọ ....tất cả.
“Chuyện gì đang ...?”.
Cooper gác máy.
Sẽ có ngày ta giết thằng chó đẻ này, Reynolds thề với mình.
Trước đây, Daniel Cooper không mấy quan tâm tới Tracy Wihitne Còn bây giờ, đó là nhiệm vụ. Ông ta dán các tấm hình nàng lên tường căn phòng khách sạn và đọc tất cả các bài báo viết về nàng. Ông ta thuê về một bộ video và chiếu đi chiếu lại các đoạn phim truyền hình về Tracy Wthitney sau khí nàng bị kết án và sau khi được phóng thích khỏi nhà tù. Cooper đã ngồi trong căn phòng tối om giờ này sang giờ khác xem các đoạn phim, và chút ngờ vực lúc đầu đã biến thành điều khẳng định, “Chính cô là cả băng phụ nữ này, cô Wihitney”. Daniel Cooper nói to một mình. Rồi ông ta bấm nút tua lại để xem một lần nữa.
 
Chương 25


Hàng năm, vào ngày thứ bảy đầu tiên của tháng Sáu, nam tước De Matiglly đều tổ chức một bữa tiệc để quyên tiền cho bệnh viện nhi đồng ở Paris.
Giá vé để đến dự cuộc gặp gỡ long trọng này là một ngàn đô la, và giới thượng lưu từ khắp thế giới đều kéo tới.
Lâu đài Matigny ở vùng Cap d Antibes là một trong những ký quan của nước Pháp, tồn tại từ thế kỷ 15. Buổi chiều hôm đó, cả phòng khách lớn và phòng khách nhỏ đều chật những vị khách sang trọng, đẹp đẽ và những người hầu mặc phẩm phục chỉnh tề không ngớt mời mọc những ly sâm banh lớn. Những chiếc bàn ăn lớn được kê sát quanh tường, trên bàn đầy ắp những món khai vị đựng trong cáe da cổ bằng bạc.
Tracy, rạng rỡ trong bộ váy áo trắng, tóc bới cao và cài một chiếc trâm nam kim cương, đang khiêu vũ với chủ nhân bữa tiệc, nam tước De Matiglly, một người đàn ông góa vợ trạc tuổi sáu mươi, dáng nhỏ nhắn, khỏe mạnh và thanh thoát. Bữa tiệc mà.nam tước tổ chức hàng năm để lạc quyên cho bệnh viện Nhi đồng chỉ là một cách moi tiền - Gunther Hartog đã nói vậy với nàng. Mười phần trăm số tiền quyên góp được chuyển cho bọn trẻ, chín mươi phần trăm rơi vào túi lão ta.
“Cô nhảy thật tuyệt, nữ công tước ạ”, lão nam tước nói. Tracy mỉm cười.
“Đó là nhờ người bạn nhảy của tôi thôi”.
“Tại sao trước đây chúng ta lại không biết nhau nhỉ?”.
“Tôi đã và đang sống ở Nam Mỹ, Tracy giải thích.
“Mà tôi e lại là trong rừng rậm nữa”.
“Sao vậy?”.
“Chồng tôi có một vài khu mỏ ở Brazin”.
“À! Và tối nay chồng cô cũng có mặt ở đây chứ?”.
“Không! Và thật đáng tiếc”.
“Không nay cho ông ta, may mắn cho tôi”. Vòng tay của lão xiết chặt thêm quanh eo nàng. “Tôi mong rằng chúng ta sẽ đời bạn tốt”.
“Tôi cũng vậy”. Tracy khẽ đáp.
Đột nhiên, qua vai lão nam tước, Tracy trông thấy Jeff Stevens, da rám nắng và điệu bộ thoải mái. Anh đang nhảy với một phụ nữ tóc hung xinh đẹp, mềm mại, mặc bộ váy áo bằng lụa màu đỏ sẫm - cô ta áp chặt lấy anh một cách sở hữu. Jeff đồng thời cũng trông thấy Tracy và mỉm cười.
Hắn ta cười nhạo mình là Đúng lắm, Tracy thầm nghĩ chua chát. Trong hai tuần qua Tracy đã dày công mưu tính hai vụ trộm. Nàng xâm nhập ngôi nhà thứ nhất, mở két sắt chỉ dễ thấy nó hoàn toàn trống rỗng. Jeff Stevens đến đó trước rồi. Lần thứ hai, trong lúc Tracy đang lần tới ngôi nhà mục tiêu thì nàng nghe thấy tiếng xe rú ga đột ngột và chỉ kịp thoáng thấy bóng Jeff khi xe lướt qua.
Anh ta đã lại chơi nàng một vố nữa. Anh ta thật đáng ghét. Và giờ đây - Tracy nghĩ, anh ta lại có mặt ở ngôi nhà mình đang định làm một vụ ....
Jeff và cô bạn nhảy dịch lại gần. Anh cười và lên tiếng “Xin chào nam tước”.
Nam tước cười. “A, Jeff. Xin chào. Tôi rất vui lòng thấy anh đã đến được đây”.
“Làm sao tôi có thể bỏ lỡ dịp này được”. Jeff ra đấu chỉ người phụ nữ đầy vẻ khêu gợi trong vòng tay anh ta.
“Đây là cô Wallace. Còn đây, nam tước De Matigny”.
“Rất hân hạnh? Lão nhìn Tracy. “Nữ công tước, cho phép tôi giới thiệu cô Wallace và ông Jeff Stevens chứ?
Còn đây, nữ công tước De Larosa.
Cặp lông mày của Jeff nhướng lên. “Xin lỗi. Tôi chưa nghe được”.
“De Larosa”, Tracy bình thản đáp.
“De Larosa ... De Larosa”. Jeff nhìn Tracy đẩy vẻ dò xét. Cái tên thật quen.
Đúng rồi! Tôi biết chồng cô mà. Ông bạn thân thiết của tôi có đây với cô không”.
“Ông ấy ở Brazin”. Tracy chợt thấy mình đang nghiến chặt răng lại. Jeff mỉm cườị. “À, thật tệ. Chúng tôi vốn vẫn cùng đi săn với nhau. Tất nhiên là trước khi ông ấy gặp tai nạn”.
“Tai nạn ư? Lão nam tước hỏi.
“Vâng”, giọng Jeffvẻ buồn bã. “Khẩu súng của ông ấy bị cướp cò và viên đạn bắn trứng vào một khu vực rất nhạy cảm. Một điều thật ngu xuẩn”. Anh quay sang Tracy. “Liệu có hy vọng gì về ông ấy sẽ trở lại bình thường không Tracy đáp lạnh lùng, “Tôi tin rằng một ngày nào đó ông ấy cũng sẽ bình thường như anh vậy, Stevens ạ”.
“Ồ, tốt Cô sẽ chuyển tới ông ta lời thăm hỏi ân cần nhất của tôi chứ, nữ công tước?”.
Âm nhạc ngừng. Nam tước De Matiglly nói “Xin lỗi nhé, cô bạn thân mến, tôi phải đi làm một vài nghĩa vụ của chủ nhân”. Lãe xiết chặt tay nàng. “Đừng quên rằng chỗ của cơ là ở bàn tôi nhé”.
Khi lão ta vừa đi, Jeff nói với cô bạn nhảy. “Thiên thần của anh, em có thể đi lấy cho anh mấy viên thuốc đau đầu không? Anh đang đau lắm”.
“Ôi, tội nghiệp anh yêu”. Trong cặp mắt cô ta lộ rõ vẻ ngưỡng mộ. “Em sẽ quay lại ngay thôi, anh yêu của em”.
Cô ta đi ra. Tracy nói với Jeff. “Anh không sợ cô ta sẽ làm anh mắc bệnh đái đường à?”.
“Cô ta ngọt ngào dấy chứ? Còn cô dạo này thế nào, nữ công tước?”.
Tracy mỉm cười để che mắt những người xung quanh.
“Đó thực sự không phải là điều anh quan tâm, phải không nào?”.
“A, trái lại đấy. Thục ra, sự quan tâm của tôi đủ để khuyên cô một lời khuyên bạn bè. Đừng mất công cướp bóc gì ở tòa nhà này”.
“Sao. Anh định sẽ làm trước chăng”.
Jeff khoác tay Tracy đưa nàng lại một góc bàn cạnh chiếc piano, nơi có một anh chàng trẻ tuổi, mắt đen đang thả hồn theo một khúc nhạc Mỹ. Chỉ một mình Tracy mới có thể nghe được tiếng Jeff lẫn trong tiếng nhạc.
“Thực tế thì tôi cũng dự tính một chút việc nhỏ mọn, nhưng nó quá nguy hiểm”.
“Thật vậy à?” Tracy bắt đầu thấy thích thú.
Với nàng đây là điều dễ chịu, khỏi phải đóng kịch gì nữa. Người Hy Lạp có một từ rất chính xác cho cái này, Tracy nghĩ. Từ kẻ đạo đức giả bắt nguồn từ kẻ đóng kịch - một từ Hy Lạp.
“Hãy nghe tôi, Tracy”. Giọng Jeff nghiêm chỉnh.
“Đừng cố làm điều đó. Trước hết là không thể nào vượt qua khu vườn mà còn sống sót cả. Một con chó săn khủng khiếp được thả hàng đêm”.
Bỗng nhiên, Tracy nghe một cách chăm chú. Jeff đã âm mưu trộm cướp ngôi nhà này.
“Tất cả các cửa sổ và các cửa ra vào đều có điện. Hệ thống báo động được nối trực tiếp với đồn cảnh sát. Thậm chí ngay cả khi đã lọt vào trong thì cũng chẳng ích gì vì toàn bộ ngôi nhà đều chằng chéo những tia hồng ngoại vô hình”.
“Tôi biết tốt cả những điều đó”. Tracy đành lòng giả bộ.
“Vậy thì cô chắc cũng biết rằng những tia hồng ngoại không gây báo động khi cô chạm vào nó. à nó gây. Báo động khi cô bước ra. Nó cảm nhận sự thay đổi nhiệt độ.
“Không cách nào có thể vượt qua nó một cách im lặng”.
Nàng không hề biết điều đó. Làm sao Jeff lại biết được nhỉ?
“Tại sao anh lại nói với tôi những điều này?”.
Anh mỉm cười, và nàng thấy anh chưa bao giờ lại hấp dẫn. như vậy! Thực sự là tôi không muốn cô bị bắt, thưa nữ công tước. Tôi muốn có cô ở bên. Cô biết đấy, Tracy, cô và tôi có thể làm bạn nhau được mà”.
“Anh nhầm rồi”, Tracy nói chắc nịch khi thấy cô bạn của Jeff đang vội vã chạy lại. “Cô ấy tới kìa. Chúc vui vẻ”:
Khi bước đi, nàng còn nghe thấy cơ bạn của Jeff nói.
“Em mang cả sâm banh để anh uống thuốc đấy, tội nghiệp anh yêu”.
Bữa tiệc quả là hảo hạng. Mỗi món ăn đều được dọn ra cùng với một thứ rượu thích hợp, và những người hầu mang găng trắng phục vụ thật không chê vào đâu được. Sau cùng là cà phê và rượú Brandy, Khách nam giới được mời xì gà, còn nữ giới thì được tặng những lọ nước hoa Joy.
Sau bữa ăn, nam tước De Matiglly quay sang Tracy.
“Cô nói là muốn được đi xem mấy bức tranh của tôi. Bây giờ có muốn đi xem chúng không?”.
“Tôi rất thích được như vậy”.
Phòng tranh là cả một bảo tàng riêng, đầy các họa phẩm của các danh họa Ý, các họa sĩ thuộc trường phái ấn tượng Pháp, và Picassọ. Cả bức tường dài như sống động với các mảng màu tuyệt diệu trong tranh của các danh họa mà tên tuổi sẽ sống mãi cùng lịch sử. Đó là các tranh của Monets và Renous, Canalettas, Guardis và Tintoretto, còn tranh của Cesanues thì gần như kín cả một bức tường. Không thể tính hết giá trị của bộ sưu tập này.
Tracy lặng ngắm các bức tranh, đắm chìm trong vẻ huyền diệu của chúng.
“Tôi hy vọng chúng được bảo vệ cẩn thận?”.
Lão nam tước mỉm cười. “Đã ba lần bọn trộm cắp định động tới kho báu của tôi. Một tên thì bị chó cắn chết, tên thứ hai bị trọng thương, và tên thứ ba thì đang nằm trong tù với cái án chung thân. Lâu đài này là một pháo đài bất khả xâm phạm, thưa nữ công tước”.
“Nghe vậy tôi thật yên tâm, nam tước ạ”.
Một chớp sáng bừng lên ở phía bên ngoài. “Người ta bắt đầu bắn pháo hoa đấy”, lão nam tước nói. “Tôi nghĩ cô sẽ hài lòng”. Lão cầm lấy bàn tay mềm mại của Tracy trong bàn tay khô cứng của mình và đưa nàng ra khỏi phòng tranh. “Sáng mai tôi đi Deauville, ở đó tôi có một biệt thự bên bờ biển. Tôi đã mời một vài người bạn tới nghỉ cuối tuần. Mong rằng cô có thể cảm thấy thích”.
“Chắc chắn là thế”, Tracy nói vẻ nuối tiếc. “Nhưng tôi sợ chồng tôi sẽ thấy bực bội. Ông ấy cứ khăng khăng đòi tôi trở về”.
Pháo hoa kéo dài gần một giờ đồng hồ, và Tracy đã lợi dụng dịp này để thám thính ngôi nhà. Những gì Jeff nói là hoàn toàn Đúng. Các trở ngại là khủng khiếp, nhưng chính vì điều đó Tracy thấy sự thách thức này sao mà cám dỗ.
Nàng biết chắc trong buồng ngủ của lão nam tước có số đồ kim hoàn trị giá tới hai triệu đôla và dăm kiệt tác, trong đó có cả một bức của Leona De Vinci.
Tòa lâu đài này là cả một kho báu, Gunther Hartog đã nói, và nó được bảo vệ cẩn mật. Đừng hành động gì nếu chưa có một kế hoạch hoàn hảo.
Hừ, mình đã có một kế hoạch, Tracy nghĩ. Còn chuyện nó có hoàn hảo hay không thì mai sẽ biết.
Đêm hôm sau là một đêm giá lạnh, trời đầy mây, còn những bức tường bao quanh lâu đài đầy vẻ uy nghi và cấm đoán trước mắt Tracy. Nàng ẩn mình trong bóng tối, mình mặc bộ áo len quần màu đen, chân đi giày đế crếp, tay mang găng mềm và vai khoác một cái túi. Trong một giây lơ đãng, Tracy chợt nhớ lại các bức. tường của nhà tù và rùng mình.
Nàng lái chiếc xe tải nhỏ áp sát dọc theo bức tường đá phía sau của tòa lâu đài. Từ phía trong tường vọng ra tiếng gầm gừ dữ tợn và rồi là tiếng chó sủa điên cuồng. Tracy hình dung ra thân hình nặng nề, lực lưỡng của con chó giống Doberman và hàm răng ghê sợ của nó.
Nàng nhẹ nhàng nói với ai đó trong xe, “Nào”.
Một người đàn ông trạc trung niên, vẻ nhẹ nhõm, cũng mặc đồ đen, với một túi đeo lưng chui ra khỏi xe, bế theo con chó Doberman cái. Con chó đang kỳ động dục, và tiếng sủa bên trong tường đột nhiên chuyển thành tiếng gầm gừ đầy vẻ kích động.
Tracy đưa con chó lên nóc chiếc xe - cao ngang với bức tường đá.
“Một, hai, ba”. Nàng thì thầm.
Và rồi họ cùng tùng con chó vào bên trong. Hai tiếng sủa ngắn vang lên, tiếp theo là tiếng thở hồng hộc, rồi tiếng động của các con chó chạy đuổi nhau. Sau đó tất cả trở nên yên lặng.
Tracy quay sang gã đồng bọn nói. “Ta đi nào”.
Người kia, Jean Louis, gật đầu. Nàng tìm được gã ở khu Antibes, một kẻ trộm cắp đã từng ở tù nhiều năm.
Gã không thông minh sáng láng gì, nhưng là một chuyên gia về các ổ khóa, các hệ thống báo động, hoàn toàn thích hợp với vụ này.
Tracy bước từ nóc xe sang bức tường, thả xuống cái thang dây và móc nó vào bờ tường. Hai người theo thang tụt xuống bãi cỏ dưới chân tường. So với tối hôm trước, khi đông khách khứa cười đùa và đèn hoa sáng ngời, lúc này tòa lâu đài trông khác hẳn, tối tăm và ảm đạm.
Jean Louis bám theo sau Tracy, luôn trông chừng cặp chó Doberman một cách sợ hãi.
Những thân dây leo lâu đời phủ lấy tòa lâu đài từ chân tường lên tận trên mái. Tối hôm trước, Tracy đã thận trọng thử kéo các thân leo này. Và bây giờ, khi đu người lên một đây nhỏ thì thấy nó cũng đủ cứng cáp.
Nàng bắt đầu leo lên, mắt vẫn trông chừng phía dưới đất.
Không thấy bóng các con chó. Hy vọng là chúng sẽ bận bịu với nhau thật lâu.
Khi đã lên tới mái, nàng ra hiệu gọi Jean Louis và đợi cho gã leo lên tới bên.
Nhờ 1uồng ánh sáng của ngọn đèn bấm, họ thấy một cửa sổ trổ ra trên mái nhà, khung lắp kính. Tracy đứng canh chừng còn Jean Louis thì thọc tay vào cál túi sau lưng lôi ra một con dao cắt kính nhỏ xíu. Gã tháo kính ra trong vòng chưa đầy một phút.
Tracy xem xét và thấy một mạng dây, như mạng nhện, của hệ thống báo động chắn lối đi của họ. “Anh có thể xử lý cái này không, Jean?”.
“Không đáng gì”. Gã lôi ra một thứ dụng cụ gì đó và lúi húi lần tìm điểm đầu của mạng dây báo động. Rồi gã lấy kìm ra và thận trọng cắt từng đầu dây. Tracy căng thẳng, chỉ chờ tiếng chuông báo động, nhưng tất cả đều yên tĩnh. Jean Louis nhìn lên và hơi cười cười. “Xong”.
Chưa đâu, Tracy nghĩ bụng, Mới chỉ là bắt đầu.
Họ dùng chiếc thang dây thứ hai để leo vào nhà qua cái cửa sổ mở ra mái này và lọt vào căn nhà áp mái một cách an toàn. Nhưng vừa mới nghĩ những gì còn ở trước mặt, tim Tracy bỗng đập mạnh.
Nàng lấy ra hai cặp kính có thể nhìn thấy được các bức xạ hồng ngoại và trao một cặp cho Jean Louis. “Đeo vào”.
Nàng đã tìm ra cách gạt bỏ con Doberman, nhưng hệ thống báo động bằng tía hồng ngoại này thì là một vấn đề hoàn toàn khác. Jeff đã nói chính xác:
Những tia hồng ngoại mà mắt thường không thấy được giăng chằng chéo khắp ngôi nhà. Tracy hít mạnh vài hơi dài và sâu, tập trung năng lượng, đề khí, thả lỏng cơ bắp ... Nàng nhớ lại bài tập Thái cực quyền, cố buộc đầu óc mình phải thật thanh thản, tỉnh táo. Khi một người bước vào luồng tia hồng ngoại, không có chuyện gì cả, nhưng ngay khi bước ra, các tế bào quang điện cảm nhận sự thay đổi nhiệt độ tức khắc phát ra tín hiệu báo động, không để cho tên trộm kịp làm gì trước khi cảnh sát ập tới.
Và chính chỗ này, Tracy quả quyết, là điểm yếu của hệ thống. Nàng cần phải nghĩ ra cách giữ cho hệ thống báo động không làm việc cho đến sau lúc két sắt đã bị mở. Vào lúc 6 giờ 30 sáng, Tracy đã tìm ra giải pháp, linh cảm thấy cái cảm giác hồi hộp quen thuộc bắt đầu tăng lên trong mình.
Lúc này, nàng đeo cặp kính giúp nhìn thấy các bức xạ hồng ngoại và ngay lập tức, tất cả cảnh vật trong phòng đều mang một màu đỏ kỳ quái. Trước cửa căn phòng áp mái này, Tracy đã thấy một luồng tia hồng ngoại.
“Luồn xuống dưới”, nàng nhắc Jean Louis. “Cẩn thận đấy”.
Họ bò bên dưới luồng tia và lọt vào một hành lang tối om dẫn tới phòng ngủ của lão De Matigny. Tracy bật sáng ngọn đèn bấm và đi trước dẫn đường.
Nhờ cặp kính, Tracy thấy một luồng tia khác thấp, quét ngang ngưỡng cửa phòng nghỉ. Nàng nhảy qua nó một cách thận trọng. Jean Lotlis theo sát sau.
Tracy rọi đèn quanh bốn bức tường treo kín tranh.
“Hãy cố mang về cho tôi bức của Vinci”. Gunther đã căn dặn, và “tất nhiên là cả chỗ châu báu kia”.
Tracy gỡ bức tranh, đặt sấp nó xuống sàn, thận trọng lấy nó ra khỏi khung gỗ, cuộn lại và cho vào cái túi khoác trên vai. Bây giờ, tốt cả việc còn lại là với cái két sắt trong góc tường thụt sâu vào cuối căn phòng.
Tracy kéo tấm rèm che két sắt. Bốn luồng tia hồng ngoại căng ngang khoảng không hẹp, cao thấp khác nhau, và chồng chéo qua nhau. Không thể nào đến được cái két sắt mà không chạm phải một trong số các luồng tia.
Jean Louis đứng nhìn hoảng hất. “Mẹ kiếp?” Chó mà luồn qua đám này được, nó quá thấp, mà cũng không thể nhảy qua, vì nó quá cao.”.
“Tôi chỉ muốn anh làm theo Đúng lời tôi”? Tracy nói.
Nàng bước sát tới sau lưng gã. Hai tay choàng quanh eo gã. “Bây giờ ta cùng bước. Chân trái trước”.
Họ bước thẳng vào trung tâm các luồng tia - nơi chúng giao nhau, và Tracy dừng lại.
“Bây giờ nghe này”, nàng nói. “Tôi muốn anh đi tới cái két kia”.
“Còn các luồng tiạ.”.
“Đừng ngại. Sẽ ổn cả”. Nàng mong mình đã tính Đúng.
Vẫn còn ngần ngại, Jean Louis bước ra khỏi các luồng tia. Tất cả vẫn yên tĩnh. Gã ngoái nhìn Tracy với cặp mắt trố ra vì sợ hãi. Nàng đang đứng giữa các tia hồng ngoại, hơi nóng của th.ân thể nàng giữ cho các tế bào quang điện khỏi phát lệnh báo động. Jean Louis lao tới bên két sắt.
Còn Tracy cứ đứng im phắc, biết chắc rằng hễ nhúc nhích là chuông báo động sẽ vang lên.
Không dám quay đầu, Tracy đưa mắt liếc Jean Louis và thấy gã lấy vài thứ đồ nghề ra khỏi túi, bắt đầu hý hoáy với các khóa số trên két. Tracy đứng bất động, thở chậm và sâu. Thời gian như dừng lại. Công việc của Jean Louis dường như không bao giờ kết thúc thì phải. Bắp chân Tracy bắt đầu thấy đau, rồi như bị co cơ vậy. Nàng nghiến chặt răng, không dám động đậy.
“Bao lâu nữa?” Nàng thì thào.
“Mười, mười lăm phút nữa”.
Với Tracy thì mười lăm phút ấy dài bằng cả đời người.
Các bắp cơ chân đang bắt đầu co rút nhưng nàng vẫn đứng như trời trồng giữa các luồng tia hồng ngoại. Rồi có một tiếng cạch. Két đã mở.
“Trời! Cả một nhà băng này! Cô muốn lấy tốt à?” Jean Louis hỏi.
“Giấy thì không. Chỉ lấy đồ kim hoàn. Bao nhiêu tiền mặt ở đó đều phần anh tốt”.
“Cám ơn”.
“Kinh khủng thật!” Gã nói. “Nhưng làm sao ra khỏi đây mà không làm đứt đoạn các luồng tia?”.
“Điều đó thì không được rồi”, Tracy khẳng định.
Gã trố mắt. “Cái gì?” .
“Đứng vào trước mặt tôi”.
“Nhưng ...”.
“Làm theo lời tôi”.
Dù sợ hãi, Jean Louis vẫn bước vào luồng tia.
Tracy nín thở. Không có chuyện gì. “Được rồi. Bây giờ, chúng ta đi lùi ra, thật chậm”.
“Rồi sao nữa?” Cặp mắt Jean Louis mở thao láo sau cặp kính.
“Rồi thì, anh bạn thân mến, ta sẽ chạy thục mạng”.
Từng xăng ti mét, họ nhích giữa những luồng tia hướng ra phía cửa, Tracy hít một hơi sâu và nói. “Rồi. Khi tôi nói Nào, ta cùng chạy ra theo lối cũ nhé”.
Jean Louis nuốt nước bọt đánh ực và gật đầu. Tracy thấy cái thân hình nhỏ bé của anh ta run run.
“Nào!”.
Ngay khi họ vừa rời khỏi luồng tia, chuông báo động lập tức réo vang. Tơ khủng khiếp.
Tracy lao vụt vào căn phòng áp mái, túm lấy thang dây và leo lên, Jean Louis theo sau. Họ chạy trên mái nhà một đoạn rồi tụt xuống nhờ dạm dây leo, lao nhanh về phía chân tường nơi chiếc thang dây nữa đã đợi sẵn.
Vài giây sau họ đã chuyền sang nóc chiếc xe tải nhỏ và tụt xuống. Tracy nhảy vào ghế lái, Jean Louis ngồi cạnh.
Trong khi chiếc xe tải lao xuống con đường nhánh, Tracy thấy một chiếc xe khác đậu dưới hàng cây. Trong giây lát, đèn pha của chiếc xe tải chiếu sáng vào chiếc xe kia. Sau tay lái là Jeff Stevens đang ngồi, bên cạnh là con chó Doberman. Tracy cườl phá lên và tặng cho Jeff một cái hôn gió trong lúc chiếc xe tải lao vút đi.
Từ xa vọng lại tiếng còi hụ của xe cảnh sát đang đến gần
 
