Hoa tư dẫn [Tác giả: Đường Thất Công Tử]

Phần 4:Trọn đời bình an - Chương 01
Ngày hôm sau chúng tôi rời Bối Trung, Chấp Túc đi theo còn được, nhưng Bách Lý Tấn một mực đòi đi theo thì quả rất thú vị.
Tôi và Quân Vỹ dự định giữa đường tìm cách bỏ rơi Chấp Túc và đám hộ vệ, cho nên biện pháp cuối cùng nghĩ ra là để Bách Lý Tấn đeo mặt nạ đóng giả tôi, còn tôi đeo mặt nạ đóng giả anh ta, ra khỏi Bối Trung đoàn sẽ chia làm hai ngả, Bách Lý Tấn đưa Chấp Túc, Tiểu Hoàng và đám hộ vệ tìm một lý do nào đó đi về hướng bắc, về hướng bắc, lại tiếp về hướng bắc, còn tôi và Quân Vỹ cưỡi ngựa truy phong đi Hạo thành, kinh đô Trần quốc gặp Quân sư phụ.
Lúc đầu Bách Lý Tấn phản đối rất dữ, nhưng ngoài anh ta chỉ có cách để Tiểu Hoàng đóng giả tôi, nếu vậy quả là quá khó.
Chuyện hành thích Trần vương tôi đã suy nghĩ rất nhiều, làm người phải giữ chữ tín, tôi được Quân sư phụ tái sinh trở lại nhân gian, sau khi chết vẫn có thể viên tròn ước nguyện mà suốt cả cuộc đời trước luôn day dứt tiếc nuối, cho nên bất luận thế nào cũng không thể nuốt lời, cho nên nhất định phải hành thích Trần vương.
Mộ Ngôn là tướng quân nước Trần, tôi biết, từ thượng cổ lương tướng trung thần có người trung thành với xã tắc, có người trung thành với quân vương, nhưng quả thực không thể đoán Mộ Ngôn thuộc loại nào, không dám hình dung chàng sẽ thế nào nếu biết tôi sẽ giết quân vương của chàng.
Ở đời có khi chuyện càng đơn giản càng khiến người ta đau đầu. Bất luận suy tính thế nào, đều khẳng định là thật thà chỉ có đường chết, muốn vẹn toàn cả hai, chuyện này chỉ có thể giấu Mộ Ngôn. Tôi nghĩ chỉ cần hoàn thành nhiệm vụ cuối cùng này là đời này tôi không nợ ai nữa, từ đó có thể theo chàng suốt đời đến tận chân trời góc bể.
Trên đường một lần nữa nghe tin thừa tướng Khương quốc Bùi Ý bị giết, dư luận xôn xao, cơ hồ thiên hạ đều cho rằng chuyện do nước Triệu gây ra, bàn tán rất nhiều, rằng Triệu vương bản tính nham hiểm, hành xử hà khắc. Trước giết Tô Dự, sau giết Bùi Ý, lòng lang dạ sói.
Những lời đồn đó từ đâu ra đại khái có thể đoán được, Bùi Ý thực ra là bị Công Nghi Huân giết, Công Nghi Phỉ nói đó vốn là nhiệm vụ của chàng ta, tất cả đều vì nước Trần, xem ra Tô Dự bắt đầu báo thù.
Ngày trước Khương vu cho Triệu giết Tô Dự, lúc này Trần giết Khương thừa tướng, lại tung ra tin đồn như vậy nhất định khiến Khương rối loạn, dễ cho rằng đó là đòn báo thù của Triệu, đâu có ngờ người đứng sau âm mưu này lại chính là nước Trần từng được thiên tử phong thưởng.
Mộ Ngôn đi Triệu chuyến này có lẽ là phụng mật lệnh của Tô Dự liên minh với Triệu vương, chắc chắn sẽ tiết lộ với Triệu chuyện Khương vu oan cho Triệu, từ đó xúi bẩy Triệu gây chiến với Khương, có lẽ không lâu nữa, chiến tranh Triệu, Khương sẽ khai hỏa.
Theo tôi, chọc vào người khó chọc còn nguy hiểm hơn yêu người không nên yêu, Bùi Ý cả gan chọc vào Tô Dự, quả nhiên bị mất mạng.
Trần thế tử Tô Dự, con người luôn khiến thiên hạ xoay như chong chóng, đằng sau tiếng thơm nhân hậu hiền đức che giấu bao thủ đoạn hiểm ác, vậy mà trên thiên tử dưới lê dân, ai cũng cho là thanh liêm chính trực, trượng nghĩa, thủ tín, đóng kịch giỏi như vậy quả thật là bậc quân vương bẩm sinh, nước Vệ bị diệt dưới tay anh ta tôi tâm phục khẩu phục.
Nhưng nói vậy thôi, lúc đó Vệ đã hủ bại đến thế, bị diệt bởi tay ai tôi cũng tâm phục khẩu phục.
Phóng ngựa đi hai ngày đường, qua bao nhiêu cảnh vật làng quê, cuối cùng đến Hạo thành. Thành ngoại có sông bao quanh, rộng mười trượng, hai bên bờ trồng liễu, mùa hè nắng gắt liễu soi mình tỏa bóng xuống sông, thỉnh thoảng có tiếng ve trong lá. Một toà thành thơ mộng như vậy, đâu đâu cũng một cảnh tượng du nhàn, trên đường phố thỉnh thoảng lại thấy những công tử nhà giầu phóng đãng tay cầm lồng chim dẫn theo vài ba nô tài đùa giỡn trêu chọc con gái nhà lành.
Quân Vỹ rất không tán đồng, cho rằng nhất định chúng tôi đi sai phương hướng, làm gì có kinh đô nào phóng túng như vậy, thực ra có lẽ anh ta chưa từng trải. Hạo thành kinh đô Trần quốc, một trong những kinh đô phồn thịnh nhất đại lục, nói trắng ra là người ta thế này là che mắt thiên hạ, sức mạnh ẩn dưới vẻ phù hoa hào nhoáng bên ngoài, trông càng phong lưu phóng đãng, ý chí càng kiên định khó lay.
Quân Vỹ nói đùa, nói vậy nghĩa là nơi ý chí kiên định khó lay nhất đại lục có lẽ là kỹ viện. Tôi lại thấy biết đâu đấy, sao dám khẳng định không phải thế.
Quân sư phụ chờ chúng tôi ở Tứ Hải Lầu, lữ quán lớn nhất Hạo thành, sư phụ cho rằng ở nơi hỗn tạp, rồng, rắn chen nhau như vậy mới dễ che mắt thiên hạ,
Chúng tôi được biết, thì ra động tĩnh mới của Trần vương thất chỉ là lễ mừng thọ Trần vương, lúc đó bá quan vào cung chúc tụng, tương đối dễ trà trộn vào, nhưng rút cục sư phụ định bố trí thế nào, tôi và Quân Vỹ cũng chưa biết, chỉ đoán là đây chính là nguyên do sư phụ từ núi Quân Vu cách xa ngàn dặm đích thân lặn lội đến đây.
Đang đêm Quân sư phụ gọi tôi và Quân Vỹ đến phòng, vốn tưởng bàn chuyện cơ mật gì, không ngờ sư phụ dùng dao rạch nhẹ ngón tay tôi, thản nhiên uống mấy giọt máu của tôi pha với nước trà lạnh, giống như Tống Ngưng đã làm ngày trước.
Không biết sư phụ định làm gì, tôi và Quân Vỹ băn khoăn nhìn nhau, đột nhiên nghe thấy sư phụ hỏi: “Lai lịch Hoa Tư dẫn thế nào, chắc hai con đã nghe nói?”. Thấy tôi và Quân Vỹ lắc đầu, sư phụ hơi ngừng lại, bỏ chiếc cốc trong tay xuống, chậm rãi giải thích: “Viên giao châu được phong ấn Hoa Tư dẫn thế gian chỉ có độc nhất một viên, không phải là thánh vật gì của Quân Vu giáo, mà là di vật của sư phụ ta để lại cho ta. Sư phụ của ta có lẽ hai con cũng từng nghe, mang họ kép Mộ Dung, tên là An.
Tôi sững người. Mộ Dung An. Đã sớm nghe danh sư xuất cao đồ, cao nhân như Quân sư phụ mặc dù từng nghĩ sư phụ của ông ắt phải là bậc cao nhân, nhưng nghĩ trăm lần cũng không thể nghĩ ra lại chính là Mộ Dung An.
Cái tên đã trở thành truyền kỳ, phàm những người liên quan đến bí thuật không ai không biết. Một trong những bí thuật sĩ cao minh nhất đông lục, có một tư dung siêu phàm trác việt vượt hết thảy thế gian, sư phụ Huệ Nhất tiên sinh của tôi đã từng vinh hạnh được gặp, ca tụng là nhan sắc tuyệt thế.
Ngồi lặng mãi mới cất lên lời, tôi kinh ngạc hỏi: “Nghe đồn Mộ Dung An chết hai mươi năm trước trong trận chiến Lịch Khâu giữa hai nước Khương - Trần, không biết năm đó có phải Mộ Dung An bị Trần vương h.ãm hại?”.
Ông nhắm mắt, rất lâu sau, giọng mơ hồ vang lên: “Trần vương Tô Hoành là sư đệ của ta”. Tôi lại lần nữa chấn động.
Trong đêm thu bóng nguyệt chan chứa, Quân sư phụ để cho chúng tôi nhìn thấy Hoa Tư điệu của ông, nói về quá vãng đã chôn vùi hơn hai mươi năm trước, cũng là nguyên nhân ông nhất quyết hành thích Trần vương.
Giọng ông khe khẽ, vang lên trong ánh nến yếu ớt: “Chuyện năm xưa sư phụ chưa bao giờ nói với ta, người biết chuyện chỉ cảm thấy Tô Hoành còn trẻ tuổi, sư phụ ta đã sai, nhưng họ quên mất một điều, sư phụ là một vong hồn, không quan tâm đến đạo đức nhân luân, còn Tô Hoành năm xưa tuy tuổi còn trẻ nhưng chưa chắc trong lòng đã không hiểu rõ, ta không tin định mệnh, nhưng rất nhiều năm sau hồi tưởng lại cũng không khỏi cảm thấy, gặp Tô Hoành có lẽ là hung mệnh của sư phụ ta...”.
Trong tiếng nhạc trầm trầm, từng cảnh trong câu chuyện Quân sư phụ vừa nói tới hiện ra trước mắt tôi, chuyện bắt đầu từ một đêm giữa hạ hai mươi nhăm năm trước.
Tôi nhìn thấy một rừng phong lụi tàn, trăng sáng treo trên trời cao, tỏa ánh rạng ngời. Nhưng rừng phong dưới ánh trăng lại đượm màu chết chóc yêu ma, tháng sáu vốn là mùa lá phong nảy nở tươi xanh, nhưng ở đây thân khô cành héo, lá úa vàng lay lắt trên cành, có gió thổi lại không thấy rung lay.
Cả khu rừng im lìm như chết, không tiếng chim, không tiếng côn trùng, không sinh khí.
Tôi đang nghi ngờ trước mắt là bức tranh hay là cảnh thực, bỗng thấy một thiếu niên áo đen cưỡi tuấn mã màu đen phi như bay vào rừng phong, móng ngựa đạp xào xạo trên lớp lớp lá khô tích tụ, quạ đêm không biết từ đâu kêu oang oác, rào rào rơi xuống như lá rụng.
Tiếng vó ngựa rầm rập vang lên phía sau chàng thiếu niên, tiếng vó ngựa dồn dập truy bức gần tới nơi, mấy mũi tên vút qua lá phong cắm vào thân cây, con tuấn mã của chàng thiếu niên đột nhiên giương vó hí vang một tiếng, có lẽ bị trúng tên. Tôi nhìn mà sởn da gà, cảm thấy thiếu niên bị truy đuổi cùng đường, chắc chắn phải chết, trong rừng bất chợt vang lên tiếng lục lạc tinh tang.
Tiếng vó ngựa phi gấp, tiếng tên lao vun vút, tiếng lục lạc tinh tang, cảnh tượng trước mắt giống như ảo giác. Càng lạ lùng hơn, cùng với tiếng lục lạc tinh tang mỗi lúc càng rõ càng tiến càng gần, rừng phong tàn im lặng như chết trong chớp mắt như được hồi sinh, như một bức tranh thủy mặc trải ra, rễ đâm tua tủa bên dưới đám lá mục, trên cành nảy chồi xanh, cảnh tiêu điều từ từ chìm xuống, cả rừng phong lập tức sống lại tràn trề sinh khí.
Sương mù từ mặt đất bốc lên, lẩn quất trong lá cây, trên không truyền đến tiếng cười trong như tiếng chuông bạc, một cái bóng màu đỏ thoáng vút trong sương mù, nhanh đến không kịp nhận ra, chỉ có tiếng lục lạc tinh tang vang vọng, tiếng ngựa hí, tiếng người kêu thảm loạn trong màn sương, lát sau tất cả đã yên tĩnh không một tiếng động. Sương mù tan dần, một thiếu nữ áo đỏ lộng lẫy tay cầm trường kiếm đứng trên cành phong, xung quanh hàng đàn bướm đỏ bay dập dờn.
Thiếu niên áo đen ngồi trên lưng ngựa, hơi ngửa mặt nhìn ân nhân cứu mạng, dưới ánh trăng, đôi đồng tử đen in bóng áo đỏ, cặp mày thanh, mắt hạnh đào, trên trán in hình con bướm đỏ giương cánh. Mái tóc đen thướt tha, dưới gấu váy đỏ lộ ra đôi chân trần trắng như tuyết, trên cổ chân nhỏ nhắn đeo chuỗi lục lạc bằng bạc sáng loáng.
Kiếm trong tay vẫn nhỏ máu, cô không bận tâm, nghiêng đầu liếc qua những xác chết ngổn ngang trên mặt đất, ánh mắt dừng lại trên đôi mắt đẹp của thiếu niên đang lặng lẽ nhìn mình: “Ngươi là ai? Tại sao lại đến đây?”.
Khóe mắt hơi nhếch lên, tươi cười, lời nói ra lại lạnh như băng: “Lẽ nào ngươi không biết, tự tiện xông vào rừng lá đỏ Phương Sơn ắt phải chết?”.
Thiếu niên thúc ngựa tiến lên hai bước, ánh mắt liếc qua gót chân trần của cô: “Cho dù là đêm mùa hạ, cô nương đi chân trần thế này, e sẽ bị cảm lạnh”.
Bướm đỏ đã bay mất từ lúc nào, trường kiếm cũng không thấy đâu, tiếng lục lạc lại vang lên trong không trung, gót hồng đã đậu trên đầu tuấn mã chàng thiếu niên đang cưỡi, tuấn mã vẫn đứng yên.
Cô hơi cúi xuống, tay phải nâng cằm chàng thiếu niên: “Ngươi không sợ ư?”.
Chàng hơi ngẩng đầu, nhìn cô: “Tại sao ta phải sợ?”.
Cô ngây ra một lúc rồi bật cười: “Thật là một nam nhi thú vị, ngươi nói thế khiến ta không muốn giết ngươi nữa”.
Chàng trai thấy mình được an toàn vẫn không đổi sắc mặt, ánh mắt một lần nữa liếc qua gót chân trần của cô: “Cô không đi giày”.
Cô nghiêng đầu: “Thế thì sao?”.
Ánh trăng chiếu lên khuôn mặt nghiêm trang hơi lạnh của chàng thiếu niên, giọng nói nhẹ như tuyết bay gió thoảng: “Trông cô thế này, cô định đi đâu?”, hơi dừng lại: “... Để tôi đưa cô về nhà”.
Thiếu niên thúc ngựa phóng về phía tay cô vừa chỉ, rừng phong phía sau chớp mắt lại trở về cảnh tượng chết chóc ban đầu. Vó ngựa vừa vút qua, một thiếu niên áo xanh từ sau cây phong chỗ cô gái vừa đứng ló ra, tay cầm đôi giày lụa thêu màu đỏ, khẽ thở dài, nhìn kỹ nhận ra đó chính là Quân sư phụ lúc tuổi đôi mươi.