Chương 26


Biarritz, thành phố nhỏ trên bờ biển miền Tây Nam nước Pháp đã mất đi nhiều vẻ quyến rũ của nó so với hồi đầu thế kỷ. Sòng bạc BeUevue một thời lừng danh nay đã đóng cửa vì phải tu sửa quá nhiều, còn sòng bạc Municipal trên phố Mazagran giờ đây là một tòa nhà tàn tạ với mấy cửa hiệu nhỏ và một trường dạy khiêu vũ. Các biệt thự cổ trên những sườn đồi cũng đã mang vẻ sa sút lắm rồi.
Tuy vậy, vào mùa đi nghỉ, khoảng từ tháng Bảy đến tháng Chín, những người giàu có, vương giả của châu Âu vẫn kéo tới đây để chơi bạc, tắm nắng và ôn lại dĩ vãng. Những người không có dinh thự riêng ở đây thì thường ngụ tại khách sạn Palais ở số 1 đại lộ Hoàng Đế. Vốn là một biệt điện mùa hè eủa Napoléon đệ Tam, khách sạn này nằm trên một mũi đất nhô ra Đại Tây Dương, trong một cảnh trí thiên nhiên tuyệt diệu:
một bên là ngọn đèn biển với những tảng đá tai mèo khổng lồ nhô lên sừng sững từ mặt biển xám xịt giống như những con quái vật thời tiền sử, và bên kia là con đường men sát theo bờ biển.
Một buổi chiều cuối tháng Tám, nữ bá tước người Pháp Marguerite de Chantilly bước vào gian tiền sảnh của khách sạn Palais. Đó là một phụ nữ trẻ, tao nhã với mái tóc vàng mềm mại. Nàng mặc chiếc váy dài Giveney bằng lụa màu xanh lục đốm trắng, tôn thêm vẻ đẹp của thân hình đến mức phụ nữ phải ngoái theo ghen ty còn đàn,ông thì há mồm thèm muốn.
Nữ bá tước lại bên người gác cửa. “Cho tôi xin chìa khóa buồng”, nàng nói bằng thứ tiếng Pháp rất quyến rũ.
“Có ngay, thưa nữ bá tước”. Anh ta đưa Tracy chiếc chìa khóa và mảnh giấy ghi lời nhắn lại qua điện thoại.
Trong lúc Tracy bước về phía thang máy, một người đàn ông đeo kính, ăn mặc xộc xệch đột ngột quay người khỏi chỗ trưng bày khăn quàng Hermes đụng vào nàng, làm chiếc ví nàng cầm trên tay rơi xuống sàn.
“Ồ, cô bạn”, ông ta nói. “Tôi hết sứe xin lỗi”, rồi nhặt lên và trao lại cho nàng. “Xin thứ lỗi cho tôi”. Người đàn ông nói giọng Trung Âu.
Nữ bá tước Marguerite de Chantilly khẽ gật đầu vẻ kiêu kỳ, bước đi.
Người phục vụ giúp nàng vào thang máy và đế nàng bước ra ở tầng ba.
Tracy đã chọn thuê phòng 312 vì biết rằng lựa chọn này cũng quan trọng như việc chọn khách sạn ở Capri, thì phải là phòng 522 khách sạn Quisisana. Ở Majorac phải là phòng Hoàng Gia của khách sạn Son Vida, trông ra các sườn núi và cửa biển đằng xa. Ở New York, phải là phòng Tower 4717 của khách sạn Helmslay Palace, còn ở Asterdam thì lại phải là phòng 325 của khách sạn Amstel, nơi mà du khách được ru ngủ nhờ tiếng sóng êm ái của dòng nước trong con kênh đào lớn.
Từ căn phòng 312 của khách sạn Palais nhìn ra có thế thấy một phong cảnh trải rộng của cả đại dương và thành phố. Từ các cửa sổ, Tracy đều có thể ngắm những con sóng ào ạt đập vào những tảng đá lớn nhô lên khỏi mặt biển. Ngay phía dưới cửa sổ là một bể bơi lớn hình bầu dục mà màu nướcs xanh trong của nó thật tương phản với màu xám của biển khơi, và cạnh nó là một bãĩ rộng nhấp nhô ô dù che nắng. Các bức tường trong phòng đều được phủ lụa màu xanh trắng, chân tường ốp đá hoa cương, thảm rèm đều một màu hồng nhạt. Các cánh cửa gỗ đều bóng lộn lên cùng với thời gian.
Khi đã khóa cửa lại, Tracy gỡ bỏ tóc giả và xoa xoa mặt. Nữ bá tước là vai trò nàng đóng khéo nhất. Có hàng trăm tước hiệu để chọn trong cuốn Hoàng tộc và tước vị của Debrett cũng như trong cuốn Niên giám Gotha. Các cuốn sách này hết sức quý giá đối với Tracy, bởi lẽ chúng cho biết lịch sử các dòng họ từ hàng thế kỷ, với tên tuổi cha mẹ, con cái, trường học, nhà cửa và nơi cư trú của họ. Chỉ cần đơn giản chọn một gia đình danh tiếng và trở thành một người họ xa, đặc biệt là một người họ hàng xa giàu có Con người ta dễ bị ấn tượng với những danh vọng và tiền của.
Tracy nghĩ về người đàn ông lạ mặt đâm choàng vào nàng dưới tiền sảnh và mỉm cười. Bắt đầu rời đây.
Tối đó, nữ bá tước Marguerite de Chantiliy đang ngồi trong tiệm rượu của khách sạn thì người đàn ông hồi chiều tiến lại bàn nàng.
“Xin lỗi”, ông ta dè dặt nói, “Tôi thấy cần phải một lần nữa xin cô thứ lỗi cho sự vụng về quá đáng của tôi lúc chiều”.
Tracy nở một nụ cười đầy vẻ khoan dung. “Có gì đâu.
“Đó là chuyện chẳng may mà”.
“Cô thật rộng lượng quá; Ông ta ngập ngừng. “Tôi sẽ thấy dễ chịu hơn nếu được phép mời cô một ly rượu”.
“Vâng nếu ông muốn vậy”.
Ông ta nhẹ nhàng ngồi xuống ghế đối diện. “Xin cho phép được tự giới thiệu. Tôi là giáo sư AdolfZuckerman”.
“Còn tôi là Marguerite de Chantilly”.
Zuckeman vẫy người bồi bàn. “Cô uống gì nhỉ?”.
“Sâm banh. Nhưng có lẽ ...”.
Ông ta giơ tay ra ý có tiền. “Tôi mời được mà. Thực ra thì tôi đang ở sát ngưỡng cửa khả năng mua được bất kỳ thứ gì trên thế giới này”.
“Thế ạ?” Tracy nhoẻn cười. “Ông thật nhiều diễm phúc”.
“Vâng”.
Zuckeman kêu một chai Bolliger, rồi quay sang Tracy, “Điều kỳ lạ nhất đã xảy đến với tôi. Thực ra thì chẳng nên nói chuyện này với một người lạ, nhưng tôi hồi hộp quá”. Ông ta dướn người gần lại và hạ giọng. “Nói thật với cô tôi chỉ là một giáo viên bình thường - hay nói Đúng ra là cho tới gần đây. Tôi dạy môn lịch sử. Cũng dễ chịu thôi nhưng cô biết đấy, không có gì hồi hộp cả”.
Nàng nghe với vẻ quan tâm đủ mức lịch sự.
“Nghĩa là không có gì hứng thú cho tới cách đây vài tháng”.
“Giáo sư Zuckeman, cho phép tôi hỏi, cách đây vài tháng có gì xảy ra vậy?”.
“Khi đớ tôi đang nghiên cứu về hạm đội Tây Ban Nha mà vua Philip phái đi đánh nước Anh hồi năm 1588 ấy, nhằm tìm kiếm các hiện vật sót lại để lôi cuốn đám sinh viên, và ngay trong kho lưu trữ của bảo tàng địa phương, tôi đã gặp một tài liệu quý báu mà không biết tại sao lại lẫn lộn vào những tài liệu khác.
Nó cung cấp tốt cả các chi tiết bí mật về cuộc viễn chinh này. Một chiếc tàu chở đầy vàng nén bị cho là đã chìm trong một cơn bão mà không hề để lại dấu vết gì”.
Tracy ngước nhìn, vẻ cân nhắc. “Cho là bị chìm?”.
“Đúng như thế. Nhưng theo các tài liệu mà tôi tìm thấy thì viên thuyền trưởng và đội thủy thủ đã cố ý đánh chìm con tàu trong một cái vịnh nhỏ hoang vắng với ý định sau này sẽ quay lại để vớt kho báu này lên. Thế nhưng họ đã bị bọn cướp biển sát hại trước khi có thể quay lại cái vịnh đó. Cái tài liệu này còn sót lại chỉ vì không một tên cướp biển nào biết viết hay biết đọc gì hết. Chúng không hề biết giá trị của cái mà chúng có trong tay”.
Giọng ông ta run run vì kích động. “Tôi có tài liệu đó, với các hướng dẫn chi tiết để có thể lấy lại chỗ vàng kia”.
“Ông giáo sư, thật là một phát hiện may mắn cho ông quá”. Giọng nàng đầy vẻ thán phục.
“Chỗ vàng nén đó hiện có thể trị giá tới 50 triệu đôla”.
Zưckeman nói. “Tất cả việc mà tôi phải làm là chỉ vớt nó lên”.
“Vậy cái gì đang ngăn cản ông?”.
Ông ta nhún vai lúng túng. “Tiền. Tôi phải thuê một chiếc tàu để trục vớt kho báu đó”.
“Tôi hiểu. Chuyện đó sẽ tốn bao nhiêu?”.
“Một trăm ngàn đôla. Phải thú nhận là tôi đã làm một điều cực kỳ ngu ngốc.
Tôi đã lấy hai mươi ngàn đôla, khoản tiền dành dụm của cả đời tôi, để đi tới đây, Biarrita, và vào một sòng bạc, hy vọng sẽ kiếm được đủ ...”.
Tiếng ông ta nghẹn lại.
“Và ông đã thua tốt”.
Ông ta gật đầu. Tracy thấy mấy giọt nước mắt ứa ra sau cặp kính.
Người phục vụ đưa sâm banh đến, bật nút chai và rót thứ chất lỏng ngọc ngà ấy vào hai chiếc ly.
“Chúc may mắn” ...Tracy nâng cốc.
“Cám ơn cô”.
Họ nhấm nháp từng ngụm nhỏ trong sự im lặng trầm ngâm.
“Xin lỗi vì đã bắt cô phải nghe những chuyện này”. Zuckeman nói. “Tôi đáng ra chẳng nên kêu ca vì những khó khăn của mình với một phụ nữ xinh đẹp như cô”.
“Nhưng tôi thấy câu chuyện của ông thật hấp dẫn”, Tracy đáp. “Ông chắc là chỗ vàng còn ở đó chứ?”.
“Không nghi ngờ gì cả. Tôi có trong tay các vận đơn nguyên bản và một bản đồ do chính tay viên thuyền trưởng vẽ. Tôi biết chính xác địa điểm của kho báu ấy”.
Tracy nhìn ông ta với vẻ mặt nghĩ ngợi, băn khoăn.
“Nhưng ông cần phải có một trăm ngàn đôla?”.
Zuckeman chép miệng buồn bã. “Vâng. Để có được cái kho báu trị giá năm mươi triệu”.
“Có thể là ...” Nàng ngừng bặt.
“Gì hả cô?”.
“Ông có nghĩ tới chuyện hùn vốn với ai khác không?”.
Ông ta ngạc nhiên. “Hùn ... chung vốn ư? Không. Tôi tính làm một mình.
Nhưng tốt nhiên, giờ tôi đã mất sạch cả tiền ...”. Giọng ông ta lại nghẹn ngào.
“Giáo sư Zuckeman, nếu như tôi sẽ đưa ông một trăm ngàn đôla?”.
Ông ta lắc đầu. “Dứt khoát là không, nữ bá tước ạ. Tôi không cho phép mình nhận tiền như vậy. Cô có thể mất tiền mà không được gì cả”.
“Nhưng nếu ông chắc chắn là kho báu nằm ở đó ...?”.
“Ồ về điều đó thì tôi chắc. Nhưng hàng trăm chuyện có thể xảy ra. Chẳng có gì bảo đảm cả”.
“Trong cuộc sống, ít có những bảo đảm. Câu chuyện của ông rất hấp dẫn. Có thể là, nếu tôi giúp được ông, thì cả hai chúng ta đều may mắn”.
“Không, tôi không bao giờ tha thứ cho mình được nếu vì chuyện không may nào đó mà cô mất không số tiền của mình”.
“Tôi có thể chấp nhận điều đó”, nàng quả quyết. “Và tôi sẵn sàng làm một hợp đồng về khoản đầu tứ của tôi mà, được chứ?”.
“Dĩ nhiên, chuyện đó là cần thiết”, Zuckeman thừa nhận. Ông ta ngồi im, ân nhắc vấn đề, giằng xé với những điều ái ngại. Sau cùng, ông ta nói, “Nếu đó là điều cô tự nguyện thì cô sẽ là bên chung vốn năm mươi phần trăm”.
Nàng mỉm cười hài lòng. “Được. Tôi chấp nhận”.
Ông giáo sư nói thêm ngay. “Tốt nhiên là sau khi trừ các khoản chi phí”.
“Lẽ tất nhiên. Chúng ta có thể sớm khởi sự chứ?”.
“Ngay lập tức”. Ông giáo sư đột nhiên trở nên hăng hái. “Tôi đã kiếm được chiếc tàu mà tôi muốn sử dụng. Nó có thiết bị nạo vét hiện đại và một đội thủy thủ bốn người.
Tất nhiên, chúng ta sẽ phải cho bọn họ một vài phần trăm nào đó của những gì mà chúng ta vớt lên được”.
“Chắc chắn là thế rồi”.
“Chúng ta nên bắt đầu càng sớm càng tốt, nếu không sẽ có thể chẳng thuê được chiếc tàu đó”.
“Trong năm ngày tôi sẽ giao tiền cho ông”.
“Tuyệt diệu!” Zuckeman kêu lên. “Vậy là tôi sẽ đủ thời gian để chuẩn bị. À, mà đây chỉ là cuộc gặp gỡ tình cờ giữa hai chúng ta, có đúng thế không nhỉ?”.
“Thì còn nghi ngờ gì nữa?”.
“Chúc cho công cuộc của chúng ta “. Ông giáo sư nâng ly lên.
Tracy nâng theo và nói, “Chúc nó mang lại lợi nhuận đúng như tôi đã cảm thấy”.
Họ chạm ly. Tracy nhìn ngang căn phòng và lạnh người. Ở một bàn tít trong góc là Jeff Stevens đang nhìn nàng với nụ cười dễ chịu trên khuôn mặt.
Cùng với anh ta là một phụ nữ rực rỡ trong những đồ nữ trang quý giá.
Jeff gật đầu với Tracy, và nàng mỉm cười nhớ lại cái đêm thấy anh ta bên ngoài dinh thự của De Matigny, với con chó bên cạnh. Mình đã thắng một điểm nàng sung sướng nghĩ.
“Vậy nếu cô cho phép”, Zuckeman nó “Tôi còn nhiều việc phải làm. Tôi sẽ liên lạc với cô sau”. Tracy lịch thiệp chìa tay ra, ông ta hôn lên tay nàng và bước đi.
“Tôi thấy vị khách của cô, và tôi không thể tưởng tượng vì sao. Trông cô trong bộ tóc vàng này thật là tuyệt vời”.
Tracy ngước lên. Jeff đã đang đứng bên. Anh ngồi xuống chiếc ghế mà ít phút trước đó AdolfZuckeman đã ngơi.
“Xin chúc mừng”, Jeff nói. “Vụ De Matiglly thật là tuyệt vời. Rất gọn gang”?.
“Anh mà nói vậy thì quả là một sự đánh giá cao, Jeffạ”.
“Tracy, cô làm tôi mất món tiền lớn đấy”.
“Rồi anh sẽ quen với điều đó thôi”.
Anh xoay xoay chiếc ly đặt trước mặt. “Giáo sư Zuckeman muốn gì vậy?”.
“Ôi, anh biết ông ấy à?”.
“Cứ cho là như vậy đi”.
“Ông ấy ... ô ... muốn cùng uống một ly rượu thôi mà”.
“Và kể cho cô nghe về cái kho báu dưới đáy biển của ông ta chứ gì?”.
Tracy chợt cảm thấy lo ngại. “Làm sao anh biết chuyện đó?”.
Jeff nhìn cô đầy ngạc nhiên. Từng nói với tôi rằng cô đã chấp nhận chuyện đó. Một trò bịp cũ rích”.
“Nhưng lần này thì không đâu”.
“Ý cô nói là cô tin lão?”.
Tracy bướng bỉnh đáp, “Tôi không muốn thảo luận chuyện này, nhưng đúng là tình cờ mà ông giáo sư có được một số thông tin gốc”.
Jeff lắc đầu tỏ ý không tin. “Tracy, lão ta định bịp cô đấy. “Lão đã đề nghị cô đầu tư bao nhiêu”.
“Xin đừng bận tâm”, Tracy nói, vẻ khó chịu. “Chuyện đó chỉ liên quan đến tiền của tôi và nó là việc riêng của tôi mà”.
Jeff nhún vai. “Đúng thế. Chỉ mong cô đừng nói rằng thằng Jeff này đã không cố khuyên ngăn cô thôi”.
“Thế không phải là anh cũng quan tâm tới số vàng đó ư?”.
Anh giơ hai tay lên, vẻ thất vọng. “Sao cô luôn luôn ngờ vực tôi như vậy nhỉ?”.
“Thật đơn giản”, Tracy đáp. “Tôi không tin anh. Người phụ nữ đi cùng anh là ai vậy?” Nàng lập tức hối tiếc và chỉ ước giá mà rút lại được câu hỏi đó.
“ZSuzanne! Một người bạn thôi”, “Tất nhiên là giàu có”.
Jeff cười gượng gạo. “Quả thật là như vậy, tôi nghĩ rằng cô ta cũng có chút tiền của. Ngày mai mời cô đến ăn trưa với chúng tôi”.
“Cám ơn, tôi không hề nghĩ tới chuyện quấy quả bữa trưa của anh. Anh đổi lại cho cô ta cái gì vậy?”.
“Đó là chuyện cá nhân”.
“Tôi chắc là như vậy”. Giọng nàng chợt gay gắt tới không ngờ.
Qua vành ly, nàng trộm ngắm anh. Thật sự là hấp dẫn ghê gớm. Vóc dáng chắc nịch, gọn gàng, cặp mắt màu trò tuyệt đẹp với hai hàng lông mi dài, và trái tim của một con rắn. Một con rắn thông minh.
“Đã bao giờ anh nghĩ tới việc chuyển sang làm ăn hợp pháp chưa?” Tracy hỏi. “Có thể anh sẽ rất phát đạt đấy”.
Jeff giật nảy người. “Cái gì hả? Từ bỏ tốt cả cuộc sống này à? Cô đùa chắc”.
“Thế mãi mãi anh là một kẻ lừa đảo à?”.
“Lừa đảo chuyên nghiệp ư? Không, tôi là một nhà kinh doanh”, anh đáp quả quyết.
“Ành mà là một ... một ... nhà kinh doanh?”.
“Tôi chạy trốn khỏi gia đình từ năm 14 tuổi và gia nhập một gánh tạp kỹ”.
“Mới 14 tuổi ư?” Đó là chi bết đầu tiên mà Tracy biết đằng sau cái con người hào hoa, quyến rũ và phức tạp này.
“Điều đó là tốt cho tôi. Tôi học được cách phải sống. Khi cuộc chiến tranh lạ lùng xảy ra tại Việt Nam, tôi đã đầu quân vào lực lượng Mũ nồi xanh và được học hành tử tế Tôi cho rằng điều chủ yếu mà tôi đã học được chính là việc thấy rõ cuộc chiến tranh đó là một trò bịp lớn nhất. So với chuyện đó thì cô và tôi chỉ là những kẻ nghiệp dư mà thôi”. Anh đột ngột chuyển đề tài. “Cô có thích đi xem một trận Pơlôtta không?”.
“Nếu đó là một thứ đổi chác của anh thì xin cám ơn. Không dám”.
“Đó là một trò chơi. Tôi có hai vé xem tối nay, và Suzanne không thể đi được. Cô có muốn đi không?”.
Ngoài ý định của mình, Tracy đã buột miệng nhận lời. Họ cùng ăn với nhau ở một quán nhỏ bên quảng trường. Bữa ăn của họ có thứ rượu nho địa phương và món thịt vịt béo ngậy cùng với khoai tây chiên và bánh tây Tất cả đều thơm phức.
Vừa ăn họ vừa nói chuyện chính trị, văn chương và Tracy nhận thấy rằng Jeff có nhiều kiến thức đáng ngạc nhiên.
“Khi mà cô phải sống tự lập từ tuổi 14”, Jeff nói, “cô sẽ học được mọi thứ rất nhanh. Trước tiên cô sẽ biết về các động cơ hành động của mình, rồi biết về các động cơ của kẻ khác. Một trò lừa bịp cũng na ná như môn võ nhu đạo.
Trong môn nhu đạo, người ta giành thắng lợi bằng chính sức mạnh của đối thủ. Còn trong một trò bịp, người ta dùng tới lòng tham lam của con mồi. Hãy làm cử chỉ đầu tiên thôi, việc còn lại kẻ kia sẽ làm nốt cho mình”, Tracy mỉm cười, băn khoăn rằng liệu Jeff có biết họ giống nhau đến thế nào không. Nàng thấy thích thú được ở bên anh, nhưng tin chắc rằng hễ có cơ hội thì anh cũng chẳng ngần ngại chơi cho nàng một vố. Cần phải dè chừng anh ta và Tracy luôn luôn nhắc mình điều đó.
Trận Pơlôtta diễn ra trên một sân ngoài trời lớn bằng một sân bóng đá, nằm giữa khu đồi của vùng Biarritz.
Hai đầu sân là hai bức tường bê tông màu xanh, khá lớn, ở khoảnh giữa là sân bóng, hai bên là những hàng ghế đá dành cho người xem.
Trời chập choạng tối; các ngọn đèn pha được bật sáng. Lúc Tracy và Jeff đến, các khán đài đã Đông chật người hâm mộ, và hai đội bắt đầu thi đấu.
Cầu thủ của mỗi đội lần lượt ném mạnh trái bóng vào bức tường bê tông và rồi hứng nó bật ra bằng một cái rổ dài và hẹp buộc ngang trên tay họ. Pơlôtta là một môn chơi đầy tốc độ và nguy hiểm.
Mỗi khi một cầu thủ hứng bóng trượt, đám đông lại gào lên.
“Họ thật là đam mê”. Tracy nhận xét.
“Cả đống tiền được mang cá cược vào các trận đấu này. Dân Basque là rất máu mê cờ bạc”.
Vì người xem vẫn tiếp tục kéo đến nên các hàng ghế trở nên chật chội và Tracy thấy mình bị ép sát vào Jeff. Không biết anh có cảm thấy th.ân thể mình áp vào mình không, nhưng dù có, chắc cũng làm bộ không để ý.
Nhịp độ và sự quyết liệt của trận đấu mỗi lúc mỗi tăng và những tiếng la hét của đám đông vang lên ngày càng lớn.
“Nó có nguy hiểm thật không nhỉ?” Tracy hỏi.
“Thưa nữ bá tước, trái bóng kia bay trong không khí với tốc độ gần một trăm dặm một giờ. Nếu nó trứng đầu, cô sẽ chết ngay. Nhưng ít khi các cầu thủ để lỡ bóng lắm”.
Anh vừa nói vừa vỗ lên tay cô một cách lơ đãng, mắt vẫn dán vào trận đấu.
Các cầu thủ đều rất có kỹ thuật, di chuyển hợp lý và hoàn toàn khống chế bóng. Nhưng vào quãng giữa hiệp, hoàn toàn bất ngờ, một cầu thủ ném rất mạnh trái bong nhưng lại chệch hướng và bóng không lao vào bức tường bê tông mà lại la thẳng về phía chiếc ghế băng mà Tracy và Jeff đang ngồi. Người xem rạp người xuống tránh, còn Jeff túm lấy Tracy, đẩy xuống đất và nằm đè lên nàng. Họ nghe tiếng rít của trái bóng ngay phía trên đầu và đập vào bức tường chắn phía sau. Tracy, ngay lúc này, vẫn kịp cảm thấy tấm thân rắn chắc của Jeff. Mặt anh kề sát mặt nàng.
Anh giữ yên nàng trong giây lát, rồi nhổm người lên, kéo nàng đứng dậy.
Đột nhiên cả hai cùng cảm thấy ngượng ngập.
“Tôi ... tôi cho rằng sự hồi hộp, kích động trong một buổi tối thế là đủ rồi”, Tracy nói. “Tôi muốn quay về khách sạn”.
Họ tạm biệt nhau trong hành lang.
“Tôi rất thích thú buổi tối này”, Tracy nói với Jeff một cách thật tình.
“Tracy, cô sẽ không tiếp tục với cái kế hoạch mò kiếm kho báu điên khùng kia của Zuckeman chứ?”.
“Tôi sẽ tiếp tục”.
Anh nhìn nàng hồi lâu. “Cô vẫn nghĩ là tôi săn đuổi chỗ vàng ấy à?”.
Nàng nhìn thẳng vào mắt anh ta. “Thế không phải sao?”.
Mặt anh ta đanh lại. “Chúc may mắn”.
“Chúc ngủ ngon, Jeff”.
Tracy trông theo anh quay người bước ra khỏi khách sạn. Nàng nghĩ anh sẽ đến Suzanne. Tội nghiệp cô ta ...
Người gác cửa nói lớn. “A, chào nữ bá tước. Có một bức điện cho bà”.
Đó là điện của giáo sư Zuckeman.
Adolf Zuckeman đã gặp rắc rối. Một rắc rối to. Ông ta đang ngồi trong phòng của Armand Grangier và sợ đến mức đái cả ra quần. Grangier là chủ của sòng bạc bất hợp pháp trong một dinh thự riêng sang trọng ở số 132 phố Frias.
Với Grangier thì việc sòng Municipal mở hay đóng cửa cũng chẳng có gì phải bận tâm, bởi lẽ cái Câu lạc hộ ở phố Frias này của lão luôn đông đúc các vị khách giàu có. Khác với các sòng bạc do chính phủ kiểm soát, tiền đặt ở đây không hạn chế và khách có thể chơi các kiểu bài khác nhau tùy theo sở thích.
Khách hàng của Grangier gồm có các Hoàng tử ArẬp, các nhà quý tộc Anh, các thương gia phương Đông và các vị quốc trưởng Phi châu. Những cô gái mơn mởn trong các bộ đồ hở hang lượn lờ trong phòng sẵn sàng mang tới phục vụ những ly sâm banh hay uytxky biếu không, bởi lẽ từ lâu Armand Grangier đã biết rõ ràng, hơn bất kỳ ai khác, chính những kẻ giàu cc lại rất muốn kiếm được cái gì đó mà không phải bỏ tiền ra. Grangier sẵn lòng chấp nhận việc mời không những ly rượu. Các ván bài sẽ bù lại cho hắn.
Cái câu lạc bộ này luôn đầy ắp phụ nữ trẻ đẹp sánh vai với những quý ông lớn tuổi, và sớm muộn gì họ cũng bị lôi cuốn về phía Grangier. Hắn là một ông chủ nhỏ bé, nhưng có nét hoàn hảo, cặp mắt nâu tinh nhanh và cái miệng mềm mại đầy khêu gợi. Hắn cao có một mét sáu, vậy mà sự kết hợp giữa vẻ mặt và dáng nhỏ nhắn của hắn lại cuốn hút cáe phụ nữ như một thanh nam châm.
Grangier cư xử với mỗi phụ nữ mỗi khác.
“Em thật tuyệt diệu, em yêu ạ, nhưng không may cho cả hai ta, tôi lại đang yêu một người khác đến phát điên lên được”.
Mà Đúng thế thật. Mỗi tuần hắn lại thay một người đàn bà, bởi lẽ ở Biarritz này không bao giờ hết những phụ nữ trẻ đẹp cả, và Grangier chỉ dành cho mỗi người một chút thời gian nồng nhiệt ngắn ngủi.
Cái mối liên hệ của Grangier với thế giới ngầm và cảnh sát đủ mạnh để giúp hắn duy trì sòng bạc của mình. Hắn đã trở thành chủ sòng từ chỗ là một thằng bé sai vặt cho đám buôn ma túy, những ai chống lại hắn đều chỉ phát hiện ra rằng gã đàn ông bé nhỏ này quả là nguy hiểm khi đã quá muộn.
Lúc này Armand Grangier đang tra hỏi AdolfZukeman. “Hãy nói rõ hơn về cơn mụ bá tướe mà anh đã gạ gẫm vào vụ kho báu kia đi”.
Từ cái giồng giận dữ của hắn, Zuckeman hiểu rằng đã xảy ra chuyện gì tồi tệ, rất tồi tệ.
Ông ta nuốt nước bọt và nói. “Ờ, cô ta là một quả phụ có rất nhiều tiền do người chồng để lại, và cô ta nới là sẽ chịu một trăm ngàn đô la”. Ông ta tự tin hơn khi nghe tiếng của chính mình. Một khi đã nhận được số tiền đó, ta sẽ nói với cô ta là con tàu khốn kiếp kia đã gặp nạn và chúng ta cần thêm năm mươi ngàn. Rồi lại một trăm ngàn khác nữa, và ông biết đấy cứ như thế”.
Ông ta nhận thấy Armand Grangier lộ rõ vẻ khinh miệt. “Có ... có vấn đề gì?
“ Giọng Grangier lạnh như tiền. “Vấn đề là ở chỗ tôi mời nhận được một cú phôn từ người của tôi ở Paris gọi tới Hắn đã làm giả một hộ chiếu cho con mụ bá tước của anh. Tên ả là Tracy Whitney và ả là người Mỹ”.
Miệng Zuckeman chợt khô đắng. Ông ta liền nói. “Cô ta ... cô ta có vẻ thật lòng quan tâm mà”.
“Đồ ngu, ả là một kẻ lừa đảo chuyên nghiệp. Còn anh thì định lừa đảo một kẻ lừa đảo”.
“Vậy sao cô ta lại đồng ý? Tại sao cô ta lại không từ chối phắt đi?”.
Giọng Grangier lạnh tanh. “Tôi không biết. Thưa ông giáo sư Nhưng tôi quyết phải tìm ra điều đó. Và khi ấy, tôi sẽ cho ả ta đi tắm ngoài vịnh. Không kẻ nào có thể biến Armand Grangier này thành một thằng ngốc được.
Còn bây giờ thì cầm máy lên. Bảo cô ả rằng một người bạn của ông đã hứa góp một nửa số tiền, và rằng tôi sẽ đến gặp ả ngay. Ông có làm được việc đó hay không”.
Zuckeman vội vã. “Được. Xin đừng lo”.
“Tôi lo dấy”, Armand Grangier chậm rãi nói, “Tôi lo nhiều về ông, ông giáo sư ạ”.
Armand Grangier vốn không ưa những điều bí ẩn. Cái trò một kho báu dưới đáy biển người ta đã diễn hàng thế kỷ nay nhưng nạn nhân phải là những tay khờ khạo cơ.
Không đời nào một kẻ lừa đảo chuyên nghiệp lại mắc vào trò này cả. Chính điều bí ẩn đó đã làm Grangier bứt rứt không yên và định làm cho ra nhẽ. Và khi hắn đã có câu trả lời thì người phụ nữ kia sẽ được giao cho Brune Vicente.
Brunne rất khoái trò vờn giỡn với nạn nhân của mình trước khi thủ tiêu họ.
Armanđ Grangier bước ra khi chiếc xe sang trọng dừng lại trước khách sạn Palais. Hắn tiến lại chỗ Jules Bergerac, một người Basque tóc bạc trắng đã làm việc tại khách sạn này từ khi mới mười ba tuổi.
“Số phòng của nữ bá tước Marguerite de Chantilly”.
Có một quy định nghiêm ngặt cấm các nhân viên tiết lộ số phòng của khách, nhưng mọi quy định không được áp dụng với Armand Grangier.
“Buồng số 312, thưa ông Grangier”.
“Cám ơn”.
“Và cả phòng 311 nữa”.
“Grangier dừng phắt lại. Hả?”.
“Nữ bá tước thuê cả hai căn_phòng liền luôn với khu phòng của bà ấy”.
“Ô? Thế ai ở đó?”.
“Không có ai”.
“Không có ai? Anh chắc chứ?”.
“Vâng, thưa ông. Bà ta luôn khóa kín. Hầu phòng cũng không được vào mà”.
Vẻ cau có lộ rõ trên mặt Grangier. “Anh có chìa vạn năng chứ?”.
“Tất nhiên”.
Không một giây lưỡng lự, ông ta trao nó cho Armand Grangier. Jules Bergerac trông theo trong lúc Grangier bước về phía thang máy. Không ai dám cãi lại hắn cả.
Tới trước căn phòng của nữ bá tước, Armand Grangier thấy cửa để ngỏ. Hắn đẩy toang hai cánh ra và bước vào. Phòng khách trống không. “Hello? Có ai ở đây không?”.
Một giọng phụ nữ vọng ra từ một phòng khác. “Tôi đang tắm. Tôi ra ngay đây. Xin cứ tự nhiên cho”.
Grangier đi lại ngó nghiêng, mọi thứ đều là quen thuộc bởi lẽ trong nhiều năm qua hắn đã dàn xếp cho nhiều bạn bè tới ở khách sạn này. Hắn sộc vào phòng ngủ. Những đồ nữ trang đắt tiền để bừa bãi trên mặt bàn phấn.
“Tôi sẽ ra ngay đây”, vẫn giọng nói ấy từ phòng tắm vọng ra.
“Đừng vội vàng, nữ bá tước”.
“Bá tước cái cục cứt” Hắn cáu kỉnh chửi thầm. “Được, dù ngươi có giở trò gì ra đi nữa thì ngươi cũng sẽ bị quật lại, cô em yêu quý ạ. Hắn bước tới cái cửa thông sang phòng 311 kế bên. Cửa khóa, Grangier dùng chiếc chìa vạn năng để mở. Không khí trong phòng ngột ngạt. Jules nói là không có ai ở đây cả. Vậy tại sao ả lại cần?
Grangier chợt thấy lạ mắt. Một sợi dây dẫn điện màu đen, to tướng cắm vào một ổ điện trên tường, bò dọc trên sàn và biến mất vào phỏng vệ sinh. Cánh cửa nhỏ này chỉ hé mở đủ để sợi dây luồn qua được. Grangier không nén nổi tò mò, bước lại mở cánh cửa ra.
Một dãy những đồng một trăm đôla được cặp trên một sợi dây căng ngang để hong khô. Trên chiếc bàn nhỏ đặt chiếc máỷ chữ có một vật gì đó được đậy bằng một tấm vải Grangier giật tấm vải ra và thấy một chiếc máy in nhỏ mà trong đó vẫn còn tờ một trăm đôla còn đang ướt.
Cạnh chiếc máy in là một xấp giấy trắng cỡ bằng đồng tiền Mỹ và một bộ dao xén giấy. Vài tờ giấy bị cắt lẹm nằm vương dưới sàn nhà.
Một giọng giận dữ sau lưng Grangịer. “Ông vào dây làm gì hả?”.
Grangier quay phắt lại. Tracy Whitney đứng sững sau lưng hắn, tóc ướt sũng, mình chỉ quấn có chiếc khăn tắm.
Armand Grangier nói nhẹ. “Tiền giả? Cô định giao cho chúng tôi tiền giả”.
Hắn quan sát vẻ thay đổi trên khuôn mặt nàng. Bác bỏ giận dữ và rồi là vẻ thách thức.
“Đúng vậy”. Tracy thừa nhận. “Nhưng cũng chẳng hề gì.
Không thể nào phải biệt chúng với đồng tiên thật cơ mà.”.
“Bịp”.
“Những đồng tiền này cũng có giá như vàng vậy”.
“Thế cơ à?” Giọng Grangier đầy vẻ khinh bỉ. Hắn gỡ mấy tờ giấy bạc còn ướt từ trên dây xuống yà chăm chú nhìn hết mặt này, rồi mặt kia, và rồi xem xét kỹ lưỡng hơn. Chúng thật hoàn hảo. “Ai làm cái mẫu in này?”.
“Việc đó thì liên quan gì nào? Xem đây, tôi sẽ làm xong một trăm ngàn đô la vào thứ sáu này”.
Grangier sững người. Và khi nhận ra điều mà nàng đang nghĩ, hắn cười phá lên. “Lạy Chúa”, hắn nói.”Cô thật ngu ngốc. Không hề có kho báu nào hết”.
Tracy lúng túng. “Ý ông nói gì, không có kho báu nào à? Giáo sư Zuckeman đã nói với tôi ...”.
“Và cô tin ông ta à? Thật nực cười, thưa nữ bá tước”.
Hắn xem lại đồng bạc trong tay một lần nữa. “Tôi sẽ giữ tờ 100 này”.
Tracy nhún vai. “Ông thích bao nhiêu thì cứ lấy. Nó chỉ là thứ giấy lộn”.
Grangier vơ một nắm những tờ đô la một trăm còn ướt ..Sao cô lại tin rằng đám hầu phòng sẽ không vào đây hả?” Hắn hỏi.
Tôi đã dúi tiền cho chúng rồi. Và khi đi vắng, tôi luôn khóa cửa này”.
Ả cũng khá đấy. Armand Grangier nghĩ - nhưng cũng chẳng đủ để cứu sống ả.
“Không được rời khách sạn”, hắn hạ lệnh. “Tôi muốn cô gặp một người bạn của tôi”.
Armand Grangier đã định giao người đàn bà này cho Brune Vieente ngay, nhưng một linh tính nào đó đã giữ hắn lại. Hắn kiểm tra lần nữa một trong số những tờ bạc.
Cả đống bạc giả từng qua tay hắn, nhưng không có tờ nào có thể sánh với tờ này. Thằng cha nào đúc cái bản in quả là tài năng. Tờ bạc có cảm giác như thật, các đường nét đều gọn gàng, tinh tươm. Màu sắc rõ nét và chính xác, thậm chí dù là còn ướt mà chân dung Benjimin Franklin trên đó vẫn hoàn hảo. Con mụ khốn kiếp kia nói cũng đúng. Khó mà phân biệt được tờ bạc hắn cầm trong tay với đồng tiền thật. Grangier áy náy không biết liệu có thể mang dùng nó như tờ bạc thật hay không. Đó là một ý nghĩ đầy cám dỗ.
Hắn quyết định chưa cho Brưne Vicete biết vội gọi Zucke- man tới và đưa cho ông ta một trong số mấy tờ một trăm đô la giả. “Mang đến nhà băng và đổi sang đồng Phrăng”.
Grangier nhìn theo trong lúc ông ta vội vã bước ra khỏi phòng. Đó là sự trừng phạt đối với những ngu xuẩn của Zuckeman. Nếu bị bắt, ông ta cũng sẽ không há miệng nói đã nhận tờ bạc giả từ ai, nếu như ông ta muốn sống. Nhưng nếu ông ta có thể tiêu được tờ bạc trót lọt ...
Để xem đã, Grangier nghĩ.
Mười lăm phút sau Zuckeman quay lại, đếm đủ số Phrăng vừa đổi được bằng tờ một trăm đô la. “Còn gì không sếp?”.
Grangier nhìn những đồng Phrăng. “Anh có gặp khó khăn gì không?”.
“Khó khăn? Không! Nhưng sao ạ?”.
“Tôi muốn anh quay lại, vẫn nhà băng đó”, Grangier hạ lệnh tiếp. “Tôi muốn anh nói rõ thế này ...”.
Adolf Zuckeman bước vào gian tiền sảnh của Ngân hàng Pháp và đến trước chiếc bàn mà viên quản lý đang ngồi.
Lần này thì Zuckeman ý thức được mối nguy hiểm, nhưng thà ông ta chấp nhận điều đó còn hơn là cơn giận của Grangier.
“Tôi có thể giúp gì ông được?” Viên quản lý hỏi.
“Vâng”, ông ta cố giấu nỗi sợ hãi, “Đêm qua tôi có chơi bài với mấy người Mỹ mà tôi gặp trong quán rượu”. Ông ta ngừng bặt.
Viên quản lý gật đầu ranh mãnh. “Và ông thua sạch cả tiền nên muốn vay một khoản chứ gì?”.
“Không”, Zuckeman nói, “Thật ... là tôi được. Chỉ có điều là tôi thấy mấy người kia không có vẻ thật thà gì”. Ông ta rút ra hai tờ 100 đô la “Họ trả tôi số tiền này và tôi sợ, rằng đó ... có thể lả bạc giả”.
Zuckeman nín thở khi người quản lý nhà băng vươn người ra và đỡ lấy mấy tờ bạc từ bàn tay béo múp của ông ta. Viên quản lý xem xét hai tờ bạc một cách thận trọng, mặt bên này rồi mặt bên kia rồi giơ chúng lên trước ánh sáng.
Ông ta nhìn Zuckeman và mỉm cười. “Ông đã gặp may, thưa ông. Đây là những đồng tiền thật”.
Zuckeman thở phào nhẹ nhõm. ơn Chúa? Mọi thứ đều ổn ca.
“Thưa sếp, không có gì rắc rối. Hắn ta nói chúng là tiền thật”.
Thật là quá mức tưởng tượng. Armand Grangier ngồi lặng suy tính, một kế hoạch đã hình thành trong óc hắn.
“Kiếm mụ bá tước lại đây”.
Tracy được để ngồi trong phòng của Armand Grangier, đối diện với hắn qua chiếc bàn trang trọng.
“Cô và tôi sẽ là bạn chung doanh”, Grangier thông báo.
Tracy nhổm dậy. “Tôi không cần một bạn hàng và ...
“Ngồi xuống”.
Nàng nhìn vào mắt Grangier và ngồi xuống.
“Biarritz này là của tôi. Cô thử cứ tiêu, dù chỉ một tờ trong số bạc đó, cô sẽ bị bắt nhanh đến nỗi không biết vì sao nữa. Hiểu chưa? Nhiều điều tồi tệ thường xảy ra với các cô gái xinh đẹp trong nhà tù của chúng tôi. Ở đây không có tôi, cơ không thể động chân động tay gì được”.
“Vậy là tôi mua sự bảo hộ từ ông à?”.
Cô nhầm. “Cái cô đang mua từ tôi là sự sống của chính cô đấy”.
Tracy tin vào điều đó.
“Bây giờ, cho tôi biết cô đã kiếm được cái máy in kia từ đâu vậy?”.
Tracy lưỡng lự và sự giằng xé đó làm cho Grangier khoái chí. Hắn theo dõi vẻ đầu hàng của nàng.
“Tôi mua được nó từ một người Mỹ sống ở Thụy Sĩ. Ông ta là chuyên gia khắc bản in của trung tâm in tiền Hợp chủng quốc Hoa Kỳ trong hai mươi lăm năm, và khi họ cho ông ta nghỉ hưu thì có một trục trặc gì đó về lương hưu và do vậy, ông ta chưa hề nhận được một xu nào.
Ông ta thấy mình bị lừa dí và quyết định tự giành lại sự công bằng, vì thế ông ta đánh cắp các bản in đồng một trăm đô la mà lẽ ra đã bị hủy bỏ và sử dụng các mối quen biết để kiếm loại giấy mà Bộ Tài chính dùng để in tiền”.
Ra vậy, Grangier hân hoan nghĩ, vì thế mà trông tờ bạc cứ như thật. Sự hồi hộp của hắn tăng lên. “Mỗi ngày cái máy đó có thể in ra bao nhiêu tiền?”.
“Mỗi giờ chỉ được một tờ. vì mỗi mặt giấy phải được xử lý và ...”.
Hắn cắt ngang. “Có một máy in cỡ lớn hơn không?”.
“Có, ông ta có một cái máy cứ tám giờ thì cho ra được 50 tờ - năm ngàn đô la một ngày - nhưng ông ta đòi giá nửa triệu đô la”.
“Mua đi”, Grangier nói.
“Tôi đào đâu ra nửa triệu đô la?”.
“Tôi có. Bao giờ thì cô có thể kiếm được cái máy đó?”.
Nàng miễn cưỡng. “Lúc này, tội cho rằng, nhưng tôi không ...”.
Grangier nhấc điện thoại lên và nói vào máy. “Louis, tôi cẩn một số tiền trị giá năm trăm ngàn đô la Mỹ. Lấy tốt số ta có sẵn trong két và kiếm số còn lại từ các nhà băng; mang tới chỗ tôi, nhanh lên”.
Tracy sợ hãi đứng dậy. “Tốt nhất là tôi đi khỏi đây và ...”.
“Cô không đi đâu hết”.
“Tôi thật sự phải ...”.
“Hãy ngồi xuống và im đi tôi đang cần suy nghĩ”.
Hắn có những người bạn liên doanh đáng phải được tham gia vào vụ làm ăn này, nhưng họ đâu có thấy đau với điều mà họ không hề biết cơ chứ. Grangier quyết định sẽ mua cái máy lớn cho chính hắn và trả lại vào tài khoản của sòng bạc số tiền mà hắn đã mượn tạm bằng những đồng tiền mà hắn sẽ mang ra. Sau đó, hắn sẽ bảo Brune Vicente xử lý người đàn bà này. Cô ta không thích có bạn hàng.
Ở, Armand Grangier này cũng không thích.
Hai giờ sau, một túi tiền lớn được chuyển tới. Grangier nói với Tracy. “Cô sẽ trả buồng ở khách sạn Palais. Tơi có một ngôi nhà ở khu đồi ven ngoại, rất riêng biệt. Cô sẽ ở đó cho đến lúc mọị thứ đi vào hoạt động”.
Hắn đẩy chiếc điện thoại về phía nàng. “Bây giờ thì gọi người quen của cô ở Thụy S và báo ông ta rằng cô mua chiếc máy đó”.
“Tôi để số máy của ông ta ở khách sạn. Tôi sẽ gọi từ đó vậy. Cho tôi biết địa chỉ ngôi nhà của ông, và tôi sẽ báo ông ta chuyển cái máy tới đó và ...”.
“Không” Grangier quát lên. “Tôi không muốn để lại dấu vết gì. Tôi sẽ nhận nó tại sân bay. Ta sẽ bàn chuyện đó tối nay, trong bữa ăn. Tôi sẽ đến gặp cô lúc giờ tối”.
Tracy đứng dậy.
Grangier hất hàm về phía túi tiền. “Cẩn thận với chỗ tiền. Tôi không muốn có chuyện gì xảy đến với nó ... hoặc với cô cả”.
“Sẽ không có gì đâu”, Tracy bảo đảm với hắn.
Hắn cười uể oải. “Tôi biết. Giáo sư Zuckeman sẽ đưa cô về khách sạn”.
Hai người lặng im ngồi trong xe, túi tiền để giữa, mỗi người đều mải mê với những suy nghĩ riêng của mình.
Zuckeman thì không biết chắc chuyện gì đang diễn ra, khi cảm giác rằng mọi chuyện sẽ tốt đối với ông ta. Người đàn bà này là clliếc chìa khóa, và Grangier đã lệnh cho ông ta phải canh chừng cẩn thận. Zuckeman sẽ cố làm đúng lời hắn.
Tối hôm đó, Armand Grangier ở trong một tâm trạng hết sức phấn chấn.
Vào giờ này, chuyện mua chiếc máy in lớn kia hẳn đã được dàn xếp xong. Cô ả Whitney nói rằng nó có thể in ra 5000 đô la mỗi ngày, nhưng Grangier muốn làm hơn thế. Hắn định bụng cho chiếc máy hoạt động 24 giờ liên tục. Điều đó sẽ mang lại mỗi ngày 15.000 đô la, hơn 100.000 đô la mỗi tuần, và cứ mười tuần thì được một triệu. Và đó mới chỉ là bắt đầu. Tối nay hắn sẽ biết thằng cha khắc bản in kia là ai vả sẽ hợp đồng đặt làm thêm nhiều chiếc máy nữa. Sẽ không có giới hạn nào đối với số tiền mà hắn muốn có cả.
Đúng 20 giờ, chiếc xe sang trọng của Grangier trườn vào con đường cong lên cửa khách sạn Palais, và Grangier bước ra khỏi xe. Trong lúc đi vào tiền sảnh khách sạn, hắn hài lòng nhận thấy Zuckeman ngồi gần đó, chăm chú để mắt tới cửa ra vào.
Grangier bước lại bàn tiếp tân. “Jules, nói với nữ bá tước De Chantilly là tôi đã đến. Bảo bà ta xuống đây đi”.
Ông già ngẩng đầu lên “Thưa ông Grangier, bà bá tước đã trả phòng và đi rồi”.
“Anh nhầm đấy. Gọi bà ta đi”.
Jules Bergerac cảm thấy lo ngại. Tranh cãi với Armand Grangier thì chẳng lợi lộc gì. “Chính tôi đã làm thủ tục thanh toán cho bà ta mà”.
“Vô lý! Khi nào?”.
“Ngay sau khi trở về khách sạn. Bà ta yêu cầu tôi mang hóa đơn lên phòng để có thể trả thẳng bằng tiền mặt ...”.
Armand Grangier đlên đầu lên. “Tiền mặt? Đồng Phrăng Pháp à?”.
“Đúng như vậy, thưa ông”.
Grangier cuống cuồng. “Mụ ta có mang gì đi không” Vali hay hòm xiểng gì đó?”.
“Không. Bà ta nói là sẽ yêu cầu gửi hành lý sau”.
Vậy là ả đã lấy tiền của mình và đi Thụy Sĩ để mua cho chính ả cái máy kia rồi ... Grangier nghĩ.
“Đưa tôi lên phòng cô ta. Mau lên”.
“Vâng, thưa ông Grangier”.
Jules Bergerac vớ vội chiếc chìa khóa treo trên móc và cùng Grangier lao vào thang máy.
Ngang qua chỗ Zuckeman đang ngồi, Grangier rít lên. “Ngồi đây làm gì hả đồ ngu? Ả chuồn mất rồi”.
Zuckeman ngước nhìn ngơ ngác. “Cô ta chưa thể đi được Cô ta chưa hề xuống tới tiền sảnh này. Tôi đã luôn để mắt mà”.
“Để mắt tới cô ta?” Grangier quát “Anh có để mắt tới một cô y tá ... một bà già tóc hoa râm ... một cô hầu phòng đi ra đằng cổng phụ không”?
Zuckeman lúng túng, “Sao lại phải thế ạ?”.
“Về sòng bạc ngay”, Grangier quát lên, “Tôi sẽ giải quyết với anh sau”.
Căn phòng vẫn y nguyên như Grangier đã thấy lần trước. Cánh cửa thông sang phòng bên mở toang. Grangier bước vào yà Chạy vội về phía phòng vệ sinh, đẩy tung cánh cửa ơn Chúa, cái máy in vẫn còn đó. Cô ả Whitney đã quá vội chuồn mà không kịp mang theo nó. Và đó không phải là sai lầm duy nhất của ả. Grangier nghĩ. Ả đã lừa của hắn 500.000 đô la và hắn sẽ báo thù. Hắn sẽ báo cảnh sát giúp tìm ra và tống cổ ả vào tù, nơi mà tay chân của hắn có thể sờ tới được. Chúng sẽ buộc ả phải nói ra kẻ khắc bản in là ai và rồi bắt ả im miệng hẳn.
Armand Grangier quay số máy của sở cảnh sát và yêu cầu được nới chuyện với thanh tra Dumont. Hắn vội vã nói vào máy vài ba phút liền rồi bảo. “Tôi sẽ chờ ở đây”.
Mười lăm phút sau, bạn của hắn thanh tra Dumont đã đến, cùng đi có một người đàn ông với dáng người và vẻ mặt xấu xí nhất mà Grangier từng thấy.
Trán ông ta như sắp bung ra khỏi khuôn mặt, đôi mắt nâu như bị che khuất sau cặp kính dày và cái nhìn của một kẻ cuồng tín.
“Đây là ông Daniel Cooper”, thanh tra Dumont nới.
“Ông Cooper cũng rất quan tâm đến người đàn bà mà anh đã gọi điện báo”.
Cooper lên tiếng. “Ông đã báo với thanh tra Dumont rằng cô ta dính líu tới một hoạt động làm bạc giải.
“Đúng vậy. Ả ta đang trên đường đi Thụy Sĩ vào lúc này. Các ông có thể tóm cô ta ở biên giới. Tôi có các bằng chứng mà các ông cần ở ngay đây”.
Hắn dẫn họ tới phòng vệ sinh, Damel Cooper và thanh tra Dumont nhìn vào trong.
“Có cái máy in mà cô ả dùng để in tiền giả”.
Daniel Cooper bước tới bên chiếc máy và cẩn thận xem xét nó. “Cô ta đã in tiền bằng cái máy này à?”.
“Thì tôi đã nói với ông vậy mà”, Grangier gắt lên. Hắn rút từ trong túi ra một tờ bạc. “Các ông trong đây. Đây là một trong số những tờ bạc giả mà ả đưa cho tôi”.
Cooper bước tới bên cửa sổ và giơ tờ bạc lên trước ánh sáng. “Đây là một tờ bạc thật”.
“Trông nó giống vậy thôi. Bởi lẽ ả sử dụng các bản in đánh cắp mà ả mua lại của một chuyên gia khắc bản in từng làm việc tại trung tâm in tiền ở Philadelphia. Ả đã in những tờ bạc đó trên cái máy này”.
Cooper thô bạo nói, “Ông thật ngu xuẩn. Đây chỉ là một cái máy in bình thường. Thứ duy nhất mà ông có thể in bằng chiếc máy này là phần đầu một bức thư tên người, địa chỉ ...”.
“Phần đầu thư?”. Cả căn phòng bắt đầu quay cuồng.
“Ông thật sự tin câu chuyện hoang đường về một cái máy có thể biến giấy lợn thành những tờ bạc một trăm đô la thật à?”.
“Tôi đảm bảo với các ông là tôi đã nhìn thấy tận mắt ...” Grangier ngừng bặt.
Hắn đã nhìn thấy gì? Vài tờ một trăm đô la ướt được phơi trên dây, vài xấp giấy trắng và bộ dao xén. Sự thật tàn nhẫn của một vụ lừa đảo bắt đầu hiện ra trong óc hắn. Không có vụ làm bạc giả nào hết, cũng không mang thằng cha khắc bản in nào đang chờ ở Thụy Sĩ cả Tracy Whitney đã không hề bị mắc bẫy với câu chuyện về cái kho báu bị chìm kia. Con mẹ khốn kiếp đó đã dùng chính cái âm mưu của hắn làm miếng mồi nhử để lừa hắn nửa triệu đô la. Nếu chuyện này mà lan ra ...
Hai người kia đứng nhìn hắn.
“Ông có muốn tố cáo cô ta về tội gì khác nữa không, Armand? “ Thanh tra Dumont hỏi.
Làm sao được cơ chứ. Hắn biết nới gì được? Rằng hắn đã bị lừa trong khi toan tính tài trợ cho một vụ làm bạc giả ư? Và đồng bọn của hắn sẽ xử với hắn thế nào khi biết hắn đã lấy nửa triệu đô la của họ và quăng qua cửa sổ Hắn đột nhiên thấy ớn lạnh khắp người.
“Không. Tôi ... tôi không muốn tố cáo gì nữa”. Giọng hắn đầy vẻ hoảng hết.
Châu Phi, Armand Grangier nghĩ. Họ sẽ không bao giờ tình ra mình ở châu Phi cả.
Daniel Cooper ngẫm nghĩ - lần sau. Lần sau mình sẽ tóm cô ta.
 