Thời gian vụt trôi, thì ra cô gái áo đỏ đó chính là Mộ Dung An, còn thiếu niên áo đen chắc là Trần vương Tô Hoành thuở thiếu niên. Chăm chú xem cảnh đó, hai mươi tư năm trước Tô Hoành mười sáu tuổi, đúng rồi, lúc đó ông ta vẫn chưa là Trần vương, mà là Trần quốc Hoành công tử.
Nghe nói tự cổ chí kim, phàm những trang giai nhân tuyệt sắc tình trường đều trắc trở, nhưng Mộ Dung An mà sử sách ghi chép cơ hồ không bị vướng vào oan nghiệt đó, trái lại chính những trang nam nhi gặp cô, tình lộ ai ấy đều trở nên truân chuyên, trắc trở.
Trong số đó người nghĩ quẩn nhất phải kể đến tứ công tử Trang Kế của Hạ quốc. Không nhớ rõ bộ dã sử nào ghi chép, nói Trang Kế muốn cưới Mộ Dung An, sự không thành, đành ôm hận mà chết, mẫu thân chàng muốn xin Mộ Dung An một món tóc để táng theo chàng, nhưng vị công tử đã chết vì mình là ai Mộ Dung An cũng không biết.
Sử sách chỉ dừng ở đó, vốn tưởng chỉ là truyền thuyết dân gian không đáng tin, lúc này thông qua Hoa Tư điệu của Quân sư phụ mới thấy hóa ra chuyện có thật.
Ba tháng sau khi Trang Kế công tử qua đời, Mộ Dung An xuất hiện ở lầu xanh lớn nhất Hạo thành, mỗi ngày đều tiếp hai vị khách, khách lên lầu thù tạc họa thơ thưởng nguyệt không cần ngàn kim vạn bạc, nhưng nhất thiết phải kể cho cô nghe một câu chuyện tình. Bởi vong hồn trở lại trần thế đương nhiên không hiểu thế thái nhân luân, điều đó nói lên cái chết của Trang Kế công tử đã làm cô xúc động, ít nhất cũng khiến cô bắt đầu hiểu chữ tình rốt cuộc là gì?
Nhưng tình duyên của Mộ Dung An và Tô Hoành một khi đã bén không gì ngăn được, có ai ngờ, một con người lãnh đạm kiêu ngạo như Tô Hoành lại đến lầu xanh, gọi đích danh Mộ Dung An, mặc dù lầu chủ nói rõ, cô gái này hơi đặc biệt, không bán thân không bán nghệ, cô đến nơi này thuần túy chỉ vì muốn kiểm nghiệm khổ ải của nhân sinh...
Mộ Dung An trí nhớ không tốt. Khi Tô Hoành vén rèm bước vào mặc dù dung quang chẳng khác lần gặp ban đầu, ngoài không cưỡi tuấn mã đen, thậm chí xiêm áo cũng giống hệt đêm đó, nhưng cô ngẩn người không nhận ra chàng, vẫn ung dung co gối ngồi trên ghế quý phi, thần thái khoan thai, không nhìn khách thêm một lần: “Đêm nay chàng đến là để kể chuyện cho ta? Chàng mang đến câu chuyện thế nào?”.
Mắt cô vẫn nhìn đi nơi khác: “Ta biết một chàng công tử yêu một cô gái, mắc bệnh tương tư mà chết, câu chuyện của chàng liệu có ly kỳ như thế?”.
Chàng để cốc trà xuống bàn, “Chuyện đó có gì ly kỳ, chẳng qua là một người yếu đuối, vì không được thỏa mãn tham vọng, chết bất đắc kỳ tử mà thôi”.
Cô ngẩn người, cuối cùng quay lại nhìn chàng: “Vậy chàng đến đây không phải để kể chuyện ư?”.
Chàng nhìn qua cửa sổ, một khuôn mặt nhìn nghiêng vô cùng tuấn tú, thong thả nói: “Nàng nói đúng, ta xưa nay không biết kể chuyện. Chỉ là hai tháng trước ta không cẩn thận xông vào một khu rừng phong, được một cô gái áo đỏ cứu mạng, về sau chúng tôi chia tay, ta không thể nào tìm thấy nàng. Ta đến đây để hỏi có lẽ nàng biết cô gái ta cần tìm ở đâu?”.
Mắt cô lộ vẻ mơ màng, chăm chú nhìn chàng một lát, nhếch môi cười: “Là chàng sao?”.
Chàng không nói.
Cô hơi nghiêng đầu, như hồ nghi, tôi không nhận ra động tác của cô, khi định thần đã thấy cô chân trần đứng trước mặt chàng, giống như lần đầu họ gặp nhau, cô cúi xuống nhìn chàng, trước khi mở miệng còn giả bộ suy nghĩ nghiêm túc: “Chàng tìm ta... chàng tìm ta... là muốn gì?”.
Chàng bình tĩnh ngẩng đầu: “Nàng nói xem?”.
Nhìn cô hình như băn khoăn thật, chàng chậm rãi nói: “Một người đàn ông trăm phương ngàn kế tìm một cô gái, ngoài muốn có được cô ấy, còn có thể vì cái gì?”.
Cô như giật mình: “Có được cô ấy? Chàng định làm gì để có được cô ấy?”.
Nụ cười tinh nghịch dâng lên trong mắt chàng: “Cho nên ta đến thỉnh giáo nàng, phải làm thế nào để có được cô ấy”.
Cô quả thật sững ra một lát, lát sau, cuối cùng hiểu ra chàng định nói gì, nụ cười hiện dần trong mắt: “Thật thú vị!”.
Dưới ánh đèn, con bướm đỏ trên trán lạnh lẽo yêu mị, ánh mắt cô dừng lại trên bàn tay thanh tú của chàng: “Nếu chàng đánh bại cô ấy, đương nhiên sẽ có được cô ấy. Ngoài ra không còn cách nào khác”.
Tôi thầm nghĩ, thôi rồi, lại một cuộc đấu võ kén chồng. Nhưng cái gọi là đấu võ chẳng qua cũng chỉ là chinh phục và bị chinh phục. Thực ra, tại sao nhất thiết phải lấy người chinh phục mình, lấy người mình chinh phục cũng tốt chứ sao, như vậy nếu xảy ra bạo lực gia đình mình cũng không đến nỗi rơi vào thế hạ phong.
Nhưng rõ ràng Mộ Dung An không nghĩ thế, có lẽ chỉ là một cách thoái thác, cô vốn không muốn lấy ai, chắc chắn những lời từ chối đó chính là nguyên nhân mấy người đàn ông không thể có được như cô, như Trang Kế công tử, bởi không ai có thể thắng cô.
Đêm hôm đó Tô Hoành không nói gì ra về, cũng không rút kiếm thử với cô vài chiêu. Nhìn bóng chàng rời đi, Mộ Dung An thản nhiên giơ tay vuốt trán, môi lạnh lùng cười khẩy một tiếng, có lẽ cô cho rằng Trần quốc Hoành công tử thực ra cũng chỉ thế mà thôi.
Mộ Dung An là người thế nào, cả đông lục không ai tường tận, trước đây tôi chỉ biết qua những truyền thuyết thiên hạ truyền tụng về cô, các đạo sĩ cho rằng may mà cô quá siêu phàm khó bắt chước, nếu không đã có vô khối thiếu nữ sùng bái cô mà đi lệch đường.
Bây giờ nhìn thấy việc làm của cô, cảm thấy mối lo của các đạo sĩ là thừa.
Quân sư phụ nói gặp Tô Hoành là hung mệnh của Mộ Dung An nhưng xem đến đây cảm thấy tất cả đều trái ngược.
Mộ Dung An thần thái ung dung, người đắm đuối mê muội lại là Tô Hoành. Thì ra vốn tưởng hai người sẽ âm thầm nảy sinh tình cảm do tình sư phụ, đệ tử sớm tối bên nhau, bây giờ xem ra giả thiết đó đã bị lung lay.
Nửa năm sau Tô Hoành trở thành đệ tử của Mộ Dung An. Một ân nhân của Mộ Dung An đưa Tô Hoành đến rừng lá đỏ Phương Sơn bái sư, nói rõ muốn học kiếm thuật của Mộ Dung An.
Tôi không biết chuyện này rốt cuộc là do Tô Hoành cố ý bày ra hay là duyên phận. Quân sư phụ lại không nói, nhưng lần thứ ba gặp lại, nhìn thấy Tô Hoành xuất hiện trong rừng lá đỏ, Mộ Dung An rõ ràng sững người, lát sau mỉm cười, “Lại là ngươi”.
Cô vốn là một hồn ma sinh ra từ sát khí ngưng tụ trên chiến trường cổ, bao nhiêu năm nhân sự như phù vân lướt qua trước mắt, rất ít người khiến cô nhớ được, nhưng cô lại nhớ được Tô Hoành, không chỉ nhớ chàng, xem ra còn nhớ những lời chàng nói đêm đó.
Dưới vầng trăng tròn, Mộ Dung An vẫn tư thái ung dung đứng dưới một cây phong khô héo, hứng thú nhìn đệ tử mới nhập môn trước mặt: “Mặc dù có câu băng vốn từ nước mà thành nhưng lạnh hơn nước, xanh vốn từ lam nhưng đậm hơn lam, đệ tử không nghĩ chỉ cần bái ta làm sư là sẽ có ngày thắng được ta đấy chứ?”.
Thiếu niên áo chùng đen đi lướt qua cô, đến chỗ sâu trong rừng phong, bóng đổ dài dưới trăng, giọng nói thanh lạnh tản trong gió: “Sư phụ nghĩ nhiều rồi”. Kính cẩn tới mức có vẻ như trước nay chàng ta chỉ coi cô là sư phụ, con người ngang nhiên hỏi cô làm thế nào để có được cô nửa năm trước cơ hồ chưa từng tồn tại.
Trên Phương Sơn, sau khu rừng lá đỏ kỳ dị đó có một thiên động, có sơn thủy bốn mùa xanh tươi, có cổ thụ um tùm râm mát, một ngôi lầu trúc thấp thoáng dưới bóng cây, chính là biệt cư của Mộ Dung An.
Từ khi bái sư, Tô Hoành cư xử đất đúng đạo, ngôn hành nghiêm cẩn, đối với Mộ Dung An rất mực lễ độ, ngoài ăn ngủ, hầu như chỉ chuyên tâm luyện kiếm pháp, như một đồ đệ tôn sư trọng đạo, say mê kiếm thuật, tư chất thông minh lại chuyên cần nỗ lực.
Tôi nghi ngờ có lúc Mộ Dung An như đang thăm dò Tô Hoành, có lẽ cô không biết thiếu niên đó nghĩ gì, hoặc là thái độ một người tại sao trước sau lại khác xa như vậy. Trước đây tôi có nghe Quân Vỹ kể một câu chuyện, cũng là sư phụ và đệ tử, kể rằng một buổi tối, đệ tử luyện kiếm trở về nhìn thấy sư phụ nằm ngủ dưới bóng cây, đệ tử không thể kìm lòng đã mạo phạm sư phụ, sau đó bắt đầu một mối tình nồng nàn dai dẳng.
Nhưng rõ ràng Tô Hoành kìm chế hơn nhiều so với đệ tử đó, có một thời gian Mộ Dung An ngày nào cũng ngủ trưa ở trong khu rừng chàng luyện kiếm, còn đặc biệt cho đặt một chiếc gi.ường mây ở chỗ chàng thường ngồi nghỉ khi luyện tập mỏi mệt, chàng lại bỏ đi chỗ khác như một người có giáo dưỡng, không hề có biểu hiện bất kính nào đối với sư phụ.
Nhưng càng như thế Mộ Dung An dường như càng hiếu kỳ. Lúc đầu khi Tô Hoành mới bái sư cô chỉ thỉnh thoảng mới xuất hiện, đa phần là lúc Tô Hoành gặp khó khăn, thong thả đưa vài câu chỉ giáo đại loại “Muốn chiêu thức nhanh hơn mắt của mình, thì không nên nhìn bằng mắt”. Những câu người bình thường nghe không hiểu hoặc nghe rồi cũng không biết nên làm theo thế nào.
Về sau lại hầu như ngày nào cũng tập với Tô Hoành, chỉ dẫn kiếm pháp cẩn thận hơn trước nhiều, thỉnh thoảng hứng lên lại cầm kiếm thử vài chiêu với chàng, nhưng cũng chỉ dừng ở mức hướng dẫn đồ đệ vận dụng kiếm pháp tốt hơn mà thôi, còn đọ sức chính thức chưa bao giờ xảy ra.
Nhưng ngày hôm đó cơ hồ hơi khác thường.
Đó là ngày đại tuyết tháng mười một, tuyết phủ ngập núi, khu rừng luyện kiếm tuyết chồng chất, lạnh đến nỗi hơi thở ra lập tức đóng băng, cây tùng lá kim bị tuyết đóng thành cột băng, khắp rừng toàn những cột băng lạnh nhấp nhô trong tuyết.
Mặt trời trên đầu chỉ là quầng trắng lờ mờ, hắt ra tia lạnh, kiếm trong tay hai người vun vút loang loáng, hoàn toàn không có điểm dừng như mọi khi, đòn ra tay, đòn đánh trả đều quyết liệt. Kiếm pháp giống hệt nhau, khinh thủ trọng công, không có chiêu thức nào khác, một đòn ra chỉ là xem ai nhanh hơn ai, lá kim trên cây rơi xuống ào ào như nước, họ đã hoàn tất ba lần đánh giáp lá cà.
Trong rừng chỉ thấy tiếng tuyết rơi và tiếng kiếm va vào nhau chan chát trong tuyết lạnh cô đơn, phảng phất màu thiền.
Sau một ánh kiếm lóe lên, cột băng bên cạnh Mộ Dung An đổ rầm, người cô hơi lùi lại né sang phải một cách bản năng, chỉ trong tích tắc, thân hình áo đen của Tô Hoành đã như một con rồng đen vút qua, không nhìn rõ chàng ra chiêu thế nào, trường kiếm trong tay cô đã bị chàng đánh bật, trước khi rời khỏi tay cô đã kịp vạch trên người chàng một vệt máu dài với những hạt máu li ti, đầu kiếm dính máu, từ trên không cắm phập xuống tuyết, để lại một vệt đỏ trên tuyết trắng chỗ lưỡi kiếm cắm vào, còn kiếm của chàng bình ổn ép vào cổ cô.
Lại một cột băng nữa bị phạt đổ, vụn tuyết bắn lên, hai người thở gấp, lưỡi kiếm của chàng vẫn không thu lại, mắt đăm đăm nhìn cô: “Còn nhớ lúc đó đã nói gì không, sư phụ”.
Cô giơ tay đẩy lưỡi kiếm trên cổ ra, nghiêng đầu: “Ta đã băn khoăn, thấy chàng say mê kiếm thuật như vậy, ta đã tưởng những lời chàng nói ở thanh lâu mấy tháng trước là ta nhớ nhầm”.
Chàng thu kiếm vào bao, máu vẫn chảy nhưng chàng không bận tâm: “Nếu không dùng bí thuật ly hồn, chỉ đơn thuần dùng kiếm thuật, hôm nay nàng đã không thể thắng ta, nếu nàng sử dụng ly hồn thuật đối với ta, cả đời này ta cũng không thể thắng nàng, tình cảm của ta chưa bao giờ thay đổi, tất cả chỉ phụ thuộc vào nàng”.
Chàng từng bước tới gần cô, tuyết lạo xạo dưới chân, nhưng không át nổi tiếng chàng: “Nàng muốn dùng ly hồn thuật đối với ta sao?”.
Cô không trả lời, lại gật đầu tán đồng nửa câu trước của chàng: “Chàng nói đúng, nếu có ngày kiếm vẫn còn mà ta lại thua, đó là bởi vì ta muốn thua”.
Cô hơi ngước mắt, đôi mắt đen láy lóng lánh ánh cười, chân bước tới, từng bước thu hẹp khoảng cách với chàng, hơi kiễng chân, môi cơ hồ dán vào tai chàng: “Hôm nay, ta thua rồi”.
Chàng mãi không có phản ứng, còn cô đã thản nhiên lùi ra, giơ tay che ánh nắng ngước nhìn trời, nói như than: “Chưa ăn gì đã giao chiến, bụng hơi đói”.
Nói xong nhặt thanh kiếm lên. Nhưng vừa quay người chưa kịp bước đã bị người phía sau nắm lấy tay. Tôi bật ra hơi thở nãy giờ vẫn vít trong cổ họng từ lúc họ bắt đầu giao thủ, xem ra qua một lúc lâu như thế Tô Hoành cuối cùng mới hiểu ý câu nói vừa rồi của cô. Cô quay người tươi cười nhìn chàng: “Ôi, chàng làm đau ta rồi”. Nhưng chàng vẫn không buông tay, tay kia giơ lên thận trọng vuốt ve con bướm đỏ xinh xắn trên trán cô như vuốt ve một thánh vật, đầu hơi cúi, đôi môi nhạt màu áp lên cánh bướm.
Cô khẽ cười một tiếng: “Gan của chàng chỉ có vậy thôi?”. Không đợi chàng phản ứng, cô đã kiễng chân ôm cổ chàng, môi ép vào môi chàng. Sau phút sững sờ, chàng quàng tay ôm cô, ép vào thân cây tùng phía sau lưng, mặt vẫn ngơ ngẩn, đôi mắt thâm trầm như nước dịu dàng nhìn cô: “Nàng cũng thích ta, đúng không?”.
Lại một năm mùa xuân hoa nở, mùa hạ lá xanh, từ khi Tô Hoành lên núi bái sư, rừng cây trên núi đã hai lần thay lá, tình cảm nảy sinh giữa sư phụ và đệ tử nhìn từ góc độ lễ giáo là trái nhân luân, đạo đức xã hội khó dung.
Nhưng đây là thế giới của Mộ Dung An, cách biệt nhân thế, tuyệt đối không có ai chỉ trích họ, người duy nhất cảm thấy không thỏa chỉ có Quân sư phụ, nhưng Quân sư phụ lúc này quả thực không có quyền phát ngôn.
Thời gian hơn một năm hai người sớm tối bên nhau, giống như hầu hết những đôi vợ chồng bình thường trên đời, đêm trừ tịch năm đó, Mộ Dung An treo trên cửa bức hoành phi bốn chữ “nhất thế trường an”(6).
Nhất thế trường an, đơn đơn giản giản bốn chữ, một dấu hiệu tốt lành, nhưng sự đời đâu đơn giản như vậy, Tô Hoành là công tử Trần quốc. Không biết ai đó nói, tòa lâu đài xây thì lâu như vậy, trải qua bao nỗ lực như vậy, phá hủy nó lại chỉ cần thời gian một cái chớp mắt, câu nói quả chí lý.
Mùa xuân năm Trần Văn hầu thứ hai mươi ba, Trần quốc công tử Tô Hoành tổ chức đại hôn lễ, cưới Mộ Chỉ, trưởng nữ của Mộ Hành tướng quân làm vợ, Mộ Dung An rời khu rừng lá đỏ đi đâu không ai biết.
Sự việc thực ra rất đơn giản, chẳng qua Văn hầu vương dồn ép, giữa vương vị và Mộ Dung An, Tô Hoành chỉ có thể chọn một, cuối cùng Tô Hoành lựa chọn vương vị.
Tháng chín, Trần hầu vương báo với thiên tử lập công tử Diễn (Tô Hoành) làm thế tử, gia phong Mộ Chỉ làm thế tử phi. Một đêm, Quân sư phụ ôm một đứa trẻ vừa đầy tháng xuất hiện ở thư phòng của Tô Hoành, nói là Mộ Dung An đã chết, để lại cốt nhục này, mong chàng nghĩ đến tình sư đệ năm xưa, đối xử tốt với đứa bé.
Đứa bé được bọc trong tã khóc oe oe không ngớt, Tô Hoành ôm nó ngồi trong thư phòng thức trắng đêm, khi rời khu rừng lá đỏ chàng không biết Mộ Dung An đã có thai.
Nhưng tôi luôn cảm thấy Mộ Dung An chưa chết. Mặc dù ma đích thực không thể mang thai sinh con, nếu có cũng dễ bị chết trong quá trình mang thai và sinh nở, nhưng Mộ Dung An mạnh mẽ như vậy, nếu một hồn ma mạnh mẽ như vậy cuối cùng vẫn không thoát khỏi kiếp nạn khó sinh mà chết, quả khiến người ta thất vọng. Tuy nhiên căn cứ quan trọng nhất vẫn là theo dã sử lưu truyền, Mộ Dung An chết ở chiến trường Lịch Khâu trong cuộc chiến giữa hai nước Trần, Khương...
Quân sư phụ nói Tô Hoành là hung mệnh của Mộ Dung An, đến giờ tôi mới tin. Tính cách Mộ Dung An như vậy có lẽ không dễ yêu, một khi đã yêu là yêu suốt đời suốt kiếp, còn Tô Hoành, con người này rất bí hiểm, khó dò.
Tình cảm của chàng ta đối với Mộ Dung An không có vẻ giả dối, nhưng cũng có thể sẵn lòng từ bỏ.
Tôi nghĩ người chàng ta yêu nhất trước sau chỉ có Mộ Dung An, nhưng bất luận thế nào cô cũng không thể địch nổi giang sơn xã tắc, không địch nổi vương vị dưới một người trên vạn người. Nhưng dùng giang sơn vạn dặm vô cương đổi lấy cuộc sống vạn dặm cô đơn có phải là điều chàng muốn?
Nghĩ lại, cảm thấy mình thật ấu trĩ, có giang sơn vạn dặm nghĩa là có mọi mỹ nhân trong thiên hạ, tuy có lẽ không được thứ mình muốn có nhất, nhưng lại có số lượng bù lại, làm gì còn cô đơn.
Tôi chờ đợi Mộ Dung An xuất hiện lần nữa, những sự việc xảy ra sau đó chỉ là chuyện vụn vặt không đáng nói, hai sự việc tương đối lớn đó là, năm đầu tiên sau khi Trần vương băng hà, Tô Hoành kế vị, năm sau hai nước Trần - Khương do tranh chấp biên giới nổ ra cuộc chiến tranh lớn.
Trong cuộc chiến Khương - Trần, Trần vương Tô Hoành đích thân xuất chinh. Tôi đã đọc cố sự đó trong sách sử, trong đó nói, Trần quốc thượng võ, các đời Trần vương đều trưởng thành trên lưng ngựa, Tô Hoành cũng thế, từ nhỏ theo cha chinh chiến biên cương trận mạc, tác chiến vô cùng mau lẹ cơ mưu, thường đích thân đi tiên phong, dẫn một đội khinh kỵ tinh nhuệ thâm nhập vào quân doanh đối phương thăm dò tình hình, hoặc đánh chọc sườn, giúp quân chủ lực có cách tác chiến thích hợp.
Vốn nghĩ có lẽ khi thân đã ở ngôi cao chàng sẽ không mạo hiểm tính mạng như vậy, nhưng qua trận Lịch Khâu, có thể thấy con người này cho dù đã trở thành quốc vương cũng không thay đổi phong cách tác chiến. Đêm trước khi xảy ra đại chiến, Tô Hoành vẫn mang hai mươi khinh kỵ lẻn vào trận địa Khương quân, vung kiếm đánh thẳng vào trận địa đối phương, sau đó lại vừa đánh vừa quay ra, đích thân cảm nhận thực lực địch quân.
Phương thức thăm dò địch tình này đối với chàng không là gì, thời thiếu niên thường làm như thế, nghe nói mấy lần lọt vào hiểm cảnh đều dựa vào sự bình tĩnh mưu trí mà an toàn thoát hiểm, thực là một kỳ tài.
Nhưng đêm đó, chàng mang hai mươi khinh kỵ luồn sâu vào quân doanh địch, lúc quay ra bất ngờ vấp phải mấy ngàn phục binh của đối phương mai phục trên đường. Khi thâm nhập vào quân doanh địch, đội khinh kỵ mang theo đã bị hao tổn, hơn nữa chiến mã cũng bị trúng tên, nếu không tìm ra diệu kế, rất khó hy vọng phá vây.
Sử sách không thấy ghi chép những tình huống hiểm nguy trước có phục binh, sau có truy binh chàng từng gặp khi còn là thế tử.
Trong rừng núi tối tăm, vòng vây mỗi lúc càng hẹp dần, đuốc đột nhiên sáng trưng, trống trận vang lừng, trống trận vốn là để cổ vũ sĩ khí, nhưng trong tình huống này lại có phần nực cười.
Trên sườn núi, ngồi trên lưng chiến mã đỏ au, mũi phun hơi phì phì, thống lĩnh tướng quân Khương quốc đắc ý cười ha hả: “Không ngờ Trần vương nức tiếng mưu dũng hôm nay lại bỏ mạng ở đây, xem ra cái gọi là mưu dũng cũng chỉ đến thế, là mưu dũng của kẻ phàm phu mà thôi, các huynh đệ, các huynh đệ thấy có phải không?”.
Lời vừa dứt, thủ cấp đã rơi bịch xuống đất lăn lông lốc. Một thanh kiếm dính máu cắm phập trên vách núi gần đó, thủ cấp đẫm máu của Khương tướng quân lăn mấy vòng, nụ cười đắc ý vẫn còn cứng đờ trên mặt.
Một tình cảnh thật khó tưởng tượng, tôi nhìn mà đau thay cho ông ta, bất giác giơ tay sờ vào cổ mình, may cái đầu vẫn yên vị trên cổ.
Nhưng nhát kiếm chém phăng thủ cấp Khương tướng đó không phải là của Tô Hoành hay thuộc hạ của Tô Hoành, trường kiếm của họ vẫn nắm trong tay, tôi tròn mắt quan sát cảnh tượng trong Hoa Tư mộng trước mắt, muốn tìm ra manh mối, đồng thời trong đầu cũng lóe lên ý nghĩ, liệu có phải một binh sĩ nào đó của phía Khương quân do ngưỡng mộ tài năng Tô Hoành mà ra tay cứu giúp. Cũng không biết tại sao chợt nghĩ đến Mộ Dung An.
Khi cái tên đó lóe lên trong đầu như một tia chớp, trên không trung bỗng vang lên tiếng lục lạc tinh tang. Tôi nhìn thấy đôi mắt mở to của Tô Hoành, vừa rồi bị Khương tướng làm nhục như vậy vẫn không nổi sóng giờ đột nhiên thất sắc, nhìn thẳng về phía phát ra tiếng lục lạc, bàn tay cứng đờ nắm dây cương.
Đối phương dường như cuối cùng đã hiểu ra chuyện gì, phó tướng trên lưng ngựa thét lên hạ lệnh khép vòng vây xông tới. Đúng lúc binh sĩ lăm lăm trường mâu trong tay dồn lên, trong ánh đuốc nhựa thông sáng rực, những đàn bướm đỏ không biết từ đâu vèo vèo bay ra
Chính thời khắc đó, rừng cây cổ thụ chọc trời bừng bừng sinh khí xung quanh đột nhiên lá cành bắt đầu héo rũ, chớp mắt đã biến thành cảnh rừng chết xác xơ, gió lớn bật đất mà lên, ánh lửa đuốc sáng rực nửa ngọn núi chớp mắt tắt ngấm, gió như trường đao cắt vụn màn đêm, trên bầu trời tĩnh lặng lại hiện ra một vầng trăng tròn.
Đàn bướm đỏ bay liệng trên không, toàn thân phát hồng quang rực rỡ, còn tiếng lục lạc cũng rõ dần, trong sắc đêm cuối cùng lộ ra bóng hoa phục màu đỏ của cô gái, mái tóc như dòng thác thả xuống tận gót chân, con bướm trên trán giương cánh như muốn bay, dáng mỹ miều băng lạnh, khóe miệng liên tục nhếch lên vẫn không thành nụ cười.
Tôi không ngờ Tô Hoành lại bất chấp nguy hiểm thúc ngựa qua, trong tình huống hiểm nghèo đó, chỉ cần động đậy là trở thành mục tiêu cho trận mưa tên của đối phương. Tôi biết chàng chỉ muốn phóng đến bắt cô, chàng tưởng cô đã chết, nhưng cô lại xuất hiện trước mặt chàng.
Chàng cơ hồ đã trấn tĩnh trở lại, ánh mắt dán chặt không rời khỏi cô, trận mưa tên bay vào chàng, chàng cũng chỉ bình tĩnh khua kiếm đỡ. Cô cúi xuống mắt lạnh lùng nhìn chàng, hai ống tay áo vừa phất, có tiếng “phù” trong gió, vạn vật xung quanh đột nhiên dừng lại như bị đóng băng, im phăng phắc, bao gồm cả vòng vây của binh sĩ Khương quốc vừa rồi còn nhốn nháo, bao gồm cả mũi tên bay đến, bao gồm cả Tô Hoành và con ngựa tung vó phi tới, thậm chí bao gồm cả những ngọn đuốc bốc khói.
Tiếng lục lạc khẽ vang, cô đứng trên đầu ngựa nghểnh cao của chàng, cúi đầu nhìn ánh mắt đen cầu khẩn của chàng, khẽ cười một tiếng: “Cuối cùng chàng vẫn yêu ta, ta không thua ai, chỉ thua vương vị của chàng”. Giọng thanh lạnh vang trong không gian tĩnh mịch như ném viên sỏi xuống mặt hồ, sóng loang ra mấy vòng rồi tiêu tan.
Tiếng lục lạc dưới chân lại tinh tang tinh tang, cô đã đạp gió tung người lên không, liếc nhìn trận địa bất động dưới chân, chầm chậm giơ bàn tay phải. Gió thổi tung mái tóc đen của cô, năm ngón tay mảnh dẻ kết thành hình nửa đóa hoa sen.
Một giọt máu từ tâm sen nhỏ xuống, đàn bướm đỏ bay liệng trong màn đêm đột nhiên hóa thành những mũi kim dài sáng chói. Hoàn toàn không nhìn rõ những mũi kim đó bay thế nào, chỉ cảm thấy trên bầu trời đêm đột nhiên bùng phát một đám khói cực lớn, trong ánh sáng màu đỏ, binh sĩ Khương quốc đang đứng như trời trồng chớp mắt biến thành những bộ xương trắng chồng chất.
Từ đống xương trắng nảy ra vô vàn ấu bướm đỏ. Sực nhớ tới những ghi chép trong sách sử, tôi sững sờ mãi mới hiểu ra, Mộ Dung An đã dùng bí thuật cổ trên quy mô lớn - ly hồn thuật.
Bí thuật hoa mỹ và tàn khốc trong truyền thuyết đó khi thực thi phong ấn cả không gian và thời gian của một khu vực, bướm đỏ ký sinh trong bí thuật hóa thành kim trâm hút máu thịt người sống, những cánh bướm kia đã nhuốm máu đỏ, càng nhiều bướm đỏ bay ra, xương trắng càng chồng chất.
Nhìn cảnh đó tôi thầm nghĩ Mộ Dung An khi sinh con đã hao tổn bao nhiêu tinh lực, lại thực thi ly hồn thuật trên trận địa lớn như vậy, làm sao trụ nổi?
Sự thực cho thấy lo lắng của tôi có lý.
Vầng trăng tròn dần dần hiện ra màu đỏ quái dị, gió thổi phồng ống tay áo, Mộ Dung An nhắm hai mắt, máu từ miệng không ngừng trào ra, giữa vầng trán hơi nhăn, con bướm đỏ yêu dị đó đột nhiên vẫy cánh bay mất, miệng cô thổ ra một ngụm máu tươi, không gian phong ấn đột nhiên mở ra, thân người loang máu hơi ngửa về sau, như sắp rơi xuống đống xương khô nhung nhúc ấu bướm trên chiến trường. Con chiến mã phía xa đột nhiên tung bờm hí vang, bóng áo đen của Tô Hoành rời lưng ngựa lao đến như một mũi kiếm.