Chương 27


Chính Tracy đã đề nghị với Gưnther Hartog rằng họ sẽ gặp nhau ở Majorca. Tracy rất yêu hòn đảo nay. Nó là một trong những thắng cảnh đẹp nhất thế giới. bên cạnh đó”, nàng nói với Gunther. “Nó đã từng là nơi trú ngụ của bọn cướp biển. ở đó chúng ta hẳn sẽ thoải mái như ở nhà vậy”.
“Có lẽ tốt nhất là đừng để người ta thấy chúng ta ở cạnh nhau”, ông ta đề nghị.
“Tôi sẽ lo liệu việc đó”.
Chuyện đã bắt đầu với cú điện thoại của Gunther từ London gọi đến. “Tôi có một việc hoàn toàn bất thường dành cho cô, Tracy ạ. Tôi nghĩ, cô sẽ thấy nó thật sự là một thách thức.
Sáng hôm sau, Tracy bay tới Pạlma, thủ phủ của đảo Maiorca. Do bức thông điệp đỏ của Interpol về Tracy, nên việc nàng rời Biamtz đến Maiorca đã được thông báo cho giới chức địa phương. Ngay sau khi Tracy thuê căn hộ Hoàng gia tại khách sạn Son Vida, một đội ngoại tuyến đã được phái tới để theo dõi nàng trên 24 giờ.
Arnesto Marze, cảnh sát trưởng của Palma, đã có cuộc nói chuyện với thanh tra Trigllant của Interpol.
“Tôi tin”, thanh tra Trignant nói, “rằng Tracy Whitney chính là người phụ nữ duy nhất gây ra đợt song tội phạm hiện nay”.
“Thật đáng buồn cho cô ta. Nếu gây ra một tội ác nào ở Majorca này thì cô ta sẽ thấy sự trừng phạt của công lý nhanh chóng và chính xác đến mức nào”.
Thanh tra Trignant nói, “Thưa ngài, tôi còn muốn nói thêm một điều nữa”.
“Vâng?”.
“Ngài sẽ có một người khách Mỹ. Tên ông ta là Daniel Cooper”.
Các thám tử theo dõi Tracy dường như thấy nàng chỉ bận tâm với mỗi việc ngắm cảnh. Họ đã theo sát khi nàng đi vòng vòng quanh đảo, thăm tu viện thánh Francisco, Lâu đài Bellver tráng lệ và bãi biển Illetas. Nàng đã vào xem một trận đấu bò tót và thường đến ăn ở tiệm Plaza de la Reine, và luôn luôn chỉ có một mình”.
Nàng đã thực hiện các chuyến đi tới Formentor, Valdemosa, La Granji và thăm các xưởng chế biến ngọc trai ở Manacor.
Các thám tử đã báo cáo với Arnesto Marze. “Cô ta đến đây là để du lịch, thưa ông cảnh sát trưởng”.
Cô thư ký của viên cảnh sát trưởng bước vào báo. “Có một người Mỹ, ngài Daniel Cooper, đến xin gặp ngài”.
Cảnh sát trưởng Marze có nhiều bạn bè Mỹ Ông ta thích người Mỹ, và có cảm giác rằng bất chấp những điều thanh tra Trignant đã nói, ông ta cũng sẽ thích Daniel Cooper này như thường.
Ông ta đã nhầm.
“Tất cả các ông là những kẻ khờ”, Daniel Cooper quát lên. “Chắc chắn là cô ta không đến đây chỉ để vãn cảnh. Cô ta phải đang săn đuổi một thứ gì đó”.
Khó khăn lắm, cảnh sát trưởng Marze mới kiềm chế nổi. “Thưa ông, chính ông đã nói rằng các mục tiêu của cô Whitney luôn là những gì đặc biệt, rằng cô ta thích làm những thứ dường như là không thể làm được. Ông Cooper, tôi đã kiểm tra kỹ lưỡng rồi. Ở Majorca không có gì hấp dẫn đối với tài năng của Whitney cả”.
“Cô ta có gặp ai ... nói chuyện với ai không?”.
Giọng hắn thật là xấc xược, Marze nghĩ bụng. “Không. Không ai hết”.
“Vậy cô ta sẽ phải gặp ai đó”. Daniel Cooper nói chắc nịch.
Cảnh sát trưởng Marze tự nhủ, sau cùng thì mình đã biết vì sao họ lại gọi hắn là gã người Mỹ xấu xa.
Có hai trăm hang động mà người ta đã biết đến trên đảo Majorca, nhưng kỳ thú nhất là Cuevas del Drach “Hang con Rồng”, ở gần Porto Cristo, cách Palma chừng một giờ xe chạy. Những nhánh hang từ ngàn đời ăn sâu vào lòng đất, những vòm động mênh mông nhấp nhô đầy những thạch nhũ, bầu không khí hoàn toàn tĩnh mịch trừ tiếng róc rách của những suối ngầm mà màu nước khi thì xanh lục, xanh da trời, hoặc trắng trong tùy” theo các độ sâu khác nhau.
Những hang động ở đây là cả một công trình kiến trúc ngà ngọc nơi tiên giới, một chốn mê cung hư ảo, với ánh sáng mờ mờ của những ngọn đuốc vĩnh hằng đâu đó.
Không ai được phép vào hang mà không có người hướng dẫn, vậy mà ngay từ sáng, tưởng chừng như các vòm động trong hang đều đã chật kín cả rồi.
Tracy chọn ngày thứ bảy để tới thăm hang, ngày đông nhất, với hàng trăm khách du lịch đổ đến từ những nước trên thế giới. Nàng mua vé trước một ghi sê nhỏ và lẫn vào trong đám đông. Danlel Cooper cùng hai nhân viên của cảnh sát trưởng Marze theo sát bên nàng. Một người hướng dẫn đưa các du khách lần theo một lối đi hẹp và trơn vì những giọt nước nhỏ xuống từ các nhũ đá.
Có những vòm đá lớn mà du khách có thể tạt vào để chiêm ngưỡng những khối đá có hình thù giống như những cơn chim, con thú hoặc như những loài cây. Dọc lối đi hẹp với ánh sáng yếu ớt đó có những khoảng tối đen và ở một đoạn như thế Tracy đã biến mất.
Daniel chạy vội lên phía trước, nhưng không hề thấy bóng nàng. Đám đông chuyển dịch liên tục đã khiến cho việc phát hiện ra nàng là không thể được. Ông ta không thể biết nàng đang ở phía trước hay phía sau mình nữa. Cô ta đang toan tính một âm mưu gì? Cooper tự nhủ. Bằng cách nào? ô đâu? Và định cuỗm cái gì mới được chứ?
Trong một cái động ở khu vực thấp nhất của hang Rồng này, bên hồ nước, là một nhà hát kiểu La Mã. Các hàng ghế đá được sắp đặt dành cho khán giả và khách vãn cảnh có chỗ ngồi trong bóng tối, chờ đợi buổi diễn bắt đầu.
Tracy vừa đi vừa đếm, tới hàng ghế thứ hai mươi thì len lỏi vào chiếc ghế thứ hai mươi. Người đàn ông ngồi trên chiếc ghế thứ hai mươi mốt quay sang.
“Có rắc rối gì không?”.
“Ồ không, Gunther”. Nàng hôn lên má ông ta.
Gunther nói gì đó, và vì những tiếng ồn xung quanh, nàng phải ghé tai để nghe cho rõ.
“Tôi nghĩ rằng, tất nhất là đừng để họ thấy chúng ta ngồi cạnh nhau, ngừa trường hợp cơ đang bị theo dõi”.
Tracy nhìn quanh cái động rộng lớn, tối mịt “Ở ờây thì an toàn thôi”.
Nàng tò mò. “Chuyện chắc là quan trọng”.
“Đúng vậy”. Ông ta ghé sát lại. “Một khách hàng giàu có nóng lòng muốn kiếm được một bức tranh. Đó là bức của Goya có tên là Puerto. Ông ta sẽ trả một khoản tiền mặt nửa triệu đô la. Điều đó vượt quá khả năng của tôi:”.
Tracy trầm ngâm, “Còn ai khác muốn làm vụ này không?”.
“Nói thẳng là có đi. Nhưng theo tôi, khả năng thành công rất hạn chế”.
“Bức tranh hiện ở đâu?”.
“Bảo tàng Prado ở Madrid”.
“Prado”. Ngay lập tức, ý nghĩ đầu tiên của Tracy là không thể được.
“Việc này đòi hỏi một tài năng lớn lao. Bởi vậy, tôi nghĩ đến cô đấy, Tracy thân mến”.
“Tôi sẵn lòng”, Tracy đáp. “Nửa triệu đô la à.”.
“Sòng phẳng”.
Buổi biểu diễn bắt đầu và tất cả đột nhiên trở nên im lặng. Các bóng đèn ở đâu đó lần lượt bật sáng và cả khoảng không gian rộn rã tiếng nhạc. Trung tâm của cuộc diễn là hồ nước lớn phía trước mặt khán giả, và trên mặt hồ, từ sau một nhũ đá, một chiếc thuyền độc mộc hiện ra, được chiếu sáng nhờ những ngọn đèn pha giấu kín đâu đó. Trên thuyền, một nghệ sĩ đang chơi Organ, bản Senẹnaà” vọng qua mặt hồ, và ánh đèn màu tỏa sáng như một chiếc cầu vồng trong bóng tối. Con thuyền từ từ trôi ngang mặt hồ rồi sau cùng biến mất trong tiếng nhạc tắt dần.
“Tuyệt diệu:”, Gunther nói. “Chỉ màn trình diễn này thôi cũng đáng công tới đây”.
“Tôi rất thích du lịch”, Tracy nói. “Và ông có biết thành phố nào tôi vẫn luôn mong được tới thăm không, ông Gunther Adrid đấy”.
Đứng ở cổng ra vào hang, Daniel Cooper thấy Tracy Whitney bước ra.
Nàng chỉ có một mình.
 
Chương 28


Khách sạn Ritz ở Madrid được coi là số một ở Tây Ban Nha, và suốt hơn một thế kỷ qua, các vị nguyên thủ quốc gia của nhiều nước châu Âu đều đã ăn, ngủ tại đấy. Tracy đã nghe về nó quá nhiều vậy mà trên thực tế thì thật đáng thất vọng. Gian tiền sảnh khách sạn trông thật tàn tạ, bẩn thỉu.
Viên phó quản lý đã đưa nàng tới lô phòng số411-412, ở tòa nhà cánh Nam của khách sạn quay mặt ra phố Felipe đệ Ngũ.
“Tôl tin là cô sẽ hài lòng, thưa cô Whitney”.
Tracy bước tới bên cửa sổ và nhìn ra. Ngay phía dưới, bên kia đường, là bảo tàng Prado. “Cảm ơn ông”.
Căn phòng đầy những tiếng ồn ào vọng lên từ dòng xe cộ dưới đường phố, nhưng nó có cái mà nàng muốn:
Vị trí quan sát Bảo tàng Prado.
Tracy đặt mang lên phòng một bữa chiều đơn giản, và sau khi ăn, nàng ngủ sớm. Khi lên gi.ường, nàng có cảm nghĩ phải nằm ngủ trên chiếc giương này quả là một dạng của lối tra tấn thời Trung cổ.
Lúc nửa đêm, một thám tử chết giữ dưới tiền sảnh khách sạn bàn giao lại cho một đồng nghiệp tới thay phiên; “Cô”ta chưa rời.khỏi phòng. Tôi nghĩ đêm nay cô ta sẽ ngủ yên thôi”.
Tại Madrid, Tổng nha cảnh sát nằm ở đại lộ số một và chiếm cả một dãy phố. Đó là một binding xám xịt xây bằng gạch đỏ, trên nóc có một cái đồng hồ lớn. Phía trên cổng chính treo lá quốc kỳ Tây Ban Nha sọc đỏ và vàng.
Trước cổng luôn có một cảnh sát mặc đồng phục và đội mũ bê rê màu nâu sẫm đứng gác, được trang bị một sung tiểu liên, một dùi cui, một súng ngắn, và một khóa tay.
Việc liên lạc với Interpol được duy trì từ trụ sở này. Ngày hôm trước, một bức điện khẩn mang lý hiệu X - D đã được gửi tới Santiago Ramiro, cảnh sát trưởng Madrid, thông báo cho ông ta về chuyến đi của Tracy Whitney. Viên cảnh sát trưởng đã đọc dòng cuối cùng của bức điện hai lần rồi gọi điện thoại cho thanh tra Trigmant ở trụ sở Interpol tại Paris.
“Tôi không hiểu ý ông”, Ramiro nói. “Ông yểu dịu dàng sự hợp tác đầy đủ của cơ quan li cho một người Mỹ nào đó, thậm chí không phải là một cảnh sát”.
“Vì lý do gì vậy?”.
“Ông cảnh sát trưởng, tôi nghĩ rằng ông sẽ thấy sự có mặt của ông Cooper là hữu ích. Ông ta hiểu rõ cô Whitney”.
“Có gì mà phải hiểu? Cô ta là một tội phạm. Cứ cho là có tài đi, nhưng trong các nhà tù Tây Ban Nha thiếu gì những tội phạm tài ba. Người này cũng sẽ không lọt qua lưới của chúng tôi được”.
“Tốt. Và ông sẽ phối hợp với ông Cooper chứ”.
Viên cảnh sát trưởng miễn cưỡng đáp. “Nếu ông cho rằng ông ta có thể là hữu ích, tới không phản đối”.
“Cám ơn ông”.
“Có gì đâu thưa ông”.
Cảnh sát trưởng Ramiro, cũng như người đồng nghiệp của mình ở Pans, không thích gì người Mỹ. Ông ta thấy họ thô bạo, thực dụng và ngây thơ. Người này - ông nghĩ bụng - có thể khác những người kia, và mình có thể sẽ ưa ông ta.
Mới nhìn Daniel Cooper, ông ta đã thấy ghét rồi.
Vừa bước vào phòng làm việe của viên cảnh sát trưởng Damel Cooper đã oang oang. “Cô ta đã qua mặt tới một nửa lực lượng cảnh sát châu Âu và có thể với cả các ông nữa”.
Viên cảnh sát trưởng cố kim chế. “Thưa ông, chúng tôi không cần ai phải bảo ban trong công việc của mình. Ngay sáng nay, khi đặt chân xuống sân bay Barajas, cô Whitney đã bị đặt dưới sự giảm sát chặt chẽ. Tôi bảo đảm rằng nếu có ai đánh rơi một cái cặp trên đường phố và cô Whitney của ông nhặt nó lên, cô ta sẽ bị tống giam ngay.
Trước đây, cô ta chưa hề đụng phải cảnh sát Tây Ban Nha”.
“Nhưng cô ta không tới đây để nhặt một cái gì trên đường phố”.
“Vậy ông cho rằng đến làm gì?”.
“Tôi chỉ có thể nới với ông rằng có lẽ là vụ to đấy”.
Cảnh sát trưởng Ramiro tự phụ đáp. “Càng to càng tốt”. Chúng tôi sẽ theo dõi mọi hành vi của cô ta”.
Tracy thức dậy, người mỏi nhừ sau một đêm ngủ mà như bị tra tấn trên chiếc gi.ường kiểu Tomás de Terquenmada, nàng gọi bữa ăn sáng nhẹ cùng với cà phê nóng và bước tới bên cửa sổ nhìn xuống bảo tàng Prado. Đó là một pháo đài cổ, xây bằng đá và gạch đỏ, bao quanh là cây cỏ um tùm. Phía trước là hai cây cột lớn kiểu Dorie và hai bên là hai cầu thang dẫn lên cửa chính.
Thấp hơn một chút, ngang với mặt đường là hai cửa phụ. Học sinh và khách du lịch từ hàng chục nước đã xếp hàng trước cổng bảo tàng và đúng mười giờ, những người gác mở cửa và khách khứa đi VFO qua cửa quay ở giữa và hai cửa phụ hai bên.
Chuông điện thoại réo vang làm Tracy giật nảy người. Trừ Gunther ra, không ai biết nàng đang ở Madrid. Nàng nhấc ống nghe lên. “Hello?”.
”Xin chào tiểu thư”. Một giọng quen quen. “Tôi gọi tới phòng thương mại Madrid và họ đã chỉ thị cho tôi phải làm tất cả những gì có thể được để bảo đảm rằng cô có một thời gian thú vị ở thành phố chúng tôi”.
“Làm sao anh biết tôi ở Madrid, Jeff”.
“Thưa cô, Phòng thương mại biết tất cả mọi chuyện”.
“Đây là lần đầu tiên cô ở đây ư?”.
“Đúng vậy”.
“Tốt. Vậy tôi có thể hướng dẫn cô đi “tham quan một vài nơi. Cô định ở đây bao lâu, Tracy?”.
Đó là câu hỏi chủ yếu. “Tôi không chắc”. Nàng”nhẹ đáp “Chắc là đủ để mua sắm và tham quan đôi chút thôi.
Anh làm gì ở Madrid này thế”. Cũng vậy thôi”. Giọng anh ta giống hệt nàng.
“Mua sắm và ngắm cảnh mà”.
Tracy không tin vào chuyện trùng lặp. Cũng vì lý do như nàng mà Jeff Stevens đã ở đây:
Đánh cắp bức Puerto.
Jeff hỏi. “Cô có rảnh để cùng ăn chiều không?”.
Đó là một lời thách đố. “Được thôi”.
“Tốt quá. Tôi sẽ đặt bàn ở tiệm Jockey nhé”.
Dĩ nhiên là Tracy không hề có ảo tưởng gì về Jeff, vậy mà khi bước ra khỏi thang máy và thấy anh đang đứng chờ, nàng có cảm giác dễ chịu không thể lý giải nổi.
Jeff cầm tay nàng. “Rất vui mừng. Cô thật đáng yêu”.
Nàng đã ăn mặc chu đáo - một bộ đồ Valentme màu xanh nước biển, một chiếc khăn lông chồn Nga, đôi giày Frizen và trên tay là chiếc xắc mang hiệu Hermes Howarth.
Daniel Cooper, tại chiếc bàn nhỏ trong góc tiền sảnh, với ly Perrier trước mặt, đã theo dõi tất cả, và ông ta cảm thấy một sức mạnh to lớn:
Công lý là ta.
Chúa đã nói vậy, và mình là lưỡi gươm của Người. Cuộc đời ta là một sự hành xác và ngươi sẽ giúp ta trả nợ. Ta sẽ trừng phạt ngươi.
Cooper tin rằng không một lực lượng cảnh sát nào trên thế giới đủ khôn ngoan để tóm được Tracy Whitney.
Nhưng mình sẽ làm được - Cooper nghĩ thầm - cô ta thuộc về phần mình.
Đối với ông ta, Tracy đã trở nên ngoài phần công việc.
Đó là một sự khiêu khích. Ông ta mang theo hồ sơ và các bức ảnh nàng đi khắp nơi, và đêm đến - trước khi ngủ, lại giở ra xem. Ông ta đã đến Biarrit quá muộn, và Tracy đã chuồn trước mũi ông ta ở Majorca, nhưng giở Interpol lại đã lần ra dấu vết và Coơper quyết không để lỡ dịp này.
Ông ta đã từng mơ thấy Tracy. Nàng ở trong cái lồng lớn, trần truồng van vỉ ông ta thả ra. Tôi yêu em - ông ta trả lời - nhưng không bao giờ tôi thả em ra cả”.
Jorkey là một tiệm ăn nhỏ, lịch sự nằm trên phố Rios. Đồ ăn ở đây là thượng hạng”. Jeff nói.
Trông anh thật hết sức đẹp trai. Tracy nghĩ. Cũng như Tracy, từ anh toát ra một vẻ kích động nào đấy, và nàng biết lý do:
Họ đang cùng nhau trong một cuộc đấu trí mà phần thưởng rất lớn. Chắc chắn mình sẽ thắng, Tracy nghĩ “Có một tin đồn lạ”. Jeff nói.
Nàng chú ý ngay. “Tin gì?”.
Cô đã bao giờ nghe nói về Daniel Cooper chưa? Đó là một thám tử của bên bảo hiểm, rất giỏi”.
“Không. Có chuyện gì về ông ta thế”.
“Hãy cẩn thận. Ông ta nguy hiểm đấy. Tôi không muốn thấy có điều gì xấu đến với cô cả”.
“Đừng lo”.
“Vậy mà tôi đã lo lắng, Tracy”.
Nàng nhoẻn cười. “Về tôi ư” Tại sao?”.
Anh đặt tay lên trên tay nàng, khẽ nói. “Em là một cơ gái đặc biệt. Cuộc sống sẽ thú vị hơn nhiều nếu có em ở bên, Tracy yêu dấu”.
Jeff có sức truyền cảm khủng khiếp, Tracy nghĩ. Nếu đã không biết quá rõ về anh ta, chắc mình tin ngay mất.
“Hãy gọi đồ ăn đi”, Tracy nói. :”Tôi đói ngấu rồi”.
Trong mấy ngày tiếp theo, Jeffvà Tracy đi thăm khắp Madrid. Không bao giờ họ đi một mình. Hai nhân viên của cảnh sát trưởng Ramiro theo sát họ khắp nơi, và cùng với họ là người Mỹ lạ lùng kia. Việc Ramừo cho phép Cooper tham gia cuộc theo dõi chỉ đơn giản thì nhằm để ông ta khỏi quanh quẩn vướng mắc. Thằng cha người Mỹ này thật láo xược dám cho rằng người phụ nữ có tên Tracy Whitney này sẽ có thể đánh cắp một tài sản quý giá nào đấy ngay dưới mũi cảnh sát Tây Ban Nha. Thật nực cười.
Tracy và Jeff cùng đi ăn ở những cửa hàng tên tuổi của Madrid như Horcher, Hoàng tử Viana và Casa Botin ... nhưng Jeff cũng còn biết cả những nơi mà khách du lịch chưa từng biết:
Cusa; Paco La Chuletta và El Lacon,.. có những món ăn địa phương tuyệt vời.
Dù họ đi bất kỳ đâu, Daniel Cooper và hai thám tử khác cũng không bao giờ tụt lại sau quá xa.
Tữ một khoảng cách đầy thận trọng, Daniel Cooper suy nghĩ về vai trò của Jeff trong màn kịch đang diễn ra.
Anh ta là ai? Một nạn nhân sắp tới của Tracy? Hay là đồng bọn?”.
Cooper hỏi cảnh sát trưởng Ramiro. “Ông có thông tin gì về Jeff không?”.
“Không. Anh ta không có tiền án và đăng ký nhập cảnh để du lịch. Tôi cho anh ta chỉ là người bạn đường tình cờ thôi”.
Linh cảm đã mách Cooper theo một hướng khác.
Nhưng ông ta không định săn đuổi Jeff Stevens. Tracy - ông ta nghĩ - ta muốn tóm ngươi cơ.
Khi Tracy và Jeff quay lại khách sạn Ritz thì đêm đã về khuya, Jeff đưa nàng đến tận cửa phòng. “Tôi có thể vào uống chút gì không nhỉ?”.
Chỉ chút nữa thì Tracy đã gật. Nàng vươn người hôn nhẹ lên má anh. “Hãy coi tôi như em gái của anh, Jeff”.
“Quan điểm của em về vấn đề loạn luân là thế nào nhỉ?”.
Nàng đã khép cửa lại.
Ít phút sau, tới phòng mình, anh gọi điện cho Tracy. “Em có muốn mai đi cùng tôi tới Segevia không” Đó là một thành phố cổ tuyệt diệu, cách Madrid vài giờ xe chạy”.
“Nghe quyến rũ quá. Cảm ơn về một bưởi tối thú vị”.
Tracy nói, “Chúc ngủ ngon, Jeff”.
Nàng thao thức rất lâu, đầu óc đầy những ý nghĩ mới lạ đã từ lâu lắm rồi nàng mới lại vướng vào chuyện tình cảm với một người đàn ông. Charles đã làm nàng đau đớn khủng khiếp, và nàng.không muốn lại bị đau như thế nữa.
Jeff Stevens là một bạn đồng hành hú vị,” nhưng nàng biết không bao giờ được để anh ta trở thành một gì hơn thế. Rất dễ phải lòng một người như anh ta. Và đó là điều ngốc nghếch.
Tan nát.
Hân hoan.
Tracy thấy khó ngủ quá chừng.
Chuyến đi Segevia thật tuyệt. Jeff đã thuê chiếc xe hơi nhỏ và họ rời khỏi thành phố, chạy vào giữa cánh đồng nho tuyệt đẹp của Tây Ban Nha. Một chiếc xe nhãn hiệu Seat bám theo họ suốt cả ngày và nó không phải là một chiếc xe thông thường.
Seat là loại xe duy nhất được sản xuất trong nội tha Tấy Ban Nha, và là một phương tiện được chính thức trang bị cho lực lượng cảnh sát. Các xe kiểu thông thường thì động cơ chỉ 100 mã lực, nhưng các xe được làm cho cảnh sát và cảnh vệ Quốc gia động cơ lại tới 150 mã lực, do vậy mà không có khả năng cho Jeff và Tracy cớ thể thoát khỏi tầm kiểm soát của Damel Cooper và hai thám tử cùng đi.
Tracy và Jeff đến Segevia vào tầm trưa và họ ăn trong một tiệm đầy vẻ quyến rũ tại quảng trường trung tâm, dưới bóng của một đường máng dẫn nước cao ngất mà người La Mã xây nên từ cách đây 2000 năm. Sau bữa ăn, họ lang thang khắp khu thành cổ, ghé thăm nhà thờ Đức bà Maria cổ kính và tòa”thị chính với kiến trúc Phục Hưng, rồi tiếp tục lên xe chạy tới Aleazar, một pháo đài La Mã cổ nằm trên một mỏm núi đá nhô ra phía trên thành phố. Cảnh quan thật kỳ thú.
“Tôi cược rằng nếu chúng ta chịu đợi ở đây, ta sẽ thấy Đôngkisốt” và Xăngxo cưỡi ngựa băng trên những cánh đồng phía dưới kia cho mà xem”. Jeff nói.
“Anh thích đánh trận mồm với cối xay gió chứ?”.
“Còn tùy vào hình dáng của cái cối xay đó”, anh nhẹ nhàng đáp và sát vào nàng hơn.
Tracy rời khỏi rìa mỏm đá. “Kể cho tôi nghe về Segevia đi”.
Ý muốn của nàng quả nhiên được đáp ứng.
Jeff là một người hướng dẫn tận tình, đầy kiến thức về lịch sử, khảo cổ, kiến trúc, và Tracy đã phải tự nhắc mình rằng anh ta cũng còn là một kẻ 1ừa đảo chuyên nghiệp nữa. Với Tracy thì hôm đó là một ngày thú vị.
Một trong hai thám tử người Tây Ban Nha, José Pereira, càu nhàu với Cooper. “Thứ duy nhất mà họ đang ăn cắp là thời gian của chúng ta. Ông không tháy họ chỉ là một cặp uyên ương thôi sao? Ông có chắc rằng cô ta đang mưu tính gì không?”.
“Tôi đoán chắc”. Cooper gắt lên, và phát ngượng với chính phản ứng của mình. Tất cả điều ông ta muốn là bắt được Tracy Whitney để trừng phạt cô ta, vì cô ta đáng phải chịu điều đó. Cô ta cũng như mọi tội phạm khác, đó là chuyện công việc. Thế nhưng, mỗi lần người bạn đồng hành của Tracy nắm lấy tay nàng thì Coopelt lại thấy giận sôi lên.
Khi Tracy và Jeff về Wi Madrid, Jeff nói. “Nếu em chưa quá mệt mỏi, tôi xin giới thiệu một chỗ ăn chiều rất đặc biệt”.
“Vậy thì tuyệt”. Tracy không muốn ngày vui chấm dứt sớm. Mình sẽ dành trọn cho hôm nay, một ngày hôm nay, giống như những người đàn bà khác, nàng tự nhủ.
Người dân Madrid ăn chiều rất muộn, ít có nhà hàng lào mở cửa phục vụ trước 21 giờ. Jeff đã đặt bàn vào lúc 22 giờ tại tiệm Zalacain, một nhà hàng sang trọng mà đồ ăn ngon lành và sự phục vụ cho tốt. Tracy không gọi đồ tráng miệng, thế nhưng người bồi bàn vẫn mang tới một chiếc bánh nướng mà Tracy chưa bao giờ thấy ngon miệng đến vậy. Nàng ngả người trên ghế, tươi tắn và mãn nguyện. “Một bữa chiều tuyệt vời. Cám ơn anh”.
“Tôi rất vui thấy em ăn ngon. Đây là nơi có thể gây ấn tượng với ai đó mà mình muốn”.
Nàng nhìn anh giây lát. “Thế anh có đang toan gây ấn tượng với tôi không, Jeff Anh mỉm cười. “Em có thể đánh cược là tôi đang làm như thế đấy. Nhưng em hãy đợi đến nơi tiếp theo đã”.
Nơi tiếp theo mà Jeff đưa nàng tới là một tiệm cà phê mờ ảo khói thuốc, đầy hấp dẫn. Bên trong đông kín những công nhân Tây Ban Nha mặc áo khoác da đang ngồi hoặc đứng uống ngay ở quầy. Ở phía cuối phòng là một sân khấu, nơi có hai người đàn ông đang chơi ghi ta. Tracy và Jeff được dẫn tới một bàn nhỏ kề bên sân khấu. “Em có biết gì về điệu nhảy Flamence không”ạ Jeff hỏi. Anh phải cao giọng để át những tiếng ồn ào.
“Chỉ biết đó là một điệu nhảy Tây Ban Nha thôi”.
Digan, ban đầu là vậy. Em có thể đến các hộp đêm cao cấp ở Madrid và xem người ta biểu diễn Flamence, nhưng đêm nay em sẽ thật sự được xem điệu nhảy này”.
Tracy phải mỉm cười vì vẻ hăng hái trong giọng nói của Jeff.
Em sắp thấy một màn vũ Flamence cổ điển. Gồm một nhóm ca sĩ, vũ công, vũ nữ và nhạc công. Đầu tiên là họ cùng biểu diễn một lượt sau là từng người một”.
Dõi theo Tracy và Jeff từ một chiếc bàn ở lối vào bếp, Daniel Cooper băn khoăn không biết họ bàn luận gì mà say sưa đến thế.
“Điệu nhảy này hết sức tinh tế, bởi vì mọl thứ đều phải hài hòa với nhau - các chuyển động, âm nhạc, trang phục, nhịp điệu tăng nhanh dần ...
“Sao anh biết nhiều về điệu nhảy này thế” “Tracy hỏi.
“Anh từng quen một vũ nữ Flamence”.
Quả nhiên mà - Tracy nghĩ.
Ánh sáng trong tiệm mờ đi và cái sân khấu nhỏ được chiếu sáng rồi màn ma thuật bắt đầu. Nó khởi đầu rất chậm rãi. Một nhóm nghệ sĩ ùa ra sân khấu. Các nữ nghệ sĩ mặc những váy ngắn, áo ngắn sặc sỡ, tóc bới cao với những bông hồng cài bằng những chiếc trâm xinh xắn.
Các vũ công nam thì mặc quần bó truyền thống, áo vét và ủng da ngắn bóng loáng. Các nhạc công ghi ta tấu lên một giai điệu dìu dặt, trong khi một phụ nữ ngồi ở rìa sân khấu hát bài dân ca Tây Ban Nha.
“Anh có hiểu lời bài ca mà cô ấy đang hát không?”.
Tracy thì thầm.
“Có? Tôi đã muốn rời bỏ người bạn tình của mình, nhưng trước khi làm được điều đó, anh ta đã rời bỏ tôi và làm trái tim tôi tan nát!”.
Một vũ nữ tiến ra giữa sân khấu, bắt đầu với điệu Zapateade đơn giản, nhưng nhanh dẫn lên do tiếng ghi ta đầy kích động. Và điệu nhảy trở thành một màn kích động đầy dục tính, ở các mức độ khác nhau. Các điệu nhảy đều được sáng tạo ra trong những hang động của người Digan từ hàng trăm năm trước. Sự kích động của tiếng nhạc mỗi lúc một tăng, các bước nhảy càng điên cuồng và lại còn có cả những tiếng gào thét cổ vũ của các nghệ sĩ ở bên ngoài sân khấu nữa.
Sau cùng, khi âm nhạc và màn nhảy chấm dứt đột ngột, cả tiệm lặng giây lát và rồi tiếng vỗ tay ào cả lên.
“Cô ta thật tuyệt diệu?” Tracy nói.
“Đợi đã Jeff bảo.
Vũ nữ thứ hai tiến ra sân khấu. Cô ta có một vẻ đẹp cổ điển, nước da màu sẫm và dường như xuất thần, hoàn toàn không để ý gì đến khán giả. Các nhạc công ghi ta bắt đầu chơi một điệu Bolero gam trầm mang dáng dấp những nét nhạc phương Đông. Một vũ công ra nhảy cùng cô ta và các âm thanh của bộ gõ bắt đầu vang lên thúc giục.
Tiếng vỗ tay dồn dập hòa vào với vũ điệu Flamence, cùng với tiếng nhạc kích động làm chó không khí trong tiệm trở nên sống động tới mức tất cả khán giả đều lắc lư nhịp theo điệu Zapateade và say sưa trong những cảm giác đầy hứng khởi.
th.ân thể của cô gái và chàng trai đang trình diễn Flamence trên sân khấu lúc tách xa nhau ra, khi thì sáp lại gần làm cho khán giả thấy họ như đang trong cơn thèm muốn điên cuồng, mỗi lúc một tăng, cho đến khi họ như đang làm tình với nhau một cách điên dại, thú vật và đầy bạo lực, đạt tới sự thỏa mãn cao độ đến mức khán giả cũng phải quằn quại. Đèn tắt rồi bừng sáng, đám đông như gào lên và Tracy cũng thấy mình cùng la hét với mọi người. Nàng bỗng ngượng ngùng vì cảm thấy thèm muốn làm tình. Nàng không dám nhìn Jeff nữa. Không khí giữa họ bỗng như căng thẳng Tracy nhìn xuống mặt bàn, xuống hai bàn tay khỏe mạnh và rám nắng của anh và có thể cảm giác thấy hai bàn tay đó đang vuốt ve trên th.ân thể nàng, chậm rãi, rồi nhanh hơn, rồi đòi hỏi và nàng vội giấu hai bàn tay vào lòng để che đi sự run rẩy không kìm lại được.
Trên đường trở về, họ nói với nhau rất ít. Tại cửa phòng mình, Tracy quay lại nói. “Thật là cả một ...”.
Môi của Jeff đã đặt lên môi nàng, hai bàn tay nàng quàng quanh anh, ôm chặt. “Tracy ...?”.
Chữ “Vâng” đã ở trên môi và nàng phải dùng hết sức mạnh ý chí để nói.
“Thật là một ngàyđài, Jeff. Tôi buồn ngủ lắm rồi”.
“Ô”.
“Tôi nghĩ rằng mai tôi sẽ phải ở trong phòng suốt ngày để nghỉ ngơi”.
Giọng anh đã trở lại bình thường khi đáp. “Ý kiến hay đấy có thể là tôi cũng sẽ làm như thế”.
Người nọ không hề tin lời người kia.
 
Chương 29


Sáng hôm sau, lúc 10 giờ, Tracy đã đang đứng trong hàng người trước cửa ra vào bảo tàng Prado. Nàng mua một vé vào cửa ra vào cùng với dòng người đi vào một phòng lớn thênh thang có mái vòm. Daniel Cooper và thám tử Pereira theo sát đằng sau và Cooper bắt đầu thấy sự hồi hộp tăng lên.” Ông ta tin chắc rằng, ở đây, Tracy không chỉ là một khách tham quan. Dù mưu toan của cô ta là gì đi nữa thì nó cũng đã đang bắt đầu.
Tracy dạo từ phòng này sang phòng khác, chậm rãi đi ngang các gian trưng bày tranh của Rubons, Titians, Tintorettos, Bosches và Donenikos Theotokoponlos - người đã trở nên- nổi tiếng dưới cái tên El Greco. Các bức tranh của Goya được trưng bày trong một phòng đặc biệt ở phía dưới, tại tầng trệt.
Tracy để ý thấy tại cửa ra vào mỗi phòng tranh đều có một người mặc đồng phục canh giữ, và ngay cạnh tay anh ta là cái nút báo động màu đỏ. Nàng biết rằng khi tiếng chuông báo động cất lên là tất cả các cửa ra vào bảo tàng sẽ bị đóng lại, và sẽ không có cơ hội để thoát ra được.
Nàng ngồi trên chiếc ghế băng ở giữa một phòng tranh trưng bày các tác phẩm của các danh họa Flenmitsơ hồi thế kỷ Mười tám và quan sát căn phòng.
Nàng có thể thấy rõ đôi mắt thần nhỏ xíu ở hai bên cửa ra vào. Đó là điểm xuất phát của những tia hồng ngoại sẽ được bật lên vào ban đêm. Ở những bảo tàng khác mà Tracy từng đến thăm, những người gác thường buồn ngủ, mệt mỏi và ít để ý tới dòng khách tham quan, nhưng ở đây thì họ rất tỉnh táo. Trong các bảo tàng trên thế giới, nhiều tác phẩm nghệ thuật đã bị những kẻ cuồng tín phá hoại, và bảo tàng Prado quyết không để nó cớ cơ hội ở đây.
Ở nhiều phòng tranh, các họa sĩ dựng lên giá vẽ của họ và miệt mài vẽ lại tranh của các danh họa. Bảo tàng cho phép làm điều đó, nhưng Tracy thấy rằng những người gác cũng để mắt cẩn thận tới cả những người này.
Khì Tracy đã xem hết các phòng ở tầng lầu chính, nàng đi theo cầu thang xuống tầng trệt - khu trưng bày tranh của Francisco de Goya.
Thám tử Fereira nói với Cooper. “Thấy chưa, cô ta chỉ xem tranh thôi chứ có làm gì được đâu. Cô ta ...”.
“Anh nhầm rồi”, Cooper vội vã chạy theo.
Tracy thấy phòng tranh Goya còn được bảo vệ nghiêm ngặt hơn so với các phòng khác, và là xứng đáng. Phía trên, hết bức tường này đến bức tường khác người ta trưng bày những vẻ đẹp bất diệt và Tracy ngắm hết bức này đến bức khác, sững sờ trước tài năng của nhà danh họa. Bức Chân dung tự họa của Goya thật tuyệt vời, trong đó trông ông như một thần Păng đứng tuổi ... rồi bức chân dung đầy màu sắc Gia đình Charles đệ tứ ... bức Maja mặc quần áo và bức Maja khỏa thân lừng danh.
Và đây, cạnh bức Ngày nghỉ của các mụ phù thủy là bức Puerto. Tracy dừng chân ngắm nghía, tim đập mạnh.
Ỏ nền trước của bức tranh là chừng hơn một chục đàn ông đàn bà quần áo đẹp đẽ đứng quanh một bức tượng đá, còn ở nền sau, hiện ra một làn sương mỏng mờ sáng, là những con thuyền đánh cá đỗ trong bến và một cây đèn biển xa xa. ở góc trái bên dưới, là chữ ký của Goya.
Đây là mục tiêu. Nửa triệu đô la.
Tracy liếc quanh. Một người đứng gác ở cửa. Suốt dọc hành lang phía sau anh ta nàng còn thấy nhiều người gác nữa. Nàng đứng đó hồi lâu, lặng ngắm bức Puerto. Đến khi vừa rút thì một nhóm du khách đi xuống cầu thang. Lẫn trong họ là Jeff Stevens. Tracy vội ngoảnh mặt và đi vội ra ngoài qua lối cửa bên trước khi anh kịp trông thấy nàng.
Sẽ là một cuộc đua đấy, ông Stevens và tôi sẽ thắng.
“Cô ta đang mưu đồ ăn cắp một bức tranh ở bảo tàng Prado”.
Cảnh sát trưởng Ramiro nhìn Daniel Cooper vẻ không tin. “Vô lý? Không kẻ nào có thể ăn cắp tranh ở bảo tàng Prado được”.
Cooper bướng bỉnh “Cô ta đã ở đó suốt cả buổi sáng”.
“Chưa bao giờ xảy ra một vụ trộm ở bảo tàng Prado, và sẽ không bao giờ có chuyện đó. Ông biết vì sao không?
“Vì đó là điều không thể”.
“Cô ta sẽ không mưu tính theo cách thông thường đâu. Ông phải cho bảo vệ hệ thống thông gió của bảo tàng để ngăn ngừa một vụ tiến công bằng hơi ngạt.
Nếu những người gác được phép dùng cà phê trong phiên trực, thì cần phải biết rõ họ lấy cả phê từ đâu và liệu trong đó có độc tố gì không. Kiểm tra nước uống ...”.
Sức chịu đựng của cảnh sát trưởng Ramiro có hạn. Suốt tuần qua, phải làm việc với gã người Mỹ thô bạo, xấu xí này đã là quá đủ và lại đã phải phung phí nhân lực quý giá để theo sát Tracy Whitney 24 trên 24 giờ trong khi lực lượng cảnh sát quốc gia của ông ta thì vốn đã phải làm việc dưới một ngân quỹ eo hẹp, bởi vậy lúc này, khi nghe thằng cha xấu xí kia” chỉ bảo cách điều khiển cơ quan cảnh sát của mình thì ông ta không còn chịu đựng được nữa.
“Theo ý kiến tôi, người phụ nữ này ở Madrid chỉ để nghỉ ngơi, du lịch. Tôi sẽ cho ngừng việc theo dõi”.
Cooper sửng sốt. “Không? Ông không được làm như vậy Tracy Whitney là ...”.
Cảnh sát trưởng Ramiro đứng thẳng người lên. “Thưa ông Cooper, mong ông làm ơn đừng bảo tôi phải làm gì hoặc không được làm gì. Còn bây giờ,”tôi rất bận, nếu như ông không còn gì để nói”.
Cooper đứng lặng, đầy thất vọng. “Vậy thì tôi sẽ đơn phương tiếp tục công việc”.
Cảnh sát trưởng cười. “Để giữ an toàn cho bảo tàng Prado tránh khỏi sự đe dọa khủng khiếp từ người phụ nữ kia ư. Tất nhiên là tùy ông, thưa ông Cooper.
Giờ thì tôi có thể ngủ vài đêm liền”.
 