Cô rơi xuống trúng ngực chàng, chàng nằm trên đống xương ôm chặt cô. Những con bướm đỏ chết chóc bay quanh cô, sắc mặt cô trắng bệch, môi lại vẫn đỏ. Chàng run run giơ tay lau vết máu dính trên miệng cô: “Tại sao phải đến cứu ta, nàng nên giấu ta, sống bình yên ở một nơi ta không hay biết mới phải”.
Cô cau mày: “Chàng là đệ tử của ta, là đồ đệ ta đích thân truyền dạy, cho dù chàng sai, khiến ta giận, ta có thể giận chàng, giáo huấn chàng, bắt chàng chịu khổ, nhưng những kẻ kia họ có là gì, đồ đệ chân truyền của ta sao có thể để bọn chúng hạ nhục?”.
Chàng ôm cô, bàn tay đặt trên eo cô, từ từ ép cô vào người, trong đôi mắt thâm trầm chất chứa bao nỗi niềm, lát sau giọng khàn khàn, chàng thầm thì: “Sư phụ, hãy trở về bên đồ đệ”.
Cô giơ tay, máu rỉ ra giữa các ngón tay, một con bướm theo vết máu bay đến, dừng lại giữa ngón tay cô, cô nhìn con bướm đó, môi cong cong khẽ nhếch thành nụ cười: “Trở về ư?”. Lại chầm chậm lắc đầu: “Không về được nữa, ta sắp chết”.
Bờ vai rộng của chàng run lên, thất kinh nhìn cô, giọng nói lại mơ hồ: “Sao có thể, cho dù ta sai, nàng vẫn nên trở về giáo huấn ta, bắt ta chịu khổ”.
Cô ngẩng đầu nhìn chàng một lát, đột nhiên mỉm cười: “Người của Trần vương thất nói ta thế nào, ta không bận lòng, chàng nghĩ gì ta cũng không bận lòng, chỉ là cảm thấy ta đã sống quá lâu trên đời, lâu đến mức cảm thấy vô vị, chàng khiến ta hiểu được chữ tình, nếm trải niềm hoan lạc của nó, cũng nếm trải nỗi đau của nó, một trải nghiệm viên mãn như vậy đối với một hồn ma không phải là chuyện kỳ thú sao? Giống như một bữa đại yến, sơn hào hải vị trời nam biển bắc đều có, vui vẻ thưởng thức hết các món, khách nhân nên giải tán”. Cô nói trơn tru, tinh thần vẫn tốt, nhưng sắc mặt đã dần trong suốt, bướm đỏ bay quanh càng nhiều, giống như chờ đợi thời khắc tống biệt cuối cùng.
Chàng nắm chặt áo cô, giọng rên rỉ như mãnh thú bị thương: “Cho dù nàng không cần ta nữa, nhưng vẫn còn cốt nhục của chúng ta, Tô Dự rất thông minh, nàng còn phải nhìn nó lớn lên, nhìn nó kế thừa xã tắc đại Trần”.
Chàng nghẹn ngào nhưng vẫn cố nói, dường như không cho cô cơ hội nói, không cho cô cơ hội chối từ, chỉ cần cô không từ chối, chàng sẽ giữ được cô.
Cô chỉ mỉm cười nhìn chàng, nụ cười đó bao hàm ý nghĩa gì không ai biết.
Một trận gió thổi qua, bóng chàng ôm cô đột nhiên cứng đờ, mãi sau, chàng loạng choạng đứng lên, trong tay chỉ còn bộ hoa phục màu đỏ.
Hoa Tư mộng đột ngột dừng lại, tôi ngồi ngây người hồi lâu mãi không thể định thần, Mộ Dung An quả nhiên chết ở chiến trường Lịch Khâu, sử sách không ghi chép tỉ mỉ, thì ra cô chết như vậy.
Con người đó, sống tự tại vô song, chết tư phong tuyệt đại, đó là Mộ Dung An, bí thuật sĩ cao minh nhất đông lục, là... thân mẫu của Tô Dự. Thì ra thân mẫu anh ta không phải là Mộ Chỉ.
Kể hết câu chuyện đó, Quân sư phụ cau mày chìm trong suy tư, thì ra đối với ông đây không phải là hồi ức đẹp, tôi và Quân Vỹ nhìn hoa đèn ngây người không biết nói sao.
Xem hoàn chỉnh quá khứ đó, tôi cảm thấy câu chuyện chẳng liên quan đến Quân sư phụ, không hiểu tại sao sư phụ lại thâm thù Trần vương, muốn giết ông ta. Nhưng trước mặt sư phụ, không dám nói ra với Quân Vỹ, chỉ giao lưu bằng ánh mắt không hé ra tư tưởng gì, một mình suy nghĩ hồi lâu, cảm thấy cách giải thích hợp lý nhất chỉ có thể là Quân sư phụ cũng có tình với Mộ Dung An, mới có thể thù hận Tô Hoành đã làm cô ấy chết như vậy. Nhưng lại nghĩ, Mộ Dung An không thể xúi quẩy đến thế, cả đời chỉ thu nạp hai đồ đệ, mà hai đồ đệ đó lại có tình cảm thầm kín không thể nói ra với mình như vậy.
Tôi còn chưa nghĩ ra nguyên do, Quân sư phụ đã nói: “Xem xong Hoa Tư mộng này, có lẽ con đã biết ta muốn con làm gì rồi chứ?”.
Tôi ôm đầu, buột miệng hỏi thử: “Sư phụ muốn con dệt mộng cho Trần hầu vương, giữ ông ta ở lại trong mộng?”.
Quân sư phụ cười, nhưng mắt vẫn lạnh tanh: “Đúng, Tô Hoành năm xưa từ bỏ sư phụ ta lựa chọn vương vị, chuyện này mặc dù sư phụ không nói ra, nhưng sự đau khổ của sư phụ hồi đó ta đều nhìn thấy hết. Sư phụ vốn có thể tiến xa hơn nữa, nhưng lại bị Tô Hoành ngáng đường. Đáng hận bởi vì sư phụ đã từ bỏ tất cả vì ông ta, nhưng ông ta lại không biết trân trọng, nếu mọi chuyện quay trở lại, ta muốn xem sau bao nhiêu năm đau khổ Tô Hoành sẽ lựa chọn thế nào. Nếu tình của ông ta đối với sư phụ bằng ấy năm vẫn không thay đổi, bằng lòng ở lại trong Hoa Tư mộng, ở bên sư phụ, ta sẽ bỏ qua cho ông ta, coi như kết thúc niềm tiếc nuối cuối cùng của sư phụ trên trần thế. Nếu ông ta vẫn lưu luyến ngôi báu vinh hoa, ta đành phụ lòng sư phụ, nhất định khiến ông ta chết không có chỗ chôn”.
Tôi băn khoăn nhìn Quân sư phụ, cảm thấy áp lực rất lớn. Nghe sư phụ nói vậy, nghĩa là ông muốn tôi dệt cho Tô Hoành một Hoa Tư mộng tái hiện quá khứ, để ông ta lựa chọn có lưu lại trong mộng hay không.
Nhưng chuyện này không giống với tình hình của Tống Ngưng, trong tình cảnh hiện tại của Tô Hoành, bất luận ông ta lựa chọn thế nào kết cục vẫn là cái chết, chỉ có khác chủ động chết và bị động chết mà thôi. Tôi cắn môi suy nghĩ, khẽ nói: “Rõ ràng có thể có bao nhiêu cách phục thù, sư phụ lại nhất định muốn con thực thi Hoa Tư dẫn đối với Tô Hoành, thực ra sư phụ chỉ muốn biết, năm xưa Mộ Dung An hy sinh tính mạng cứu ông ta rút cục có đáng hay không, con nói đúng chứ?”.
Ông không trả lời, những gì chất chứa trong mắt ông tôi khó lòng hiểu được.
Tôi nghĩ, một sử đoạn nhạy cảm bị che đậy bao năm, bị thời gian hơn hai mươi năm xói mòn, chẳng còn gì nữa, chỉ khắc thù hận vào lòng người sống, vật vã muốn có một kết quả cuối cùng trước khi quên lãng, nhưng cùng với thời gian cả người và việc đã thành cát bụi, cái gọi là đáng hay không, cho dù có được câu trả lời cũng chẳng để làm gì. Tôi không biết vì sao Quân sư phụ quyết chí báo thù Trần vương mối thù không phải của mình, nhưng nhìn ánh mắt ông lúc này lại đột nhiên cảm thấy có lẽ ông chỉ muốn dùng Hoa Tư dẫn khảo vấn nhân tâm một lần mà thôi.
Chú thích:
(6) Nghĩa là: Trọn đời bình an.
 
Phần 4:Trọn đời bình an - Chương 02
Ngày mười hai tháng chín mừng thọ Tô Hoành. Nghe đồn Trần hầu vương bệnh nặng đã lâu, đầu tháng tám đã di giá tới tĩnh dưỡng ở An Lạc cung trên núi Trà, việc triều chính do thế tử Tô Dự lo liệu. Vì vậy ngày mừng thọ bá quan sẽ đến An Lạc cung chúc tụng.
Bắt đầu từ ngày mồng mười, trên công khanh dưới cung nhân, quà mừng thọ đã tới tấp chuyển đến núi Trà, vết xe ngựa để lại hai rãnh sâu trên con đường lên núi, không biết bên trong đựng những gì.
Thực ra tặng quà cho cấp trên cũng là một nghệ thuật, quà tặng phải mới mẻ để chứng tỏ tâm huyết nồng hậu của người tặng, nhưng lại không thể quá mới mẻ, chứng tỏ người tặng giữ đúng thân phận. Quân Vỹ do cơ duyên thế nào kiếm được danh mục lễ vật đó, kết quả chúng tôi thất vọng phát hiện hầu như toàn những thổ đặc sản quý hiếm của các vùng miền địa phương, quả nhiên vừa mới vừa không quá mới.
Riêng thái thú quận Tề An hơi khác người, quà mừng thọ Trần vương là một mỹ nữ nhạc sư. Quân Vỹ cảm thán lắc đầu: “Tề An thái thú này quả là quá nôn nóng muốn hưởng hậu lộc, khác người thế này e là khiến khối người ghen tức”.
Tôi ngẫm nghĩ nói: “Quận Tề An xưa nay nổi tiếng trong các nước chư hầu bởi nghệ thuật ca vũ phồn thịnh, nhạc sư chẳng phải chính là đặc sản của họ hay sao, ha ha”. Còn chưa cười xong đã thấy Quân sư phụ bước vào, mang đến ba chiếc mặt nạ da người, theo sư phụ giải thích, một cái là Tề An thái thú, một cái là người hầu Tề An thái thú, còn một cái chính là mỹ nữ nhạc sư, “đặc sản” mà tôi nói...
Chúng tôi phải làm như vậy thể lọt vào An Lạc cung trên núi Trà, nhưng khi tôi thử đeo chiếc mặt nạ đó, hiển nhiên nhận ra bóng dáng Mộ Dung An hiện lên trong chiếc gương lớn viền gỗ chạm trổ hoa văn.
Quân sư phụ nhìn rất lâu khuôn mặt tôi trong gương, thong thả nói: “Trong tiệc mừng thọ, con xuất hiện với khuôn mặt này, Tô Hoành nhất định sẽ tìm gặp riêng con để hỏi han, lúc này phải linh hoạt một chút, tìm cơ hội để ông ta uống mấy giọt máu của con, xem Hoa Tư điệu của ông ta”.
Tôi cúi đầu nhìn mũi giày dưới chân mình: “Nhất định phải dùng hình dạng này sao, chắc chắn sẽ xảy ra bi kịch, trong các vở kịch thường như vậy, công tử hào hoa thời trẻ tình cờ gặp gỡ thục nữ yểu điệu, khi thục nữ chết, suốt đời công tử đi khắp chân trời góc bể tìm người giống nàng. Tô Hoành nhìn thấy con nhất định cho rằng đó là Mộ Dung An tái sinh, lúc đó con sẽ bị ông ta coi là thế thân của Mộ Dung An đưa vào hậu cung, có khi còn phong là phu nhân cũng nên...”.
Quân sư phụ chống tay vuốt trán ngắt lời tôi, quay đầu nói với Quân Vỹ, “Con nói với A Phất xem, một người đàn ông bình thường hơn hai mươi năm sau khi người đàn bà của mình chết đi, lại nhìn thấy một cô gái trẻ rất giống người đó, ý nghĩ đầu tiên của ông ta là gì?”.
Quân Vỹ gãi đầu, bộc lộ chính kiến với lối tư duy của một tiểu thuyết gia, nói vẻ đắn đo: “Ông trời đoái thương nỗi lưu luyến nhớ nhung bao năm đối với nàng, cho nàng tái sinh tiếp tục mối lương duyên?”.
Quân sư phụ kinh ngạc nhìn hai chúng tôi, khóe miệng hơi run nói: “Theo ta, ý nghĩ đầu tiên của ông ta có lẽ là cô gái này liệu có phải con gái của mình...”.
Vào An Lạc cung theo đúng kế hoạch. Quân sư phụ đeo mặt nạ đóng giả thái tú quận Tề An diễn xuất như thật, ngang nhiên tung hoành trước bao người quen của thái thú, không ai phát hiện có gì khác thường, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho tôi và Quân Vỹ.
Mấy ngày sau, gần đến giờ Ngọ, Trần vương mở đại yến khoản đãi quần thần ở bên dưới Tử Hoa lầu, văn võ bá quan theo thứ bậc phẩm hàm từng người tiến vào dâng tiến vạn thọ tửu.
Cung nữ dẫn tôi đợi ở phía sau mấy cây hoa quế, là một địa điểm hoàn toàn không bị ai nhìn thấy. Từ xa truyền đến âm thanh hỗn tạp, lát sau, thị quan cuối cùng xướng đến tên tôi. Chỉ thấy một giọng kim the thé vang lên: “Tuyên, Tề An Mộ Dung Điệp”.
Tôi ôm cây đàn đi trên hành lang dài lát đá xanh dưới bao nhiêu ánh mắt, bụng nghĩ, ngoài lần tuẫn tiết chết cùng Vệ quốc, cả đời chưa bao giờ được nhiều người chú ý như vậy. Ánh mắt bá quan với đủ loại hàm ý đan xen tựa như một tấm mạng nhện khổng lồ giăng trước mặt tôi, chắc chắn họ cảm thấy Mộ Dung An rất đẹp, giống như ý nghĩ của tôi khi lần đầu nhìn thấy cô.
Đột nhiên có cảm giác dị thường, cảm giác thân này không phải là mình, còn từng bước chân di chuyển bên dưới giống như có tiếng lục lạc tinh tang vô hình. Khi tiến đến gần cầm đài, cuối cùng nhìn rõ người đàn ông tay chống cằm ngồi trên bảo tọa, đó chính là Tô Hoành hai mươi ba năm sau. Nước Trần vượng thủy sùng bái màu đen, ông ta toàn thân mặc huyền bào, tuổi tính ra đã ngoại tứ tuần, nhưng dung quang vẫn rất trẻ trung, sắc diện có xanh xao bệnh tật nhưng vẫn toát lên vẻ uy nghi của một quốc vương, sau bao thăng trầm dâu bể khí chất càng trầm tĩnh lạnh lùng, khác xa so với với chàng thiếu niên nằm rạp trên lưng ngựa lao vào khu rừng lá đỏ ngày xưa.
Tôi có thể miêu tả chi tiết diện mạo ông ta là bởi vì tôi đứng đúng góc độ, ánh mắt ông ta dừng trên mặt tôi rất lâu, chưa bao giờ tôi thấy ánh mắt hàm ẩn phong phú như vậy, ưu sầu tựa lá vàng thê lương, mông lung tựa ánh nguyệt thâm trầm, lấp lánh tựa muôn tinh cầu chói lọi, nhưng tất cả cuối cùng lại trở về một màu đen tĩnh lặng. Tôi chơi hết khúc đàn trong ánh mắt đó, không sai một âm, cảm thấy mình thật trượng nghĩa, mặc dù đóng giả nhạc sư cũng không hay gì nhưng lại giúp quận Tề An một lần nữa quảng bá mạnh mẽ nghệ thuật ca vũ của họ...