Chương 30


Cơ hội thành công là rất hạn chế. Gunther Hartog đã nói với Tracy - nó đòi hỏi một tài năng lớn lao.
Đó là một khẳng định sai lầm, nàng nghĩ.
Tracy đang đứng bên cửa sổ càn phòng khách sạn nhìn xuống mái bảo tàng Prado, nhớ lại những gì nàng đã biết. Nó được mở cửa cho khách từ 10 giờ đến giờ, trong thời gian đó, hệ thống báo động ngừng hoạt động, nhưng mỗi cửa phòng tranh đều có người gác.
Ngay cả khi gỡ được bức tranh xuống khỏi tường Tracy nghĩ - càng không có cách nào mang thoát ra. Tất cả đồ xách tay đều bị khám xét ở các cửa ra vào.
Nàng quan sát mái nhà và cân nhắc về một vụ đột nhập ban đêm. Có vài trở ngại:
thứ nhất là khả năng bị lộ rất cao. Tracy đã thấy các ngọn đèn chiếu bật sáng về ban đêm; các mái nhà rực sáng đến mức có thể nhìn thấy nó từ xa hàng mấy dặm. Cho dù có thể lọt vào nhà êm thấm, thì lại còn vấp phải hệ thống báo động hồng ngoại và những người gác đêm.
Bảo tàng Prado dường như là bất khả xâm phạm.
Jeff đang tính toán gì đây? Tracy tin rằng anh ta cũng muốn đoạt bức họa của Goya kia. Giá mà biết được cái đầu xảo quyệt của anh ta đang mưu tính chi thì mất gì mình cũng chịu, Tracy nghĩ. Nàng chỉ biết quyết tâm:
không để anh ta đạt tới cái đích đó trước nàng. Nàng phải tìm ra một giải pháp.
Sáng hôm sau, Tracy trở lại bảo tàng Prado.
Không có gì thay đổi, trừ những khuôn mặt của du khách. Tracy cẩn thận để ý tìm Jeff nhưng không thấy.
Tracy nghĩ, hẳn là anh ta đã nghĩ ra cách đánh cắp bức tranh.” Đồ khốn kiếp.
Tất cả sự quyến rũ mà anh ta thể hiện chỉ cất làm cho mình bị phân tán, và ngăn không để mình lấy trước được bức tranh mà thôi.
Tracy tiến lại bức Puerto một lần nữa, và đảo mắt nhìn các bức tranh khác gần đấy. Những người gác vẫn đầy vẻ cảnh giác các họa sĩ nghiệp dư ngồi trên các ghế đẩu trước giá vé của họ, đậm đông đi vào rồi đi ra liên tục, và đột nhiên tim nàng bắt đầu đập nhanh hơn lên.
Mình biết cách phải làm rồi nàng thầm reo trong lòng.
Nàng gọi Gunther gọi từ một buồng điện thoại công cộng trên phố Gran Via và Daniel Cooper - đang dời nhìn từ cửa ra vào của một tiệm cà phê gần đấy - xem chừng sẵn sàng trả cả một năm tiền lương để biết được Tracy đang gọi cho ai, và nói gì, nhưng tin chắc đó là một cú điện thoại gọi ra nước ngoài và cũng chẳng ai thêm ghi âm lại câu chuyện đó. Ông ta thấy nàng lần đầu tiên mặc chiếc váy màu xanh nhạt, lô ra cặp chân trần. Để bọn đàn ông có thể nhìn ngắm mà. Ống ta nghĩ. Đồ đĩ thõa.
Và giận sôi lên.
Trong khi đó Tracy đang kết thúc câu chuyện trên điện thoại. “Phải bảo đảm đó là một người nhanh nhẹn nhé, Gunther. Anh ta chỉ có tất cả là hai phút.
Thành công hay không phụ thuộc vào hai phút ấy thôi”.
Gửi:J.J Reynolds Hồ sơ số Y - 72 - 830 - 412. Người gửi:
D. Cooper. Mật.
trích yếu:
Tracy Whitney. TÔI CHO RẰNG ĐỐI TƯỢNG ĐANG Ở MADRID ĐỂ MƯU TÍNH THỰC HIỆN MỘT VỤ TỘI PHẠM LỚN. MỤC TIÊU CÓ THỂ LÀ BẢO TÀNG PRADO. CẢNH SÁT TÂY BAN NHA CÓ THÁI ĐỘ BẤT HỢP TÁC NHƯNG TÔI SẼ ĐÍCH THÂN THEO DÕI ĐỐI TƯỢNG VÀ SẼ BẮT GIỮ CÔ TA VÀO THỜI ĐIỂM THÍCH HỢP.
Hai ngày sau, vào lúc 9 giờ sáng, Tracy ngồi trên chiếc ghế băng trong vườn Retiro một công viên xinh đẹp nằm giữa thủ đô Madrid - và đang cho những con chim bồ câu ăn. Công viên này cuốn hút người dân Madrid với hồ nước đầy, trong veo, cây cỏ sum suê được chăm sóc chu đáo và những sân khấu nhỏ để biểu diễn cho trẻ em.
Cesar Porretta, một ông già tóc đã điểm bạc, lưng hơi gù, bước dọc theo lối mòn trong vườn, và khi đến bên chiếc ghế, ông ta ngồi xuống cạnh Tracy, mở chiếc túi giấy và lấy ra những mẩu bánh mì vụn ném cho đàn chim. “Xin chào tiểu thư”.
“Xin chào. Ông có thấy khó khăn gì không?”.
Không cô ạ. Thời gian và thời điểm là tất cả những gì tôi cần”.
“Hiện thì chưa có”, Tracy nói. “Nhưng sẽ có ngay thôi”.
Ông ta cười một nụ cười móm mém. “Cảnh sát chắc sẽ phát điên. Chưa ai làm thế này bao giờ”.
“Do vậy mà sẽ thành công đấy”. Tracy đáp. “Tôi sẽ thông báo với ông sau”.
Nàng tung mẩu vụn cuối cùng cho đàn bồ câu và đứng dậy, bước đi, làn váy lụa đong đưa trên hai đầu gối sao mà khêu gợi.
Trong lúc đó, Daniel Cooper đang lục soát căn phòng khách sạn của nàng.
Ông ta đã thấy Tracy rời khách sạn đi về phía công viên và vì nàng không” yêu cầu mang đồ ăn lên phòng nên Cooper cho rằng nàng đi ăn sáng đâu đó. Ông ta tự cho phép mình có ba mươi phút. Việc đột nhập phòng Tracy chỉ đơn giản là tránh né các cô hầu và sử dụng một chiế móc đặc biệt để mở khóa. Ông ta biết mình đang phải tìm kiếm cái gì:
Một bản sao của một bức họa. Không thể đoán biết Tracy định đánh tráo nó bằng cách nào, nhưng ông ta tin chắc mưu đồ của nàng phải là như vậy.
Ông ta lục soát một cách thành thạo, nhanh chóng và hoàn toàn trong im lặng, không để lọt qua mắt một thứ gì Sau cùng lả phòng ngủ. Ông ta ngó vào tủ áo, xem xét từng chiếc váy, áo và rồi quay sang chiếc tủ com mốt, rút ra từng ngăn kéo một. Tất cả đầy những quần lót, xu chiêng và tốt chân. Ông ta nhặt một chiếc quần lót màu hồng lên và áp nó vào má, mơ màng từ mùi thơm quyến rũ của d.a thịt nàng. Và đột nhiên ở khắp nơi đều có mùi thơm ấy cả. Ông ta đặt chiếc quần lót lại chỗ cũ và nhanh chóng ngó qua các ngăn kéo khác. Không thấy bức tranh nào hết.
Ít phút sau ông ta bỏ ra ngoài, cũng nhanh như khi đến, và cắm đầu cắm cổ đi tới một ngôi nhà thờ gần đấy.
Sáng hôm sau Tracy rời khách sạn Ritz, Daniel Cooper bám theo. Giờ đây, Cooper thấy giữa họ có một sự gần gũi chưa từng tồn tại trước đó. Ông ta đã biết mùi d.a thịt nàng, đã thấy nàng tắm, đã được ngắm th.ân thể trần truồng của nàng ngập trong làn nước ấm. Nàng như đã hoàn toàn thuộc về ông ta, để ông ta mặc sức hủy hoại.
Cooper đã quan sát nàng đi bộ dọc theo phố Gren Via, xem hàng hóa bày trong các cửa hiệu, và theo nàng vào một cửa hiệu bách hóa lớn, thận trọng dừng ở ngoài tầm mắt nàng. Ông ta thấy nàng nói gì đó với một nhân viên rồi đi về phía phòng vệ sinh nữ. Conper đứng gần đó, thất vọng. Đó là nơi mà ông ta không hề theo vào.
Giá mà Cooper lọt được vào trong thì ông ta đã có thể thấy Tracy đang nói chuyện với một người đàn bà to béo trạc tuổi trung niên.
“Bà luu ý nhé”, đững trước gướng, Tracy vừa nói vừa bôi thêm son lên môi, “Sáng mai, 11 giờ”.
Người đàn bà lắc đầu. “Không nên, thưa cô. Ông ta sẽ không thích như vậy đâu. Không còn ngày nào tồi tệ hơn ngày đó cả. Ngày mai, Thái tử Lucxembourg sẽ đến đây trong một chuyến thăm cấp nhà nước, và báo chí đưa tin rằng ông ta sẽ được đưa tới thăm bảo tàng Prado. Vậy là sẽ có thêm cảnh vệ và cảnh sát canh gác trong khắp bảo tàng”.
“Càng đông càng tốt. Ngày mai”.
Tracy bước ra khỏi cửa, và người đàn bà nhìn theo, lẩm bẩm, “Thật kỳ quái ...”.
Phái đoàn Hoảng gia Lucxembourg được dự kiến sẽ đến bảo tàng Prado vào đúng lúc 11 giờ, và các đường phố quanh đó đều bị cảnh vệ Quốc gia chặn lại. Do sự chậm trễ của buổi lễ tại dinh Tổng thống, mãi đến gần giữa trưa phái đoàn mới đến. Các xe mô tô cảnh sát xuất hiện cùng với tiếng còi hú rầm rĩ, hộ tống đoàn xe gồm năm, sáu chiếc chạy tới trước cửa thềm bảo tàng Prado.
Tại cổng vào, giám đốc Christian Machada nóng lòng chờ đợi khách quý.
Trong buổi sáng, Machada đã kiểm tra cấn thận để bảo đảm rằng mọi thứ đều chu đáo, còn những người gác đều đã được nhắc nhở phải đặc biệt cảnh giác. Viên giám đốc vốn rất tự hào về bảo tàng-tranh của mình, và ông ta muốn gây một ấn tượng tốt đẹp với Thái tử.
Có bạn bè ở những vị trí cao thì bao giờ mà chẳng có lợi, Machada nghĩ, và có khi tối nay mình còn được mời tới cùng ăn với Thái tử tại dinh tổng thống cũng nên.
Điều hối tiếc duy nhất của Machada là việc không có cách nào chặn cái đám khách du lịch đang lang thang khắp chỗ trong bảo tàng. Tuy vậy, các cảnh vệ tùy thân và nhân viên an ninh của bảo tàng sẽ đảm bảo việc giữ gìn an toàn cho Thái tử. Tất cả đều đã sẵn sàng.
Phái đoàn Hoàng gia bắt đầu thăm tầng lầu chính.
Viên giám đốc đón vị thượng khách rất nồng nhiệt và tháp tùng ông ta, theo sau là các cảnh vệ vũ trang, đi qua căn phòng có mái vòm lớn vào các căn phòng trưng bày tranh của các họa sĩ Tây Ban Nha hồi thế kỷ 16:
Juan de Juanes, Pedro Machuaca, Fornande Yanos.
Vị Thái tử bước chậm rãi, thưởng thức những gì đang trưng bày trước mặt.
Ông là người bảo trợ cho, nghệ thuật và thực sự yêu quý các họa sĩ - những người có thể làm cho quá khứ sống động và trở nên vĩnh hằng. Thậm chí, vì bản thân không có năng khiếu hội họa, ông còn thấy ghen tỵ khi thấy các họa sĩ nghiệp dư đứng trước các giá vẽ đang cố chộp lấy những nét thiên tài của các danh họa.
Khi phái đoàn đã thăm hết lầu trên, Machada tự hào nói. “Và bây giờ, nếu ngài cho phép, tôi xin đưa ngài xuống tầng dưới thăm Goya”.
Tracy đã trải qua một buổi sáng hết sức căng thẳng. Khi vị Thái tử không đến được bảo tàng Prado vào lúc 11 giờ như dự định, nàng đã bắt đầu lo lắng.
Tất cả các sắp đặt của nàng đã được tính được từng giây, và cẩn có sự có mặt của Thái tử để giú vào kế hoạch này.
Tracy đi từ phòng này sang phòng khác, lẫn vào đám khách tham quan và cố tránh không gây bất kỳ sự chú ý nào. Ông ta không đến mất, Tracy nghĩ, mình sẽ phải hoãn lại thôi. Nhưng đúng lúc đó nàng nghe tiếng còi xe cảnh sát vọng lại từ ngoài đường.
Đang theo dõi Tracy từ một vị trí thuận lợi ở phòng kề bên, Daniel Cooper cũng đã nghe thấy tiếng còi. Về lý thì ông ta tin rằng không ai có thể đánh cắp một bức tranh ở bảo tàng này, nhưng linh tính thì mách bảo với ông rằng Tracy đang âm mưự làm việc đó, và Cooper tin vào lính tính của mình. Ông ta tiến lại gần nàng hơn, cố lẩn sau đám đông, quyết không rời mắt một lây nào hết.
Tracy đang ở cạnh phòng bày bức Puerto. Qua khuôn cửa để ngỏ, nàng có thể nghe thấy tiếng ông già gù lưng, Cesar Porretta, ngồi trước một giá vẽ đang sao lại bức tranh Maja mặc quần áo của Goya, treo cạnh bức Puerto. Một người gác đứng cách đó có ba bước chân. Trong căn phòng có Tracy, một nữ họa sĩ đứng trước giá vẽ đang mê mải sao lại bức tranh Người phụ nữ vắt sữa bò cố gắng bắt chước các nét vẽ kỳ diệu của Goya.
Một nhóm du khách Nhật Bản đổ vào phòng, ồn ào như một bầy chim lạ.
Nào? Tracy tự nhắc mình. Đầy chính là thời điểm mà nàng chờ đợi, và tim nàng dập mạnh tới mức nàng sợ người gác kia cũng có thể nghe thấy. Nàng nhường lối cho nhóm khách Nhật Bản đang tiến tới, lưng quay về phía người họa sĩ.
Đúng lúc một người Nhật Bản bước qua chạm lướt vào phía trước, Tracy ngả người ra sau, dường như là bị đẩy vậy, đè vào người nữ họa sĩ kia, xô chị ta cùng giá vẽ, bức tranh và màu vẽ xuống sàn.
“Ôi, tôi xin lỗi?” Traey kêu lên. “Xin để tôi giúp”.
Và khi hối hả giúp người nữ họa sĩ đang thẩn thờ, gót giày của Tracy giẫm lên những chỗ màu vẽ vương dưới sàn và bôi lung tung khắp nơi. Daniel Cooper, người đã trông thấy tất cả vội lại gần, mọi giác quan đều căng lên vì tập trung chú ý. Ông ta tin chắc Tracy đã thực hiện hành động đầu tiên.
Người gác phòng tranh lao đến, la lên, “Cái gì thế này, hả?”.
Sự cố đã thu hút chú ý của đám du khách và họ đứng quây quanh người nữ họa sĩ bị xô ngã, giầy dép họ làm dây thêm màu vẽ ra khắp sàn gỗ căn phòng.
Thật là một sự bừa bãi kinh khủng, và vị Thái tử lại sắp xuất hiện tới nơi rồi.
Người gác hất hoảng kêu. “Giải tán ngay, nhanh lên”.
Tracy đã thấy người gác từ phòng bên chạy sang để giúp giữ trật tự. Trong phòng chỉ còn lại có một mình Cesar Porretta với bức Puerto.
Tracy vẫn đứng giữa đám đông lộn xộn, ồn ào. Hai người gác đang ra sức đẩy những du khách ra khỏi khu vực sàn nhà bị dây bẩn.
“Kêu ông giám đốc”.
Người gác kia vội chạy ra phía cầu thang.
Hai phút sau, Christian Machada đã có mặt tại hiện trường. Ông ta sửng sốt nhìn “và hét lớn. “Đưa mấy cô phục vụ lại đây” Bàn chải, giẻ lau và cánh kiến.
Mau lên”.
Một người phụ tá vội vã lao đi thực hiện mệnh lệnh.
Machada quay sang một người gác, quát. “Về vị trí của anh ngay”, “Thưa ông, vâng”.
Tracy thấy người ấy lách qua đám đông trở về căn phòng mà Cesar Porretta đang làm việc.
Cooper không một giây rời mắt khỏi Tracy. Ông ta chờ đợi hành động tiếp theo. Nhưng điều đó không xảy ra. Cô ta đã không lại gần bất kỳ một bức tranh nào, cũng không hề tiếp xúc với bất kỳ một ai. Tất cả những gì cô ta làm chỉ là gây đổ cái giá vẽ và đánh dây một ít màu vẽ trên sàn nhà mà thôi, song ông ta tin chắc rằng, đó là những hành động cố ý. Nhưng để làm gì? Tuy nhiên, Cooper cảm thấy điều mà cô ta tính toán đã xảy ra rồi. Ông ta nhìn quanh bức tường. Không thiếu một bức nào.
Cooper chạy sang phòng bên. Không có ai cả trừ người gác và một ông già còng lưng ngồi trước giá vẽ, đang sao lại bức Maja mặc quần áo. Tất cả các bức tranh đều còn nguyên. Nhưng chắc là đã có chuyện rồi. Cooper tin vậy.
Ông ta bước vội tới trước viên giám đốc - mà trước đó ông ta đã gặp để trao đổi công việc. “Tôi có lý do tin rằng”, Cooper thốt lên, “một bức tranh nào đó đã bị đánh cắp trong vòng vài phút vừa qua”.
Christian Machada nhìn người Mỹ có cặp mắt dữ dằn kia. “Ông đang nói gì vậy? Nếu có chuyện đó thì những người gác đã báo động rồi”.
“Tôi cho rằng, bằng cách nào đó, một bức tranh giả đã được tráo vào một bức thật”.
Viên giám đốc nở một nụ cười độ lượng. “Giả thuyết của ông có chỗ sai, thưa ông. Tuy rằng công chúng thì không được biết, nhưng sau mỗi bức tranh đều có bộ cảm nhận điện tử. Nếu có ai đó toan gỡ một bức tranh ra khỏi tường, điều chắc chắn sẽ phải làm, nếu muốn thay vào đó một bức khác, chuông báo động sẽ vang lên ngay tức khắc”.
Daniel Cooper vẫn chưa thấy hài lòng. “Hệ thống báo động của ông có thể bị ngắt điện không?”.
“Không. Nếu ai đó cắt đường dây dẫn điện, việc đó cũng gây báo động ngay.
Thưa ông, không, ai có thể đánh cắp một bức tranh ra khỏi bảo tàng này. Hệ thống bảo vệ của chúng tôi là cái mà ông có thể gọi là hệ thống ngăn chặn mọi xâm phạm”.
Cooper run lên vì tuyệt vọng. Tất cả những gì mà viên giám đốc nói ra đều có sức thuyết phục. Chuyện đó dường như là không thể xảy ra. Vậy thì tại sao Tracy Whitney lại cố tình làm dây màu vẽ ra sàn?
Cooper vẫn chưa chịu. “Xin ông chiều ý tôi. Đề nghị ông cho nhân viên kiểm tra lạ tất cả để đảm bảo rằng không có gì bị mất. Tôi sẽ chờ ở khách sạn”.
Daniel Cooper không còn làm gì hơn được nữa.
Tối hôm đó, Christian Machada gọi điện lại cho Cooper. “Thưa ông, tôi đã đích thân kiểm tra lại toàn bộ. Tất cả các bức tranh đều nguyên vẹn. Bảo tàng không mất gì cả”.
Vậy đó, dường như đó là một sự ngẫu nhiên. Nhưng Danlel Cooper, với linh cảm của một người thợ săn, cảm thấy rằng con mồi đã chạy thoát.
Jeff đã mời Tracy ăn tối tại phòng ăn chính của khách sạn Rizt.
“Tối nay trông em đặc biệt rạng rỡ”. Jeff nhận xét.
“Cảm ơn anh:
Tôi cảm thấy thật dễ chịu”.
“Đó là nhờ có bạn bè ở bên, tuần sau hãy cùng tôi đi Barcelone, em sẽ thích”.
“Xin lỗi, Jeff. Tôi không thể. Tôi sắp rời Tây Ban Nha rồi”.
“Thật ư?” Giọng Jeff đầy vẻ nuối tiếc. “Khi nào vậy?”.
“Một vài ngày nữa”.
“Ồ, tôi thất vọng đấy”.
Anh sẽ còn thất vọng hơn nữa. Tracy nghĩ, khi anh biết rằng tôi đã đánh cắp bức tranh Puerto. Nàng băn khoăn không biết anh ta đã định đánh cắp nó như thế nào. Giờ đây điều đó không còn quan trọng nữa. Vậy là mình đã vượt mặt anh chàng Jeff Stevens thông minh. Nàng đắc thắng nghĩ vậy. Vậy mà, không hiểu vì sao, Tracy bỗng thấy có chút ân hận.
Ngồi trong phòng làm việc, Christian Machada đang nhấm nháp ly cà phê buổi sáng và tự chúc mình về thành công tốt đẹp của chuyến viếng thăm bảo tàng của Thái tử Trừ sự cố đáng tiếc của việc màu vẽ dây ra sàn phòng tranh, tất cả đều tốt đẹp. Ông ta mừng là Thái tử và đoàn tùy tùng đã được dẫn quanh đi nơi khác cho đến lúc tất cả được lau chùi sạch sẽ. Viên giám đốc mỉm cười nhớ tới tay thám tử ngớ ngẩn người Mỹ đã cố thuyết phục ông rằng ai đó đã đánh cắp một bức tranh khỏi bảo tàng Prado.
Ngày hôm nữa không, ngày hôm nay không và ngày mai cũng không thể có chuyện đó - ông ta hài lòng nghĩ.
Cô thư ký của ông bước vào. “Xin lỗi? Có một quí ông muốn gặp. Ông ta yêu cầu tôi chuyển lại cho ông cái này”.
Cô ta đưa cho viên giám đốc một bức thư. Ngoài phong bì đề tên Bảo tàng Kunsthau - Zurich.
Đồng nghiệp kính mến của tôi, Bức thư này xin giới thiệu ông Henri Renđll, chuyên viên nghệ thuật cao cấp của chúng tôi. Ông Renđell đang trên đường đi thăm các bảo tàng trên thê”giới và rất sốt sắng muốn được thấy bộ sưu tập không gì so sánh nơi của ông. Tôi mong ông tạo mọi điều kiện giúp đỡ ông ấy.
Bức thư đo ông giám đốc bào tàng kia ký.
Sớm hay muộn, v iên giám đốc sung sướng nghĩ, mọi người đều sẽ đến với ta.
“Đưa ông ta vào đây”.
Henri Rendell là một người cao lớn, hói đầu, vẻ mặt dễ gây ấn tượng và giọng nói Thụy Sĩ. Khi bắt tay nhau. Machada nhận thấy bàn tay phải của người khách thiếu mất một ngón trỏ. Henri Rendell nói. “Tôi rất vui mừng. Đây là lần đầu tiên tôi có cơ hội đến thăm Machada, và tôi mong mỏi được thấy các tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng của ông”.
Christian Machada nhã nhặn nói. “Tôi không nghĩ là ông sẽ phải thất vọng, thưa ông Rendell, Xin mời đi cùng tôi Tôi sẽ tự đưa ông thăm các phòng tranh”.
Họ chậm rãi đi qua các phòng lớn có mái vòm trưng bày tranh của các danh họa Flemmitsơ, của Ruben và các họa sĩ cùng trường phái, và rồi thăm khu triển lãm chính với tranh của các danh họa Tây Ban Nha. Hean Rendell xem xét thận trọng từng bức một. Hai người đã trò chuyện với nhau như hai chuyên gia bậc thầy, đánh giá phong cách, nét phối cảnh và cảm nhận màu sắc của các họa sĩ.
“Bây giờ”, viên giám đốc tuyên bố, “Xin vì niềm tự hào của đất nước Tây Ban Nha”. Ông ta dẫn khách xuống tầng dưới, đi vào khu triển lãm tranh Goya.
““Thật là sướng mắt?”. Rendell kêu lên, ngỡ ngàng.
“Xin được cho tôi đứng mà ngắm thôi”.
Christian Machada vui lòng chờ đợi, thích thú trước sự thán phục của khách.
“Chưa bao giờ tôi được thấy thứ gì huy hoàng thế này”. Rendell thừa nhận.
Ông ta chậm rãi ngắm nghía từng bức tranh. Ngày nghỉ của các mụ phù thủy.
Rendell lẩm bẩm, “Một bức tranh tuyệt đẹp”.
Họ bước tiếp.
“Chân dung tự họa, thật kỳ lạ”.
Christian Machada mỉm cười.
Rendell dừng lại trước bức Puerto. “Một bức tranh giả thật khéo”. Ông ta toan bước đi.
Viên giám đốc chộp lấy cánh tay ông ta. “Cái gì? Ông vừa nói gì vậy?”.
“Tôi nói rằng đó là một bức tranh vẽ lại thật khéo”.
“Ông thật đã rất nhầm”, viên giám đốc cảm thấy bị xúc phạm.
“Tôi không cho là mình nhầm đâu”.
Chắc chắn là ông nhầm”, Machada quả quyết. “Tôi bảo đảm với ông đó là tranh thật. Tôi biết nguồn gốc của nó mà”.
Henri Rendell bước lại gần bức tranh và xem xét cẩn thận hơn. “Vậy thì nguồn gốc của nó cũng đã là giả mạo.
Đó là bức vẽ của đồ đệ Goya, Eugenie Lucas Padilla. Tất nhiên ông phải biết là Lucas đã vẽ hàng trăm tranh giả của Goya”.
“Chắc chắn là tôi biết vậy”, Machada gắt. “Nhưng đây không phải là một trong số các bức đó”.
Rendell nhún vai. “Tôi đành thua sự phán xét của ông”. Ông ta dậm chân định bước đi.
“Tôi đã đích thân mua bức tranh này. Nó đã được phân tích quang phổ và hóa nghiệm”. Ông giám đốc nói thêm.
“Tôi không nghi ngờ gì chuyện đó. Lueas vẽ ngay cùng thời với Goya và cùng dùng một thứ nguyên liệu, Henri Rendell cúi xuống xem xét chữ ký ở góc dưới bức tranh.
“Ông có thể tái bảo đảm một cách rất đơn giản, nếu ông muốn. Đưa bức tranh trở lại phòng phục chế và kiểm tra lại chữ ký này”. Ông ta bật cười. “Cái tôi của Lucas đã xui ông ta ký tên mình dưới bức tranh, nhưng túi tiền buộc ông ta phải ký mạo tên Goya” lên trên chữ ký của mình, cốt để tăng giá bức tranh mà”. Rendell nhìn đồng hồ. “Xin ông thứ lỗi. Tôi sợ rằng tôi sẽ trễ hẹn mất.
Cảm ơn ông đã chia sẻ kho tàng của mình”.
“Có gì dâu”, viên giám đốc lạnh nhạt. Thằng cha này rõ ràng là ngu xuẩn, ông ta nghĩ.
“Tôi đang ở biệt thự Magna, nếu ông thấy cẩn xin cứ gọi. Cảm ơn ông một lần nữa”. Henri Rendell ra về.
Christian Machada trông theo. Thế nào mà gã Thụy Sĩ ngớ ngẩn này lại dám cho rằng bức tranh quý giá đó là của dổm nhỉ?
Ông ta quay lại nhìn bức tranh một lần nữa. Một kiệt tác. Ông ta cúi nhìn chữ ký của Goya. Hoàn toàn bình thường. Nhưng mà, liệu có thể là thế không nhỉ? Nỗi nghi ngờ cỏn con không chịu mất đi. Mọi người đều biết, họa sĩ đương thời với Goya, Eugenie Lucas Padilla, đã vẽ hàng trăm tranh Goya giả, và trở nên nổi tiếng cũng nhờ thế.
Machada đã trả ba triệu rưỡi đô la để mua bức tranh Puerto này. Nếu như ông ta bị lừa thì đó là một vết nhơ ghê gớm, điều mà chỉ nghĩ tới cũng đã không thể chịu được.
Henri Rendell đã nói một điều có ý nghĩa:
thực sự có một cách đơn”giản để tái khẳng định tính xác thực của nó. Ông ta sẽ kiểm tra lại chữ ký rồi gọi điện cho Rendell và nhận xét một cách lịch thiệp nhất rằng có thể Rendell nên tìm một nghề chuyên môn khác thích hợp với khả năng của ông ta.
Viên giám đốc gọi người phụ tá và hạ lệnh “được tranh Puerto xuống để xét nghiệm lại.
Xét nghiệm một tác phẩm hội họa là công việc hết sức tinh tế, bởi lẽ chỉ thiếu thận trọng một chút là đã có thể phá hủy mất một tác phẩm vố giá, và không thể có lại được. Cánh phục chế của bảo tàng Prado đều là các chuyên viên, phần đông là đám họa bĩ, không thành đạt và xin vào làm việc ở đây để được gần gũi với môn nghệ thuật mà họ yêu thích. Họ bắt đầu với tư cách là thợ học nghề, dưới sự chỉ bảo của các chuyên viên, và phải làm việc nhiều năm trước khi trở thành thợ phụ, rồi mới được phép động tới các kiệt tác và luôn luôn dưới sự trông nom của các bậc thầy.
Juan Delgado, người phụ trách việc phục chế của bảo tàng Prado đặt bức Puerto lên một cái giá gỗ đặc biệt trước sự giám sát của Machada.
Tôi muốn ông kiểm tra chữ ký xem”, viên giám đốc nói.
Delgado không dám bộc lộ sự ngạc nhiên của mình. “Vâng, thưa ông giám đốc”.
Ông ta rót chút rượu izôprôpin vào miếng bông nhỏ rồi đặt nó lên chiếc bàn bên cạnh bức tranh. Miếng bong thự hai đựợc nhỏ lên đó vài giọt một thứ hóa chất có tác dụng trung hòa.
“Thưa ông, tôi đã sẵn sàng”.
“Vậy thì bắt đầu đi. Vẫn phải cẩn thận đấy”.
Đột nhiên Machada như cảm thấy khó thở. Ông ta theo dõi Delgado nhẹ nhàng chấm miếng bông thứ nhất lên chữ G trong chữ ký của Goya. Ngay tức khắc Dalgado dùng miếng bông thứ hai thấm lên đó để trung hòa cho rượu khỏi thấm sâu hơn xuống dưới. Hai người” cùng xem xét chất vải, nơi thấm hóa chất.
Delgado cau mày. “Xin lỗi nhưng tôi chưa thể nói gì được, ông ta nói. “Tôi sẽ phải dùng một hóa chất hòa tan mạnh hơn”.
“Làm đi”. Viên giám đốc hạ lệnh.
Delgado mở nắp một bình hóa chất khác:
ông ta thận trọng nhỏ chất đimantinpêtôn lên một miếng bông sạch rồi dùng nó thấm lại lên chữ cái đầu của chũ ký trên bức tranh. Căn phòng lập tức sặc mùi cay nồng của các hóa chất. Christian Machada đứng chết lặng, không thể tin “vào cái mà ông ta đang nhìn thấy nữa. Chữ G trong”tên của Goya mờ dần đi và ở vị trí của nó là một chữ L rõ ràng.
Delgado quay sang, mặt tái nhợt- “Tôi ... tôi có tiếp tục không”.
“Tiếp tục đi Machada nói, giọng khản đặc.
Từng chữ một, chữ ký của Goya mê đi dưới tác dụng của chất hòa tan và chữ ký của Lucas hiện” ra. Mỗi chữ như một cú đấm thẳng vào bụng Machada. Ông ta, người đứng đầu một trong những bảo tàng lớn nhất thế giới, đã bị lừa. Ban giám đốc sẽ biết, nhà vua Tây Ban Nha sẽ biết, cả thế giới sẽ biết điều đó. Thật nhục nhã.
Ông ta lê gọi cho Henri Rendell.
Hai người ngồi trong phòng làm việc của Machada.
“Ông đã đúng”, giọng viên giám đốc nặng nhọc. “Đó là một bức tranh của Lucas. Khi chuyện này lan ra, người ta sẽ cười vào mũi tôi”.
“Lucas đã đánh lừa nhiều chuyên gia”, Renđell an ủi.
“Sự giả mạo của ông ta lại là sở thích của tôi đấy”.
“Tôi đã trả ba triệu rưỡi đô la để mua bức tranh đó”.
Rendell nhún vai. “Ông có thể đòi tiền lại được không?”.
Viên giám đốc lắc đầu thất vọng. “Tôi mua nó của một góa phụ - người đã quả quyết rằng đó là tài sản của gia đình chồng bà ta trong nhiều đời. Nếu tôi phát đơn kiện, vụ kiện sẽ giằng co hết phiên tòa này đến phiên tòa khác và dư luận sẽ là rất xấu. Mọi thứ trong bảo tàng này sẽ bị nghi ngờ hết”.
Henri Rendell trầm ngâm hồi lâu. “Đúng lả không nên để lộ ra công luận.
Sao ông không giải thích mọi chuyện với cấp trên, và lặng lẽ ném bức Lucas đi nhỉ. Ông có thể gửi nó cho hãng Sotheby hay Christian để họ đưa ra bán đấu giá”.
Machada lắc đầu, “Không được, vậy thì cả thế giới sẽ Gương mặt Rendel1 chợt sáng lên. “Ông còn gặp may cũng nên. Tôi có một khách hàng sẵn lòng mua bức này.
Ông ta sưu tầm tranh Lucas mà. Và là một người hành động tùy hứng”.
“Dứt bỏ được nó thì thật sung sướng. Tôi không muốn nhìn thấy nó nữa.
Một thứ của rởm giữa kho báu của tôi. Tôi thà cho không nó đi”. Ông ta cay đắng nói thêm.
“Chẳng cần phải thế. Người khách của tôi có thể sẵn sàng trả ông, chẳng hạn, 50 ngàn đô la để mua nó. Tôi sẽ báo cho ông ta chứ?”.
“Ông thật tốt bụng, ông Rendell”.
Tại một cuộc họp được triệu tập vội vã, ban giám đốc đang bối rối đã cho rằng việc để lộ ra một trong những bức tranh có giá trị cửa bảo tàng Prado là một thứ giả mạo cần phải tránh bằng bất cứ giá nào. Cuộc họp quyết định rằng, tốt nhất là dứt bỏ bức tranh, càng lặng lẽ, càng nhanh càng tết. Các thành viên dự họp, trong các bộ . Complê sẫm màu, im lìm bước ra khỏi phòng. Không ai nói một lời với Machada đang đứng lặng vì đau khổ.
Chiều hôm đó, vụ mua bán đã được thực hiện. Henri Renđell đến Ngân hàng Tây Ban Nha và trở lại với một tấm séc bảo đảm trị giá 50 ngàn đô la và bức Lucas đã được trao lài cho ông ta buộc trong một tấm vải mộc rẻ tiền.
“Ban giám đốc chúng tôi sẽ rất phiền lòng nếu sự cố này được công luận biết đến”, Machada tế nhị nói.
“Nhưng tôi đã bảo đảm với các vị kia rằng khách hàng của ông là một người biết giữ miệng”.
“Ông có thể tin vào điều đó”. Rendell hứa.
Sau khi ra khỏi bảo tàng, Henri Rendeii đi một chuyến tắc xi tới khu dân cư ở rìa phía Bắc của Madriđ, mang bức tranh lên một căn phòng ở tầng ba và gõ cửa. Tracy là người mở. Phía sau cô là Cesar Porretta. Tracy đưa mắt nhìn Rendell và ông ta mỉm cười.
Họ đã nóng lòng muốn ném nó đi dấy”. Henri Rendell đắc chí.
Tracy ôm lấy ông ta. “Xin mời vào đi”.
“Còn bây giờ”, người lưng gù nói. “Các vị sẽ thấy phép màu. Một Goya sống lại.
Ông ta lấy ra một lọ hóa chất và mở nắp. Mùi cay nồng lập tức tỏa ra tràn ngập căn phòng. Trước mặt Tracy và Rendell, Porretta để thứ rượu đó lên một miếng bông và lướt rất nhẹ lên chữ ký của Lucas, từng chữ cái một. Dần dần, nó biến mất. Dưới đó là chữ ký của Goya.
Renđell nhìn, đầy thán phục. “Tuyệt vời?”.
“Đó là ý của cô Whitney”, người lưng gừ thừa nhận.
“Cô ấy đã đặt vấn đề liệu có”thế phủ lên chữ ký ban đầu của họa sĩ một chữ ký rởm rồi lại phủ lên chữ ký rởm này một chữ ký nữa của họa sĩ?”.
“Ông ấy đã tính toán sẽ phải làm như thế nào”. Tracy mỉm cười.
Porretta khiêm nhường nói, “Thật quá sức đơn giản. Mất chưa đầy hai phút mà. Cái mẹo là ở chỗ các thứ thuốc vẽ mà tôi đã dùng. Đầu tiên tôi phủ lên chữ ký của Goya một lớp keo thượng hạng, trong suốt để bảo vệ nó.
Rồi trên đó, tôi viết tên Lucas bằng một thứ màu vẽ khô nhanh điều chế từ axêrylle. Bên trên nữa, tôi lại viết tên Goya bằng một thứ dầu màu pha keo. Khi chữ ký trên cùng này bị phá hủy thì tên Lucas hiện ra. Nếu mà họ tiếp tục thì họ đã có thể phát hiện ra tên GĐ và ở dưới cùng. Nhưng dĩ nhiên là họ không làm thế”.
Tracy trao cho họ mỗi người một phong bì dày cộp và nói. “Tôi muốn cảm ơn cả hai ông”.
“Bất kỳ khi nào cô cần một chuyên gia hội họa, xin cứ gọi”. Henri Rendell nháy mắt.
Porretta hỏi. “Cô định làm thế nào để chuyển bức tranh qua biên giới”.
“Tôi có một người giao hàng sẽ nhận nó ngay ở đây. Hãy đợi ông ta nhé”.
Nàng bắt tay cả hai người rồi bước ra.
Trên đường trở về khách sạn, Tracy tràn ngập niềm phấn chấn. Tất cả đều là ở vấn đề tâm lý con người, nàng nghĩ. Ngay từ đầu, nàng đã thấy là không thể đánh cắp bức tranh được, bởi vậy nên phải lừa họ, đưa họ vào cái tâm trạng muốn dứt bỏ bức tranh Tracy hình dung, hộ mặt Jeff khi biết rằng mình đã bị qua mặt như thế nào, nàng cười vang.
Tại phòng khách sạn, Tracy chờ đợi người giao hàng kia, và khi ông ta đến, nàng gọi điện cho Cesar Porretta.
“Hiện “người giao hàng đã ở đây”, Tracy nói “Tôi sẽ phái ông ta đến nhận bức tranh. Hãy lưu ý để ông ta ...”.
“Cái gì? Cô đang nói cái gì hả?” Porreta hét lên. “Người của cô đã nhận nó cách đây cả nửa giờ đồng hồ rồi mà”.
 
Chương 31


PARIS.
Thứ tư, ngày 9 tháng Bảy - Buổi trưa.
Trong một văn phòng riêng kề trên phố Matignon, Gunther Hartog đang nới với Tracy, “Tôi rất hiểu cảm giác của cô về chuyện đã xảy ra ở Madrid, nhưng đúng là Jeff Stevens đã đến đích trước”.
“Không phải”, Tracy chua chát. “Tôi đã đến trước, còn anh ta là kẻ đến sau”.
“Nhưng chính Jeff là người trao bức tranh. Bức Puerto đã đang trên đường tới tay khách hàng của tôi”.
Bất chấp mọi kế hoạch, tính toán của nàng, Jeff Stevens đã hớt tay trên. Anh ta đã ngồi đợi, “mặc nàng làm tất cả mọi việc, đương đầu với những mạo hiểm, và vào thời điểm cuối cùng, anh ta thản nhiên bước vào và lĩnh phần thưởng.
Anh ta đã cười nhạo nàng đến nhường nào! Em là một cô gái rất đặc biệt, Tracy – Anh ta đã nói vậy. Nàng không thể chịu nổi cảm giác nhục nhã tràn đầy khi nghe tới cái đêm đi xem nhảy Flamence. Lạy Chúa, suýt nữa mình đã tự biến mình thành một con ngốc - nàng cay đắng nghĩ thầm.
“Tôi chưa bao giờ nghĩ là tôi có thể giết người”, Tracy nói với Gunther, “mà được giết Jeff Stevens lúc này thì tôi thật hả dạ”.
Gunther ôn tồn. “Ồ, cô bạn thân mến. Tôi mong rằng không phải là ngay trong văn phòng này. Anh ta đang trên đường đến đây mà”.
“Anh ta đến đây à?” Tracy nhảy dựng lên.
“Tôi đã nói là tôi còn một đề nghị nữa với cô mà. Việc đó đòi hỏi phải có một người bạn chung lưng đấu cật. Và theo ý kiến tôi, anh ta là người duy nhất”.
“Tôi ... thà chết đói còn hơn”, Tracy quát lên. “Jeff Stevens là kẻ đê tiện nhất ...”.
A, tôi nghe thấy người ta nhắc đến tên tôi, có phải không nhỉ? “Anh đứng ngay ở ngưỡng cửa, tươi cười.
“Tracy, em yêu, trông em quyến rũ lạ thường. Chào ông bạn thân mến Gunther, có khỏe không?”.
Hai người đàn ông bắt tay nhau. Tracy đứng đó, giận tái người.
Jeff nhìn nàng và thở dài. “Có thể em thấy phiền lòng với tôi”.
“Phiền lòng ! Tôi ...” Tracy không còn biết nói thế nào.
Tracy, cho phép tôi nới rằng kế hoạch của em thật tuyệt vời. Tôi nói thành thực đấy. Thật sự tuyệt vời. Em đã chỉ phạm một sai lầm nhỏ. Đừng bao giờ tin một người Thụy Sĩ mà bàn tay thiếu mất ngón trỏ cả”.
Nàng hít thở thật mạnh, cố kiềm chế cơn giận, quay sang Gunther. “Tôi sẽ nói chuyện với ông sau, ông Gunther”.
“Tracy ...”.
“Không. Dù thế nào chăng nữa, tôi cũng không muốn tham gia. Nếu như công việc đó dính đến anh ta”.
Gunther năn nỉ. “Thì ít nhất cũng mong cô nghe đã nào”.
“Chẳng có gì phải nghe nữa cả. Tôi ...”.
“Trong vòng ba ngày nữa hãng De Beers sẽ chuyển một kiện kim cương trị giá bốn triệu đô la từ Paris đến Amstecđam trên một chuyến bay chở hàng của Hàng không pháp. Tôi có một khách hàng muốn giành được số kim cương đó”.
“Sao ông không tính cướp số kim cương đó trên đường ra sân bay” Người bạn của ông là một kẻ cướp lão luyện đấy”.
Nàng không giấu nổi vẻ cay đắng trong giọng nói của mình.
Nhờ Chúa, cô ấy càng kiều diễm hơn trong lúc giận dữ, Jeff nghĩ thầm.
Gunther nới. “Chỗ kim cương được bảo vệ nghiêm ngặt. Chúng ta sẽ cướp nó trên máy bay”.
Tracy nhìn ông ta ngạc nhiên. “Trên máy bay? Trong một chuyến bay chở hàng”.
“Chúng ta cần một người nhỏ nhắn đủ để trốn trong một chiếc côngtenơ nào đó. Khi máy bay đang ở trên không, người đó chỉ còn phải chui ra, mở cái côngtenơ kia của hãng De Beers, lấy kiện kim cương, tráo vào đó một kiện giả giống hệt đã chuẩn bị sẵn, và rồi lại trốn vào nơi cũ”.
“Và tới thì đủ nhỏ bé để chui vào cái thùng hàng đó?”.
Gunther đáp. “Không phải chỉ có thế, Tracy. Chúng ta cần một người thông minh và dũng cảm mà”.
Tracy đứng yên, ngẫm nghĩ. “Gunther, tôi ưng cái kế hoạch đó. Điều tôi không thích là làm việc với Jeff. Anh ta là một kẻ đểu cáng”.
Jeff mỉm cười, “Chúng ta cùng thế cả mà, trái tim yêu quý của tôi. Gunther hứa trả chúng ta một triệu đô la nếu làm được vụ này đấy”.
Tracy đưa mắt nhìn Gunther. “Một triệu à?”.
Ông ta gật đầu. “Nửa triệu cho mỗi người”.
“Cơ sở để tính toán kế hoạch này”, Jeff giải thích, “là tôi có mối quan hệ với chỗ xếp hàng ở sân bay. Anh ta sẽ giúp chúng ta làm vụ này. Có thể tin cậy anh ta được”.
“Chứ không giống anh phải không?” Tracy chì chiết.
“Tạm biệt ông Gunther”.
Nàng đi nhanh ra khỏi phòng.
Gunther nhìn theo. “Cô ấy thực sự giận dữ về vụ Madrid, Jeff. Tôi cho rằng cô ấy sẽ bỏ vụ này mất”.
“Ông nhầm rồi”. Jeff Stevens vui vẻ nói. “Tôi biết Tracy lắm. Cô ấy không cưỡng lại được sức hấp dẫn của sự mạo hiểm đâu”.
“Các thùng hàng đều được niêm phong trước khi đưa lên máy bay”.
Ramon Vauban giải thích. Đó là một người Pháp còn trẻ nhưng có vẻ mặt già nua không ăn nhập gì với tuổi tác, và cặp mắt đen láy, lạnh tanh. Anh ta là một nhân viên hành lý làm việc trong bộ phận vận tải hàng hóa của Hàng không Pháp, và là chìa khóa cho sự thành công của âm mưu đoạt chỗ kim cương kia.
Vauban, Tracy, Jeff và Gunther đang cùng ngồi quanh chiếc bàn trên du thuyền Con Muôi, chạy dọc sông Shel, con sông nổi tiếng của Paris “Nếu các thùng hàng mà bị niêm phong”, Tracy hỏi, “làm sao tôi chui vào được?”.
“Với những chuyến hàng đến ở phút cuối cùng”, Vauban đáp, “Công ty chúng tôi sử dụng thứ mà chúng tôi gọi là thùng mềm, nghĩa là những thùng gỗ lớn một mặt bịt vải bạt, chỉ được chằng bằng những dây thừng thôi. Vì những lý do an ninh, các hàng hóa quý, như kim cương chẳng hạn, thường thường được chuyển đến vào phút sau cùng để thời gian nằm lại là ngắn nhất”.
Tracy hỏi. “Vậy là chỗ kim cương kia sẽ ở trong thùng mềm à?”.
“Thưa cô đúng thế. Và cả cô nữa. Tôi sẽ thu xếp để chiếc côngtenơ có cô ở trong được đặt cạnh thùng hàng chứa kiện kim cương kia. Khi máy bay đang ở trên không thì tất cả việc mà cô phải làm chỉ là cắt mấy sợi dây thừng mở thùng hàng đựng kim cương, đánh tráo cái hộp quý giá kia, chui trở vào cái côngtenơ của cô và đóng kín lại.
Gưnther nói thêm. “Khi máy bay hạ cánh xuống Amstecđam, đám bảo vệ sẽ bốc cái hộp bị đánh tráo và giao cho bên gia công. Cho đến khi mà họ phát hiện ra việc đánh tráo thì chúng tôi đã thu xếp để cô đang ở trên một chuyến bay ra nước ngoài rồi. Hãy tin tôi, không thể trục trặc gì được”.
“Tôi sẽ không chết cóng ở trên ấy chứ?”.
Vauban mỉm cười. “Thưa cô, ngày nay thì trong các máy bay chở hàng cũng có hệ thống sưởi ấm vì chúng thường chở hàng tươi sống mà. Không sao cả đâu, cô sẽ hoàn toàn cảm thấy dễ chịu. Dĩ nhiên là hơi lạnh một chút, nhưng nói chung là chịu được thôi”.
Sau cùng thì Tracy đã bằng lòng ngồi nghe họ trình bày. Một vài giờ hơi khó chịu để đổi lấy nửa triệu đô la?
Nàng xem xét kỹ góc độ cái kế hoạch được vạch ra. Nó có nhiều khả năng thành công, Tracy nghĩ. Giá mà nó đừng dính đến Jeff Stevensl Các cảm giác về anh ta là một thứ tình cảm lẫn lộn làm nàng luôn bối rối và cáu kỉnh”với chính mình. Anh ta đã làm cái việc ở Madrid chỉ cất để giỡn mặt nàng, đã phản bội, lừa gạt nàng và giờ đây, anh ta chắc đang cười thầm.
Ba người đàn ông nhìn nàng? chờ đợi câu trả lời. Con thuyền đang đi qua chiếc tàu Pent Nenf, cây cầu cổ nhất Paris mà đám người Pháp trái thói cứ khăng khăng gọi là. Cầu Mới. Ngang phía bên kia, trên bờ sông, một đôi tình nhân đang ôm ấp nhau, và Tracy có thể thấy rõ vẻ mãn nguyện trên gương mặt cô gái. Cô ta thật ngốc nghếch, Tracy nghĩ. Nàng đã có quyết định của mình, vừa nhìn thẳng vào mắt Jeff vừa nói “Được. Tôi nhận lời tham gia”, và cảm thấy không khí căng thẳng dịu hẳn đi.
“Chúng ta không có nhiều thời gian đâu”. Vauban tiếp tục”, anh ta đưa cặp mắt đục ngầu nhìn Tracy. “Ông anh tôi làm việc cho một đại lý vận tải, sẽ để chúng ta chất hàng vào thùng hàng có cô trong đó ở khu nhà kho của ông ấy.
Tôi hy vọng là cô sẽ không thấy có gì trở ngại”.
Đừng lo về tôi ... Chuyến bay sẽ kéo dài bao lâu?”.
“Cô sẽ phải chờ đợi vài phút ở khu bốc dỡ hàng và sau đó là một giờ bay tới Amstecđam”.
“Côngtenơ rộng bằng ngần nào”.
“Đủ để cô có thể ngồi đàng hoàng. Sẽ còn vài thứ hàng hóa khác nhằm che giấu cô - ngừa bất trắc ...”.
Không thể có trực trặc gì được - họ đã cam đoan với nàng. Vậy mà ... ngừa bất trắc ...
“Tôi lập một danh mục những thứ mà cô sẽ cần đến”, Jeff nói, “Tôi đã lo liệu chu đáo cả rồi”.
Đồ khốn kiếp láu lỉnh. Anh ta đã tin chắc nàng nhập cuộc.
“Anh Vauban đây sẽ lo liệu để hộ chiếu của cô được thị thực xuất nhập cảnh thích hợp, do vậy cô có thể rời khỏi Hà Lan một cách dễ dàng”.
Con thuyền bắt đầu cập bến.
“Sớm mai tôi sẽ cân nhắc lại toàn bộ kế hoạch này một lần nữa!”. Ramon Vauban nói. “Bây giờ tôi phải trở lại nơi làm việc ... Tạm biệt”. Anh ta bỏ đi.
Jeff hỏi “Sao chúng ta không cùng ăn tôi để chúc mừng nhau nhỉ?”.
“Rất tiếc”, Gunther xin lỗi, tôi mắc hẹn mất rồi”.
Jeff quay sang Tracy. “Cô sẽ ...”.
“Không, cám ơn. Tôi mệt”, nàng nói nhanh.
Đó là lý do để tránh phải cùng ngồi với Jeff, nhưng quả thật là Tracy cũng cảm thấy kiệt sức. Có thể là vì suốt thời gian qua, nàng đã luôn luôn ở trong tình trạng căng thẳng, kích động. Hơi chóng mặt. Xong vụ này, nàng tự hứa với mình, phải trở lại London nghỉ một thời gian dài mới được. Nàng bắt đầu cảm thấy đầu nằng nặng.
Đúng là mình phải nghỉ ngơi thật rồi - nàng nghĩ.
“Tôi có mang cho cô một chút quà”, Jeff nói. Anh đưa cô một chiếc hộp được gói cẩn thận. Trong đó là một chiếc khăn lụa tinh tế, nó có đính hai chữ cái TW.
“Cảm ơn anh”. Anh ta có thể mua nó quá đi chứ, Tracy bực bội nghĩ, bởi đã mua bằng số tiền nửa triệu đô la của mình mà.
“Chắc là cô không đổi ý kiến về việc cùng đi ăn chiều chứ”.
“Đúng vậy”.
Tại Paris, Tracy đặt buồng tại khách sạn Plaza Athenee, một căn phòng đáng yêu nhìn xuống khu vườn khách sạn ở đây có một phòng ăn sang trọng nhưng tối nay Tracy quá mệt mỏi, chẳng muốn thay một bộ váy chỉnh tề hơn làm gì. Nàng đi vào Ralais, một quầy cà phê của khách sạn, và gọi bát xúp.
Nàng ăn được nửa chừng rồi bỏ về phòng.
Daniel Cooper, ngồi ở đầu kia của gian phòng, đã lưu ý cử chỉ này của nàng.
Daniel Cooper có chút rắc rối. Khi quay lại Paris, ông ta yêu cầu gặp thanh tra Trignant. Người đứng đầu Interpol đã tỏ ra kém thiện cảm. Ông đã vừa mất cả tiếng đồng hồ nghe cảnh sát trưởng Ramore, qua điện thoại, phàn nàn về người Mỹ này.
“Ông ta thật điên rồ?” Ông cảnh sát trưởng không nén được giận dữ. “Tôi đã phung phí người, tiền và thời gian để theo sát “cô Tracy Whitney này, người mà ông ta quả quyết là sẽ cướp bảo tàng Prado và sau cùng té ra chỉ là một khách du lịch vô hại - đúng như tôi đã nói”.
Cuộc trò chuyện đã dẫn thanh tra Trignant tới chỗ tin rằng Daniel Cooper có thể đã nhầm lẫn về Tracy ngay từ đầu Không một mảy may bằng chứng gì chống lại người phụ nữ này. Việc cô ta có mặt tại thành phố vào thời gian xảy ra các vụ tội phạm không thể được coi là bằng chứng.
Và do vậy, khi Daniel Cooper tới gặp viên thanh tra và đề nghị, “Tracy Whitney hiện đang ở Paris. Tôi mong muốn cô ta bị đặt dưới sự giám sát 24 trên giờ”, thì viên thanh tra đáp “Trừ khi có thể cho tôi thấy bằng chứng nào đó rằng người phụ nữ này đang mưu toan thực hiện một hành vi tội phạm, tôi không thể làm gì hơn được”.
Cooper đã nhìn ông ta chằm chằm bằng cặp mắt nâu giận dữ và nói. “Ông là một thằng ngốc”, và hậu quả là bị tống ra khỏi phòng.
Vậylà từ lúc đó Cooper bắt đầu một mình theo dõi đối tượng. Ông ta lần theo Tracy đi mọi nơi:
các cửa hiệu, nhà hàng, dọc theo các đường phố của Paris, Ông ta gần như không ngủ và có lúc không cả ăn. Daniel Cooper không thể để Tracy Whitney vượt mặt mình Nhiệm vụ của ông ta chưa thể hoàn thành nếu chưa đưa được nàng vào tù.
Đêm đó, nằm trên gi.ường, Tracy cân nhắc lại kế hoạch. Nàng mong cái đầu mình nhẹ nhõm hơn một chút. Người nàng đẫm mồ hôi và căn phòng dường như nóng đến mức không thể chịu được. Ngày mai là xong – nàng nghĩ - Thụy Sĩ. Mình sẽ đi đến đó. Tới những vùng núi mát lạnh của Thụy Sĩ, trong một biệt thự nào đó.
Nàng đặt chuông báo thức vào lúc 5 giờ. Chuông reo, nàng thấy mình đang trong một phòng giam quen thuộc nghe Mụ Váy sắt đang hò hét, “Mặc xống áo vào. Mau lên” và khắp dẫy hành lang vang vang tiếng chuông réo.
Tracy choàng tỉnh, thấy tức ngực, và ánh sáng làm nàng chói mắt. Nàng gắng gượng đi vào phòng tắm. Trong gương, mặt nàng đỏ rực và mụ mị. Mình không thể ốm vào lúc này được, Tracy nghĩ, hôm nay thì không thể được. Còn quá nhiều việc phải làm.
Chậm chạp mặc quần áo, Tracy cố quên đi cái cảm giác nặng trịch trong đầu.
Nàng mặc bộ áo liền quần màu đen có túi sâu, đi giày đế cao su, và một cái bê rê Basque. Tim nàng đang đập loạn xạ, và không thể biết đó là vì hồi hộp hay do cơn sốt nữa. Nàng thấy run run, mệt mỏi. Cổ họng khô đắng. Nhìn thấy trên bàn chiếc khăn quàng mà Jeff Stevens tặng, nàng cầm lên và cuốn nó vào quanh cổ.
Cửa chính vào khách sạn Plaza Athenee mở ra trên đại lộ Mentaighe, nhưng cửa phụ cho nhân viên thì mở trên phố Beeador. Từ một vị trí quan sát gần cổng chính, Daniel Cooper không nhìn thấy Tracy đi ra qua cổng phụ, nhưng không hiểu sao, ngay khi nàng vừa đi khỏi thì ông ta cảm giác thấy điều đó, vội vã chạy ra lề đường nhìn ngược nhìn xuôi, song không hề thấy bóng dáng Tracy đâu.
Chiếc xe Reláult màu xám đón Tracy ở ngay cổng phụ của khách sạn và chạy về khu Etoile. Vào giờ này đường phố vắng vẻ, và lái xe, một người trẻ tuổi mặt đầy tàn nhang, cho xe chạy như bay vào một trong số mười hai đại lộ tạo thành khu Etoile. Mình ước gì anh ta chạy chậm lại, Tracy suy nghĩ, Tốc độ nhanh quá làm nàng có cảm giác say xe.
Ba “mươi phút sau chiếc xe quành gấp trước một khu nhà kho. Tấm biển ở cửa đề BRUCERE ET CIE. Tracy nhớ rằng đây là nơi làm việc của người anh Vauban.
Anh chàng lái xe mở cửa xe và giục. “Mau lên”.
Một người đàn ông tuổi trung niên với tác phong nhanh nhẹn, kín đáo xuất hiện khi Tracy vừa bước ra khỏi xe. “Theo tôi”, ông ta nói. “Nhanh lên”.
Tracy hấp tấp bước theo ra phía sau khu nhà kho, nơi có dăm bảy chiếc côngtenơ, phần lớn đã đầy hàng và “đã niêm phong, sẵn sàng để chuyển ra sân bay. Lẫn vào đó có một côngtenơ mềm, một mặt bịt vải bạt, trong đã có một ít hàng hóa.
“Vào đi Nhanh lên”. Chúng ta không có nhiều thời gian đâu”.
Tracy cảm thấy choáng váng. Nàng nhìn cái thùng hang và nghĩ - mình không thể cho vào đó được, sẽ chết mất.
Người đàn ông thấy lạ, nhìn nàng hỏi, “Cô có chuyện gì thế Bây giờ là lúc còn có thể rút lui, còn có thể ngừng mọi chuyện. “Tôi không sao”, nàng lẩm bẩm. Sẽ qua ngay thôi mà. Chỉ sau vài giờ nữa là nàng đã lên đường đi Thụy Sĩ.
Tốt! Cầm lấy cái này”. Ông ta đưa cho nàng một con dao hai lưỡi một cuộn dây thừng nặng trịch, một đèn pin, và một cái hộp nhỏ màu xanh da trời, ngoài buộc sợi dây lụa đỏ.
“Đây là phiên bản của chiếc hộp kim cương mà cô sẽ đánh tráo”.
Tracy hít một hơi thật sâu, bước vào, và ngồi xuống. Vài giây sau một tấm bạt lớn được trùm lên. Nàng có thể nghe tiếng những sợi thừng đang được chằng ngang trên mặt tấm bạt.
Loáng thoáng nàng nghe tiếng ông ta. “Từ lúc này trở đi, không nói chuyện, không cử động, không hút thuốc”.
“Tôi không hút thuốc” Tracy định đáp, nhưng không còn hơi sức nào nữa.
“Chúc may mắn. Tôi đã đục mấy lỗ ở bên thành để cô dễ thở. Đừng có quên thở đấy nhé”. Ông ta cười và bỏ đi.
Trong bóng tối, chỉ còn lại mình nàng.
Côngtenơ vốn chật hẹp, và bộ bàn ghế dùng trong phòng ăn lại đã chiếm mất phần lớn không gian. Tracy thấy cứ như đang bị lửa dốt vậy. Người nàng nóng bừng, và rất khó thở. Chắc lả mình bị một thứ vi rút nào đó tấn công, nàng nghĩ, nhưng chúng phải chờ đã. Mình còn có việc phải làm. Hãy nghĩ tới chuyện gì khác thì hơn.
Giọng nói của Gunther như vang lên:
“Không có gì để cô lo ngại cả, Tracy ạ.
Khi họ đưa hàng tới một gara tư nhân kề sân bay, Jeff sẽ đón cô ở đó. Giao chỗ kim cương cho anh ta và quay lại sân bay. Có một vé máy bay đi Giơnevơ đã được đặt sẵn cho cô ở phòng bán vé của Hàng không Thụy Sĩ. Rời khỏi Amstecđam càng nhanh càng tốt. Ngay khi cảnh sát biết vụ trộm, họ sẽ đóng cửa thành phố đấy. Sẽ không có trục trặc gì cả, nhưng để dự phòng, đây là địa chỉ và chìa khóa của một ngôi nhà an toàn ở Amstecđam. Hiện không có ai ở đó”.
Chắc là nàng đã thiếp đi vì bỗng choàng tỉnh khi côngtenơ bị nhấc lên. Tracy thấy mình bị lắc lư và vội đưa tay bám chặt vào một bên thành. Chiếc côngtenơ được đặt mạnh xuống. Tiếng cửa xe đóng đánh rầm, tiếng động cơ nổ và giây lát sau, xe tải bắt đầu chuyển bánh.
Họ đang trên đường ra sân bay.
Toàn bộ kế hoạch đã được tính toán đến từng giây từng phút. Chiếc côngtenơ chứa Tracy sẽ phải được chở đến khu xếp hàng hóa gần như cùng lúc với thùng hàng của hãng De Beers. Người lái xe chở Tracy đã nhận được chỉ thị:
Giữ vững tốc độ 51 dặm một giờ.
Sáng hôm đó mật độ giao thông trên con đường dẫn tới sân bay có vẻ cao hơn thông thường nhưng người lái xe không hề lo ngại. Thùng hàng sẽ đến kịp thời và anh ta sẽ được 50 ngàn phrăng tiền thưởng, đủ để đưa vợ con đi nghỉ một chuyến. Chúng ta sẽ đi Mỹ - thế giới của Disney.
Anh ta nhìn đồng hồ trên xe và mỉm cười một mình. Không có vấn đề gì.
Sân bay chỉ còn cách ba dặm và anh ta thì còn những hai mươi phút nữa.
Đúng lịch trình, anh ta tới chỗ rẽ vào khu vực của bộ phận vận tải hàng hóa, cho xe tiếp tục chạy ngang qua khu nhà ga thấp, qua cổng hành khách và hướng tới phlaá khu vực hàng hóa. Đúng lúc chiếc xe tới sát bức tường vây quanh khu hàng hóa rộng lớn ngổn ngang những thùng hàng thì anh ta nghe thấy một tiếng nở và chiếc xe tải từ từ dừng lại. Cứt thật! Anh ta nghĩ. Một cú nổ lớn tai hại.
Chiếc 747 khổng lồ chở hàng của hàng không Pháp, đang được xếp hàng lên.
Phần mũi chiếc máy bay được nâng lên, để lộ các đường ray chạy suốt vào trong thân máy bay. Việc xếp hàng đã gần hoàn thành. Ramon Vauban nhìn đồng hồ trên tay và cau có. Chiêc xe tải đã trễ hẹn. Hàng của hãng De Beers đã được xếp vào thùng và các tấm bạt đã được chằng cẩn thận bằng thừa. Vauban đã bôi sơn đỏ lên mặt ngoài chiếc thùng để giúp người phụ nữ kia dễ nhận ra nó.
Lúc này, anh ta đứng trông theo chiếc thùng đang được đẩy vào trong khoang máy bay và sẽ được cố định bằng các chất h.ãm. Khoảng trống bên cạnh nó dành cho một thùng hàng nữa, trước khi máy bay cất cánh. Trong khi đó trong bãi hàng còn ba côngtenơ chở đến lượt. Lạy Chúa, người phụ nữ kia ở đâu cơ chứ?
Người phụ trách việc xếp hàng đang ở trong máy ba kêu lớn, “Nào, Ramón.
Cái gì làm ùn lại thế “Đợi một phút”, Vauban trả lời. Anh ta chạy ra phía cổng ngóng ra. Không thấy bóng dáng chiếc xe tải đâu hết.
“Vauban? Có trục trặc gì thế” “Anh ta ngoái lại. Một giám sát viên cấp cao đang tiến đến. “Kết thúc việc chất hàng lên và cho bay thôi”.
“Thưa ngài, vâng. Tôi đang đợi ...”.
Đúng lúc đó chiếc xe tải của hãng Brucere et Cie lao vào khu kho và dừng gấp ngay trước mặt Vauban.
“Đây là kiện hàng cuối cùng”, Vauban lớn tiếng nói.
“Tốt, cho lên đi”, người giám sát nói nhanh.
Vauban trông coi việc bốc hàng ra khỏi xe tải, đưa nó lên chiếc cầu trượt vào trong máy bay.
Anh ta vẫy tay ra hiệu với người phụ trách việc xếp hàng “Đủ cả rồi đấy”.
Giây phút sau, khi kiện hàng cuối được xếp xong và đầu mũi máy bay được hạ xuống, Vauban dứng nhìn các động cơ phản lực phụt lửa ra đằng sau, chiếc máy bay khổng lồ bắt đầu lăn bánh chạy ra phía đường băng, nghĩ bụng, giờ thì chỉ còn phụ thuộc vào người phụ nữ kia.
Có một cơn bão dữ dội. Một đợt sóng lớn ập vào và con tàu bắt đầu chìm xuống. Mình sắp chết đuối rồi, Tracy nghĩ. Mình phải thoát ra khỏi đây mới được. Nàng vung hai tay ra và đập phải một thứ gì đó. Đó là thành chiếc phao cấp cứu, bập bềnh và chao đảo. Gắng gượng nhỏm dậy, nàng đập đầu phải chân chiếc bàn. Trong một giây tĩnh trí nàng đã nhớ ra mình đang ở đâu. Mồ hôi ướt đầm mái tóc và gương mặt, nàng thấy chóng mặt, quay cuồng, người nóng rực.
Mình đang ở trong một cơn ác mộng. Mình đang ngủ trên chiếc gi.ường ở London. Mình phải gọi bác sĩ mất. Không thể hít thở được, nàng cố với chiếc điện thoại, rồi lại tức khắc sụp xuống ...
Chiếc máy bay qua một vùng khí loãng và Tracy bị xô bật vào góc, đầu mung lung, mơ hồ, cố gắng lấy lại sự tỉnh táo một cách tuyệt vọng. Mình có bao nhiêu thời gian nhỉ? Nàng lẫn lộn giữa một giấc mơ quỷ quái và một thực trạng khủng khiếp. Phải làm thế nào đoạt được chỗ kim cương kia. Nhưng trước hết ...
trước hết, phải cắt dây để chui ra khỏi cái thùng này đã. Nàng sờ tay vào túi quần lấy con dao và thấy cầm nó lên cũng là một việc nặng nhọc. Thiếu không khí, Tracy nghĩ. Mình phải có không khí để thở. Nàng vòng tay lần qua mép tấm bạt tìm kiếm một trong số những sợi thừng chằng bên ngoài và cắt đứt nó.
Dường như phải mất một thời gian rất lâu cho cái việc đơn giản đó. Tấm bạt đã hé ra rộng hơn. Nàng cắt một sợi dây khác nữa và vậy là đủ rộng để chui ra ngoài. Không khí bên ngoài lạnh ngắt. Nàng bắt đầu run rẩy và độ rung của máy bay làm tăng cảm giác buồn nôn. Mình phải vững vàng lên mới được, Tracy nghĩ, mình phải tỉnh táo trở lại Mình đang làm gì ở đây nhỉ? Có việc quan trọng.
Đúng. Những viên kim cương.
Mọi thứ trước mắt nàng như nhòa đi, chao đảo. Mình sẽ không làm được chuyện đó, nàng nghĩ.
Chiếc máy bay đột ngột hẫng xuống và Tracy ngã ra. Nàng bám chặt tay vào mấy đường ray trong khi chiếc máy bay lắc lư và khi nó đã thăng bằng trở lại, nàng bắt mình phải đứng dậy. Tiếng gầm rú củạ các động cơ phản lực hòa lẫn với những tiếng ong ong trong đầu. Những viên kim cương. Mình phải tìm ra những viên kim cương, nàng thầm nhắc mình.
Loạng choạng lần tìm nàng nheo nheo mắt dõi nhìn từng côngtenơ để tìm vệt sơn đỏ. Ơn Chúa! Nó kia rồi.
Nàng đứng lặng, cố nhớ xem phải làm gì tiếp theo. Giá có thể nằm xuống và ngủ lấy vài phút, mình sẽ tỉnh táo ra nàng nghĩ. Mình chỉ cần được ngủ vài phút thôi mà.
Nhưng không còn thời gian. Bất kỳ giây phút nào máy bay cũng có thể hạ cánh. Tracy lấy dao ra cứa những sợi thừng. Họ đã nói với nàng. Chỉ cần một nhát cắt thật khéo là đủ.
Nàng không còn đủ sức để nắm chặt con dao nữa. Mình không thể bỏ cuộc lúc này, Tracy nghĩ. Lại bắt đầu run rẩy, run không kìm được, đến mức để rơi cả dao. Không được rồi. Họ sẽ bắt được mình, và đưa mình trê lại nhà tù.
Nàng dường như không biết làm gì, hai tay cứ bám lấy sợi thừng, chỉ muốn bò trở lại cái thùng của mình để ngủ một giấc ở nơi ấn náu đó, cho đến khi mọi chuyện qua đi. Điều đó thật dễ dàng mà. Nhưng rồi, một cách chậm chạp và thận trọng để khỏi làm tăng thêm cơn đau đầu khủng khiếp, Tracy với con dao và cầm nó lên, bắt đầu cắt sợi dây thừng nặng nề kia.
Sau cùng, sợi dây thừng cũng đã đứt, Tracy kéo tấm bạt ra và ngó vào phía trong. Không thể nhìn thấy gì vì tối om. Nàng lấy đèn pin ra và đúng lúc đó, cảm thấy sự thay đổi đột ngột áp suốt không khí, hai tai nàng hơi bị ù đi.
Máy bay bắt đầu hạ thấp độ cao để chuẩn bị hạ cánh.
Tracy nghĩ, phải nhanh lên mới được. Nhưng các cơ bắp như không thể điều khiển được nữa. Động tay động chân đi chứ, nàng tự giục mình, rồi rọi đèn vào bên trong côngtenơ. Ngổn ngang những kiện hàng, các vali nhỏ, và trên một cái thùng các tông là hại cái hộp nhỏ màu xanh da trời buộc bằng những dây lụađỏ.
Hai hộp à! Người ta bảo là ... nàng dụi mắt, và hai hộp nhập lại thành một.
Trong mắt Tracy, mọi vật đều như có vầng sáng bao quanh vậy.
Nàng lấy cái hộp giống hệt như vậy ra khỏi túi mình.
Vừa cầm hai chiếc hộp lên tay thì cơn buồn nôn quặn dậy.
Rồi khi vừa định thay thế cái hộp kim cương giả vào chỗ cũ, thì nàng nhận ra mình không còn biết chắc cái nào là cái hộp thật nữa. Hai cái giống hệt nhau.
Nó là cái trên tay trái, hay tay phải nhỉ?
Máy bay hạ xuống thấp hơn. Nó sẽ hạ cánh ngay bây giở buộc phải có quyết định, nàng đành đặt một hộp trở lại chỗ cũ, thầm mong rằng đó là hộp giả, lần tìm trong túi lấy ra một sợi dây thừng lành lặn. Hình như phải buộc lại sợi dây thừng, nàng tự nhắc mình. Đầu ong ong nhức nhối làm nàng không còn nghĩ được gì nữa. “Sáu khi cắt sợi thừng, cô đút nó vào trong túi và thay vào đó sợi khác.
“Đừng vương lại cái gì để gây nên sự nghi ngờ cả nhé”?
Khi đó ngồi sưởi nắng trên chiếc du thuyền Con Muỗi nghe sao mà dễ dàng thế. Giờ đây thật như không thể làm nổi cái “việc đơn giản đó. Nàng như không còn chút hơi sức nào cả. Các nhân viên bảo vệ sẽ phát hiện ra sợi dây thừng bị cắt, khoang máy bay sẽ bị khám xét, và nàng sẽ bị bắt giữ. Từ sâu trong con người nàng vang lên tiếng hét. Không! Không không?
Bằng một cố gắng phi thường, Tracy bắt đầu chằng sợi dây thừng lành lặn quanh chiếc côngtenơ, cảm thấy một cú xóc bật lên dưới chân mình khi chiếc máy bay tiếp đất và bị đẩy ngã ra phía sau vì máy bay h.ãm tốc độ lại.
Đầu nàng đập xuống sàn, choáng váng.
Chiếc 747 bắt đầu chạy dọc theo đường băng, Tracy nằm rứm ró, tóc lòa xòa trên gương mặt trắng bệch. Sự im tiếng của các động cơ làm nàng tỉnh lại. Máy bay đã dùng bánh. Nàng đứng dậy, run run, bám lấy đâu đó để khỏi ngã. Sợi thừng mới đã được buộc đúng chỗ. Nàng ôm chiếc hộp kim cương vào ngực và lảo đảo lần về thùng hàng của mình, chui vào qua kẽ bạt và sụm xuống, thở dốc, mồ hôi túa ra khắp người. Mình đã làm xong việc, nhưng hình như còn phải làm một việc gì đó nữa. Một việc gì đó quan trọng. Việc gì nhỉ? Dán nối sợi thừng trên chiếc côngtenơ của chính nàng.
Nàng với tay vào trong túi lần cuộn băng keo. Không thấy đâu cả. Thở hổn hển, nặng nhọc, và nàng thấy tiếng động, những tiếng nôi, bèn nín thở để nghe ngóng. Đúng rồi. Họ đã đến. Tiếng cười của ai đó. Cửa khoang hàng sắp bật mở ngay thôi và họ sẽ bắt đầu dỡ hàng. Họ sẽ thấy sợi thừng bị cắt, sẽ ngó vào bên trong và sẽ phát hiện ra. Phải tìm cách nối nó lại. Nàng quỳ lên, và quỳ phải cuộn băng keo cưng cứng đã rơi khỏi túi từ lúc nào đó. Nàng thò tay ra tìm hai sợi thừng, giữ chúng kề sát vào nhau và vụng về quấn sợi băng keo xung quanh.
Nàng không nhìn được gì. Mồ hôi ròng ròng trên mặt làm hai mắt cay xè.
Nàng kéo chiếc khăn quàng khỏi cổ và dùng nó lau mặt. Đỡ hơn một chút. Hoàn thành việc dán chặt hai đầu sợi thừng, nàng kéo tấm bạt kín lại như cũ, giờ thì chỉ còn chờ đợi, không còn gì phải làm nữa.
Nàng sờ tay lên trán lần nữa, nó nóng rực.
Mình phải vào bóng râm thôi, Tracy mơ màng. Ánh nắng vùng nhiệt đới có thể là rất nguy hiểm.
Nàng đang đi nghỉ đâu đó ở vùng Caribê. Jeff đã đến, mang tới mấy viên kim cương, nhưng anh đã nhảy xuống biển và biến mất. Nàng với theo để nhưng anh ta đã tuột khỏi tay nàng. Nước trùm qua đầu, ngạt thở và chìm xuống ...
Nàng nghe thấy tiếng những người công nhân đang trèo vào khoang máy bay.
“Cứu!” Nàng hét lên. “Xin hãy cứ tôi”.
Nhưng tiếng hét của nàng chỉ là một tiếng thì thào yếu ớt và đã không ai nghe thấy cả.
Những chiếc côngtenơ đã bắt đầu được đẩy ra khỏi máy bay.
Tracy đã hoàn toàn bất tỉnh khi họ bốc chiếc côngtenơ có chứa nàng xuống một chiếc xe tải của hãng Brucere et Cle. Bị bỏ lại đằng sau, trên sàn máy bay, là chiếc khăn quàng mà Jeff đã tặng nàng.
Ai đó nâng tấm bạt lên. Ánh sáng ùa vào làm Tracy tỉnh giấc. Nàng mở mắt ra một cách chậm chạp. Chiếc xe tải đã ở trong một nhà kho.
Jeff đang đứng đó, mỉm cười với nàng. “Em đã hoàn thành công việc!” Anh nói. “Em thật tuyệt vời. Hãy đưa tôi cái hộp nào”.
Nàng mơ màng nhìn trộm khi anh cúi xuống bên nhấc cái hộp lên. “Hẹn gặp em ở Lisbon nhé”. Anh ta quay đi rồi chợt dừng lại nhìn nàng. “Tracy trông em khủng khiếp quá. Em có khỏe không?”.
Nàng không nói nổi nữa. “Jeff, tôi ...”.
Thế nhưng anh đã đi mất.
Tracy chỉ loáng thoáng biết những gì diễn ra sau đó.
Người ta thay quần áo cho nàng ở phía sau gian kho, và một người đàn bà nói. “Cô có vẻ ốm lắm, thưa cô. Cô có muốn tôi gọi một bác sĩ tới không”.
“Đừng, đừng gọi bác sĩ”, Tracy thều thào.
Lời Gunther loáng thoáng vọng về - Có một chiếc vé đi Giơnevơ đã được đặt sẵn cho cô tại phòng bán vé của Hàng không Thụy Sĩ. Rời khỏi Amstecđam càng sớm càng tốt Ngay khi cảnh sát biết vụ trộm, họ sẽ đóng cửa thành phố”.
đấy. Sẽ không có gì trục trặc đâu, nhưng dự phòng, đây là địa chỉ và chìa khóa của một ngôi nhà an toàn ở Amstecđam. Hiện không có ai ở đó cả”?
Sân bay. Phải ra sân bay ngay thôi. “Tắc xi”. Nàng lẩm bẩm. “Tắc xi”.
Người đàn bà lưỡng lự trong giây lát rồi nhún vai.
“Được thôi:
Tôi sẽ gọi xe. Đợi đấy”.
Người nàng như dâng lên cao, cao mãi, như gần sát tới mặt trời vậy.
“Tắc xi của cô đã đến”, giọng một người đàn ông nào đó.
Nàng chỉ muốn mọi người đừng quấy rối mình. Giờ đây nàng chỉ muốn ngủ yên thôi.
Người tài xế hỏi “Cô muốn đi đâu vậy, thưa cô?”.
Chiếc vé mấy bay đã đặt sẵn ...
Nàng yếu quá, không thể lên máy bay được. Họ sẽ ngăn lại, gọi bác sĩ. Nàng sẽ bị tra hỏi. Lúc này nàng chỉ cần được nghỉ ít phút, rồi thì sẽ khỏe.
Giọng người tài xế bắt đầu sốt ruột. “Đi đâu, thưa cô?”.
Không có nơi nào để đến cả, nàng nới địa chỉ ngôi nhà an toàn.
Cảnh sát đang tra xét nàng về những viên kim cương và khi bị khước từ trả lời, họ đã trở nên giận dữ, ném nàng vào một căn phòng rồi mở hơi nóng vào cho tới khi tất cả nóng rực lên. Khi nàng không thể chịu nổi nữa, họ bèn hạ nhiệt độ trong xuống cho đến những hạt nước đá li ti ngưng tụ trên mặt các bức tường.
Tracy thấy lạnh quá, nàng mở mắt. Hóa ra nàng đang nằm trên một chiếc gi.ường, người run lên bần bật. Phía dưới người cô là một tấm chăn mền, nhưng nàng không còn đủ sức để kéo nó phủ lên người nữa. Váy nàng ướt sũng, mồ hôi đầm đìa trên mặt và cổ.”.
Mình sắp chết mất. Đây là đâu nhỉ?
Ngôi nhà an toàn. Mình đang ở trong ngôi nhà an toàn. Ý nghĩ đó làm nàng bật cười, và tiếng cười chuyển thành chuỗi tiếng ho dữ dội. Thế là hỏng hết cả rời. Bây giờ thì hẳn cảnh sát đang sục sạo khắp Amstecđam để tìm nàng. Cô Whitney đã đặt vé đi Thụy Sĩ mà không dùng tới nó ư? Vậy thì cô ta vẫn còn ở Amstecđam.
Không biết là nàng đã nằm trên chiếc gi.ường này bao lâu rồi, nàng nâng cổ tay lên để nhìn đồng hồ. Những con số cứ nhòe đi, mọi thứ nàng nhìn đều biến thành hai, thành bốn cả. Cơn run ngừng dần và toàn thân lại bắt đầu nóng rực lên. Nàng muốn mở một cánh cửa sổ quá, nhưng không nhúc nhích nổi chân tay, Căn phòng lại bắt đầu lạnh giá. “Em đã hoàn thành công việc. Em thật tuyệt vời Hãy đưa cho tôi cái hộp nào”. Jeff nói.
Jeff đã mang những viên kim cương đi, và có thể anh ta đang trên đường đi Brazln cùng với cả phần tiền của nàng nữa. Anh ta sẽ vui thú với những phụ nữ của anh ta, và cười nhạo nàng. Một lần nữa anh ta lại cho nàng một vố. Nàng thấy căm ghét anh ta. Không? Còn khinh bỉ anh ta nữa.
Hết cơn mê sảng này lại cơn mê sảng khác. Trái bóng Pơlôtta đang vun vút lao vé phía nàng. Jeff ôm choàng lấy và đẩy nàng xoài xuống đất, môi anh kề sát môi nàng và rồi họ đang ăn chiều tại tiệm Zalacain. Em có biết em là một cô gái đặc biệt không, Tracy? Jeff nói.
“Tôi đề nghị hòa”, giọng Boris Melnikov.
Toàn thân nàng lại run lên, không kìm được, và nàng thấy mình đang ở trong một chuyến tàu nhanh vùn vụt lao qua một đường hầm tối om. Tất cả các hành khách đều đã xuống tàu chỉ trừ có Alberto Pornati. Ông ta đang giận dữ la hét nàng và tóm lấy nàng lắc lấy lắc để.
“Hãy vì Chúa”, ông ta hét. “Mở mắt ra nào! Nhìn tôi đây này!”.
Bằng một cố gắng phi thường, Tracy mới mở mắt ra được, và Jeff đang cúi xuống nhìn nàng. Khuôn mặt anh trắng bệch và có vẻ cáu kỉnh gì đó trong giọng nói của anh ta. Hẳn cũng lạl là một phần eơn mê của nàng đây.
“Em đã thế này bao lâu rồi?”.
“Anh đang ở Braxin”, Tracy lẩm bẩm.
Sau đớ, nàng lại thiếp đi, không hay biết gì nữa.
Khi thanh tra Trigmant nhận được chiếc khăn quàng có hai chữ TW mà người ta nhặt được trên sàn máy bay chở hàng hóa của Hàng không Pháp, ông ta lặng nhìn nó hồi lâu.
Rồi ông ra lệnh, “Kiếm Daniel Cooper cho tôi”.
 