Tất cả đúng như Quân sư phụ nói, sau khi nhận lời chúc tụng của quần thần, Trần vương đã rời bàn tiệc rất sớm, lát sau tôi được một thái giám đưa lên Trường An lầu, là nơi Tô Hoành thường nghỉ ngơi. Gần tới giờ Mùi, mặt trời mùa thu nhợt nhạt, người đó đứng quay lưng về phía tôi, đang lau một thanh lợi kiếm dài. Thị quan bước ra, tiếng cánh cửa đóng sập sau lưng, cuối cùng ông ta quay người lại, kề lợi kiếm vào cổ tôi: “Ngươi là ai?”.
Quân sư phụ nói tôi càng giống Mộ Dung An, Tô Hoành càng tin tôi là con gái ông ta, hơn nữa do công lực của viên giao châu, máu của tôi có thể tương hòa với các loại huyết dịch khác, như vậy càng tiện cắt máu nhận người thân, nếu tôi có thể dùng cách đó khiến Tô Hoành tin tưởng, chuyện để ông ta uống vài giọt máu của tôi, nhìn thấy Hoa Tư điệu của ông ta dễ như trở bàn tay.
Mặc dù cảm thấy chuyện này có phần nguy hiểm, nhưng dưới ánh lợi kiếm lạnh lùng cơ hồ cũng không có cách nào tốt hơn. Tôi giơ tay đẩy kiếm ra, nghiêng đầu nhìn ông ta, đó là động tác Mộ Dung An thường làm, còn đôi mắt hơi nhướn lên, lúc đó luôn mê hồn nhất: “Theo lời sư phụ tôi dặn lại trước lúc qua đời, tôi có một sư huynh song sinh, tên là Tô Dự, mẫu thân tôi là Mộ Dung An ở khu rừng lá đỏ trên Phương Sơn, cha tôi là Trần vương Tô Hoành”.
Trường kiếm trên vai run run khựng lại. Tất cả đều có thể xảy ra, chuyện này ông ta không có lý do không tin. Bởi nếu năm xưa Mộ Dung An sinh đôi thật, theo tính cách của cô, hoàn toàn có khả năng cô giữ lại nuôi dưỡng đứa con gái. Trong vẻ sững sờ của ông ta có vài phần chấn động, tôi tiến lại gần, khẽ nói: “Cha có muốn gặp mẹ một lần nữa không, cha”.
Trường kiếm rơi choang xuống đất, ông ta ngoảnh mặt đi, sắc mặt trắng bệch lộ vẻ đau khổ, giọng khàn khàn: “Hai người rất giống nhau”.
Hoa Tư điệu trầm trầm vang lên từ lầu Trường An, giai điệu nhuốm màu thiền, yên bình đến mức không nhìn ra bất kỳ tình cảm nào. Tôi chỉ không ngờ lại dễ dàng đưa Tô Hoành vào Hoa Tư mộng như vậy, bản thân cũng thấy khâm phục sự bình tĩnh cơ mưu của mình, Mộ Ngôn nói từ khi lấy chàng tôi trở nên thông minh hơn nhiều, coi như chàng nói đúng.
Thực ra trong suốt hai mươi ba năm qua, có thể nhận ra Tô Hoành chưa bao giờ quên Mộ Dung An, nhưng nếu tất cả quay trở lại, trở lại lúc Văn hầu vương bức ép ông ta, liệu ông ta sau khi trải qua bao đau đớn có lựa chọn khác ngày xưa hay không, quả thực tôi không dám chắc.
Trong cuộc đời mỗi người, có những nỗi đau khổ có thể tránh, có những nỗi đau khổ không thể tránh. Tôi không biết lòng Tô Hoành thế nào khi mất Mộ Dung An, hơn hai mươi năm không có cô, rốt cuộc hối hận nhiều hơn hay yêu nhiều hơn? Hay là ông ta không hề do dự để tôi dệt mộng cảnh này chỉ là muốn gặp lại cô một lần rồi đoạn tuyệt mãi mãi?
Dải ánh sáng lờ mờ thông đến mộng cảnh xuất hiện trước mắt, tôi ôm cây đàn đang định bước vào luồng sáng đó, Quân sư phụ không biết từ đâu xuất hiện, khi tôi nhận ra đã thấy hai thầy trò rơi vào một khu rừng đỏ rực như lửa cháy, nhìn quanh khắp lượt, nếu nhớ không nhầm đây chính là khu rừng lá đỏ trên Phương Sơn. Ban ngày tràn trề sinh khí, ban đêm im lìm như mộ địa.
Tôi đang định hỏi, Quân sư phụ đã lên tiếng trước: “Thật khéo, đúng vào ngày Văn hầu vương cho người đến đón Tô Hoành về kinh”. Ngừng một lát lại nói: “... là ngày sư phụ bị bỏ rơi”. Nhìn theo ánh mắt sư phụ, quả nhiên thấy bên cạnh đầm nước phía xa có hai người đàn ông ăn vận kiểu võ tướng đang đứng, tôi quay đầu hỏi: “Sư phụ theo con vào đây làm gì”.
Khi hỏi thế đã biết câu trả lời, nhưng nghe sư phụ nói vẫn không khỏi giật mình, bởi vì trong lòng tôi Quân sư phụ đâu phải là người thích giết người, suốt đời ông chỉ nghiên cứu những độc dược độc cỡ uống vào trông giống hệt bị đầu độc chết, thực ra chỉ là chết giả. Một Quân sư phụ như vậy lúc này gương mặt lại hằn lên vẻ dữ tợn: “Ta đã nói nếu lần này ông ta vẫn lựa chọn vương vị, ta sẽ cho ông ta chết không có chỗ dung thân”.
Hoa Tư mộng là dùng giấc mộng đẹp trói buộc những ai không tự vượt qua được chính mình, chìm đắm trong mộng đẹp, lần này lại chỉ là tái hiện quá khứ khiến Tô Hoành lựa chọn lần nữa, không có gì gọi là mộng đẹp, nếu Tô Hoành lựa chọn vương vị, mọi chuyện sẽ giống như trong hiện thực, tức là không đưa ông ta ra khỏi giấc mộng, ông ta sớm muộn cũng tỉnh lại, nếu muốn ông ta không tỉnh lại, chỉ cần giết ông ta trong mộng cảnh.
Tôi nghĩ, có thể trong ý nghĩ Quân sư phụ cảm thấy Tô Hoành sẽ vẫn lựa chọn vương vị, điều này cũng giống như ban đầu khi tôi tuẫn tiết cùng Vệ quốc, mặc dù sống lại nhờ viên giao châu vẫn có bao điều bất tiện, nhưng nếu thời gian quay lại, tôi vẫn sẽ nhảy từ trên tường thành Vệ quốc xuống.
Ngồi trên một cây phong, chỗ Tô Hoành nhất định phải qua khi ra khỏi khu rừng lá đỏ, cây đàn để trên đầu gối, tay lơ đãng vuốt trên dây đàn vang lên những âm điệu ngẫu nhiên, tiếng vó ngựa phi gấp đến, dừng lại cách cây phong mười trượng. Chàng thiếu niên dáng thanh tú hơi ngẩng đầu nhìn tôi: “Sư phụ đợi ở đây là có gì sai bảo?”.
Tôi nhìn kỹ ông ta, nhìn khuôn mặt đẹp vẫn còn non nớt trước mắt, hoàn toàn không nhận ra nỗi bi thống giày vò về sau, có lẽ người ta đều thế, từ bỏ điều gì đó để có được thứ tưởng là có giá trị hơn, sau khi mất đi mới trân trọng, tiếc nuối thì đã muộn. Tôi ôm cây đàn chống tay vào má, lặng lẽ ngắm nhìn ông ta, sau khi nhìn đủ, lắc đầu: “Tôi không phải là Mộ Dung An, nhưng Tô Hoành, công tử có muốn nghe tôi kể chuyện?”.
Trong hiện thực gảy Hoa Tư điệu, cảnh trong giấc mộng sẽ hiện lên trong thế giới hiện thực, trái lại, trong giấc mộng gảy Hoa Tư điệu, cảnh trong hiện thực lại hiện ra trong mộng, gảy nốt cuối cùng, trong ánh mặt trời bị cành cây khẳng khiu cắt vụn, từng sự kiện trong hiện thực lại phản chiếu trên không trung.
Trong ánh nến long phượng sáng rực, vị phu nhân vừa cùng ông ta bái đường lặng lẽ ngồi tựa mép gi.ường, còn ông ta thẫn thờ ngồi bên song cửa, liên tục tự rót rượu uống cạn hết chén rượu này đến chén rượu khác.
Đêm ông ta được phong thế tử, trong màn đêm khi những chùm pháo hoa chúc mừng tan hết, Quân sư phụ ôm Tô Dự mới đầy tháng xuất hiện trong thư phòng trước mặt ông ta: “Cô ấy chỉ là vong hồn, để sinh được con đã khổ cực khó khăn thế nào? Cô ấy đã chết, đây là cốt nhục của hai người, hãy chăm sóc cho tốt”.
Trong cái đêm bị bao vây ở Lịch Khâu, con bướm đỏ trên trán cô vẫy cánh bay đi, nằm trong lòng ông ta, cô mỉm cười: “Trở về ư? Ta không trở về được nữa rồi”.
Hoa Tư điệu đột nhiên dừng lại, dừng lại lúc Mộ Dung An chết.
Tô Hoành ngồi trên lưng ngựa, cặp mày cau lại, đôi đồng tử đen đặc đáng sợ: “Đó là... là gì vậy ?”. Bàn tay nắm dây cương run run.
Tôi thu lại cây đàn: “Ông cảm thấy đó là gì?”.
Ông ta mím môi, đăm đăm nhìn tôi.
Tôi đứng trên cao nhìn ông ta một lát, thở dài: “Ông cũng đoán ra rồi phải không, đó là sự thật, những chuyện đó xảy ra hơn hai mươi năm rồi, cảnh tượng mà ông tưởng là thực chẳng qua là giấc mộng người ta ủy thác tôi dệt cho ông, mặc dù Mộ Dung An đã chết hơn hai mươi năm, ông đối với cô ấy thế nào đã hoàn toàn vô nghĩa, nhưng người ủy thác tôi muốn biết, nếu tất cả quay trở lại lần nữa, ông sẽ lựa chọn thế nào...”.
Trán ông ta toát mồ hôi: “Chuyện quá hoang đường...”.
Tôi nghĩ một lát, nhẹ giọng: “Bây giờ tôi nói với ông, ông có thể lựa chọn lại, nếu vẫn lựa chọn vương vị thì lại trở về hiện thực tiếp tục cô đơn ở ngôi cao, nếu lựa chọn Mộ Dung An...”.
Tôi dừng lại: “Ông sẽ không quay trở lại hiện thực được nữa, nhưng Mộ Dung An sẽ đợi ông ở ngôi lầu trúc nơi hai người đã chung sống hai năm, chờ để cùng ông sống trọn đời bình an”.
Tôi đánh lừa ông ta, nếu ông ta lựa chọn vương vị, Quân sư phụ trốn sau cây phong nhất định sẽ một nhát kiếm lấy mạng ông ta. Nhưng lựa chọn bao giờ chả thế, sự chênh lệch giữa hai thứ so sánh càng lớn mới càng thử thách lòng người.
Gió xuân tháng hai làm vướng tầm nhìn, trong chớp mắt con tuấn mã màu đen đã hí vang một tiếng tung vó lao về phía sâu trong rừng, bỏ lại vết móng ngựa hằn sâu trên cỏ.
Tôi ngoái đầu cười với Quân sư phụ phía sau: “Sư phụ đoán xem, ông ta đi đâu?”. Vừa nói tay vừa gảy hai âm trên dây đàn, chớp mắt đã ở bên ngoài ngôi lầu trúc của Mộ Dung An.
Tôi và sư phụ nhanh chóng tìm một chỗ nấp để quan sát bên trong.
Trong phòng không thấy Tô Hoành, qua chấn song ô cửa sổ không đóng, nhìn thấy Mộ Dung An đang đứng lặng trước bức bình phong. Vốn tưởng cô đang ngắm nghía bức tranh phong thủy vẽ trên đó, nhưng đợi mãi không thấy cô nhúc nhích.
Tôi không dám chắc hai âm tôi vừa gảy trên dây đàn khiến chúng tôi tới vào thời điểm nào, về lý có lẽ là sau một tuần trà, nếu Tô Hoành quay lại tìm Mộ Dung An thì chắc cũng sắp xuất hiện, lẽ nào ông ta phi ngựa phóng đi không phải đến tìm cô?
Tôi nhìn Quân sư phụ vẻ thăm dò, nhưng sư phụ hoàn toàn không để ý đến tôi, ánh mắt đăm đăm hướng vào Mộ Dung An. Cửa phòng bị đẩy “xịch” một tiếng, ngón tay thanh mảnh của chàng thiếu niên dừng trên then cửa, tôi ôm ngực, cảm giác hòn đá tảng đè nặng đã rơi xuống đất, thân người Mộ Dung An khẽ động nhưng không quay lại: “Ta đã nói thế nào? Nếu đã ra đi thì đừng quay trở lại, mới chưa quá nửa ngày chàng đã quên?”.
Trong phòng chợt lắng lại, những ngón tay của Tô Hoành cuối cùng ngừng run khi nhìn thấy cô, cách năm bước, giơ ra định nắm lấy cô, nhưng bị cô dửng dưng né tránh, tuy nhiên động tác của chàng vẫn nhanh hơn cô giống như sau lần đầu đấu kiếm thắng cô, chàng đều vừa vặn nhanh hơn cô nửa chiêu.
Cô cuối cùng vẫn bị chàng nắm được tay, kéo giật cô vào lòng, giống như trước giờ chàng luôn biết khi nào dùng cách gì có thể khiến cô khuất phục. Cầu xin tha thứ là vô ích, chỉ có thể khiến cô khuất phục.
Chàng nhắm mắt, xiết cô thật chặt: “Ta sẽ không bao giờ xa nàng nữa. Ta đã sai một lần, không thể sai lần nữa”.
Tay cô che mắt, hơi ngửa đầu, nước mắt lọt qua kẽ ngón tay, lăn qua má, từng giọt từng giọt lặng lẽ rơi trên vai chàng.
Cùng Quân sư phụ ra khỏi Hoa Tư mộng của Tô Hoành, mãi không thấy sư phụ nói gì, thực ra câu chuyện này coi như kết cục mỹ mãn, không biết sư phụ còn gì không hài lòng.
Có lẽ là vì ông thấy tiếc cho Mộ Dung An, loanh quanh mãi cuối cùng Tô Hoành cũng hiểu ra điều ông ta mong muốn nhất là gì, nhưng Mộ Dung An lại không thể nhìn thấy. Tuy vậy ở đời làm gì có chuyện mọi sự thập toàn thập mỹ, thập toàn thập mỹ sẽ khiến người đời đố kỵ, thập toàn cửu mỹ là tốt lắm rồi. Ví như Mộ Ngôn, trước giờ tôi vẫn luôn lo lắng chàng tài năng như thế liệu có lam nhan bạc mệnh, may chàng lấy tôi, người mà chàng gọi là vợ đó chỉ là một người chết, nhân duyên không hoàn mỹ này có lẽ sẽ khiến thần linh cảm thấy công bằng mà tha cho chàng.
Quân sư phụ đến không ai biết, đi không ai hay, không hổ là đồ đệ của Mộ Dung An.
Trên gi.ường, Tô Hoành sắc diện bình thường như ngủ say, tôi biết ông ta đã chết. Điều cần làm ngay là mau chóng rời khỏi lầu Trường An quay về An Lạc cung bởi vì muộn nhất sáng mai cung nhân sẽ phát hiện Trần vương đã chết, mới ở tuổi này chưa đến nỗi đột tử trong giấc ngủ trưa, bất luận thế nào tôi cũng là người bị nghi ngờ đầu tiên.
Tô Hoành đương nhiên chết trong Hoa Tư mộng, nhưng tôi không cảm thấy mình là thích khách, chỉ thấy giống như vừa thực hiện một vụ giao dịch, chỉ là giúp người khác thỏa mãn nguyện vọng mà thôi.
Trải qua bao vinh hoa thế tục, điều ông muốn nhất vẫn là cùng Mộ Dung An sống trọn đời bình an, mặc dù đã rời khỏi cõi trần, ông đã dùng tính mạng của mình đổi lấy mộng cảnh cô vẫn còn sống, ông vẫn được sống bên cô, quả rất đỗi công bằng.
Đẩy cánh cửa lớn bên ngoài, một tiểu thái giám đứng hầu ngoài cửa ân cần cúi chào, tôi lấy tay ra hiệu giữ yên lặng, khẽ nói: “Bệ hạ khó khăn lắm mới ngủ được, công công nên chăm sóc cẩn thận, nhất định không được để ai quấy rầy sự yên tĩnh của bệ hạ, dây đàn của tôi bị đứt, không biết có chỗ nào sửa được, phải nhanh chóng sửa xong trước khi bệ hạ tỉnh lại, tấu hầu bệ hạ đoạn hai của khúc nhạc”.
Tiểu thái giám không chút nghi ngờ, vội sai cung nữ dẫn tôi đi sửa dây đàn, còn mình lại hiên ngang đứng thủ bên ngoài tẩm cư của Tô Hoành.
Ngoái lại nhìn lầu Trường An, những mái hiên cong rực rỡ tỏa ánh vàng dưới ánh mặt trời mùa thu, ngôi lầu cao tới tám chục trượng đổ một bóng thẫm màu khổng lồ trên mặt đất. Tô Hoành đã tìm được chốn trường an của ông ta, nhiệm vụ hành thích Trần vương đã hoàn thành, tôi phải nhanh chóng đến gặp Bách Lý Tấn đổi lại thân phận của mình, quay về Bối Trung chờ đợi Mộ Ngôn, tôi cũng tìm được chốn trường an của mình.
Nghĩ đến đây lòng thấy vui vui. Trên đầu, ánh mặt trời mùa thu dịu dàng, bên tai là tiếng côn trùng rả rích, trước mặt là cây lá rậm rạp, dưới chân là cỏ mùa thu xanh um, trường an, trường an, thật là hai chữ tốt lành.
Khi bên tai vang lên tiếng kiếm va vào nhau, tôi đang suy nghĩ làm thế nào thoát khỏi cô cung nữ một mực muốn dẫn tôi đi sửa dây đàn này, giật mình quay đầu, nhìn thấy hai mũi trường kiếm giao nhau chìa ra trước cánh cửa điện.
Trong phút sững sờ, phát hiện trước mặt rất nhiều thị vệ áo đen không biết xuất hiện từ lúc nào tay cầm vũ khí xông tới, còn Quân sư phụ vừa rồi đã tưởng không biết đi đâu lại đứng chắn trước người tôi vung kiếm đỡ.
Phản ứng đầu tiên là dùng tay đánh ngất cung nữ bên cạnh, phản ứng thứ hai là xem ra tình hình không đơn giản như tôi nghĩ, chuyện Trần vương chết có lẽ đã bại lộ.
Kiếm thuật của Quân sư phụ được Mộ Dung An truyền dạy, mặc dù không nhanh bằng Tô Hoành nhưng thắng ở sự di chuyển linh hoạt mau lẹ, đường kiếm không bổ thẳng mà lựa chọn điểm đâm chính xác, tôi từng một lần chứng kiến sư phụ giao chiến, hầu như ra một chiêu là đánh ngã một người, nhưng lần này xem ra có chút khó khăn, toán thị vệ áo đen phối hợp quá hoàn hảo.
Ánh kiếm loang loáng trước mặt, Quân sư phụ chỉ có thể chắn đằng trước bảo vệ tôi lùi từng bước, không lâu sau đã lùi đến bên rìa một vách núi. Tôi được biết không rõ đời Trần vương nào đã cho xây cất lầu Trường An ở trên sườn núi, mục đích là đưa vách núi vào hậu hoa viên trong cung, tạo nên thắng cảnh thiên thiên thơ mộng. Nhưng bây giờ Quân sư phụ chủ động đưa tôi đến chỗ này, rất có thể là để nếu không còn đường rút có thể từ đây nhảy xuống vực bên dưới, nhưng nhìn lối xuất chiêu của ông, cảm thấy nhiều khả năng là để tìm cho chúng tôi một chỗ chắn dễ thủ dễ công.
Quả nhiên, tôi bị đẩy ra một mỏm đá hình quạt nhô ra, ba phía đều là khoảng không, phía những người áo đen có thể tấn công đã bị Quân sư phụ thủ giữ chặt chẽ, hơn nữa lại có những cành cây hoa chi chít không biết là hoa gì la đà che chắn, vả lại không có tôi bám đằng sau rõ ràng ông được rảnh chân rảnh tay hơn.
Tình thế cơ hồ đã bắt đầu chuyển hướng có lợi cho chúng tôi, mấy thị vệ áo đen đã bị mất mạng dưới kiếm của Quân sư phụ, đột nhiên từ phía trước hơi chếch sang phải lóe ra một ánh kiếm thảm khốc.
Tôi không hiểu kiếm pháp, nhưng trong tích tắc đó cũng có thể cảm thấy tốc độ khủng khiếp của nó, lực gió kèm theo mạnh đến nỗi làm rung những cành hoa la đà như tấm bình phong trước mặt, sượt qua vai sư phụ mang theo vệt máu, nhưng trong tích tắc lại chuyển hướng đâm thẳng vào tôi, đó là một thế kiếm ưu nhã cách gần trăm bước có thể xuyên thấu hoa rụng lá rơi, nhát kiếm quyết liệt đầy sức mạnh lại nhanh như ánh chớp. Tôi nhìn rõ người đó, thậm chí nhìn rõ miếng thạch ngọc màu lam khảm trên chuôi kiếm lóe ra muôn tinh quang lóng lánh.
Mộ Ngôn. Trong tích tắc trường kiếm chưa đâm vào ngực tôi, tôi đã nghe thấy tiếng viên giao châu rạn nứt, giống như một nụ hoa đột nhiên giật mình bừng nở trong màn đêm tịch mịch.
Một tay tôi nắm chặt thanh lợi kiếm cơ hồ đang định đâm sâu hơn, máu tuôn ra từ ngón tay, định kêu lên ngăn lại, nhưng sinh mệnh mất quá nhanh khiến tôi cơ hồ không có sức để mở miệng, ánh mặt trời mùa thu bàng bạc thảm đạm, cỏ dại lay động trong gió, người đó lạnh lùng nhìn tôi, ánh mắt sắc lạnh vô tình: “Dám cải trang thành thân mẫu ta để hành thích phụ vương ta, các ngươi tưởng Trần quốc không còn ai để các ngươi mặc sức tung hoành ư?”.
Tôi cảm thấy mình như chiếc lá khô lay lắt đầu cành, chưa hiểu người đó nói gì, thầm nghĩ có lẽ đó là ảo giác, Quân sư phụ bị vây giữa đám thị vệ nhìn thấy vậy, thét lên: “A Phất”.
Ánh mắt mờ dần, tôi thấy sắc mặt băng lạnh của Mộ Ngôn đột nhiên trắng bệch, toàn thân chàng cứng đờ, bàn tay cầm kiếm dừng lại trên không, mũi kiếm vẫn cắm trong ngực tôi, tôi lắp bắp: “Mộ... Ngôn...”.
Tôi ho ra máu, ký ức như chiếc đèn kéo quân xoay không ngừng trước mặt, một tia chớp như rạch ngang mảng ký ức hỗn loạn, tôi bàng hoàng sực tỉnh.
Chàng chính là Trần quốc thế tử, sao tôi không nhận ra.
Tô Dự, Mộ Ngôn. Chàng lấy họ mẹ, chữ “dự” bỏ đi chữ “hưng” thành chữ ngôn, dáng tao nhã bẩm sinh của người xuất thân trong cung đình quý tộc, khí chất uy nghi tàng ẩn của người ở ngôi cao, Tô Dự huyền thoại dùng mười vạn thiết binh dẹp bằng Vệ quốc, khiến thiên hạ quay như chong chóng, sinh ra là để trở thành một bậc quân vương.
Chàng chính là người trước mặt tôi, là phu quân tôi.
Thảo nào đêm thành hôn chàng hỏi tôi Trần quốc diệt Vệ tôi có hận chàng, lại để mặc tôi tưởng chàng là một tướng quân. Thảo nào chàng chưa bao giờ hỏi xuất thân của tôi, thấy bao điều dị thường về cơ thể tôi cũng không hề ngạc nhiên, bởi vì chàng biết, chàng biết hết.
Nhưng tại sao lại giấu tôi, tôi đã nói Vệ quốc diệt vong là do Vệ vương thất vô đạo, công chúa tuẫn tiết cùng xã tắc là bổn phận của người ở ngôi cao, Quân Phất bây giờ đã không còn là Diệp Trăn ngày xưa, mọi nỗ lực hiện tại chỉ là muốn sống cho riêng mình.
Suy cho cùng là do chàng không tin tôi có thể thật sự nhìn nhận vấn đề như vậy, nếu sớm hiểu lòng tôi, nói thẳng với tôi chàng là Tô Dự, thì đâu đến nỗi xảy ra bi kịch này? Âu cũng là ý trời. Nhưng ý trời quả nhiên vô tình như dao.
Khó nhọc giơ tay áo lau miệng, nhìn thấy bàn tay rất mực thanh tú của chàng giơ ra, những ngón tay run run lần sát đường viền trên trán bóc lớp mặt nạ của tôi.
Một chuyện đơn giản như vậy, chàng làm rất lâu mới xong, khoảnh khắc lớp mặt nạ rơi ra, người chàng run bần bật, sắc mặt trắng như sáp.
Cuối cùng tôi cũng thở ra được một hơi, nhưng không thể khống chế sinh mệnh trong viên giao châu mất dần từng tấc. Do sinh mệnh mong manh, không ít lần hình dung ra cảnh cùng chàng vĩnh biệt, không ngờ lại như thế này.
Khi viên giao châu hoàn toàn vỡ nát, th.ân thể này chớp mắt sẽ trở thành khói bụi, vậy mà kỳ lạ là tôi không hề thấy sợ, thực ra tôi không hề nhát gan...
Chỉ là không muốn để Mộ Ngôn nhìn thấy tôi biến mất trước mắt chàng, nhất định không được. Tôi vẫn có thể nặn ra nụ cười, ít nhất cũng khiến chàng nhớ nét mặt cuối cùng của tôi là tươi cười, không biết nên nói gì, có bao nhiêu điều muốn nói, nhưng tôi chỉ lắc đầu cười: “Em không biết ông ấy là phụ thân chàng, đừng hận em”.
Khi người tôi bay xuống vực, còn nghe thấy tiếng chàng thất thanh gọi tên tôi, âm thanh bị gió cắt vụn, tôi âm thầm nghĩ không thể ngờ tất cả lại kết thúc nhanh như thế, cuối cùng nước mắt vẫn trào ra.
Nước mắt còn chưa kịp rơi trên má, thắt lưng đã bị ai túm lấy, tiếng mũi kiếm cắm vào vách đá chói tai, tôi khó khăn há miệng: “Tại sao lại đuổi theo...”.
Chàng khàn giọng: “Em nói sẽ chờ tôi ở Bối Trung”.
Có lẽ là sự tỉnh táo và sức lực cuối cùng bùng phát, tôi nói năng trơn tru, nhắm mắt, không dám nhìn mặt chàng: “Không phải em muốn thanh minh cho mình, nhưng cha chàng ra đi rất thanh thản, ông tự nguyện để em lấy đi tính mạng, ông luôn thương nhớ thân mẫu chàng, ông tình nguyện ở lại trong thế giới có thân mẫu chàng, có lẽ chàng cho rằng, em nói dối để cứu vãn, nhưng...”.
Chàng ngắt lời tôi: “Tôi tin, tôi tin. Ngoan nào, đừng nói nữa, chúng ta lên đã”.
Tô Dự là người thông minh, khi tôi nhảy xuống vực có lẽ chàng hiểu, không phải tôi cố tình khiến chàng đau đớn, mà là không còn cách nào khác, nhưng vẫn cố nhảy xuống cứu tôi, chưa bao giờ tôi thấy chàng tự lừa dối mình như vậy.
Tôi ôm cổ chàng, vùi đầu vào hõm vai chàng: “Nếu em chết, có phải chàng cũng không sống nổi, cũng muốn đi theo em?”.
Cánh tay chàng nhẹ run, giọng run run: “Nếu thích tôi, em hãy sống tiếp, ở bên tôi suốt đời suốt kiếp”.
Tôi cười, cố phấn chấn tinh thần: “Đừng lên vội, chàng cứ ôm em thêm lát nữa, quê hương em có một truyền thuyết kể rằng, người ta sau khi chết linh hồn vẫn còn, có một nơi gọi là cầu Nại Hà, các linh hồn quy tụ ở đó để chờ qua cầu, bên kia cầu là một nhân thế mới, họ gọi qua cầu Nại Hà là luân hồi”.
Một tay chàng giữ thanh kiếm cắm vào vách núi, tay kia ôm tôi lơ lửng trên không, xiết chặt đến nỗi như ấn sâu vào xương cốt, tôi khẽ nhích ra, nhìn vào mắt chàng: “Nếu đúng là có một nơi như thế, em sẽ chờ chàng dưới chân cầu Nại Hà. Chàng sinh ra đã là quân vương của Trần quốc, chàng cần lập đại nghiệp, làm rạng danh xã tắc. Không nên bi lụy vì tình. Chúng ta hẹn nhau ba mươi năm, sau ba mươi năm chàng hãy đến tìm em, chúng ta cùng qua cầu Nại Hà, bắt đầu kiếp luân hồi, chưa biết chừng trong vạn kiếp luân hồi, chúng ta có thể làm vợ chồng ở một kiếp nào đó”.
Ánh mắt chàng đau đớn, tôi muốn giơ tay xóa đi nỗi đau đớn ấy, môi chàng chạm vào tóc tôi: “Nhưng nếu không có tôi, em sợ thì sao? Nếu không muốn cùng tôi ở cõi trần, hãy để tôi đi cùng em, có được không?”.
Chàng thản nhiên nói ra những lời đáng sợ đó, tôi sững sờ hồi lâu, lòng đột nhiên cay đắng: “Thực ra không có chàng, em cũng sẽ không sợ, em lớn rồi, chỉ là thường giả bộ làm nũng trước mặt chàng, khiến chàng cảm thấy không thể bỏ em mà thôi, chàng xem, có phải em xảo quyệt quá không...”.
“Nhưng tôi sợ”. Chàng khẽ ngắt lời tôi: “Không có em tôi sẽ rất sợ”.
Tôi giơ tay vuốt tóc chàng: “Vậy em không chờ chàng ở đó nữa, sau khi chết em vẫn đi theo chàng, đợi đúng hẹn ba mươi năm, chúng ta cùng qua cầu Nại Hà. Nhưng nếu chàng đến trước sẽ không tìm thấy em, chàng phải lập đại công, phải trở thành minh quân thánh chủ được người đời ca tụng, chàng mang đầy chiến tích quang vinh đi gặp em. Kiếp này em và chàng... kiếp này là không thể, kiếp sau em nhất định...”.
Nhưng nhìn thấy sắc mặt chàng lại bất giác ngừng lời, rồi cố nở nụ cười: “Chàng giận gì kia, cười một cái cho em xem nào”.
Lưỡi kiếm lại cắm vào vách núi, chạm vào đá tóe lửa, chàng ôm tôi nhảy lên phía trên một đoạn, giọng khàn đặc: “Không cần hứa hẹn đời sau kiếp sau, ta chỉ cần em đời này kiếp này”.
Cổ họng nghẹn ứ, đời này kiếp này quả thật không thể. Tôi nắm chặt dao găm trong tay áo, nhân lúc chàng bung người bật lên, run run thích nhẹ vào cánh tay ôm tôi, cánh tay như xiềng xích đó bị đâm bất ngờ, lập tức buông ra.