Chương 32


Làng Alkmaar đẹp như tranh, nằm trên bờ biển Tây Bắc Hà Lan trông ra biển Bắc, là một nơi du lịch hấp dẫn nổi tiếng, thế nhưng lại có một khu vực nhỏ ở phía Đông của nó rất ít khách lui tới, Jeff Stevens đã vài lần đến nghỉ ở đó cùng với một chiêu đãi viên của hãng Hàng không KLM, người đã dạy anh chút ít ngôn ngữ của xứ sở này. Ánh nhớ rất rõ cư dân ở đó chỉ bận tâm với công việc của bản thân họ và không quá tò mò để ý tới du khách.
Đó là một nơi ẩn náu hoàn hảo nhất.
Ý định lúc đầu của Jeff là đưa ngay Tracy tới bệnh viện, nhưng như thế thì quá nguy hiểm. Việc nàng chỉ ở lại Amstesđam thêm một phút nào nữa thôi cũng là cả một sự phiêu lưu. Anh đã cuốn nàng trong một tấm mền, ẵm ra ô tô, và suốt quãng đường tới Alkmaar nàng vẫn không hề một lần tỉnh lại. Mạch đập rối loạn và hơi thở nặng nhọc.
Ở Alkmaar, Jeff thuê một quán trọ nhỏ. Ông chủ quán tò mò nhìn Jeffbế Tracy lên trên phòng.
“Chúng tôi đang đi chơi tuần trăng mật”, Jeff phân trần. “Vợ tôi bị ốm, và cần được nghỉ ngơi”.
“Anh muốn gọi bác sĩ không?”.
Chính Jeff cũng không biết trả lời thế nào nữa nên đành nói. “Tôi sẽ báo với ông sau nhé”.
Việc đầu tiên phải làm là cố gắng hạ cơn sốt cho Tracy. Jeff đỡ nàng nằm xuống chiếc gi.ường đôi và bắt đầu cởi bộ đồ ướt đầm mồ hôi của nàng ra. Anh nâng nàng ngồi dậy và kéo váy qua đầu nàng. Tiếp theo là giày, rồi đến đời tất dài. Người nàng nóng rực. Jeff dung khăn tắm thám nước lạnh và nhẹ nhàng lau rửa toàn thân nàng, đắp lên người nàng một tấm mền và rồi ngồi bên mép gi.ường lắng nghe nhịp thở ngắt quãng của nàng.
Nếu sáng mai mà cô ấy không đỡ, Jeff quyết định, mình sẽ đành lòng kêu bác sĩ tới.
Sáng ra, khăn trả gi.ường lại đã đẫm mồ hôi. Tracy vẫn không tỉnh, nhưng Jeff thấy nhịp thở đã đều hơn.
Anh ngại không muốn để hầu phòng trông thấy Tracy điều đó dần đến quá nhiều câu hỏi khác nhau, do vậy, anh gặp chủ quán hỏi lấy mấy tấm vải trải gi.ường và ôm vào phòng, lại lau khắp th.ân thể Tracy bằng khăn ướt, thay vải trải gi.ường theo cách mà các cô hộ lý vẫn làm trong các bệnh viện, không phiền gì đến bệnh nhân và rồi đắp lên nàng một tấm mền khác.
Jeff treo tấm bảng KHÔNG LÀM PHIỀN lên cánh cửa rồi đi ra ngoài tìm tới một hiệu thuốc gần nhất, mua thuốc giảm sốt, mua cặp nhiệt độ, một miếng bọt biển và một ít cồn. Khi quay trở lại, Tracy vẫn chưa tỉnh. Jeff đo nhiệt độ và thấy nàng vẫn đang sốt cao. Anh dừng miếng bọt biển thấm cồn xoa khắp”người nàng và cơn sốt hạ xuống.
Một giở sau thân nhiệt nàng lại tăng lên. Anh đã định gọi bác sĩ. Chắc rắc rồl là bác sĩ. Chỗ rắc rối là bác sĩ nhất định sẽ đòi đưa Tracy đến bệnh viện. Các câu hỏi sẽ được đặt ra. Jeff không biết liệu cảnh sát có đang truy lùng họ hay không, và nếu vậy thì chắc chắn cả bọn sẽ bị bắt giữ.
Anh nghiền bốn viên thuốc giảm sốt, cho vào giữa hai môi Tracy rồi dùng thìa nhỏ nước vào miệng, và sau cùng đã cho nàng uống thuốc được. Anh xem mạch, nó có vẻ ổn định hơn. Anh áp tai vào ngực nàng, lắng nghe. Phải chăng hơi thở của nàng đã nhẹ nhàng hơn? Anh không dám chắc, chỉ tin có một điều duy nhất, và anh thầm nhắc đi nhắc lại cho đến khi nó trở thảnh lời khấn nguyện? “Em sắp khỏe lại cho mà xem”. Anh dịu dàng hôn lên trán nàng.
Jeff đã không ngủ trong suốt hơn bốn mươi tám đồng hồ liền, và lúc này thì kiệt sức, hai mắt trũng sâu. Mình sẽ ngủ sau, anh tự hứa. Mình sẽ nhắm mắt lại một chút thôi – anh lẩm bẩm và rồi ngủ thiếp đi.
Khi mở mắt ra, phải mất một lúc:
Tracy mới nhìn rõ trần nhà và không biết là mình đang ở đâu nữa. Dần dần nâng tỉnh hẳn. Toàn thân mỏi nhừ và nhức nhối, cảm giấc như vừa qua một chuyến đi dài đầy mỏi mệt. Nàng chậm chạp đưa mắt nhìn quanh căn phòng xa lạ và chợt giật thót người. Jeff đang ngủ, người co trong chiếc ghế bành kề bên cửa sổ. Lần gần đây nàng thấy Jeff là khi anh ta đến lấy chỗ kim cương và mang đi. Anh ta làm gì ở đây nhỉ? Và với một cảm giác đột nhiên nhói lên, Tracy biết ngay câu trả lời:
nàng đã đưa cho anh ta cái hộp kia - cái hộp đựng kim cương giả - và Jeff đã nghĩ rằng anh ta bị nàng lừa. Chắe anh ta đã lôi nàng ra hỏi căn nhà an toàn và mang đến nơi đây.
Khi nàng ngồi dậy, Jeff cựa mình và mở mắt. Thấy Tracy đang nhìn, một nụ cười chậm rãi nhưng rạng rỡ trên khuôn mặt anh.
“Xin chúc mừng”. Giọng anh như tiếng thở phào nhẹ nhõm, đến mức làm Tracy hiểu lầm.
“Tôi xin lỗi”, Tracy nói. Giọng nàng là một lời thì thầm khản đặc. “Tôi đã lấy nhầm cái hộp”.
“Cái gì?”.
“Tôi đã bị lẫn hai cái hộp với nhau”.
Jeff bước lại bên nàng và dịu dàng. “Không đâu, Tracy. Em đã trao cho tôi những viên kim cương thật sự.
Chúng đã đến với Gunther rồi”.
Nàng nhìn anh, bối rối. “Vậy thì ... tại sao ... tại sao anh lại ở đây?”.
Anh ghé ngồi xuống mép gi.ường. “Khi em đưa cho tôi chỗ im cương, trông em thất sắc quá..Tôi quyết định tốt hơn là phải chờ ở sân bay để có thể tin chắc rằng em đến kịp chuyến bay của mình. Em đã không ra sân bay và tôi biết ngay rằng em đang gặp khó khăn. Tôi đến căn nhà an toàn và thấy em ở đó” giọng anh nhẹ nhàng. “Đó sẽ là một dấu vết của cảnh sát”.
Nàng lúng túng nhìn anh. “Vậy anh cho tôi biết lý do đích thực của việc anh quay lại tìm tôi đi”.
“Đã đến giờ cặp sốt cho em rồi”. Anh nói nhanh.
“Đỡ rồi”, anh nói sau ít phút. “Chỉ còn hơi nóng một chút thôi. Em là một người bệnh tuyệt vời đấy”.
“Jeff ...”.
“Cứ tin tôi đi. Em đói không?”.
Đột nhiên Tracy cảm thấy đói ghê gớm. “Đói đến sắp chết mất”, nàng đáp.
“Tốt. Tôi sẽ mang cho em chút đồ ăn nhé”.
Anh từ cửa hàng tra về với một túi lớn đầy nước cam, sữa và trái cây tươi cùng với một con gà quay lớn và ít pho mát thịt cá.
“Đây có lẽ là món xúp gà kiểu Hà Lan, ăn tốt đấy.
“Nào, ăn chậm thôi nhé”.
Anh giúp nàng ngồi dậy, cho nàng ăn, thận trọng và dịu dàng, và Tracy e ngại nghĩ anh ta hẳn có ý gì đây. Trong lúc cho Tracy ăn, Jeff nói. “Tôi vừa gọi điện cho Gunther. Ông ấy đã nhận được kim cương, và đã gửi phần tiền của cô vào tài khoản nhà băng của cô ở Thụy Sĩ.
Nảng đã không thể kìm được câu hỏi, “Sao anh không gửi cả cho mình?”.
Jeff trả lời, giọng đầy vẻ nghiêm nghị. “Bởi vì đã đến lúc mình nên thôi việc ganh đua với nhau, Tracy. Được không nào?”.
Hẳn là một ngón chơi khác của anh ta thôi, dĩ nhiên là thế, nhưng nàng chẳng còn hơi sứe nào mà lo ch.uyện ấy nữa. “Được”.
“Nếu cho tôi biết các số đo của em”, anh nói. “Tôi sẽ mua về cho em một ít đồ để mặc. Người Hà Lan cũng khoáng đạt thôi, nhưng tôi nghĩ nếu em cứ như thế này mà đi ra ngoài thì họ sẽ bị sốc đấy”.
Tracy chợt nhận ra sự trần truồng của mình vội kéo mền choàng kín người.
Nàng chỉ có ấn tượng rất mơ hồ về việc Jeff cởi váy áo và tắm táp cho. Anh đánh đổi sự an toàn của mình để chăm sóc nàng? Vì sao? Nàng đã nghĩ mình hiểu anh. Không một chút gì cả.
Nàng lại ngủ thiếp đi.
Buổi chiều, Jeff mang về hai vali đầy chặt váy ngắn, váy ngủ, đồ lót, váy liền áo, giày.dép và một hộp son phấn cùng với lược, bàn chải và kem đánh răng.
Anh cũng mua cho mình một vài bộ đồ để thay đổi và cả một tờ Diễn đàn thông tin Quốc tế” mà ở trang đầu là tin về vụ cướp đoạt kim cương trên máy bay, cảnh sát đã phán đoán được cách thức tiến hành vụ trộm, nhưng theo bài báo, bọn trộm đã không để lại dấu vết gì.
Jeff nói vui vẻ. “Chúng ta được tự do về nhà rồi” Giờ đây chỉ còn một việc là làm cho em mau khỏe lại”.
Chính Daniel Cooper là người đã đề nghị không để báo chỉ biết về cái khăn quàng trên có hai chữ TW. Ông ta nói với thanh tra Trignant. “Chúng ta biết nó là của ai, nhưng nó không đủ là một bằng chứng kết tội. Các luật sư của cô ta sẽ nêu ra hàng vạn các phụ nữ châu Âu có tên viết tắt 1à TW, và sẽ biến các ông thành trò cười”.
Theo Cooper thì cảnh sát đã tự biến mình thành những thằng ngốc. Chúa sẽ trao cô ta cho mình - ông ta nghĩ.
Ông ta ngồi trong bóng tối của một ngôi nhà thờ nhỏ, trên một chiếc ghế băng bằng gỗ cứng, và cầu nguyện:
Ôi, lạy đức Chúa Cha, hãy để cô ta là của con. Xin giao cho con trừng phạt cô ta để con có thể rửa sạch tội lỗi của mình.
Con quỷ trong linh hồn cô ta bị xua đuổi, và th.ân thể trần truồng của cô ta sẽ bị nọc ra đánh đòn ... Rồi ông ta mường tượng tới tấm thân lõa lồ của Tracy và đột nhiên thèm muốn. Cooper vội vã rời khỏi nhà thờ vì sợ Chúa sẽ biết sự h.am m.uốn đó và sẽ trừng phạt thêm ông ta.
Khi Tracy tỉnh giấc thì trời đã tối. Nàng ngồi dậy và bật sáng ngọn đèn trên chiếc bàn nhỏ kê cạnh đầu gi.ường. Có mình nàng trong phòng. Jeff đã đi.
Cảm giác cô đơn bao trùm lấy Tracy. Nàng đã để mình dựa dẫm dần vào Jeff và đó là sự ngu ngốc. Đáng đời mình lắm, Tracy chua chát nghĩ. “Cứ tin tôi”, Jeff nói thế và nàng đã tin. Anh đã chăm sóc nàng chỉ để bảo vệ cho chính anh, không vì lý do nào khác. Nàng đã đi đến chỗ tin rằng anh ta có ít nhiều tình cảm với mình. Nàng đã muốn tin anh muốn cảm thấy rằng nàng có ít nhiều ý nghĩa với anh Tracy nằm ngả người xuống gối, nhắm liền hai mắt và tư lự mình sẽ nhớ anh. Xin Chúa giúp con, con sẽ nhớ anh thực lòng.
Chúa đã thử lòng nàng băng một trò đùa dai dẳng.
Mà tại sao lại là anh cơ chứ? Nàng băn khoăn tự hỏi, nhưng dù sao thì cũng vậy thôi mà. Nàng sẽ phải rời khỏi nơi này càng sớm càng tốt, và kiếm một nơi an toàn để nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng. Ôi mi thật là ngốc quá, Tracy nghĩ. Mi ...
Có tiếng mở cửa và giọng Jeff vang lên:
“Tracy, em đã dậy chưa? Tôi mang về cho em vài cuốn sách và cả đống tạp chí đây. Tôi nghĩ là em có thể Anh ngưng bặt khi thấy vẻ mặt nàng. “Này? Có chuyện gì thế”. “Bây giờ thì không”, Tracy thì thào. “Bây giờ thì không” Sáng hôm sau cơn sốt của Tracy dứt hẳn.
“Tôi muốn ra ngoài quá, Jeff, anh nghĩ rằng ta có thể đi dạo một chút không?”.
Ngoài hành lang, họ là cả một sự tò mò. Vợ chồng ông chủ quán trọ rất vui trước sự phục hồi eủa Tracy. “Chồng cô thật tuyệt diệu. Anh ấy khăng khăng đòi làm tất cả mọi việc cho cô. Anh ấy rất lo lắng, Một phụ nữ thật may mắn, có được một người đàn ông yêu mình đến thế”.
Tracy đưa mắt nhìn Jeff, và có thể thề rằng anh đỏ bừng cả mặt.
Ra ngoài, Tracy nói. “Họ thật ngọt ngào quá”.
“Những người đa cảm”, Jeff đáp nhanh Jeff đã thu xếp thêm một chiếc gi.ường ngủ nhỏ, kê cạnh gi.ường Tracy. Đêm đó, nằm trên gi.ường, nàng nhớ lại việc Jeff chăm sóc, phục dịch, cho ăn và còn lau rửa, tắm táp th.ân thể trần trụi của nàng nữa. Tracy ý thức mạnh mẽ về sự hiển hiện kề bên của anh. Điều đó làm nàng thấy được che chở.
Và cũng làm nàng thấy bồn chồn.
Dần dần, khi Tracy mỗi ngày một khỏe hơn, nàng và Jeff càng dành thêm nhiều thời gian đi thăm thú” cái thị trấn cổ này. Họ đã đi bộ dọc trên các đường phố quanh co, lát đá cuội của Alkmaar được làm từ mãi tận thời Trung Cổ, và dành nhiều giờ đồng hồ trên những đồng hoa tuy lip ở ngoại ô thành phố. Họ đi thăm chợ búa, cửa hiệu và nhà bảo tàng của thị trấn. Tracy rất đỗi ngạc nhiên khi thấy Jeff nói với dân chúng địa phương bằng tiếng Hà Lan.
“Anh học ở đâu thế Tracy hỏi.
“Tôi từng quen biết một cô gái Hà Lan mà”.
Và nàng hối tiếc vì đã hỏi.
Vài ngày nũa trôi qua, th.ân thể trẻ trung và khỏe mạnh của Tracy dần dần hồi phục. Khi Jeff thấy Tracy đã đủ sức, anh thuê về hai cái xe đạp, và họ cùng đạp xe tới các cối xay gió nằm rải rác trên các cánh đồng vùng thôn quê. Mỗi ngày đều là một ngày nghỉ thật dễ chịu, và Tracy chỉ mong nó đừng bao giờ kết thúc.
Jeff đã thật sự là một nỗi ngạc nhiên thường xuyên.
Anh cư xử với Tracy bằng một sự quan tâm và âu yếm đến mức làm tan biến mọi cảnh giác của nàng, nhưng anh không đi xa hơn. Tracy thấy anh thật kỳ lạ.
Nàng nghĩ về những phụ nữ xinh đẹp mà nàng thấy cặp kè với anh, và tin chắc rằng anh có thể có bất kỳ cô nào. Vậy tại sao anh lại chịu bên cạnh nàng ở cái xó hẻo lánh thế này của thế giới?
Tracy thấy mình nói với Jeff những chuyện mà nàng từng nghĩ là sẽ không bao giờ trao đổi với bất kỳ ai về Joe Romano và Tony Orsatti, về Ernestine Littlechap, về Rretha Lớn và về bé Amy Brannigan. Và đến lượt Jeff giận dữ, đau khổ, cảm thông. Jeff kể cho nàng nghe về người mẹ kế, về chú Willie, về những ngày ở gánh tạp kỹ và về cuộc hôn nhân của anh với Louice. Tracy đã chưa bao giờ cảm thấy gần gũi như thế với bất kỳ ai.
Bỗng nhiên cũng đến lúc phải ra đi.
Một buổi sáng Jeff nói. “Cảnh sát không truy lùng chúng ta đâu, Tracy. Tôi nghĩ ta nên đi thôi”.
Tracy chợt tuyệt vọng như bị một nhát dao “Được thôi. Khi nào?”.
“Ngày mai”.
“Tôi sẽ thu xếp hành lý vào sáng mai”.
Đêm đó Tracy trằn trọc không ngủ được. Sự có mặt Jeff dường như tràn ngập khắp gian phòng. Những ngày này thật là một quãng đời không thể nào quên, và nó sắp chấm dứt. Nàng nhìn sang chiếc gi.ường đơn, nơi Jeff đang nằm.
“Anh ngủ rồi à?” Tracy thì thào.
“Chưa ...”.
“Anh đang nghĩ gì thế”. “Ngày mai rời khỏi nơi này. Tôi sẽ quyến luyến với nó”.
“Em sẽ nhớ anh đấy, Jeff”. Câu nói buột ra trước lúc nàng có thể kìm lại.
Jeff từ từ ngồi dậy và nhìn nàng. “Nhiều không em?”.
Anh dịu dàng hỏi.
“Nhiều lắm”.
Một giây sau anh đã ngồi bên gi.ường nàng, “Tracy ...”.
“Nào. Đừng nói gì cả. Hãy ôm em”.
Nàng ôm anh thật chặt, cảm thấy tim anh đang đập ngay trên khuôn ngực mình. Nàng áp chặt vào anh, nhưng vẫn thấy chưa đủ, bèn trườn xuống cuối gi.ường và đặt lên th.ân thể anh những nụ hôn âu yếm, dịu dàng.
Suốt đêm họ trò chuyện bâng quơ về mọi thứ, cứ như có một cánh cửa chắn nước từ lâu bị khóa trái nay mở ào ra vậy Rạng sáng, khi một ngày mới đã bắt đầu lấp lánh trên mặt nước của những con kênh, Jeff nói. “Hãy cưới anh nhé, Tracy”.
Tracy đã nghĩ mình hiểu nhầm ý anh, nhưng những lời đó được lặp lại Tracy thì thầm đáp, “Vâng. Ôi, vâng!”.
Nàng òa khóc, vẫn nằm trong vòng tay che chở của Jeff. Mình sẽ không bao giờ cô đơn nữa, Tracy nghĩ.
Chúng ta thuộc về nhau. Jeff là một phần trong tất cả những ngày mai của mình.
Ngày mai đã đến.
Một hồi lâu sau, Tracy cất tiếng hỏi. “Anh biết từ khi nào hả, Jeff “Từ lúc anh thấy em trong ngôi nhà đó và anh đã nghĩ là em sắp chết. Đầu óc anh rối bời cả lên”.
“Em thì lại nghĩ rằng anh đã bỏ đi cùng với chỗ kim cương”. Tracy thú nhận.
Anh lại ôm lấy nàng, “Tracy, việc anh làm ở Madrid không phải là vì tiền.
Nó chỉ vì cuộc chơi - vì sự thách thức. Chính vì điều đó mà cả hai chúng ta đang trong cái nghề này, phải vậy không nào? Em được trao một việc khó đến mức không thể có khả năng giải quyết được, và rồi em bắt đầu băn khoăn liệu có đúng là không có cách nào, phải không”.
Tracy gật đầu, “Em biết. Lúc đầu là em cần tiền. Và rồi thì không phải thế nữa, em đã cho đi có ít tiền đâu. Em thích giỡn mặt với những kẻ thành đạt và nhẫn tâm. Em thích sống trong những hoàn cảnh nguy hiểm, gay go nhất”.
Im lặng hồi lâu, Jeff nói, “Tracy ... em nghĩ sao về việc chúng ta thôi cái nghề này đi?”.
“Thôi ư? Vì sao cơ?”.
“Trước đây thì mỗi chúng ta đều tự lập. Nhưng giờ thì tất cả đã thay đổi.
Anh không thể nào chịu được nếu có chuyện gì xảy ra. Việc gì phải mạo hiểm thêm nữa nhỉ.
Chúng ta có dư tiền cho sau này rồi mà. Tại sao ta lại không tự cho phép mình nghỉ ngơi?”.
“Chúng ta sẽ làm gì, Jeff Anh nhoẻn cười. “Chúng ta sẽ tính một việc gì đó”.
“Em nói nghiêm chỉnh đấy, anh yêu ạ, chúng ta sẽ tiếp tục sống thế nào?”.
“Làm những gì mà chúng ta thích, em yêu Chúng ta sẽ đi du lịch, chiều theo những sở thích của nhau. Anh đã luôn bị quyến rũ bởi môn khảo cổ học. Anh muốn tiến hành một vụ khai quật ở Tunisia. Anh đã có lời hứa với một người bạn cũ. Chúng ta sẽ cùng nhau đi khắp thế giới”.
“Nghe hấp dẫn quá”.
“Vậy ý em thế nào?”.
Nàng nhìn anh một lúc lâu. “Nếu đó là điều anh muốn”, Tracy khẽ đáp.
Ành ôm choàng lấy nàng và cười lớn. “Anh phân vân liệu ta có nên gửi một loan báo chính thức cho cảnh sát không nhỉ?”.
Tracy cũng bật cười theo.
Cooper chưa bao giờ thấy những ngôi nhà cổ kính hơn thế. Đôi khi ông ta không chắc là mình đang cầu nguyện trước quỷ dữ hay trước Chúa nữa. Ông ta vào nhiều nhà thờ khác nhau và lần nào lời cầu khẩn của ông ta cũng vậy:
Hãy cho con bắt cô ta phải đau đớn giống con vậy.
Ngay hôm sau Gunther gọi điện thoại đến trong lúc Jeff ra ngoài.
“Cô thấy thế nào?” Gunther hỏi.
“Tôi thấy tuyệt vời”, Tracy thành thực đáp.
Từ sau ngày biết chuyện xảy ra với Tracy, hôm nào Gunther cũng gọi điện tới. Tracy quyết định chưa nói với ông ta tin mới về Jeff và nàng, chưa vội.
Nàng muốn ôm ấp nó một thời gian cho riêng mình, sống thử với nó, kiểm tra và nuôi dưỡng nó.
“Cô và Jeff có hòa hợp không?”.
Cô mỉm cười “Chúng tôi rất hợp nhau”.
“Cô có nghĩ việc lại cùng làm việc với nhau nữa không”.
Giờ thì nàng phải nói cho ông ta biết rồi. “Ông Gunther, ... chúng tôị., thôi không làm nữa đâu”.
Có một giây lát im lặng. “Tôi không hiểu”.
“Jeff và tôi, như người ta vẫn nói trong các bộ phim của James Cagney, từ giờ trở đi sẽ sống ngay thẳng”.
“Cái gì? Nhưng ... vì sao?”.
“Đó là ý kiến của Jeff và tôi cũng tán đồng. Chấm dứt các trò mạo hiểm”.
“Hãy giả thiết tôi nói với cô rằng cái việc mà tôi đang dự tính đáng giá hai triệu đô la cho cáe bạn và không có gì mạo hiểm hết thì sao nào?”.
“Tôi thấy thật tức cười, ông Gunther”.
“Tôi nói nghiêm chỉnh đấv, cô bạn thân mến. Các bạn sẽ đi Amstesđam, cách nơi các bạn đang ở có một giờ đồng hồ, và ...”.
“Ông sẽ phải tìm người khác thôi”.
Ông ta thở dài. “Tôi sợ rằng không ai khác có thể làm được vụ này cả. Ít nhất cũng mong cô hãy bàn khả năng này với Jeff chứ?”.
“Được thôi, nhưng chẳng có ích gì đâu”.
“Chiều tôi sẽ gọi lại”.
Khi Jeff trở về, Tracy đã nói chuyện lại.
“Thế em không nói với ông ấy là chúng ta đã trở thành những công dân tôn trọng pháp luật à?”.
“Dĩ nhiên, anh yêu, em đã bảo ông ta kiếm người khác”.
“Nhưng ông ta không muốn thế”, Jeff đoán.
“Ông ta cứ khăng khăng cẩn đến chúng ta. Nới là không hề mạo hiểm và chúng ta sẽ kiếm được hai triệu đô la”.
“Dù cái thứ mà ông ta đang mang trong đầu là cái gì đi chăng nữa thì nó cũng phải được bảo vệ nghiêm ngặt”.
“Như ở bảo tàng Prado ấy”, Tracy nói thêm.
Jeff cười. “Vụ đó thật tuyệt vời, trái tim ngọt ngào của anh ạ. Em biết không, anh nghĩ đó là lúc anh phải lòng em đấy”.
“Em thì nghĩ rằng khi anh ăn cắp bức Goya của em là em bắt đầu ghét anh”.
“.Hãy công bằng nào”, Jeff nhắc nhở. “Em đã bắt đầu ghét anh từ trước đó rồi”.
“Đúng thôi. Vậy ta sẽ nói gì với Gunther?”.
“Em đã nói rồi thôi. Chúng ta không còn trong đường dây đó nữa”.
“Chẳng nhẽ mình không cần biết ông ấy dự tính gì à?
“Ít ra là thế”.
“Tracy, chúng ta đã thỏa thuận ...”.
“Đằng nào mình cũng đi Amstesđam, đúng vậy không?”.
“Đúng, nhưng ...”.
“Vậy thì trọng khi ở đó, anh yêu quí, tại sao ta lại không nghe xem ông tả nói gì?”.
Jeff nhìn nàng nghi hoặc. “Em muốn làm phải không”.
“Tất nhiên là không”. Nhưng chỉ nghe thôi thì có sao đâu?”.
Họ dùng ô tô đi Amstesđam vào ngày hôm sau và thuê phòng ở khách sạn Amstel. Gunther Hartog đã từ Lonđon bay tới.
Họ ngồi với nhau như những du khách bình thường, trên một chiếc thuyền máy chạy dọc sông Amstel.
“Tôi rất vui mừng trước đám cưới của các bạn. Gunther nói. “Xin có lời chúc mừng nồng nhiệt nhất”.
“Cảm ơn ông:
ông Gunther”. Tracy hiểu ông ta hoàn toàn chân thành.
“Tôi tôn trọng mong muốn nghỉ ngơi của các bạn, nhưng tôi gặp “một vụ phức tạp đến mức thấy phải có được các bạn giúp đỡ. Phần đền đáp lại sẽ là một bài ca chim thiên nga đấy”.
“Chúng tôi đang nghe đây”. Tracy nói.
Gunther dướn người về phía trước và nói với giọng vừa đủ nghe.
Kết thúc câu chuyện, ông ta nói. “Hai triệu đô la, nếu các bạn làm được”.
“Không thể được”, Jeff thẳng thừng tuyên bố. “Tracy ...”.
Thế nhưng Tracy không nghe tiếng. Nàng đang mải tính toán sẽ phải làm như thế nào.
Bộ chỉ huy cảnh sát Amstesđam nằm ở góc cắt của hai phố Marnix và Eland Sgracht, là một tòa nhà cổ trang nhã cao năm tầng xây bằng gạch đỏ với một hành lang trắng toát đắp phù điêu ở tầng trệt và một cầu thang bằng đá hoa cương dẫn lên cáe tầng trên Trong một phòng họp ở trên gác đang có cuộc hội ý quan trọng với sự có mặt của sáu thám tử Hà Lan. Người nước ngoài duy nhất ở đây là Daniel Cooper.
Thanh tra cảnh sát Joop van Duren là một người đàn ông cao lớn khác thường với một khuôn mặt rắn rỏi, bộ ria mép gọn ghẽ và giọng nói ồm ồm.
Ông ta đang báo cáo với Toon Willems, Ủy viên thưởng cảnh sát, người đứng đầu lực lượng cảnh sát thành phố.
“Tracy Whitney đã đến Amstesđam sáng nay, thưa ông ủy viên trưởng.
Interpol tin chắc rằng chính cô ta phải chịu trách nhiệm về vụ cướp kim cương của hãng De Beers. Ông Cooper đây cảm thấy rằng cô ta quay lại đây để mưu đồ một vụ khác”.
Ủy viên trưởng cảnh sát Willems quay sang Cooper.
“Ông có bằng chứng gì không, ông Cooper?”.
Daniel Cooper không cần bằng chứng gì hết, Ông ta biết rõ Tracy Whitney, cả thể xác lẫn tinh thần, Lẽ tất nhiên là cô ta đến đây để thực hiện một vụ gì đó vượt quá khả năng tưởng tượng nhỏ bé của họ. Ông ta buộc mình phải giữ bình tĩnh.
“Không có chứng cứ. Bởi vậy phải bắt quả tang cô ta”.
“Vậy ông cho rằng chúng ta phải làm gì để đạt được điều đó?”.
“Chỉ có cách không rời mắt khỏi người phụ nữ này thì mới hy vọng tóm được cô ta”.
Ủy viên trưởng cảnh sát thấy khó chịu. Ông đã nói chuyện với thanh tra Trignant ở Paris về Cooper. “Ông ta rất thô cục, nhưng là người biết việc lắm, Nếu chúng ta chịu nghe ông ta, chúng ta sẽ bắt quả tang người phụ nữ có tên Whitney này”. Trignant nói vậy.
Joon Willems đã có quyết định của mình, phần nào dựa trên cơ sở của thất bại tai tiếng của cảnh sát Pháp trong vụ kim cương của hãng De Beers. Ở chỗ mà cảnh sát Pháp thất bại thì cảnh sát Hà Lan sẽ thành công.
“Rất tốt”, ông Ủy viên trưởng cảnh sát nói. “Nếu cô tiểu thư này tới Hà Lan để thử thách tính hiệu quả của cảnh sát chúng tôi, xin được tiếp đón cô ta”. Ông ta quay sang thanh tra Duren, “Hãy sử dụng mọi biện pháp mà ông Cooper cho là cần thiết”.
Thành phố Amstesđam được chia thành sáu khu vực cảnh sát, mỗi khu chịu trách nhiệm trên địa bàn của mình Theo lệnh của thanh tra Joop Duren, các ranh giới khu vực bị bỏ qua và thám tử của các khu vực khác nhau được bố trí vào cá đội theo dõi. “Tôi muốn rằng cô ta bị nằm trong tầm quan sát 24 giờ mỗi ngày.
Đừng để cô ta rời khỏi một giây nào cả”.
Thanh tra Duren nói với Cooper. “Thế nào, ông Cooper, ông hài “lòng chứ?”.
“Không, cho tới lúc tóm được cô ta”.
“Chúng ta sẽ tóm”, viên thanh tra cam đoan. “Ông thấy đấy, ông Cooper, chúng tôi tự hào có một lực lượng cảnh sát tất nhất thế giới”.
Amstesđam là thiên đường của khách du lịch, một thành phố của những cối xay gió, những đập chắn nước và những dãy nhà xinh đẹp kề nhau trên những bờ kênh cây lá sum suê, với những nhà thuyền trang điểm bằng những chậu cây, hoa cảnh và với cả những đồ giặt đang phơi, đung đưa trong gió. Dân Hà Lan là những con người hiếu khách nhất mà Tracy từng gặp.
“Họ đều có vẻ hạnh phúc”, Tracy nói.
“Em nhớ rằng họ vốn là người của hoa mà. Hoa tuy lip”.
Tracy cười vang và khoác tay Jeff ở bên anh nàng cảm thấy sung sướng. Anh thật là tuyệt diệu. Jeff thì nhìn nàng và tự nhủ mình là người đàn ông may mắn nhất thế giới.
Tracy và Jeff cớ những cuộc dạo chơi, thăm thú bình thường như bao du khách khác, Họ dạo dọc theo phố Albert Cuyp, một chợ trời kéo dài qua mấy khu phố đầy những sạp hàng bán đồ cổ, rau, hoa quả và vải vóc; họ lang thang qua quảng trường Dam nơi đông đảo thanh thiếu niên tụ lại xem các ban nhạc trình diễn; họ tới thăm Volendam, các làng chài xinh đẹp ở khu Zuider Zee và thắm thị trấn Madurodam - một Hà Lan thu nhỏ. Khi họ đi xe ngang phi trường Schiphol tấp nập, Jeff nói, “Cách đây không lâu, vùng đất sân bay này còn là một phần của Biển Bắc đấy. Schiphol nghĩa là Bãi tha ma của các con tù, em ạ”.
Tracy nép vào anh. “Thế hả anh Thật thích thú khi được yêu một người nhiều hiểu biết”.
“Em chẳng nghe gì bao giờ à. Hai mươi lăm phần trăm lãnh thổ Hà Lan là đất lấn ra biển. Và, xứ sở này thấp hơn mực nước tới gần năm mét đấy”.
“Nghe sợ quá nhỉ”.
“Đưng lo. Đã có những con đê biển kia rồi mà”.
Tracy và Jeff đi tới bất kỳ đâu cũng bị cảnh sát bám theo và tối tối, Danlel Cooper lại xem xét tỷ mỉ các bản báo cáo được đệ trình cho thanh tra Duren.
Không có gì bất thường cả, nhưng những nghi ngờ của Cooper không hề giảm xuống. Cô ta đang theo đuổi một vụ gì đây, ông ta tự nhủ, một vụ lớn. Không biết cô ta có phát hiện ra sự theo dõi không? Không biết cô ta có biết rằng mình sẽ tiêu diệt cô ta không?
Theo chỗ cáe thám tử thì Tracy Whltney và Jeff Stevens chỉ đơn thuần là những khách du lịch.
Thanh tra Duren đã nói với Cooper. “Có lẽ là ông nhầm chăng? Có thể họ đến Hà Lan chỉ để chơi bời, nghỉ ngơi thôi”.
“Không”. Cooper bướng bỉnh đáp. “Tôi không nhầm đâu Hãy bám sát lấy”.
Ông ta có cảm giác rằng thời gian đang sắp hết, rằng nếu Tracy Whitney không sớm có một động thái gì thì sự theo dõi của cảnh sát sẽ lại bị hủy bỏ. Không thể để điều đó xảy ra được. Daniel Cooper đích thân tham gia việc theo dõi Tracy.
Tracy và Jeff đặt hai phòng thông nhau ở khách sạn Amstel. “Vì chuyện tập quán xã hội thôi”, Jeff nói với Tracy, “Còn anh sẽ không để em rời xa anh đâu”.
“Hứa đấy nhé”. “ Đêm đêm Jeff ở với nàng cho tới lúc mờ sáng và bao giờ họ cũng làm tình cho mãl đến khuya. Anh là một người tình tuyệt vời, khi thì dịu dàng âu yếm, khi thì cuồng nhiệt hoang dại.
“Đây là lần đầu tiên”, Tracy thì thầm, “Em mới thật sự biết th.ân thể mình dùng để làm gì. Cảm ơn anh, tình yêu của em”.
“Em đã cho anh mọi kh.oái lạc, em yêu”.
“Một nửa thôi chứ”.
Họ đã cùng lang thang khắp cả thành phố, vẻ như không có mục đích gì. Ăn trưa” ở khách sạn châu Âu, ăn chiều tại nhà hàng Bowedery và đã ăn tất cả hai mươi tư món được phục vụ ở nhà hàng Bal1-Indonesia. Họ thưởng thức món xúp đậu nổi tiếng của Hà Lan cùng với khoai tây, cà rất và hành; và một món ăn khác chế biến từ mười ba loại rau cùng với xúc xích hong khói. Rồi họ đi qua khu vực “đèn đỏ” của Amstesđam, nơi những cô gái làm tiền phong phanh trong những bộ áo kimônô ngồi trên các cửa sổ trông ra phố, khoe những tấm thân ngồn ngộn. Và mỗi tối, trong các báo cáo đệ trình lên cho thanh tra Duren, phần kết thúc đều có chung một nhận xét Không có gì nghi vấn.
Kiên nhẫn, Daniel Cooper tự nhủ. Hãy kiên nhẫn, Thể theo sự hối thúc của Cooper, thanh tra Duren đã tới gặp Ủy viên trưởng cảnh sát Willems để xin phép đặt máy nghe trộm vào các buồng khách sạn của hai đối tượng tình nghi.
Yêu cầu này bị bác bỏ.
“Khi nào các ông có cơ sở thực tế cho sự nghi vấn của mình”, ông Ủy viên trưởng cảnh sát nói, “thì hãy quay lại đây còn bây giờ tôi không thể cho phép các ông nghe trộm những người mà cho đến nay chỉ phạm cái tội là vào Hà Lan du lịch”.
Cuộc nói chuyện diễn ra vào ngày thứ sáu. Sáng thứ hai. Tracy và Jeff đi đến phố Paulus Potter ở khu Coster, trung tâm của ngành công nghiệp kim cương Hà Lan Daniel Cooper là một thành viên trong dội theo dõi bám sát hai người. Có rất đông khách du lịch tới thăm Một hướng dẫn viên nói tiếng Anh dẫn họ đi quanh nhà máy giải thích từng công đoạn của quá trình cắt gọt kim cương và sau cùng đưa tất cả vào thăm một phòng trưng bày lớn nơi mà dọc theo các bức tường là những tủ trưng bày, đầy ngập kim cương mà du khách có thể mua. Dĩ nhiên đây là lý do chủ yếu của việc khách được dẫn đi thăm nhà máy. Ở gian giữa phòng trên một trụ cao màu đen, có bày một tủ kính trong đặt viên kim cương tuyệt hảo nhất mà Tracy chưa từng được thấy.
Người hướng dẫn viên hãnh diện tuyên bố. “Và đây, thưa quý bà, quý ông, là viên kim cương Lucullan nổi tiếng. Nó đã từng được một diễn viến sân khấu mua tặng vợ, một diễn viên điện ảnh và hiện nó được đặt giá mười triệu đô la.
Nó là một trong những viên kim cương đẹp nhất thế giới”.
Thật đáng là mục tiêu chó những tay trộm cắp”. Jeff nói hơi to.
Daniel Cooper dịch sát lên để có thể nghe rõ hơn.
Người hướng dẫn viên mỉm cười thỏa mãn. “Không đâu” thưa ông”. Anh ta khẽ hất hàm về phía người bảo vệ có vũ trang đứng gần đấy. “Viên kim cương này còn được bảo vệ cẩn mật hơn cả những viên kim cương ở tòa thị chính London. Khơng hề có nguy cơ nào cả. Bất kỳ ai động vào hòm kính đó, lập tức gây tín hiệu báo động và tất cả các cửa sổ và cửa ra vào của căn phòng này sẽ được đóng lại ngay tức khắc. Về đêm sẽ có cáe luồng tia hồng ngoại, và nếu có ai đó vào phòng thì tín hiệu báo động sẽ phát ra ở trụ sở cảnh sát”.
Jeff nhìn Tracy và nói. “Anh đoán chắc là không ai dám đánh cắp viên kim cương kia cả”.
Cooper đưa mắt cho một trong số các thám tử. Chiều hôm đó những lời nói trên đã có trong bản báo cáo trình cho thanh tra Duren.
Ngày hôm sau, Tracy và Jeff đi thăm bảo tàng Rijks. Ở cổng vào, Jeff đã múa một bản sơ đồ hướng dẫn rồi cùng Tracy đi qua hành lang lớn vào phòng khánh tiết trưng bày tranh của Angelleo, Murillo, Rubensơ, Van Dyck và Tiepolo. Họ đi chậm rãi, dừng ngắm từng bức tranh và rồi bước vào phòng treo bức tranh nổi tiếng nhất của Rembrandt “Phiên gác đêm”. Họ lưu lại đó. Và nữ thám tử hạng nhất Fien Haner, người đang theo dõi họ thầm kêu lên. “Ôi, lạy Chúa tôi ...”.
Tên chính thức của bức tranh là Đội quân của Đại úy Frans Banning Cooper”. Nó miêu tả, với vẻ trong sáng và hài hòa, một nhóm binh lính đang chuẩn bị đi gác đêm, đưới sự chỉ huy của viên đại úy trong bộ quân phục diêm dúa. Khu vực xung quanh bức tranh được chằng một sợi dây thừng bện nhung, và gần đó là một người bảo vệ.
“Thật khó tin”. Jeff nói với Tracy, “nhưng đúng là Rembrandt đã gặp rắc rối to với bức tranh này đấy”.
Nhưng vì sao? Bức tranh thật kỳ diệu mà”.
“Vị Mạnh thường quân của ông ta - viên đại úy trong bức tranh - đã không thích sự chú ý mà Rembrandt dành cho mấy nhân vật kia”. Jeff quay sang nói với người bảo vệ “Tôi hy vọng là bức tranh được bảo vệ cẩn thận”.
“Vâng, thưa ông. Bất kỳ kẻ nào toan ăn cắp bất kỳ thứ gì trong bảo tàng này sẽ vấp phải các luồng tia hồng ngoại, các camêra bảo vệ, và về đêm thì còn có hai người gác kèm theo chó tuần tiễu”.
Jeff nhoẻn cười. “Tôi cho là bức tranh này sẽ ở đây mãi mãi”.
Chiều tối hôm đó, những lời trao đổi trên đã được báo cáo với ngài Duren.
“Phiên gác đêm!” Ông ta kêu lên. “Thật không thể được”. Daniel Cooper chỉ nhìn trừng trừng vào ông ta bằng cặp mắt cận của mình:
Tại trung tâm hội nghị Amstesđam. có cuộc họp mặt giữa các nhà sưu tẩm tem, và Tracy cùng với Jeff nằm trong số những người đến đầu tiên. Khu hội trường được canh gác nghiêm ngặt bởi lẽ ở đây có nhiều con tem vô giá Cooper và một thám tử Hà Lan theo dõi hai người đang dạo quanh những bộ sưu tập tem quý hiếm. Họ dừng chân trước con tem Guiana thuộc Anh, một con tem hình sáu cạnh màu sắc kém hấp dẫn.
“Thật xấu xí”, Tracy nhận xét.
“Đừng có xem thường nó, em yêu. Nó là con tem duy nhất thuộc loại này tồn tại đến bây giờ đấy”.
“Nó đáng giá bao nhiêu?”.
“Một triệu đô la”.
Một nhân viên của triển lãm gật đầu. “Đúng vậy đấy, thưa ông. Người ta phần lớn chỉ nhìn mà không biết gì về nó.
Nhưng tôi thấy ông cũng yêu quý những con tem này giống như tôi. Lịch sử cả thế giới in hình trong chúng đấy”.
Tracy và Jeff đi sang tủ trưng bày tiếp theo và ngắm một con tem khác in hình một chiếc máy bay đang bay lật sấp.
“Trông thật thú vị”. Tracy nói.
Người nhân viên bảo vệ tủ tem nói, “Nó trị giá ...”.
“Bảy mươi lăm ngàn đô la”, Jeff phỏng đoán.
“Vâng, thưa ông. Chính xác đấy”.
Rồi họ tiếp tục đi xem những con tem nổi tiếng khác và Jeff luôn tỏ ra am hiểu chúng.
“Trông chúng nhỏ bé và yếu đuối quá”, Tracy nói, “và người ta dễ lấy trộm chúng lắm”.
Người bảo vệ đứng bên mỉm cười. “Thưa cô, một tên trộm khó lòng làm được điều đó. Các tủ kính đều được bảo vệ bằng các thiết bị điện tử và lính gác tuần tiễu khu trung tâm hội. nghị suốt ngày đêm”.
“Thế thì thật là yên tâm, Jeff sốt sắng. “Thời buổi này thì chẳng có sự cẩn thận nào là thừa cả, có phải không ạ”.
Chiều hôm đó Daniel Cooper và thanh tra Joop van Duren cùng đến gặp Ủy viên trưởng cảnh sát Willems. Ông Duren đặt các báo cáo theo dõi lên bàn làm việc của ông Ủy viên rồi đứng đợi.
“Không hề có gì chắc chắn ở đây cả”, sau cùng ông Ủy viên nói, “nhưng tôi thừa nhận rằng đối tượng tình nghi của các ông quanh quẩn bên các mục tiêu quý giá. Được, ông thanh tra. Tiến hành đi. Ông chính thức được đặt thiết bị nghe trộm vào các phòng khách sạn của họ”.
Daniel Cooper đầy phấn chấn. Tracy Whitney sẽ không còn có gì riêng tư nữa. Từ lúc này trở đi ông ta sẽ biết tất cả những gì cô ta đang nghĩ, đang nói và đang làm.. Ông ta nghĩ đến hình ảnh Tracy và Jeff đang nằm trên gi.ường với nhau, và nhớ lại cảm giác của cái quần lót của “Tracy áp lên má mình. Thật mềm mại, thật thơm tho, quyến rũ”.
Chiều hôm đó, ông ta đi nhà thờ.
Buổi tối, sau khi Jeffvà Tracy rời khỏi khách sạn, một nhóm kỹ thuật viên cảnh sát đã bắt tay vào việc ấy những thiết bị thu phát vô tuyến điện nhỏ xíu vào các phòng của Tracy và Jeff, giấu các thiết bị này sau các bức tranh, trong các đèn bàn, và dưới mấy cái bàn đêm.
Thanh tra Joop van Duren đã trưng dụng căn hộ ở ngay tầng trên và kỹ thuật viên đã lắp một bộ máy thu kèm theo ăngten và một máy ghi âm.
Thiết bị hoạt động dưới tác dụng của sóng âm thanh” tay kỹ thuật viên giải thích. “Không cần có mặt ở đây để điều khiển máy. Khi một ai đó cất tiếng nói, máy sẽ tự động làm việc”.
Nhưng Daniel Cooper muốn có mặt. Ông ta phải có mặt ở đây. Đó là ý Chúa.
 
Chương 33


Sáng sớm hôm sau, Daniel Cooper, thanh tra Joop van Duren và người trợ lý trẻ tuổi của ông ta, thám tử Witkamp, đã ở trong căn hộ phía trên lắng nghe câu chuyện ở phòng dưới.
“Cà phê nữa không em?” Tiếng Jeff.
Thôi, cảm ơn anh yêu”. Giọng Tracy. “Anh ăn thử miếng pho mát người ta đưa lên này. Nó thật sự hảo hạng đấy.
Một lát im lặng. “Hừm, ngon tuyệt. Tracy, hôm nay em muốn làm gì nào?
Chúng ta có thể dùng tắc xi đi Rotterđam đấy”.
“Sao mình không ở nhà mà nghỉ ngơi nhỉ?”.
“Nghe được đấy”.
Daniel Cooper biết ý nghĩa của từ “nghỉ ngơi” lắm, và miệng ông ta mím lại.
“Nữ hoàng đã tặng một ngôi nhà mới cho trẻ mồ côi đó em”.
“Tất quá. Em nghĩ rằng người Hà Lan mến khách và hào phóng nhất thế giới này. Họ yêu tự do, họ ghét các luật lệ, các quy định này nọ”.
Có tiếng cười. “Tất nhiên. Vì vậy cả hai chúng ta đều mến họ đến thế”.
Một cuộc trò chuyện buổi sáng bình thường giữa hai người đang yêu. Họ thật sự thoải mái và dễ chịu với nhau, Daniel Cooper nghĩ. Nhưng cô ta sẽ phải trả giá.
“Nhân nói tới chuyện hào phóng tiếng Jeff. “Em biết ai nữa đang ở khách sạn này không?” Ông bạn lánh mặt Maximllian Pierpont đấy. Anh đã lỡ dịp gặp ông ta trên tàu Nữ hoàng Elizabeth II.
“Còn em thì lỡ dịp gặp ông ta trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông”.
“Có thể là ông ta tới đây để cướp đoạt một công ty nào đó Giờ đây đã gặp lại ông ta, có lẽ chúng ta nên làm một vụ gì đó em nhỉ. Ý anh muốn nói là chừng nào ông ta còn đang làm hàng xóm của mình ấỵ .... Tiếng cười của Tracy. “Em còn muốn gì hơn thế nữa, anh yêu dấu”.
“Anh biết chắc rằng ông bạn của chúng ta có thói quen mang theo bên mình những cổ vật vô giá, Anh có ý định rằng ...”.
Một giọng nói khác, như giọng phụ nữ, vang lên.
“Chào ông, chào bà. Ông bà có muốn phòng được dọn bây giờ không ạ”.
Ông Duren quay sang thám tử Witkamp. “Tôi muốn có một độl bám sát Pierpont. Bất cứ lúc nào Whitney hoặc Stevens có bất kỳ một kiểu tiếp xúc gì với ông ta, tôi muốn được biết ngay”.
Thanh tra Duren đang báo cáo vớl Ủy viên trưởng cảnh sát Tom Wil1ems.
“Thưa ông, họ có thể bám theo bất kỳ một mục tiêu nào. Họ tỏ ra quan tâm nhiều tới một người Mỹ ở đây, người có tên là Maximllian Pierpont họ tham dự cuộc họp của những người chơi tem, họ tới xem viên kim cương Iuculian ở nhà máy gia công kim cương, và đã đành hai giờ đồng hồ với bức Phiên gác đêm.
“Đánh cắp bứcPhiêng ác đêm” tôi Không. Không thể được”.
Ông Ủy viên ngả người trên ghế, băn khoăn không biết có phải là đang phung phí. một cách ngớ ngẩn thời gian và nhân lực quý giá của mình không.
Quá nhiều dự đoán và đều không đủ cơ sở thực tế. “Vậy là tới lúc này, ông vẫn không biết mục tiêu của họ là gì?”.
“Đúng vậy, thưa ông Ủy viên trưởng. Tôi không đám chắc là bản thân họ đã quyết định gì chưa. Nhưng khi nào họ quyết định điều đó, họ sẽ báo cho chúng tôi ngay”.
Willems cau mặt. “Báo cho các ông ư?”.
“Dạ, những cái máy nghe trộm”, Duren giải thích “Họ không hề biết là đang bị nghe trộm mà”.
Điểm đột phá đầu tiên của cảnh sát xảy tới vào lúc 9 giờ sáng hôm sau.
Tracy và Jeff đang ăn sắp xong bữa sáng của họ. Tại vị trí nghe trộm ở tầng trên có mặt Daniel Cooper, thanh tra Joop van Duren và thám tử Witkamp. Họ nghe thấy cả tiếng cà phê đang được rót vào ly ở phòng dưới.
“Tracy này, có một món hấp dẫn đây. Ông bạn của chúng ta đúng đấy. Em nghe nhé:
Nhà băng Amro sắp chuyển 5 triệu đô la vàng khối cho công ty Đông Ản Hà Lan”.
Ở căn phòng trên tầng trên, thám tử Witkamp thốt lên. “Không thể có cách nào ...”.
“Suỵt”.
Họ lắng nghe.
“Em không biết 5 triệu đô la vàng khối thì nặng chừng bao nhiều nhỉ?”.
Tiếng Tracy.
“Anh có thể nói với em chính xác, em yêu ạ. Sáu trăm mười tám kilôgam, khoảng sáu mươi bảy thỏi vàng. Điều thú vị là ở chỗ vàng thì hoàn toàn vô hình.
Em nấu chảy nó ra, vậy là nó có thể thuộc về ai cũng được. Tất nhiên là mang được những thỏi vàng đó ra khỏi đất Hà Lan cũng chẳng dễ dàng gì”.
“Ngay cả nếu mình có thể làm được điều đó thì vấn đề là ở chỗ làm sao mà chiếm được chúng đã chứ? Khơi khơi đi vào nhà băng mà nhặt lấy à?”.
“Đại khái là thế đấy”.
Anh cứ đùa”.
“Anh không bao giờ đùa giỡn với thứ tiền bạc loại đó cả. Sao chúng ta lại không tới nhà băng Amro mà nhìn ngó một chút nhỉ, Tracy?
“Anh đã có ý đồ gì chưa”.
“Trên đường đi anh sẽ nói”.
Có tiếng đóng cửa.
Thanh tra Duren vê vê những sợi ra mép. “Không. Họ không có cách nào động tới những thỏi vàng đó được. Chính tôi đã phê duyệt các biện pháp đảm bảo an ninh mà”.
Cooper nói thẳng tuột. “Nếu có một khuyết tật nào đó trong hệ thống an ninh của nhà băng thì thể nào Tracy Whitney cũng sẽ phát hiện ra”.
Thanh tra Duren cố kìm cơn giận. Thằng cha người Mỹ xấu xí này thật đáng ghét, ngay từ khi đặt chân tới đấy Thật khó lòng tha thứ cho thái độ trịch thượng của hắn. Thế nhưng thanh tra Duren là một cảnh sát mẫu mực, vả lại ông ta đã đượe lệnh là phải hợp tác với cái gã đàn ông nhỏ thó và kỳ quái này.
Viên thanh tra quay sang Witkamp. “Tôi muốn anh tăng cường đội theo dõi.
Ngay lập tức. Tôi muốn bất kỳ ai quan hệ với họ đều bị chụp hình và tra xét. Rõ chưa?”.
“Vâng, thưa ông thanh tra”.
“Và phải rất thận trọng đấy, tôi nhắc trước. Không được để họ biết là đang bị theo dõi”.
“Vâng, thưa ông thanh tra”.
Ông Duren nhìn Cooper. “Đó, ông cảm thấy yên tâm hơn chưa?”.
Cooper không thêm trả lời.
Trong năm ngày tiếp theo đó, Tracy và Jeff đã làm cho thanh tra Duren bận bịu suốt, còn Daniel Cooper thì thận trọng xem xét tất cả các báo cáo hàng ngày. Về đêm, khi các thám tử khác đã rời vị trí nghe trộm thì bao giờ Cooper cũng nán ở lại. Ông ta lắng im nghe cặp uyên ương làm tình với nhau ở căn phòng bên dưới. Khó mà nghe thấy gì, nhưng trong đầu ông ta như đang nghe tiếng Tracy rên rỉ đầy cảm khoái. Ôi, nữa anh yêu, nữa nữa. Ôi, Chúa ơi, em không thể chịu ... Nào, nào anh ...”.
Tiếp theo là những tiếng thở gấp gáp và một sự im lặng êm dịu, mượt mà.
Mi sẽ sớm thuộc về ta thôi, Cọoper nghĩ. Không kẻ nào còn có mi được nữa.
Ban ngày, Tracy và Jeff đi riêng rẽ, và dù đi bất kỳ đâu họ đều bị cảnh sát bám theo. Jeffghé vào một hiệu in nhỏ và hai thám tử từ bên kia đường thấy anh ta có một câu chuyện đầy vẻ hào hứng với ông chủ hiệu. Khi Jeff tới, một trong hai thám tử bám theo, còn người kia vào hiệu in chìa thẻ cảnh sát có ba vạch chéo đỏ,. trắng và xanh da trời ra.
“Người đàn ông vừa ra khỏi đây. Anh ta muốn gì?”.
“Anh ta dùng sắp hết danh thiếp, muốn tôi in thêm cho anh ta”.
“Đưa tôi xem mẫu nào”.
Người chủ hiệu in đưa ra một mẩu giấy viết tay:
CƠ QUAN AN NINH AMSTESĐAM CORNELIUS PHỤ TRÁCH ĐIỀU TRA.
Hôm sau nữ thám tử Fien Hauer đã đứng đợi bên ngoài một cửa hiệu bán chim cá cảnh trên phố Leideeplein trong lúc Tracy đi vào trong. Mười lăm phút sau nàng trở ra và Fien Hauer vào hiệu chìa thẻ cảnh sát ra.
“Người phụ nữ vừa rời khỏi đây, cô ta muốn gì?”.
“Cô ta mua một bình cá vàng, hai con vẹt nhỏ, một con hoàng yến và một con chim câu”.
Một việc thật lạ. “Ông muốn nói đó là một con chim câu bình thường, có phải không?”.
“Vâng, nhưng không có cửa hiệu nào nuôi sẵn cả. Tôi bảo sẽ tìm cho cô ta sau”.
“Ông sẽ gửi mấy con chim, con cá này tới đâu?”.
“Tới khách sạn Amstel, nơi cô ta ở”.
Ở phía bên kia thành phố, Jeff gặp viên phó chủ tịch của nhà băng Amro và đã nói chuyện riêng với ông ta chừng ba mươi phút. Khi Jeff rời khỏi nhà băng, một thám tử bèn đi vào văn phòng giám đốc.
“Về người mới ra khỏi. Xin .cho biết vì sao anh ta tới”. Ông Wilson ấy à?
Ông ấy là điều tra viên của công ty bảo vệ nhà băng, nơi chúng tôi đặt quan hệ.
Họ đang chỉnh lại hệ thống an ninh của nhà băng mà”.
“Ông ta có yêu cầu gì ông về các biện pháp an ninh hiện nay không?”.
“Vâng, dĩ nhiên là có”.
“Và ông đã nói hết với ông ta chứ?”.
“Tất nhiên, nhưng trước tiện tôi đã cẩn thận gọi điện hởi trước về sự ủy thác cho ông ta rồi”.
“Ông gọi cho ai?”.
“Cho cơ quan an ninh, số máy được in trên chứng minh thư của anh ta”, Ba giờ chiều hôm đó, một chiếc xe tải bọc thép dừng bánh trước cửa nhà băng Amro. Từ bên kia đường, Jeff bấm máy chụp hình chiếc xe, trong khi từ một cái cổng gần đó, một thám tử khác đang chụp hình Jeff.
Tại bộ chỉ huy cảnh sát ở Elandsgracht, thanh tra Duren đàng bày những bằng chứng tới tấp thu thập được lên trên mặt bàn làm việc của Ủy viên trưởng cảnh sát Toon Willems. A “Tất cả những thứ này có ý nghĩa gì vậy?” Ông Ủy viên hỏi với cái giọng khô và the thé.
Cooper lên tiếng. “Tôi sẽ nói để các ông biết cô ta đang mưu tính gì”. Giọng ông ta đầy vẻ hằn học. “Cô ta đang mưu toan cướp xe vàng kia”.
Họ nhìn ông ta chằm chằm.
Ủy viên trưởng cảnh sát Willems nới. “Và tôi cho rằng ông cũng biết cô ta toan làm việc đó bằng cách nào chứ?”.
“Đúng vậy”. Ông ta biết cái mà bọn họ không biết.
Ông ta biết Tracy tới tận con tim và khối óc. Ông ta đã đặt mình vào trong Tracy để có thể suy nghĩ, tính toán rồl dự đoán mọi hành động của nàng. “Cô ta định dung một xe tải cải trang và ập đến nhà băng trước cál xe thật rồi cuỗm chỗ vàng mang đi”.
“Nghe có vẻ thiếu tự nhiên lắm, ông Cooper ạ Thanh tra Duren xen vào.
“Tôl không biết kế hoạch, của họ là gì, nhưng tôi quả quyết họ đang có một âm mưu gì đó, thưa ông Ủy viên trưởng. Chúng tôi có băng ghi âm các cuộc nói chuyện của họ mà”.
Daniel Cooper chợt nhớ đến các âm thanh khác mà ông ta mường tượng thấy:
những tiếng thì thầm ban đêm, những hiếng kêu khe khẽ và những tiếng rên rỉ đầy hoan lạc Cô ả giống như con chó cái đang động cỡn vậy. Hừ, ông ta sẽ tống cô ta vào một nơi mà không thằng đàn ông nào có thể sờ tới được nữa.
Viên thanh tra tiếp tục nói. “Họ đã biết về các quy định của nhà băng. Họ biết thời điểm mà chiếc xe bọc thép kia tới nhận hàng và..”.
Ủy viên trưởng cảnh sát xem kỹ lại bản báo cáo trước mặt. “Hai con vẹt, một con chim câu, cá vàng, một con hoàng yến - ông có nghĩ ba cái thứ này có mối quan hệ quái quỷ với vạ cướp kia không?”.
“Không”, Duren đáp.
“Có”, Cooper lên tiếng.
Nữ thám tử hạng nhất Fien Hauer, trong bộ đồ xuềnh xoàng màu xanh nước biển bám theo Tracy Whitney dọc phố Prinsengracht và ngang qua cầu Magere. Khi Tracy sang tới bờ kênh bên kia thì Fien Hauer nhìn theo tuyệt vọng vì nàng bướe vào một buồng điện thoại công cộng và đứng nói chuyện tới năm phút đồng hồ.
Gunther Hartog, từ đầu dây bên kia ở London đang nói. “Chúng ta éo thể tin cậy ở Margo, nhưng có lẽ nó cần có thời gian - ít nhất lả hai tuần lễ nữa”. Ông ta ngừng lời lắng nghe giây lát rồi tiếp. “Tôi hiểu. Khi tất cả đã sẵn sàng, tôi sẽ liên lạc với cô. Thận trọng nhé. Và cho tôi gửi lời thăm Jeff”.
Tracy gác ống nghe và bước ra, gật đầu ra ý chào người phụ nữ trong bộ đồ màu xanh nước biển đang đứng chờ đến lượt ở ngoài.
Trưa hôm sau, một thám tử báo với thanh tra Duren. Tôi đang có mặt ở hãng cho thuê xe vận tải Wolter. Jeff Stevens vừa thuê một xe tải ở đây”.
“Loại xe gì?”.
“Xe chuyên dụng, thưa ông thanh tra”.
“Kiếm số liệu về kích thước xe ngay. Tôi sẽ chờ trên máy”.
Ít phút sau, thám tử kia trở lại. “Tôi đã có chúng đây. Chiểc xe tải đó ...”.
Thanh tra Duren cắt ngang. “Là một xe tải hạng vừa, dài sáu mét, rộng hai mét mốt, cao một mét tám, hai cầu”.
“Vâng, thưa ông thanh tra. Làm sao ông biết ạ?”.
“Không hỏi. Màu gì?”.
“Xanh da trời”.
“Ai đang theo Stevens hả?”.
“Jacobs ạ”.
“Tốt. Còn anh quày về đây ngay”.
Joop van Duren gác máy, ngước nhìn Daniel Cooper.
“Ông đúng đấy, trừ việc chiếc xe có màu xanh da trời”. “Hắn sẽ mang nó tới hiệu sơn xe mà”.
Hiệu sơn xe thuộc một xưởng sửa chữa ô tô nằm trên đường Damrak. Hai người thợ đang xì một lớp sơn màu xám bạc lên chiếc xe tải, còn Jeff thì đứng gần đó. Từ một chổ khuất trên xưởng máy, một thám tử chụp những tấm hình nhờ ánh sáng tự nhiên.
Một giờ sau các tấm hình đã nằm trên bàn thanh tra Duren.
Ông ta đẩy chúng tôi tới trước mặt Daniel Cooper. “Nó đang được sơn màu giống hệt màu của chiếc xe thật. Ông biết đấy, giờ thì ta có thể tóm cổ chúng rồi”.
“Vì tội gì mới được chứ? Vì đã đặt in mấy cái danh thiếp giả và sơn cái xe tải kia à? Cách duy nhất để có lời buộc tội chắc chắn là tóm cổ chúng vào đúng lúc chúng cuỗm chỗ vàng kia”.
Thằng cha khốn kiếp cứ làm như hắn là người chỉ huy cơ quan cảnh sát này vậy. Duren tức tối. “Ông nghĩ bước tiếp theo của hắn là gì?”.
Cooper thận trọng xem xét các bức ảnh. “Chiếc xe này không chịu nổi trọng lượng của ngần ấy vàng. Chúng sẽ phải làm lại thùng xe”.
Đó là một cái xưởng sửa xe nhỏ cách xa mặt đường ở trên phố Muider.
“Chúc ông một buổi sáng tốt lành. Tôi phục vụ gì cho ông được a?”, “Tôi sắp phải chở một ít sắt vụn bằng cái xe này”, Jeff giải thích. “Và tôi không dám chắc là sàn xe có thể chịu nổi. Tôi muốn gá thêm vào một ít thanh thép ngang. Ông làm được không?”.
Ông thợ bước tới xem xét. “Được. Không khó khăn gì”.
“Tôi có thể hoàn thành vào thứ sáu”.
“Tôi đang hy vọng sẽ dùng nó vào ngày mai cơ đấy”.
“Buổi sáng ư? Không thể. Tôi ...”.
“Tôi sẽ trả gấp đôi”.
“Thứ năm nhé”.
“Ngày mai. Tôi sẽ trả gấp ba”.
Ông thợ đưa tay xoa xoa cằm có vẻ nghĩ ngợi. “Mấy giờ ngày mai nào?”.
“Buổi trưa”.
“Được”.
Ít giây sau khi Jeff rời khỏi xưởng, một thám tử tra hỏi ông thợ kia.
Cũng trong sáng hôm đó, đội theo dõi Tracy đã bám theo nàng tới bến cảng trên kênh Schans, nơi nàng nói chuyện tới nửa giờ đồng hồ với chủ một con tàu hãng nhỏ.
Khi Tracy bỏ đi, một trong số các thám tử bước lên tàu.
Anh ta tự giới thiệu với ông chủ tàu, người đang nhấm nháp một ly rượu Gin lớn.
“Người phụ nữ trẻ đó muốn gì?”.
“Cô ấy và chồng định đi chơi trên các dòng kênh. Và đã thuê tàu của tôi một tuần lễ đấy”.
“Bắt đầu từ bao giờ”.
Thứ sáu. Đó là dịp nghỉ ngơi tuyệt vời. Nếu ông và vợ ông muốn ...”.
Anh chàng thám tử đã quay đi.
Con chim bồ câu mà Tracy đặt mua từ cửa hiệu chim và cá cảnh đã được chuyển tới khách sạn cho nàng trong một chiếc lồng xinh xắn. Daniel Cooper đến cửa hiệu đó và chất vấn người chủ hiệu.
“Ông đã gửi cho cô ta con chim câu loại gì vậy?”.
“Ồ, ông biết à, một con bồ câu bình thường thôi”.
“Ông bảo đảm rằng nó không phải là một con chim đưa thư chứ?”.
“Chắc chắn”. Ngứời đàn ông cười khùng khục trong cổ.
“Lý do để tôi nói không phải là chim đưa thư là việc tôi tóm nó được đêm qua ở công viên Vondel mà”.
Sáu trăm kilô vàng và một con chim cậu thường? Tại sao? Daniel Cooper băn khoăn.
Năm ngày trước khi bắt đầu chuyển vàng từ nhà băng Amro, một đống hình đã được chất trên mặt bàn làm việc của thanh tra Duren.
Mỗi tấm hình là một mắt xích đưa tới việc bắt giữ cô ta, Daniel Cooper nghĩ.
Cảnh sát Amstesđam không có óc tưởng tượng, thế nhưng Conper phải cho họ thấy cái lợi của sự cẩn thận. Mọi hành động dẫn tới vụ phạm tội sắp xảy ra đểu được chụp hình và lên hồ sơ. Không có lối nào cho Tracy Whitney thoát khỏi sự trừng phạt của công lý.
Sự trừng phạt đối với cô ta sẽ là sự cứu rỗi của mình. Cooper nghĩ.
Hôm lấy chiếc xe tải mới sơn lại, Jeff lái nó đến một ga ra nhỏ mà anh đã thuê sẵn, kề khu Oude Zijds Kolk, một khu phố cổ kính nhất của Amstesđam.
Người ta cũng chuyển tới ga ra này sáu thùng gỗ rỗng ngoài có in chữ THIẾT BỊ MÁY.
Một tấm hình chụp các thùng gỗ này nằm trên mặt bàn thanh tra Duren trong lúc ông ta đang nghe lại cuốn băng ghi âm mới nhất. Tiếng Jeff.” Khi em lái từ nhà băng ra bến tàu, nhớ giữ trong tốc độ giới hạn. Anh muốn biết thời gian cần cho đoạn đường này là bao nhiêu.
“Anh không đi cùng em à, anh yêu?”.
“Không. Ánh sẽ bận lắm”.
“Còn Monty thì sao?”.
“Anh ta sẽ đến vào đêm thứ năm”.
Thanh tra Duren hỏi. “Tay Monty này là ai vậy?”.
“Anh ta có thể là người đóng vai người bảo vệ an ninh thứ hai”, Cooper đáp.
“Chúng sẽ cần tới quân phục đấy”.
Cửa hàng quần áo nằm ở phố Pieter Cornelisz Hooft, trong một khu trung tâm dịch vụ. Tôi cần hai bộ quân phục cho một buổi dạ hội hóa trang”, Jeff nói với người bán hàng. “Giống như bộ mà ông bày trong tủ kính cửa sổ kia kìa”.
Một giờ sau thanh tra Duren đã đang xem tấm ảnh chụp bộ quân phục.
Anh ta đặt mua hai bộ này. Anh ta nói với người bán hàng là sẽ đến lấy vào thứ năm”.
Kích thước bộ quân phục thứ hai cho thấy rõ là dành cho một người to béo hơn Jeff Stevens rất nhiều. Viên thanh tra nới, “Ông bạn Monty của ta sẽ phải cao tới 1m90 và nặng chừng một tạ. Chúng ta sẽ yêu cầu Interpol đưa các số liệu này vào máy tính của họ”, ông ta nói với Daniel Cooper, “và chúng ta sẽ có nhận dạng của ông ta”?
Trong cái ga ra riêng để thuê, Jeff đang vắt vẻo trên nắp xe, còn Tracy thì đang ngồi trên ghế lái.
“Em sẵn sàng chưa?” Jeff gọi. “Nào”.
Tracy nhấn một cái nút bấm trong bảng đồng hồ của buồng lái. Hai tấm bạt lớn được buông xuống hai bên thành xe, trên đó là dòng chữ BIA HEINEKEN HÀ LAN.
“Được đấy, Jeff vui vẻ.
BIA HEINEKEN HÀ LAN? Thanh tra Duren đưa mắt nhìn các thám tử tập hợp trong buồng làm việc của ông ta. Một loạt hồ sơ và hình ảnh được ghim lên khắp các bức tường.
Daniel Cooper ngồi mãi tận cuối phòng, im lặng.
Trong chừng mực quan tâm của Cooper thì cuộc họp này là một sự phung phí thời giờ. Ông ta đã dự đoán trước mọi hành động mà Tracy và nhân tình của cô ta sẽ thực hiện. Họ đã bước vào cái bẫy và cái bẫy đó đang khép kín lại Nhưng trong khi các thám tử đang có cảm giác hồi hộp mỗi lúc mỗi tăng thì Cooper lại thấy mơ hồ khó chịu.
“Tất cả các chi tiết đều khớp đâu vào đấy”, thanh tra Duren tiếp tục nói.
“Những kẻ tình nghi biết trước thời gian mà chiếc xe tải bọc thép kia phải tới nhà băng:
Họ dự định đến sớm trước nửa giờ, đóng giả làm các nhân viên an ninh. Khi mà cái xe thật kia đến thì họ đã kịp chuồn?” Ông Duren chỉ vào bức hình chụp chiếc xe tải bọc thép. “Họ sẽ rời khỏi nhà băng trong một chiếc xe giống như thế này, nhưng sau một đoạn phố, trên một đường nhánh nào đó”, ông ta chỉ sang tấm hình chụp chiếc xe tải có dòng chữ BIA HEINEKEN.
“Chiếc xe tải đột nhiên mang vẻ như thế này”.
Một thám tử ngồi phía sau lên tiếng. “Họ sẽ mang vàng ra khỏi lãnh thổ chúng ta bằng cách nào, thưa ông thanh tra?”.
Ông Duren chỉ vào tấm hình Tracy đang bước lên chiếc tàu hàng nhỏ. “Đầu tiên bằng con tàu này. Đất Hà Lan chằng chịt những kênh rạch đến mức họ có thể lạc lối ấy chứ”. Ông ta chỉ bức ảnh chụp từ trên không chiếc xe tải đang chạy dọc bờ kênh. “Họ đã chạy thử để xem từ nhà băng ra đến bến tàu mất bao nhiêu thời gian. Có thừa thời gian để đỡ vàng xuống tàu và rời bến trước khi ai đó nghi ngờ gì”. Ông Duren bước lại tấm hình cuối cùng chụp một chiếc tàu hàng. “Hai ngày trước đây, Jeff Stevens đã đặt thuê chỗ chở hàng trên chiếc Oresta, rơi bến Rotterdam vào tuần sau. Hàng của anh ta được lên danh mục là thiết bị máy, cảng đến là Hồng Kông”.
Ông ta hướng mặt lại những người ngồi trong phòng. “Ồ thưa quý vị, chúng ta sẽ thay đổi một ít trong kế hoạch của họ. Chúng ta sẽ để ho chuyển vàng ra khỏi nhà băng trên chiếc xe tải của họ. Ông ta nhìn Daniel Cooper và mỉm cười.
“Bắt quả tang. Chúng ta sẽ bắt giữ hai kẻ láu lỉnh này tại hiện trường”.
Một thám tử đã bám theo Tracy đến chi nhánh điện tín Mỹ, nơi nàng nhận một gói hàng có kích thước trung bình rồi lập tức trở về khách sạn.
“Không có cách nào để biết trong gói hàng đó có cái gì”, thanh tra Duren nói với Cooper. “Chúng tôi đã lục soát cả hai phòng của họ khi họ rời khỏi khách sạn, và không thấy gì mới trong đó cả”.
Cái máy tính của Interpol đã không thể cung cấp thông tin gì về gã Monty nặng một tạ kia.
Tại khách sạn Amstel, chiều tối thứ năm. Daniel Cooper, thanh tra Duren và thám tử Witkamp cùng có mặt lắng nghe các tiếng nới từ phòng bên dưới.
Tiếng Jeff. “Nếu mà ta đến nhà băng đúng ba mươi phút trước chiếc xe kia thì điều đó sẽ cho chúng ta nhiều thời gian để xếp hàng lên rồi chuồn đi. Khi mà chiếc xe thật đến thì chúng ta đang chuyển vàng xuống tàu rồi”.
Tiếng Tracy:
“Em đã cho thợ máy kiểm tra lái chiếc xe tải và đổ đầy xăng.
Sẵn sàng cả rồi”.
Thám tử Witkamp lên tiếng, “Kể cũng đáng ngưỡng mộ. Họ không để mảy may cho cơ hội xấu nào xảy ra”.
Sớm muộn gì họ cũng sẽ mắc sai lầm”, thanh tra Duren nói cộc lốc.
Daniel Cooper im lặng, lắng nghe, Tracy, khi vụ này qua đi, em nghĩ thế nào về việc khai quật mà mình đã nói chuyện hả?”.
“Vụ Tunisia ư” Nghe thú vị lắm, anh yêu ạ”.
“Tốt. Anh sẽ thu xếp. Từ giờ trở đi ta không làm gì cả ngoài việc nghỉ ngơi và thưởng thức cuộc sống này”.
Thanh tra Duren lầm bầm, “Tôi thì cho rằng trong hai mươi năm tới họ sẽ được chăm sóc chu đáo”. Ông ta đứng lên và vươn vai. “Ồ, tôi cho là chúng ta có thể ngủ được rồi. Mọi thứ sẽ được định đoạt vào sáng mai, và rồi tất cả chúng ta sẽ lại được ngủ ngon”.
Daniel Cooper không thể nào ngủ được. Ông ta hình dung ra cảnh Tracy bị cảnh sát bắt giữ và như thể trông thấy nỗi khiếp sợ trên mặt nàng. Điều đó kích động ông ta. Cooper đi sang buồng tắm, mở nước nóng và thả người nằm vào bồn nước đang bốc hơi mù mịt. Chuyện đã sắp xong, và cơ ta sẽ phải trả giá, cũng như ông đã buộc các ả đàn bà khốn kiếp khác phải trả giá. Giờ này ngày mai, ông ta sẽ đang trên đường trở về nhà. Không, không phải là nhà Daniel tự chữa lại - trở lại căn hộ của mình. Còn nhà ư? Đó là cái nơi bình an, ấm cúng mà mẹ ông ta từng yêu dấu ông ta hơn bất kỳ ai khác trên thế gian này.
“Con là người đàn ông nhỏ của mẹ”, bà nói:
“Mẹ không biết sẽ ra sao nếu không có con”.
Ông bố đã biến mất khi Daniel lên bốn và lúc đầu cậu ta luôn tự trách mắng mình, nhưng mẹ cậu đã giải thích rằng đó là vì một phụ nữ khác. Cậu đã thù ghét người phụ nữ khác kia vì cô ta đã làm mẹ cậu khóc. Cậu chưa bao giờ nhìn thấy cô ta nhưng cậu biết rằng cô ta là đồ đĩ thỏa bởi lẽ cậu nghe thấy mẹ gọi cô ta như vậy. Về sau này, cậu sung sướng vì người phụ nữ đó đã mang cha cậu đi, và cậu được có mẹ chỉ cho riêng mình. Những mùa đông ở Minesota đều lạnh giá và mẹ Danlelcho phép cậu được nằm cùng gi.ường với những chăn nệm ấm sực.
“Một ngày nào đó con sẽ cưới mẹ”. Daniel hứa hẹn và mẹ cậu cười vang, vuốt ve mái tóc cậu.
Ở trường, Daniel luôn luôn đứng đầu lớp. Cậu muốn mẹ có thể tự hào về cậu.
“Chị Conper, chị có cậu con trai thật sáng láng”.
“Cảm ơn. Chẳng có ai thông minh như người đàn ông bé nhỏ này của tôi cả”.
Khi Daniel lên bảy tuổi, mẹ cậu bắt đầu thường mời một người đàn ông hàng xóm, cao to, lông lá, sang nhà ăn cơm tối và Daniel bị ốm. Cậu nằm liệt gi.ường với trận sốt dữ dội, và mẹ cậu đã hứa không bao giờ làm thế nữa. “Mẹ chẳng cần ai trên thế gian này ngoài con ra, Daniel ạ”, mẹ cậu nói.
Không ai có thể sung sướng như Daniel. Mẹ cậu là người phụ nữ đẹp nhất thế giới này. Khi mẹ vắng nhà, Daniel thường lẻn vào phòng ngủ của mẹ và mở các ngăn tủ đựng quần áo. Cậu thường lấy mấy đồ lót của mẹ ra vả xoa xoa thứ tơ lụa óng ả đó lên má mình. Chúng có mùi thơm thật tuyệt diệu.
Cooper đang nằm trong bồn nước ấm tại khách sạn Amstel, mắt nhắm nghiền, nhớ lại cái ngày khủng khiếp mà mẹ ông ta bị giết. Hôm đó là sinh nhật thứ mười hai của Daniel. Cậu được nhà trường cho về sớm vì bị đau tai.
Cậu giả bộ như đau nhiều hơn, bởi lẽ muốn lúc về đến nhà, mẹ sẽ vuốt ve cậu và bế cậu lên gi.ường, rồi cuống quít lên bên cậu. Daniel bước vào nhà, đi đến phòng ngủ của mẹ và thấy mẹ đang nằm trần truồng trên chiếc gi.ường mà hai mẹ con vẫn thường nằm, nhưng không phải chỉ có một mình. Mẹ đang làm những điều mà cậu không thể nói ra được, với người đàn ông hàng xóm. Daniel đứng nhìn trong khi mẹ cậu mải hôn lên bộ ngực lông lá và cái bụng phệ kia, và rên rỉ, “Ôi, em yêu anh”.
Và đó là điều khó nói ra nhất. Daniel chạy về phòng tắm của mình, nôn ọe lung tung ra khắp người. Cậu cẩn thận cởi quần áo và lau rửa sạch sẽ. Cái tai cậu giờ đây thật sự đau đớn. Cậu nghe thấy có tiếng nói ngoài hành lang và lắng nghe.
Mẹ cậu đang nói. “Anh nên về đi, anh yêu. Em còn phải tắm táp và mặc quần áo. Daniel sắp từ trường về rồi. Em cần làm tiệc sinh nhật nó. Em sẽ gặp anh vào ngày mai, anh yêu ạ”.
Có tiếng cửa trước đóng lại và tiếng nước chảy trong phòng tắm của mẹ cậu.
Có điều người đó không còn là mẹ cậu nữa. Đó là một người đàn bà đĩ thỏa làm những điều dơ bẩn trên gi.ường với bọn đàn ông.
Cậu bước vào phòng tắm của mẹ và mẹ cậu đang ở trong bồn tắm, bộ mặt với vẻ đĩ thỏa tươi cười. “Daniel yêu quí! Kìa con”.
Cậu cầm trong tay một cái kéo cắt vải to tướng.
“Daniel ...” Miệng mẹ cậu há to, nhưng không hề có âm thanh nào cho đến lúc cậu đâm nhát lầu tiên vào ngực con người xa lạ đang trong bồn tắm kia.
Cùng với tiếng kêu của mẹ là tiếng hét của cậu. “Đĩ thỏa! Đĩ thõa! Đĩ thỏa!”.
Những tiếng hét hòa lẫn vào nhau cho đến sau cùng chỉ còn tiếng hét của cậu. “Đĩ thõa ... Đĩ thõa ...”.
Máu tươi đầm khắp người. Cậu bước vào dưới vòi sen và tắm anh kỳ cọ cho đến khi thấy rát cả người.
Người đàn ông kia đã giết mẹ câu, và người đó phải trả giá.
Sau đó mọi việc diễn ra một cách thật chậm chạp và rõ ràng đến kỳ lạ.
Daniel dùng một cái khăn lau sạch dấu tay trên chiếc kéo và ném nó vào trong bồn tắm. Cậu mặc quần áo và điện thoại cho cảnh sát. Hai xe đến ngay, với còi rú ầm ĩ, và rồi một xe nữa chở các nhân viên điều tra, họ hỏi Daniel, và cậu đã kể rằng cậu được nhà trường cho về sớm, rằng cậu nhìn thấy người hàng xóm Fred Zimmer, đi ra bằng cửa phụ. Khi họ tra hỏi người đàn ông kia, ông ta thú nhận là từ nhận của mẹ cậu, nhưng phủ nhận việc giết bà.
Chính lời làm chứng trước tòa đã kết tội Zimmer “Khi từ trường trở về, cháu thấy người hàng xóm, Fred Zimmer, chạy ra cửa phụ à?”.
“Thưa ông, vâng”.
“Cháu nhìn có rõ không?”.
“Thưa ông, rõ. Có máu đầy trên tay ông ta mà”.
“Khi đó cháu làm gì, Daniel?”.
“Cháu ... cháu sợ quá. Cháu biết rằng có chuyện gì đó khủng khiếp xảy ra với mẹ cháu rồi”.
“Rồi cháu đi vào nhà chứ?”.
“Thưa ông, vâng”.
“Vậy rồi sao?”.
“Cháu gọi to; mẹ ơi. Và không thấy tiếng trả lời, nên cháu đi vào phòng tắm của mẹ, và ...”.
Tới lúc này, cậu bé nức nở và được dẫn ra ngoài.
Fred Zimemer bị hành quyết vào mười ba tháng sau.
Trong thời gian đó, cậu bé Daniel được gửi tới sống với một người bà con xa ở Texas, dì Mattie, mà tới lúc đó cậu mới được biết mặt. Dì là một người đàn bà khắc nghiệt, đầy tín ngưỡng mạnh mẽ và tin rằng ngọn lửa địa ngục luôn chờ thiêu đốt những kẻ có tội. Đó là một ngôi nhà không có tình yêu thương, niềm vui hay phiền muộn gì cả, và Daniel đã lớn lên trong bầu không khí ấy, khiếp sợ với tội lỗi bí mật của cậu và sự trừng phạt đang chờ đợi.
Ngay sau cái chết của mẹ, mắt Daniel bắt đầu bị lệch.
Các bác sĩ kết luận đó là một căn bệnh do thần kinh bị tác động quá mạnh.
Các mắt kính cậu phải mang ngày càng dày hơn.
Tới tuổi mười bảy, Daniel chạy trốn khỏi dì Mattie.
Cậu đi nhờ xe tới New York, nơi cậu được nhận vào làm một chân chạy giấy của Hiệp hội bảo hiểm quốc tế. Chỉ trong vòng ba năm, cậu được đề bạt lên thành một điều tra viên, rồi trở thành thám tử giỏi nhất của hãng. Cậu không hề đòi tăng lương hoặc cải thiện điều kiện làm việc gì cả Cậu không nghĩ tới những thứ đó. Cậu là cánh tay phải của Chúa trời, là lưỡi gươm trừng phạt của người.
Daniel Cooper ra khỏi bồn tắm và sửa soạn đi ngủ.
Ngày mai, ông ta nghĩ. Mai sẽ là ngày con đĩ kia bị trừng phạt thích đáng.
Ông ta lấy làm tiếc rằng mẹ mình không còn sống để thấy sự trừng phạt đó.
 