Khi cơ thể tôi rơi vun vút xuống dưới, tôi nghe thấy giọng mình lẫn trong gió: “Hãy nhớ, đừng quên em, nếu sau này thích cô gái khác, nhất định không được để em biết”. Nhưng không biết chàng có nghe thấy không.
Cảnh cuối cùng nhìn thấy là vẻ mặt đau đớn không thể tưởng tượng của chàng, bóng áo lam nhập nhòe trong nước mắt. Dưới bầu trời thu, gió truyền đến giọng chàng, nhưng tôi không còn nghe thấy.
Chết đi như vậy cũng tốt. Chỉ có điều nếu sớm biết sẽ phải chia ly nhanh như vậy, tôi nhất định sẽ luôn đi theo chàng, không để những ngày tháng cuối cùng chia xa nhiều như vậy.
Nhưng nghĩ lại, ông trời cũng vẫn tốt với chúng tôi. Từ giữa đông năm ngoái đến mùa thu năm nay giống như một giấc mơ, trong giấc mơ đó, tôi được một báu vật, chàng luôn là báu vật của tôi.
Đời người không coi trọng ngắn dài, có lúc một khắc cũng bằng một đời dài lâu, có lúc một đời chỉ là một khắc ngắn ngủi, tất cả đều là số mệnh, năm xưa có vị trưởng môn đã phán tôi là người bạc mệnh, lời của ông quả nhiên linh ứng, hôm nay tôi chết cũng nằm trong số mệnh mà thôi.
Nhưng còn Mộ Ngôn, tôi nghĩ chàng nhất định sẽ dằn vặt đau buồn, có cách nào khiến chàng không buồn như vậy, nếu tôi không chết thì tốt quá.
 
Phần 4:Trọn đời bình an - Chương 03
Tháng mười là mùa thu hoạch, người ta đem ngũ cốc ủ rượu, những cánh đồng lúa bát ngát dưới chân núi Nhạn Hồi, xem ra Mộ Ngôn trị vì Vệ quốc rất tốt.
Phải cảm ơn Quân sư phụ đã dạy tôi bí quyết làm mặt nạ da người, từ nước Trần đến nước Vệ, đi một mạch trở về núi Nhạn Hồi, hai mươi ngày vừa đi vừa nghỉ, ngoài cơ thể thỉnh thoảng hơi khó chịu, dọc đường đều thuận lợi.
Hai mươi ngày trước, tôi tỉnh lại ở ven sông Khúc Diệp, đại khái là từ vách núi Trà lăn xuống vực rơi xuống dòng sông, trôi theo dòng nước chảy dạt đến sông Khúc Diệp, lúc vĩnh biệt Mộ Ngôn, tôi đã tưởng viên giao châu sẽ vỡ vụn trong tích tắc, nhưng khi tỉnh lại, đột nhiên lờ mờ nhìn thấy ảnh hình viên giao châu, viên minh châu lóng lánh như băng tuyết, một nửa đã vỡ, nửa kia đầy vết rạn.
Tôi nghĩ đó chính là nguyên nhân tôi vẫn còn sống, vậy là ông trời cũng có đức hiếu sinh, nhưng hiếu sinh chưa triệt để, những vết rạn mỗi ngày một sâu thêm là mang đi một phần tính mạng của tôi.
Theo đó, nhiều nhất tôi còn có thể gắng gượng ba, bốn tháng nữa. Tôi đã nghĩ có nên trở về tìm Mộ Ngôn, trên đời duy nhất có chàng khiến tôi không yên tâm, cảm thấy được nhìn chàng dù một lần cũng tốt.
Nhưng lại nghĩ, cuối cùng mình vẫn không thoát khỏi đoản mệnh, cho chàng hy vọng rồi lại khiến chàng thất vọng thì quá tàn nhẫn, hơn nữa, nếu gặp lại chàng, tôi sẽ không chịu nổi hiện thực tôi chỉ còn sống ba, bốn tháng trên đời. Nghĩ đi nghĩ lại, quyết định ba tháng còn lại này sẽ trở về nơi gặp chàng lần đầu, có những hồi ức đó về chàng là đủ để tôi vui trong những ngày cuối cùng.
Trên đường trở về núi Nhạn Hồi, đâu đâu cũng nghe thấy dân chúng bàn tán chuyện Trần vương qua đời, thế tử Tô Dự kế vị, ngày làm lễ đăng quang cũng là ngày phong vương hậu, nhưng ngự ở ngôi Trần vương hậu cao quý lại không phải là một phu nhân đoan trang mà là một linh vị bằng ngọc.
Tôi nhớ đến lần trong chiếc sân nhỏ xung quanh nở đầy hoa thiên quế, chàng từng nhăn nhó nói với tôi: “Cô nương định nói là âm hôn? Nhưng Mộ gia chúng tôi không thể tuyệt hậu, đa tạ thịnh tình của cô nương”.
Mộ Ngôn, bởi em không cam lòng, trước lúc vĩnh biệt đã dặn chàng như vậy, cho dù chết vẫn muốn độc chiếm chàng. Nhưng... nhưng em chỉ nhất thời nói vậy thôi, chàng không cần nghiêm chỉnh thực hiện.
Nhưng nhất thời vẫn không thể kìm lòng, âm thầm rơi lệ.
Núi Nhạn Hồi vẫn như xưa, tính ra thời gian tôi rời đi cũng không dài, nhưng hai năm qua quả thực đã xảy ra bao nhiêu chuyện. Góc mái cong của phủ đệ Thanh Ngôn tông ẩn hiện dưới bóng cổ thụ sum suê có rừng trúc bao quanh đã là nơi tôi không thể quay về.
Sơn động sau núi vẫn bảo tồn hoàn hảo, bức họa khắc trên gi.ường đá cũng chưa mờ. Tôi tạm thời ở lại trong động.
Phong cảnh ở đây tôi đã chứng kiến suốt mười sáu năm. Mùa xuân gió nhẹ, mùa hè nắng chói, mùa thu mây phủ, mùa đông tuyết rơi, mặc dù vẫn cảnh trí quen thuộc, trong lòng vẫn thấy lưu luyến, muốn lúc nào cũng có thể nhìn thấy nó, nhưng thể lực yếu đi từng ngày như nhắc thời gian không còn bao nhiêu.
Đêm thu lạnh, thỉnh thoảng có gió từ cửa động lùa vào, nằm trên gi.ường đá không tiện, may phát hiện vách động có một cái hõm, phía trước có những dây leo rủ xuống, có thể tránh gió tránh rét.
Tôi đã chuẩn bị cho sự kết thúc của mình như vậy, thầm nghĩ nếu có thể biến thành tro bụi bay đến nơi này cũng coi như có thủy có chung. Không ngờ đêm thứ bảy, sau khi Mộ Ngôn vừa lên ngôi đã quay lại nơi này, quả là một sự bất ngờ.
Vào lúc trăng lặn, tôi đang co người trong hõm đá sau những chùm dây leo, nghe thấy bên ngoài cửa động có tiếng bước chân quen thuộc và ánh đuốc le lói, Mộ Ngôn ôm cây đàn thất huyền, cắm bó đuốc trong tay vào vách đá, mắt nhìn khắp động hồi lâu, quay người ngồi xuống chiếc bàn đá, để cây đàn bên cạnh.
Ánh đuốc chiếu sáng khắp động, chàng vận áo chùng đen như thuở ban đầu. Vẫn dáng hào hoa như cái đêm giữa hạ đầy sao, nhưng đôi mắt đen u sầu, nụ cười trên miệng biến mất, nét mặt xanh xao bệnh tật.
Lòng tôi đau nhói. Chàng dừng lại trên khoảnh đất trống giữa động, cau mày cúi đầu ngắm nghía, đó chính là chỗ tôi dùng cành cây vẽ bức tranh tặng chàng, bây giờ không còn nữa.
Rất lâu sau, như nghĩ ra điều gì, chàng sải mấy bước đến trước gi.ường đá. Tôi thấy chàng cúi xuống, ngón tay thon dài lần từng tấc bức họa khắc trên đó, lát sau thong thả nói: “Vẽ khá lắm, xem ra có tiến bộ, tôi vẫn nhớ bức họa em vẽ trên đất tặng tôi cũng không quá tồi. Kỳ thực tôi đã nhìn ra em định vẽ gì, chỉ là muốn đùa em một chút”.
Nếu là lúc thường tôi nhất định trợn mắt hét lên với chàng: “Chàng thật quá đáng”.
Nhưng hôm nay đành mím môi thật chặt, cố kiềm chế không để bật ra một tiếng, chàng thật quá đáng, luôn trêu chọc tôi, vậy mà lần nào tôi cũng tưởng thật, nếu như vẫn còn tương lai, tôi nhất định bắt đền chàng gấp mấy lần, nhưng tôi tuyệt nhiên không còn tương lai nữa.
Có điều, bây giờ tôi vẫn sống, lại trốn chàng như thể Quân Phất không còn ở trên đời, như thế chẳng phải đang đùa giỡn chàng ư? Không hiểu nếu chàng biết sẽ giận thế nào, nhưng mong chàng mãi mãi không biết.
Tiếng đàn dìu dặt vang lên trong động, vầng trăng đã lặn cơ hồ lại mọc, chàng cúi đầu gảy đàn, dáng phong lưu tự tại đó không ai có thể bắt chước.
Thực ra nếu chàng không sinh ra đã là thế tử Trần quốc, có lẽ một ngày nào đó sẽ trở thành đệ nhất cầm sư trong thiên hạ, xem ra ở đời đúng là có được có mất.
Trong ánh đuốc hồng một con bướm đỏ không biết từ đâu bay đến, đôi cánh dập dờn quấn quýt bên chàng, dường như cũng hiểu những thanh âm êm như nước chảy tuôn ra từ cây đàn. Tiếng đàn chợt ngừng, khuôn mặt đờ đẫn của chàng đột nhiên chấn động, hiện ra vẻ dịu dàng quen thuộc.
Con bướm lặng lẽ đậu trên ngón tay chàng, giọng chàng run run: “A Phất, có phải em không?”.
Tôi bịt chặt miệng, ngăn tiếng nức nở bật ra, nhưng sao có thể là tôi, Mộ Ngôn, chàng trước nay thông minh lý trí, sao lúc này lại có liên tưởng dị thường như vậy.
Con bướm đậu một lát, vẫy đôi cánh mỏng định bay đi, chàng nhổm dậy định ngăn lại, trong lúc vội vàng chạm vào dây đàn, một chuỗi thanh âm ào ạt như nước trong nguồn phá đá trào ra, con bướm đỏ lại liệng một vòng rồi đậu xuống cây đàn.
Một con bướm kỳ lạ, có lẽ trong huyết mạch Mộ Ngôn cũng di truyền tố chất dụ bướm của Mộ Dung An, ngón tay chàng nhẹ nhàng gảy dây tơ, giọng lặng trầm đau đớn, khẽ nói: “Em muốn nghe ta đàn? Vậy em muốn nghe khúc nào?”.
Bướm không trả lời, tôi muốn trả lời nhưng không thể. Chàng đột nhiên mỉm cười, nụ cười thấm buồn của chàng mê hồn hơn bất cứ lúc nào, đau như dao cắt hơn bất cứ lúc nào: “Vậy, tôi sẽ đánh tất cả những khúc nhạc tôi biết cho em nghe, được không?”.
Đuốc cháy gần hết, bên ngoài trời đã rạng, rồi mặt trời lên, mặt trời lặn, tàn quang cuối cùng ánh lên tầng không đỏ như sắc máu. Quả nhiên chàng gảy hết những khúc nhạc đã biết, chẵn một đêm, chẵn một ngày, thanh âm như nước chảy không ngừng. Tôi náu trong hốc động, lòng quặn đau nhìn ngón tay chàng rớm máu, chỉ biết bịt miệng thật chặt, ngăn tiếng nấc.
Nỗi đau âm ỉ dường như dồn cả lại trong một ngày một đêm này, tôi có cảm giác mình đã chịu hết nỗi thống khổ chia ly của cả ba tháng cuối cùng trong đời. Trong cơn đau giằng xé, tôi bất giác muốn trách ông trời, tại sao trong tháng cuối cùng không cho tôi thanh thản, để tôi chứng kiến chàng đau đớn như vậy. Nhưng cùng với nỗi đau, một niềm hạnh phúc bi thương cũng âm thầm lan tỏa trong tôi.
Nếu không có Mộ Nghi can ngăn, không biết chàng sẽ còn gảy đến bao giờ, mặc dù từ trước tôi luôn mơ ước như vậy, mơ được chàng gảy cho nghe tất cả những nhạc khúc chàng biết, nhưng khi đêm đến, nghe thấy tiếng đàn như nước nguồn không dứt đó, nhìn những dây tơ dính máu dưới tay chàng, lòng lại âm thầm day dứt, sao chàng biết quá nhiều nhạc khúc như vậy.
Thanh âm vừa dừng, con bướm đỏ đậu trên thân đàn chẵn một ngày đêm giống như được tạc trên đó đột nhiên giật mình, vỗ cánh liệng một vòng rồi bay thẳng ra ngoài cửa động, mặc cho tiếng đàn lại vang lên như níu kéo. Mộ Ngôn vội đứng lên đuổi bắt, bị Mộ Nghi ngăn lại, trong động chỉ có tiếng nói nghẹn ngào của cô: “Nếu đó đúng là tẩu tẩu, tẩu ấy sẽ không bỏ ca ca một mình bay đi, nhưng cho dù đó là tẩu tẩu, lẽ nào ca ca định sống suốt đời với một con bướm?”.
Con bướm đỏ đã bay xa, mất hút trong ánh trăng mờ, Mộ Ngôn quay lưng lại, nhìn không rõ sắc mặt, chàng không đuổi theo nữa, cũng không nói gì. Có lẽ cuối cùng chàng tỉnh táo trở lại, biết đó không phải là tôi. Mộ Nghi nói đúng, nếu là tôi, tôi sẽ không bỏ chàng một mình, tôi không nỡ.
Đuốc lại được đốt lên, bóng chàng đổ dài in lên vách đá, giơ tay là có thể chạm vào, tôi định thử làm vậy, cuối cùng lại thôi. Trong không khí trầm mặc dài lâu, Mộ Nghi khẽ nói: “Ca ca, tẩu tẩu là người thế nào?”.
Trong động chỉ có tiếng đuốc cháy xèo xèo, giọng chàng trầm trầm: “Rất hay làm nũng, hay giận hờn, hay khóc”.
Mộ Nghi ngập ngừng, “Một tiểu thư như thế trong thiên hạ đâu chẳng có, huynh... huynh hà tất...”.
Chàng quay người: “Đó là lúc có ta ở bên...”. Chàng cúi xuống lầm lũi bỏ cây đàn vào bao: “... những khi không có ta, nàng kiên cường hơn bất cứ ai”.
Nước mắt nhập nhòa rồi tuôn như mưa xuống má, cũng không muốn lau. Một trận gió thổi tới, rẽ ra những sợi dây leo trước mặt, tôi hốt hoảng nép người về phía sau, nhưng chỉ là hoảng sợ vô ích, ngước mắt đã thấy bóng hai người một trước một sau chầm chậm ra khỏi cửa, trong động chỉ còn ánh đuốc tàn đổ bóng xuống mặt đất.
Tôi tưởng tất cả sẽ kết thúc ở đó, không ngờ mọi chuyện vẫn chưa kết thúc. Mộ Ngôn không phát hiện ra tôi, bởi trong động không có dấu vết của người sống. Tôi là người chết, không cần nồi niêu bát đũa, cũng không cần đốt lửa xua đuổi dã thú, lại thêm sức lực yếu dần, trước khi chàng đến, tôi đã nằm lỳ hai ngày trong hốc đá.
Thầm nghĩ có thể họ sẽ quay lại, ngày hôm đó tôi vẫn không ra khỏi chỗ ẩn náu, sáng hôm sau đoán là sẽ không có gì sơ sảy, mới loạng choạng ra khỏi động đến con suối gần đó. Mang mái tóc dài đẫm nước quay về, lại sững người nhìn thấy cô gái áo xanh đứng cạnh chiếc gi.ường đá cúi đầu chăm chú vẽ gì đó trên giấy.