Chương 34


AMSRECDAM.
Thứ sáu, 22 tháng Tám - 8 giờ.
Daniel Cooper và hai thám tử túc trực tại vị trí nghe trộm đã nghe cuộc trò chuyện của Tracy và Jefftrongbữa sáng.
“Uống cà phê không, Jeff?”.
“Không, cảm ơn”.
Daniel Cooper thầm nghĩ, đó sẽ là lần cuối cùng họ có thể ăn sáng với nhau.
“Anh có hồi hộp về chuyện gì không”. Chuyến đi tàu trên kênh đấy”.
“Hôm nay là một ngày trọng đại, thế mà em thì hồi hộp vì chuyến đi trên kênh ư”. Tại sao vậy?”.
“Bởi vì chỉ có hai chúng ta. Anh có nghĩ là em bị điên không”.
“Chắc chắn rồi. Còn chính em cũng là sự điên rồ của anh đấy”.
“Hôn nhé”.
Và tiếng họ hôn nhau.
Cô ta sẽ phải sợ hãi chứ không phải là hồi hộp, Cooper nghĩ bụng. Mình sẽ buộc cô ta phải sợ hãi.
“Dù sao thì em cũng thấy buồn khi phải dời khỏi đây Jeff ạ”.
“Chúng ta đâu có còn là những kẻ non nớt gì trên cuộc đời này”.
Tiếng cười của Tracy. “Anh nói ...”.
Lúc 9 giờ sáng, câu chuyện của hai người vẫn tiếp tục và Cooper nghĩ họ sẽ cần phải sẵn sàng hành động. Họ sẽ phải xem xét lại kế hoạch một lần nữa ở phút chót. Còn thằng cha Monty kia thì sao nhỉ? Họ sẽ đón hắn ở đâu được?
Tiếng Jeff. “Em yêu này, em sẽ cảm ơn người gác cửa một câu trước khi trả phòng chứ? Anh sẽ bận lắm đấy”.
Tất nhiên rồi. Ông ta thật tuyệt vời. Tại sao không có những người gác cửa như thế ở Mỹ nhỉ?”.
“Anh cho rằng đó chỉ là một tập quán ở Âu châu thời. Em có biết nó bắt đầu từ bao giờ không?”.
“Không anh ạ”.
“Ở nước Pháp, hồi năm 1927 vua Hugh cho xây một nhà ngục ở Paris và giao cho một nhà quý tộc trông nom. Nhà vua đặt tước hiệu cho ông ta là conte đes cierge hay concierge, có nghĩa là “bá tước của các ngọn nến”. Tiền lương của ông ta là hai đồng vàng và đám tro trong lò sưởi của nhà vua. Sau này, bất kỳ ai trong nom một nhà tù hay một pháo đài đều được gọi là concierge, và sau cùng, từ này chỉ cả những người trông nom trong các khách sạn”.
Họ đang nói chuyện quái gì thế nhỉ? Cooper băn khoăn. Đã 9 giờ 30. Đã đến lúc họ phải đi rồi mà.
Tiếng Tracy. “Đừng có kể cho em là anh biết chuyện đó từ đâu nhé - chắc anh từng cặp với một cô gác cửa xinh đẹp nào rồi”.
Một gọng phụ nữ lạ. “Xin chào cô, chào ông”.
Giọng Jeff. “Không cớ cơ gác cửa xinh đẹp đâu”.
Giọng phụ nữ, hốt hoảng:
“Tôi không hiểu chuyện gì cả”.
Giọng Tracỵ:
“Em cược rằng nếu có, chắc anh đã phát hiện ra họ ngay”.
“Cái quỷ quái gì đang diễn ra ở dưới đó thể hả?”.
Cooper hỏi.
Một thám tử đáp, vẻ ngỡ ngàng. “Tôi không biết. Cô hầu phòng đang gọi điện báo cho người phụ trách phòng. Cô ta vào để quét dọn, nhưng nói là cô ta không hiểu chuyện gì cô ta nghe tiếng người nới, nhưng không thấy ai cả”.
“Cái gì hả?” Cooper lao ra cửa và chạy như bay xuống cầu thang. Vài giây sau hai thám tử kia xông vào phòng của Tracy:
Căn phòng trống rỗng trừ cô hầu phòng đáng bối rối. Trên bàn dùng để uống cà phê, một cái máy ghi âm đang chạy.
Tiếng Jeff. “Anh nghĩ là anh sẽ uống lại cà phê. Có nóng không em?”.
Tiếng Tracy:
“A, ha ...”.
Cooper và hai thám tử đứng nhìn chết trận, không tin vào mắt mình nữa.
“Tôi ... tôi không hiểu”, một trong hai thám tử lắp bắp. Cooper quát lên, “Số máy gọi cảnh sát khẩn cấp là bao nhiêu?”.
“22 - 22 - 22”.
Cooper vội đến bên máy điện thoại và quay số.
Tữ băng ghi âm tiếng Jeff vẫn vang lên, “Em thấy đấy, anh thực sự nghĩ rằng cà phê của bọn họ ngon hơn cà phê của ta. Không biết họ pha thế nào?”.
Cooper thét vào máy. “Đấy là Daniel Cooper. Tìm ngay thanh tra Duren. Nói với ông ta rằng Whitney và Stevens đã biến mất. Yêu cầu ông ta cho kiểm tra ở ga ra kia xem cái xe tải của họ đã đi chưa. Tôi đang trên đường tới nhà băng”.
Ông ta gác máy đánh rầm.
Tiếng Tracy. “Anh đã bao giờ uống cà phê có đánh lẫn vỏ trứng ở trong đó chưa? Thật hoàn hảo”.
Cooper đã ra khuất.
Thanh tra Duren nói. “Ổn cả thôi. Chiếc xe tải đã rời ga ra của bọn chúng, đang trên đường tới đây”.
Duren, Cooper và hai thám tử nữa đang ở vị trí chỉ huy của cảnh sát đặt trên nóc một tòa nhà cao tầng nhìn trực diện xuống nhà băng Ámro ...
Viên thanh tra nói. “Có thể chúng đã đẩy sớm kế hoạch lên khi biết là chúng bị nghe trộm, nhưng cứ yên trí, ông bạn của tôi. Nhìn kìa? Ông ta đẩy Cooper tới bên chiếc ống kính nhìn xa đặt ở đó. Trận đường phố phía bên dưới, một người đàn ông trong bộ quần áo của người gác cổng đang chăm chú đánh bóng cái biển đồng mang tên nhà băng ... một người quét đường đang quét dọn ... một người bán báo đang đứng ở góc phố ... Tất cả đều được trang bị máy bộ đàm mini.
Duren nói vào máy bộ đàm của ông ta. “Chốt A?”.
Người gác cổng đáp, “Tôi nghe rõ, thưa ông thanh tra”.
“Chốt B?”.
“Tôi nghe ngài đây”.Câu trả lời phát ra từ người quét đường.
“Chốt C?”.
Người bán báo ngẩng đầu nhìn lên và gật đầu.
“Chốt D?”.
Ba công nhân kia ngừng tay, và một trong số họ nói vào máy. “Ở đây tất cả đều sẵn sàng, thưa ngài”.
Viên thanh tra quay sang Cooper. “Đừng lo ngại gì hết. Vàng vẫn nằm yên trong nhà băng. Chỉ đến đây thì chúng mới có thể mó tới vàng. Ngay khi chúng vào nhà băng, cả hai đầu phố sẽ bị bịt lại, không có lối thoát nào cho chúng cả.
Ông ta nhìn đồng hồ. “Chiếc xe tải sắp xuất hiện bây giờ lấy”.
Bên trong nhà băng, không khí căng thẳng mỗi lúc một tăng. Các nhân viên đều đã được phổ biến, và những người bảo vệ được lệnh phải giúp đỡ vào việc chất hàng lên xe tải khi nó đến. Tất cả đều phải hợp tác thuận lợi.
Các thám tử cải trang phía bên ngoài nhà băng vẫn tiếp tục làm việc, luôn quan sát đường phố để sớm phát hiện chiếc xe tải.
Trên nóc nhà cao tầng. Thanh tra Duren đã hỏi đến lần thứ mười, “Thấy bóng dáng chiếc xe chết tiệt kia chưa?”.
Thám tử Witkamp nhìn đồng hồ. “Chúng đã chậm tới mười ba phút rồi. Nếu chúng ...”.
Chiếc máy bộ đàm lại hoạt động. “Ông thanh tra! Chiếc xe tải vừa xuất hiện?
Nó đang chạy ngang đường Rozengracht, hướng về phía nhà băng. Trong vòng một phút nữa thì từ trên nóc nhà ông có thể trông thấy nó đấy”.
Bầu không khí đột nhiên như bị tích điện.
Thanh tra Duren nói nhanh vào bộ đàm. “Các đơn vị chú ý. Cá đang vào lưới. Hãy để chúng lọt vào hẳn đã”.
Một chiếc xe tải bọc thép màu xám tiến tới cổng nhà băng và dừng lại. Trong lúc Coơper và Duren quan sát, hai người đàn ông mặc quân phục an ninh nhảy ra khỏi xe và đi vào nhà băng. “Cô ta đâu? Tracy Whitney đâu?”.
Daniel Cooper kêu lên.
“Không sao cả”, thanh tra Duren nói. “Cô ta sẽ không ở xa chỗ vàng đâu”.
Và ngay cả như thế đi nữa, Daniel Coơper nghĩ, cũng không có gì quan trọng các băng ghi âm sẽ kết tội cô ta.
Các nhân viên nhà băng, đầy hồi hộp, giúp hai người mặc quân phục kia chất các thanh vàng từ trong két sắt lên các xe đẩy và đẩy ra chỗ chiếc xe tải. Từ trên nóc nhà cao, Cooper và Duren chăm chú theo dõi mọi di động.
Việc xếp hàng mất tám phút, Khi hai cửa sau của chiếc xe tải đã được khóa lại và hai người đàn ông kia chuẩn bị trèo vào buồng lái. Thanh tra hét vào máy bộ đàm. “Các đơn vị ập vào? Ập vào”.
Sự hỗn loạn bùng lên. Người gác cổng, người bán báo, mấy người công nhân và một nhóm đông các thám tử khác lao tới chỗ chiếe xe tải bọc thép, vây lấy nó, sung lăm lăm trong tay. Tất cả các tuyến giao thông hướng tới đoạn phố này đều bị chặn lại.
Thanh tra Duren quay sang Cooper và mỉm cười. “Với ông thế là đã quả tang chưa? Ta hãy kết thúc vụ này nhé”.
Cuối cùng, vậy là xong! Cooper nghĩ.
Họ vội vã xuống phố. Hai người đàn ông kia đang đứng úp mặt vào tường, tay giơ lên, bao quanh là các thám tử tay cầm súng. Daniel Cooper và Duren rẽ lối bước vào.
Duren nói, “Giờ thì các anh có thể quay mặt lại được, Các anh đã bị bắt”.
Hai người đàn ông quay lại, mặt tái xanh. Cooper và Duren giật mình nhìn họ. Hoàn toàn lạ mặt.
“Các các anh là ai?” Thanh tra Duren hỏi.
“Chúng tôi là nhân viên bảo vệ của cơ quan an ninh”, một trong hai người lắp bắp. “Đừng bắn. Xin đừng bắn”.
Thanh tra Duren quay sang Cooper. “Kế hoạch của chúng có trục trặc”.
Giọng ông ta giận dữ. “Chúng đã hủy bỏ rồi”.
Có một cái gì đó tắc nghẹn trong cổ họng Daniel Cooper, và khi cất lời lên được, giọng ông ta tắc nghẹn.
“Không. Không có gì trục trặc hết”.
“Ông nói sao?”.
“Chúng chưa bao giờ theo đuổi chỗ vàng này. Toàn bộ những bày đặt này chỉ là một cái bẫy để nhử chúng ta thôi”.
“Không thể thế được! Tôi muốn nói đến chiếc xe tải, chiếc tàu chạy trên kênh, các bộ quân phục ... và chúng ta có những tấm hình ...”.
“Ông không hiểu à? Chúng biết từ đầu là ta theo dõi chúng suốt thời gian qua mà”.
Mặt thanh tra Duren trắng bệch ra. “Ôi, lạy Chúa tôi? Chúng ở đâu lúc này?”.
Trên phố Potter ở khu Coster, Tracy và Jeff đang đi tôi nhà máy gia công kim cương Hà Lan. Jeff mang râu, ria mép giả và đã hóa trang khuôn mặt. Anh mặc bộ đồ thể thao, tay xách cái túi lớn. Tracy mang bộ tóc giả màu đen, dưới làn váy là cái bụng bầu tròn căng, mặt trát son phấn, mang kính đen, xách một cái valy cỡ lớn và một gói tròn tròn bọc trong giấy nâu. Hai người đi vào phòng tiếp khách và hòa vào đám đông các du khách đang lắng nghe người hướng dẫn viên nói. “Và bây giở, mời các quý bà, quý ông đi theo tôi. Các vị sẽ thấy các thợ cắt gọt kim cương của chúng tôi đang làm việc và sẽ có dịp mua được vài viên kim cương tuyệt đẹp”.
Với người hướng dẫn đi trước, đám đông đi qua các cửa dẫn vào phía trong nhà máy. Tracy hòa vào họ, trong lúc Jeff tụt lại đằng sau. Khi đám khách khuất qua cửa, Jeff quay người đi nhanh xuống một đoạn cầu thang dẫn tới tầng hầm.
Anh mở túi lấy ra bộ đồ bảo hộ lao động lem nhem, bước tới bên hộp cầu dao điện và đưa tay nhìn đồng hồ.
Ở trên gác, Tracy cùng đám đông đi từ phòng này sang phòng khác trong lúc người hướng dẫn viên giới thiệu các công đoạn gia công khác nhau để có được các viên kim cương đẹp đẽ từ các viên kim cương thô nguyên thủy. Thỉnh thoảng Tracy lại liếc nhìn đồng hồ. Chương trình tham quan đã bị chậm năm phút so với kế hoạch và nàng chỉ ước ao người hướng dẫn viên hay đi nhanh hơn một chút.
Sau cùng, vòng tham quan cũng kết thúc, họ đã tới phòng triển lãm. Người hướng dẫn viên bước tới bên cái bệ mà quanh nó chăng sợi dây thừng óng ả bằng nhung.
“Trong hộp kính này”, anh ta tự hào cất tiếng, “là viên kim cương Lucullan, một trong số những viên kim cương quý nhất thế giới. Nó đã từng được một diễn viên sân khấu nổi tiếng mua tặng người vợ, một minh tinh màn bạc. Nó được định giá mười triệu đô la và được bảo vệ chu đáo bằng các thiết ...”.
Ánh sáng vụt tắt. Ngay lập tức, chuông báo động réo vang và các tấm mành sắt đóng rầm rầm lại ở các cửa sổ và cửa ra vào, bịt chặt tất cả các lối ra. Một vài du khách sợ hãi hét lên.
“Xin bình tĩnh?” Anh ta hét lên át tiếng ồn ào. “Không có gì đáng lo ngại hết. Đó chỉ là một sự cơ về điện. Trong giây lát máy phát điện dự phòng sẽ ...”.
Ánh điện lại bật sáng.
“Quý vị thấy chưa”. Anh ta trấn an họ. “Không có gì phải lo lắng cả”.
Một khách du lịch người Đức chỉ những tấm mành sắt hỏi. “Kia là những cái gì?”.
“Một đảm bảo an toàn”, người hướng dẫn viên giải thích, anh ta lấy trong túi ra một chiếc chìa khóa hình thù kỳ cục và cắm nó vào một cái khe nhỏ trên tường, xoay chìa. Các tấm mành sắt đang bịt kín cửa sổ và cửa ra vào được kéo lên. Máy điện thoại trên chiếc bàn kề đó đổ chuông và người hướng dẫn viên nhấc ống nghe.
“Hendrik đây. Cảm ơn ông đội trưởng. Không, mọi thứ đều tốt đẹp. Một cú báo động nhầm thôi. Có thể là do chập điện. Tôi sẽ cho kiểm tra lại ngay. Vâng, thưa ông”.
Anh ta gác máy và quay lại nhóm khách. “Xin lỗi quý bà, quý ông. Không có cẩn thận nào là thừa với một viên kim cương quý giá như thế này. Bây giờ là dành cho những ai trong quý vị muốn mua một vài viên kim cương tuyệt đẹp của chúng tôi ...”.
Ánh sáng lại phụt tắt. Chương báo động réo vang và một lần nữa các tấm mành sắt lại sập xuống.
Một phụ nữ trong đám đông la lên. “Harry, chúng ta rời khỏi đây thôi anh ạ”.
“Em có im miệng đi không, Olane?” Chồng cô ta càu nhàu.
Ở tầng hầm bên dưới, Jeff đứng trước hộp cầu dao điện lắng nghe tiếng náo loạn của đám du khách phía trên. Anh đợi giây lát rồi lại đóng cầu dao. ở tầng trên, ánh điện lại bật sáng.
“Thưa quý bà, quý ông”, người hướng dẫn viên gào lên, cố át tiếng ồn ào.
“Đó chỉ là một trục trặc kỹ thuật”.
Anh ta lại lấy chiếc chìa khóa ra, cắm vào cái khe nhỏ trên tường. Các tấm mành sắt lại được kéo lên.
Chuông điện thoại reo vang. Người hướng dẫn viên vội chạy lại cầm ống nghe. “Hendrik đây. Không, thưa ông đội trưởng. Vâng. Chúng tôi sẽ sửa lại trong thời gian nhanh nhất có thể. Cảm ơn ông”.
Một cánh cửa bật mở, Jeff bước vào, mang theo họp đồ nghề, cái mũ công nhân của anh hất ngược ra sau gáy.
Anh đưa mắt kiếm người hướng dẫn viên.
“Có gì vậy? Ai đó báo có sự cố trong mạch điện”.
“Đèn lúc sáng lúc tắt”, người hướng dẫn viên giải thích.
“Xem anh có thể sửa lại nhanh được không nào?” Anh ta quay sang phía các du khách và cố nở nụ eười trên mời. “Tại sao chúng ta không lại gần đây để quý vị có thể chọn lấy vài viên kim cương xinh đẹp với giá phải chăng nhỉ?”.
Nhóm du khách bắt đầu đi vào phía các tủ kính trưng bày kim cương, Jeff tranh thủ lúc không ai để ý, lấy trong túi quần ra một vật nhỏ và quẳng nó vào sau trụ đô cái hòm kính đựng viện kim cương Lucullan. Một đám khói dày đặc bốc lên kèm theo những tia lửa.
Jeff gọi người hướng dẫn viên. “Này! Có chỗ trục trặc kia kìa. Chạm mạch ở mạng điện dưới sàn”.
Một nữ du khách kêu toáng lên. “Cháy!”.
“Mọi người hãy bình tĩnh” Người hướng dẫn viên nói lớn. “Không việc gì phải hoảng hốt. Hãy cứ yên tâm”. Anh ta quay sang Jeff, giục giã. “Sửa ngay đi!
Mau lên?”.
“Không khó khăn gì” Jeff nói bình tĩnh. Anh bước lại gần sợi thừng nhung chăng quanh cái bệ trên đặt hòm kính.
“Không được?” Người bảo vệ nói lớn. “Anh không thể đến gần nó được”.
Jeff nhún vai. “Với tôi thì được thôi. Ông đi sửa vậy”.
Anh quay người bước đi.
Khói tràn ra ngày một dày đặc và mọi người lại bắt đầu hoảng hốt.
“Gượm đã?” Người hướng dẫn viên năn nỉ. “Đợi một chút nào” Anh ta chạy lại bên điện thoại và quay máy.
“Ông đội trưởng đấy à? Hendrik đây. Tôi buộc phải đề nghị ông tạm ngưng toàn bộ hệ thống báo động. Chúng tôi đang gặp phải một rắc rối nhỏ. Vâng, thưa ông”. Anh ta đưa mắt nhìn Jeff. Anh cần ngưng bao lâu hả?
“Năm phút”. Jeff đáp.
“Năm phút”, người hướng dẫn viên lặp lại vào máy.
Anh ta gác máy. “Hệ thống báo động sẽ được ngắt sau đây mười giây. Hãy vì Chúa, mau lên nhé. Chúng ta chưa bao giờ ngắt hệ thống báo động cả”.
Tôi chỉ có hai bàn tay thôi, ông bạn ạ”. Jeff đợi mười giây rồi bước vào bên trong những sợi dây thừng và tới gần cái bệ. Hendrik ra hiệu cho người bảo vệ có vũ trang kia, người ấy gật đầu và dán mắt vào Jeff.
Jeff tỉnh bơ lúi húi làm việc ngay sau cái bệ. Người hướng dẫn viên bất hạnh quay sang nhóm khách. “Bây giờ, thưa các quý bà, quý ông, như tôi vừa nói, ở đây chúng ta có cả một bộ sưu tập những viên kim cương bán theo giá thỏa thuận. Chúng tôi chấp nhận thẻ mua hàng, séc du lịch. Anh ta cười cười, “và cả tiền mặt”.
Tracy đang đứng trước dãy tủ kính. Nàng cất tiếng hỏi lớn. “Các ông có mua kim cương không?”.
Người hướng dẫn viên nhìn nàng. “Cái gì ạ?”.
“Chồng tôi là người đi tìm vàng. Anh ấy mới từ Nam Phí trở về và muốn bán những viên kim cương này đây”.
Vừa nói, nàng vừa lật nắp chiếc vali hộp vẫn xách trên tay, nhưng vì có lẽ đang cầm úp sấp nên một số những viên kim cương lấp lánh chảy ào xuống rơi tung tóe khắp sàn.
“Kim cương của tôi”. Tracy gào lên. “Giúp tới với”.
Tất cả chìm trong giây lát im lặng rồi một sự náo loạn bùng lên. Đám đông lịch sự kia bỗng chốc hóa thành một lũ điên. Họ bò toài người ra sàn để nhặt kim cương, xô đẩy lẫn nhau.
“Tôi vớ được vài ...”.
“Vơ lấy một nắm đi, John”.
“Buông ra, nó là của tôi ...”.
Người hướng dẫn viên và người bảo vệ đứng chết lặng, không nói nên lời.
Họ bị cái đám người tham lam kia đẩy bật ra một bên khi họ cuống cuồng vơ nhét những viên kim cương vào đầy túi quần túi áo. Người bảo vệ quát lên “Lùi lại! Ngừng ngay? Và chưa dứt lời đã bị xô ngã xuống sàn. Một nhóm du lịch người Ý bước vào, và khi hiểu ra chuyện, họ lao ngay vào cươc. Người bảo vệ cố nhỏm dậy để có thể phát tín hiệu báo động nhưng không thể được vì hên tục bị chen lấn, xô đẩy. Họ dày xéo lên eả người anh ta. Tất cả đột nhiên cứ như đến ngày tận thế vậy. Sau cùng, khi người gác loạng choạng đứng dậy được, anh ta vội vã lách qua đám đông hỗn loạn đến bên cái hòm kính đặt trên bệ, đứng nhìn nó trân trối, không tin vào mắt mình nữa.
Viên kim cương Lueullan đã biến mất.
Người phụ nữ có bầu và anh chàng thợ điện kia cũng không thấy đâu.
Tracy trút bỏ hóa trang của nàng trong một phòng vệ sinh công cộng ở công viên Oster, cách nhà máy vài dãy phố. Mang theo cái bọc gói trong tờ giấy màu nâu, nàng bước lại cái ghế băng đặt trong công viên. Mọi việc đã diễn ra hoàn hảo. Nàng nghĩ tới đám đông chen lấn nhau để giành giật những hạt ziricon vô giá trị kia và bật cười. Jeff đang đi về phía nàng, trong một bộ complê màu xám sẫm; bộ râu và ria mép đã biến mất. Tracy vụt đứng dậy, Jeff bước lại bên nàng và mỉm cười. “Anh yêu em nhiều”, anh nói và đưa tay lấy viên kim cương Lucullan ra khỏi túi áo gilê, đưa cho Tracy. “Chuyển nó cho bạn của em đi, em yêu. Hẹn gặp lại em sau nhé”.
Tracy trông theo, trong lúc Jeff thong thả bước đi, mắt nàng ngời sáng. Họ đã là của nhau. Họ sẽ đi trên hai chuyến máy bay khác nhau và gặp nhau ở Braxin, và sau đó họ sẽ ở bên nhau suốt cả quãng đời còn lại.
Tracy ngó quanh để yên tâm rằng không có ai nhìn mình, rồi mở cái túi đang cầm trên tay. Trong đó là một cái lồng nhỏ nhất một con chim câu màu xám biếc. Ba ngày trước đây, khi nhận con này về khách sạn từ hang điện tín Mỹ, Tracy đã thả con chim câu kia khỏi cửa sổ vả nhìn nó vụng về bay đi. Giờ đây, Tracy lấy ra cái túi da nhỏ xíu và cẩn thận cho viên kim cương vào đó. Nàng tóm con chim ra khỏi lồng và thận trọng buộc cái túi vào chân con chim.
Mảrgo, cô bé thông minh. Hãy mang nó về nhà nhé”.
Không biết từ đâu, một cảnh sát mặc đồng phục chỉnh tề xuất hiện. “Ngồi yên? Cô cho rằng mình đang làm gì vậy hả?”.
Tim Tracy thót lại. “Có ... gì rắc rối vậy, thưa ngài?”.
Mắt ông ta nhìn chằm chằm vào cái lồng và ông ta bực tức nói. “Cô biết rắc rối gì rồi đó. Cho những con chim này ăn là một chuyện, nhưng bẫy chúng để nhất vào lồng là một hành động vi phạm pháp luật. Bây giờ cô hãy thả ngay nó ra trước khi tôi phải tuyên bố bắt giữ cô”.
Tracy thở phào. “Tôi xin nghe lời ông, thưa ông sĩ quan”.
Nàng tung con chim lên không. Một nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt nàng trong lúc nhìn theo con chim câu đang bay vút lên cao, cao mãi. Nó lượn một vòng tròn rồi nhằm bay về London, 230 dặm về hướng Tây. Gunther đã bảo cô một con chim câu đưa thư trên đường về bay trung bình tới bốn mươi dặm một giờ; vậy là Marge, trong vòng sáu giờ nữa sẽ về đến chỗ ông ấy.
“Đừng có bao giờ làm thế nữa”, viên cảnh sát cảnh cáo Tracy.
“Tôi sẽ không bao giờ làm thế nữa, thưa ông”, Tracy thành thật hứa.
Cuối chiều hôm đó, Tracy có mặt ở sân bay Schiphol đang vào cổng để lên chuyến bay đi Braxin. Daniel Cooper đứng ở một góc xa chăm chăm nhìn nàng, ánh mắt đầy vẻ tức tối. Tracy đã đánh cắp viên kim cương Lucullan. Cooper biết vậy ngay từ lúc nghe tin này. Đó là phong cách của cô ta, táo bạo và giàu trí tưởng tượng. Thế nhưng không làm gì được cả. Thanh tra Duren đã cho người gác phòng triển lãm xem các tấm hình chụp Tracy và Jeff. “Không phải. Tôi chưa bao giờ thấy hai người này. Tên tội phạm kia có râu và ria mép còn má và mũi có vẻ béo hơn cô. Người phụ nữ mang những viên kim cương thì có bầu và mái tóc màu sẫm”.
Cảnh sát cũng đã không hề thấy tung tích gì của viên kim cương. th.ân thể và hành lý của Jeff và Tracy đều đã được khám xét kỹ lưỡng. “Viên kim cương nhất định còn ở Amstecđam”. Thanh tra Duren quả quyết với Cooper.
“Chúng ta sẽ tìm thấy nó”. Không đâu, ông không thể - Cooper bực dọc nghĩ, Cô ta hẳn đã thay đổi những con chim câu. Viên kim cương đã bị mang ra khỏi lãnh thổ Hà Lan bằng một con chim đưa thư rồi.
Cooper nhìn theo bất lực trong lúc Tracy đi ngang qua phòng đợi lớn. Nàng là kẻ tội phạm đầu tiên đã đánh bại ông ta. Vì nàng mà ông ta phải sa xuống địa ngục mất.
Khi bước tới cổng vào để lên máy bay, Tracy ngập ngừng một khoảnh khắc, rồi quay lại nhìn thẳng vào mắt Cooper. Nàng biết rằng ông ta rình rập từng bước chân nàng trên khắp châu Âu, như một thứ hung thần báo oán vậy. Ở ông ta có cái gì đó kỳ dị, vừa khủng khiếp đe dọa, vừa thật thương tâm. Đột nhiên, không hiểu thế nào, Tracy cảm thấy buồn cho ông ta. Nàng khẽ vẫy tay từ biệt trước khi quay người bước đi. Daniel Cooper bất giác sờ tay vào lá đơn xin thôi việc bỏ trong túi áo ngực mình.
Đó là chiếc 747 sang trọng của hãng Pan American, và Tracy ngồi trong số ghế 4B bên lối đi ở khoang hạng nhất. Nàng thấy hồi hộp lạ thường. Chỉ ít giờ nữa nàng sẽ được bên Jeff. Họ sẽ làm đám cưới ở Braxin. Thôi những trò mạo hiểm - Tracy nghĩ thế nhưng mình sẽ nhớ những chuyện đó biết bao. Nhưng cũng chẳng sao mình biết chắc thế. Chỉ trở thành bà Jeff Stevens là cuộc sống của mình đã đủ sung sướng làm rồi.
“Xin thứ lỗi”.
Tracy ngước nhìn lên một người đàn ông béo mập, trạc tuổi trung niên, đầy vẻ phóng đãng đang đứng bên nàng.
Ông ta chỉ cái ghế bên cửa sổ. “Đó là chỗ của tôi cô bé”.
Tracy quay nghiêng người để ông ta có thể đi qua chỗ nàng. Và vì chiếc váy ngàn nàng đang mặc hơi bị co lên, ông ta đưa mắt nhìn cặp chân nàng vẻ thích thú.
“Hôm nay đẹp trời quá nhỉ?” Giọng ông ta đầy vẻ khêu gợi.
Tracy quay đi. Nàng không hề có hứng thú bắt chuyện với một khách đồng hành nào cả. Nàng còn bao nhiêu điều muốn nghĩ tới - cả một cuộc sống mới mà. Họ sẽ ổn định cuộc sống ở đâu đó và sẽ trở thành các công dân kiểu mẫu, thành ông bà Jeff Stevens đáng kính trọng.
Ông khách ngồi bên dùng cùi tay huých nhẹ vào nàng. “Vì rằng chúng ta sẽ ngồi bên nhau suốt cả chuyến đi này, cô bé ơi, tại sao cô và tôi lại không làm quen nhau nhỉ? Xin tự giới thiệu, tôi là Maximilian Pierpont”.

Hết
 
×
Quay lại
Top