Không kịp trốn, tôi ngẩng đầu, đôi mắt đen tròn như hạnh nhân của cô ấy bỗng mở to, nhìn chằm chằm bóng người ở cửa động. Tôi bước đến, nhẹ giọng hỏi: “Ba tháng không gặp, muội vẫn khỏe chứ, Mộ Nghi?”.
Bức họa trong tay cô hơi run, chằm chằm nhìn tôi, lát sau đôi tròng đen giàn giụa nước mắt: “Muội không biết tẩu là người hay là ma, có phải tẩu vẫn ở trong động này? Nhưng tại sao bây giờ mới xuất hiện, người tẩu cần gặp phải là ca ca của muội chứ”.
Không thể nói sự thật với cô, nhưng thấy cô khóc như vậy, tôi không đành lòng, mặc dù tôi cũng thường xuyên rơi nước mắt, nhưng sợ nhất người khác khóc trước mặt mình. Không biết làm thế nào, đành quay người định đi, đằng sau truyền đến tiếng khóc to hơn của Mộ Nghi: “Tẩu nhẫn tâm như vậy ư?”.
Bên ngoài có gió, mấy chiếc lá phong rơi trên cửa động, tôi dằn lòng cắm cúi bước tiếp, được mấy bước, hai chân chậm dần, cuối cùng dừng lại.
Sau lưng là tiếng nói nghẹn ngào của Mộ Nghi: “Ngày tẩu rơi xuống vực, ca ca cũng nhảy theo, ca ca muốn đuổi theo tẩu, từ vách núi lăn xuống dòng sông nước xiết, vùng vẫy tìm kiếm cuối cùng chỉ vớt được chiếc áo tím của tẩu, tẩu không biết khi thị vệ tìm thấy, bộ dạng ca ca thế nào đâu, cơ hồ nửa mạng sống đã bị Diêm vương lấy đi, nhưng trở về hành cung tuyệt nhiên không nhắc tới tẩu nửa câu, nghỉ ngơi nửa ngày liền bắt tay lo liệu tang lễ cho phụ vương. Ca ca xưa nay dù gặp bất cứ việc gì cũng luôn điềm tĩnh, chúng tôi đều tưởng ca ca chỉ là mê muội nhất thời, dường như đã nghĩ thông, không ngờ lo xong tang lễ cho phụ vương, ca ca đóng cửa giam mình ba ngày trong phòng. Ngày đăng quang, tay bê linh vị của tẩu, đích thân đặt vào bảo tọa dành cho vương hậu sau lưng, tẩu nhất định không biết, linh vị đó ca ca tự tay tạc suốt ba ngày không ngủ”.
Tôi ngước mắt nhìn trời, tầng không thăm thẳm xanh ngắt bao la, mây trắng lững lờ. Đó là lỗi của tôi, là niềm lưu luyến của tôi, chàng không nên yêu tôi. Một người sống yêu một người đã chết làm sao có tương lai.
Ngày trước tôi chỉ muốn ở bên chàng, gần chàng hơn nữa, để sau khi ra đi không còn gì tiếc nuối, nhưng hoàn toàn không nghĩ nếu có ngày tôi rời xa chàng, chàng sẽ thế nào. Tôi đã sai.
Mộ Nghi từ phía sau bước đến, giọng vẫn run run nghẹn ngào: “Tại sao tẩu vẫn không ngoái lại? Tẩu cảm thấy như thế vẫn chưa đủ sao? Nếu muội nói với tẩu, giờ đây vì tẩu ngay cả kiếm ca ca cũng không muốn động vào nữa, tẩu có động lòng hay không?”.
Tôi quay phắt lại, khó nhọc nói: “Thế là thế nào?”.
Cô giơ ống tay áo lau nước mắt, cố nở nụ cười còn khó coi hơn khóc: “Ca ca kiếm thuật cao cường như vậy, gặp sự cố ra tay nhanh như chớp, khiến hộ vệ tùy tùng xấu hổ. Nhưng hôm đăng quang, trên yến tiệc có thích khách, rõ ràng có thể kịp thời tránh mũi kiếm, ca ca lại... muội đi xem vết thương của ca ca, hỏi mãi, ca ca chỉ nói, ca ca đã không thể dùng kiếm nữa. Về sau muội mới biết, do ca ca đã đâm nhầm tẩu nên không thể chạm vào kiếm nữa. Lần này cũng thế, để kịp sinh nhật tẩu, cơ thể ca ca dù chưa bình phục, vẫn vượt ngàn dặm trở về núi Nhạn Hồi. Mặc dù ca ca không nói gì, nhưng muội cũng nghĩ, ca ca đến đây hoàn toàn là vì tẩu. Vậy mà tẩu lại nhẫn tâm như thế, nhẫn tâm đến mức rõ ràng vẫn sống mà lại giấu ca ca, ca ca ở trước mặt tẩu, tẩu cũng không lộ diện, tẩu nhẫn tâm để ca ca...”.
Hang động rất cao, lần đầu phát hiện thì ra trên đỉnh có nhiều chỗ bị xói mòn. Phải, sao lại nhẫn tâm đến thế, tôi không nhẫn tâm, nhưng nỗi đau trong lòng lại từ từ dâng lên, lát sau, tôi nghe thấy tiếng mình lạc giọng: “Mộ Nghi, giúp tôi một việc được không”.
Trên đường đến Hạo thành, nghe đồn hai nước Triệu - Khương khai chiến. Chuyện này vừa trong dự đoán lại vừa ngoài dự đoán. Cuối tháng tám, Mộ Ngôn đến Triệu, cùng hội đàm với Triệu vương, với tính cách nóng nảy của Triệu vương, tôi tưởng nhiều nhất không quá nửa tháng sẽ tuyên chiến với Khương, không ngờ lại kìm được cơn thịnh nộ, trì hoãn đến tận đầu tháng mười.
Nghe đồn hôm tuyên chiến, Triệu vương đích thân đứng trước trận tiền vạch ra bảy tội lớn của Khương quốc, trong đó tội lớn nhất vô cùng thú vị, nhân chứng vật chứng chỉ thẳng chuyện tháng tư vừa rồi Khương mượn dao giết người giá họa cho Triệu giết Trần quốc thế tử Tô Dự.
Triệu vương lời lời đanh thép lên án Khương quốc lòng lang dạ sói, rắp tâm hùng bá một cõi, trăm phương ngàn kế chia rẽ hai nước Triệu, Trần hòng mưu lợi, may thay hai nước giao hảo đã lâu, lại có liên hôn tín ước mới tránh được cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Không ngờ Khương vương đến chết không chừa, để che giấu tội bất nghĩa với hai nước Trần, Triệu, lại bày ra khổ nhục kế tự chặt tay mình, giết chết thừa tướng Bùi Ý, chủ mưu h.ãm hại Triệu rồi giá họa lên đầu Triệu, hành động này của Khương vương trăm lần trái đạo quân vương, trên bất trung với thiên tử, dưới bất nghĩa với trung thần, khiến thiên hạ rùng mình.
Tôi cảm thấy lời cáo trạng đó, đoạn trước còn được, đoạn sau quả thật oan uổng cho Khương vương. Có thể đoán ra, tháng trước Mộ Ngôn đã nói thế nào để đánh lừa Triệu vương, cũng có thể đoán ra tại sao Triệu vương nhất nhất tin lời chàng, quả nhiên xuất binh, không có nguyên nhân khác, tất cả nhờ vào tài diễn xuất bẩm sinh của Mộ Ngôn.
Lấy gậy ông đập lưng ông, nước cờ này Mộ Ngôn đi rất tuyệt, lúc đầu khi Khương quốc bày mưu giăng lưới đâu có ngờ dẫn đến kết cục hôm nay, cũng đâu ngờ người có tư cách thu lưới cuối cùng lại không phải là mình mà chính là con cá mình giăng lưới muốn bắt.
Nhưng tôi nghĩ, với quốc lực của Triệu, dám tuyên chiến với Khương lại không phải là sự mạnh động nhất thời, ắt là khi kết đồng minh Mộ Ngôn đã hứa, nếu hai nước khai chiến, Trần sẽ đứng sau hậu thuẫn cho Triệu. Nhưng khi Mộ Nghi bí mật đưa tôi trở về Hạo thành lại không hề nghe nói Triệu đã thu được lợi gì trong chiến sự này.
Trái lại, nghe nói Khương vương phẫn nộ bởi bản cáo trạng bảy tội danh kia, lập tức điều binh khiển tướng kháng cự, toàn quốc trên dưới một lòng quyết kháng địch rửa hận, liên tục bảy ngày đại quân Triệu quốc không những không thể tiến thêm bước nào vào lãnh thổ của Khương, trái lại liên tục rút lui. Xem ra Mộ Ngôn đã không giữ lời khi kết đồng minh với Triệu.
Mộ Nghi với tầm mắt của một công chúa không hiểu gì thế sự, cũng cho rằng hai nước Khương, Triệu đều bại là tốt nhất, như vậy Trần quốc láng giềng có thể kê cao gối ngủ yên vài chục năm.
Ngay Mộ Nghi cũng có thể nhìn ra bí ẩn đằng sau thế cục này, tin là Triệu vương đang lún sâu vào vũng lầy cũng hiểu ra, nhưng lúc này ngoài giương cờ trắng cầu Trần cứu viện ông ta còn có thể làm gì hơn. Mà khi hai nước chưa đến lúc sức cùng lực kiệt, tôi dám cược Mộ Ngôn quyết không xuất binh. Quả thực tôi rất hiểu chàng, chỉ cần tôi muốn.
Ngày hai mươi lăm tháng mười, trời u ám, từ khi chia tay ở Bích sơn, tôi và Mộ Ngôn đã tròn nửa tháng xa nhau, đối với chàng, quãng thời gian xa tôi còn dài hơn.
Chiến tuyến trải quá dài, Triệu vương cuối cùng không trụ nổi, hoảng hốt cấp tốc cử người đến Hạo thành xin cứu viện. Nghe Mộ Nghi nói, Mộ Ngôn viện cớ ốm mệt, sáng không thiết triều, coi như phớt lờ sứ thần nước Triệu, buổi chiều mới truyền chỉ báo, sức khỏe đã khá lên, buổi tối sẽ mở tiệc ở Trân Long viên khoản đãi sứ thần nước bạn.
Mộ Nghi đứng bên an ủi tôi: “Sức khỏe của ca ca gần đây tuy có hơi kém, nhưng vết thương trên người không đáng ngại, chắc là do thức đêm giải quyết chính sự, không hề gì. Dạ tiệc hôm nay, muộn một chút tẩu có thể nhìn thấy ca ca...”.
Lời vừa dứt mắt đã đỏ hoe, tôi cười chun mặt làm xấu với cô: “Nếu tối nay muội vẫn mau nước mắt như thế, không khéo chúng ta bị lộ tẩy, nếu chàng phát hiện thì biết làm sao, nếu bị ăn đòn muội phải đứng chắn cho tôi đấy”.
Cô ngẩn người, lau nước mắt: “Chuyện buồn như vậy mà tẩu vẫn còn tâm trạng đùa giỡn, tẩu đúng thực như ca ca nói, khi không có ca ca ở bên...”. Trong đầu tôi hiện ra câu nói, “... khi không có ta, nàng kiên cường hơn bất cứ ai”.
Tôi phấn chấn tinh thần, ôm đầu than thở: “Muội xem, chàng đã nói vậy, khiến tôi vốn định khóc lại không dám khóc, phải làm gương cho muội”.
Mộ Nghi rầu rĩ nhìn tôi, buồn bã nói: “Ngoài làm cho ca ca quên, không còn cách nào khác sao, tẩu tẩu?”. Tôi ngẩng đầu nhìn lên xà nhà, nụ cười vụt tắt: “Đúng, không còn cách nào khác”.
Cuối cùng tôi đưa ra quyết định sẽ gảy một Hoa Tư điệu cho Mộ Ngôn, Hoa Tư điệu Tý Ngọ, lấy đi ký ức của chàng.
Thực ra phương thức có được Hoa Tư điệu Tý Ngọ không khác nhiều so với Hoa Tư điệu tôi thường tấu, chỉ là nhất định phải tấu vào giờ Tý, lấy viên giao châu làm khế ước, niệm lời chú để thôi động cây đàn tấu ra nhạc khúc chứ không phải dùng ngón tay.
Khúc nhạc tấu ra có thể dệt được ảo mộng đặc biệt cho người khác, ảo mộng này mặc dù cũng là tái hiện quá khứ nhưng không phải thu hút tính mạng của người đó mà là lấy đi tình cảm sâu sắc nhất trong lòng người đó.
Tý Ngọ là chỉ từ giờ Tý đến chính Ngọ, người rơi vào ảo mộng không thể thoát ra khỏi tình cảm đau đớn giày vò, tự mình thoát ra khỏi mộng cảnh, sau giờ Ngọ khi người đó tỉnh lại, phần tình cảm đó sẽ biến mất do bị ảo mộng thu hút. Nhưng ảo mộng mà Hoa Tư điệu Tý Ngọ dệt ra không giống ảo mộng thường ở chỗ, cho dù người được dệt mộng không thoát ra khỏi mộng cảnh, cũng không bị mất tính mạng, đến giờ Ngọ sẽ tỉnh lại còn mộng cảnh sẽ được tiếp diễn ở một không gian khác.
Đây có lẽ là bí mật lớn nhất của Hoa Tư dẫn, có lẽ ngay cả Quân sư phụ cũng không biết, đó là cấm thuật trái đạo lý. Bởi trên thế gian không nên có ai có quyền tước đi ký ức tình cảm của người khác, cũng không nên vạch ra khoảng không thời gian mà ngay trời cũng không nhìn thấy, cho nên phép thuật một khi thực thi thành công, tác dụng tương phản đối với người thực thi phép thuật sẽ rất lớn, lúc này viên giao châu mà Hoa Tư dẫn ký thác sẽ vỡ vụn, công lực của phép thuật cũng theo đó tiêu tan. Tất cả sẽ trở về cát bụi.
Trước kia, tôi muốn để Mộ Ngôn nhớ tôi, nhớ suốt đời. Nhưng nếu nhớ tôi chỉ khiến chàng đau khổ, chi bằng để chàng quên đi.
Buổi tối, Mộ Nghi dẫn tôi đến Trân Long viên dự tiệc. Theo phong tục nước Vệ, công chúa chưa xuất giá tuyệt đối không được lộ diện ở chốn xã giao cung đình, Trần và Vệ chỉ cách một con sông, phong tục về mặt này lại khác nhau.
Tôi phục trang vào vai người hầu của Mộ Nghi, theo sát bên cô, đi thẳng tới Trân Long viên, dưới bầu trời đêm thu, giữa trùng trùng đèn cung sáng rực, một biển hoa thiên trúc trải ra trước mắt, kéo tới tận chân vương tọa bằng ngọc tạc, giống như bữa tiệc được mở trên một biển hoa.
Cảnh trí trang nhã, du nhàn như bức họa mới tinh, vừa nhìn là biết đó là phong cách của ai. Từ xa truyền đến tiếng hô của thị quan, khóe mắt liếc thấy dải thắt lưng của hầu nữ bay bay trong gió, Mộ Nghi kéo tay tôi, lúc này mới phát hiện quần thần đã nhất loạt quỳ phục dưới vương tọa, khiêm nhường chờ đợi quân vương giá đáo.
Tôi quỳ theo mọi người, thầm nghĩ sau nửa tháng xa cách, không biết bây giờ trông Mộ Ngôn thế nào. Không nén nổi hơi ngẩng đầu, dưới ánh sáng cung đăng, cuối cùng tôi nhìn thấy bóng chàng khoan thai bước đến, nhưng không phải là áo chùng gấm màu lam như trước, mà là toàn thân long bào gấm đen tuyền, mái tóc đen ẩn trong vương miện, chín tua ngọc châu rủ quanh vương miện, bóng đổ xuống hơi che khuất sắc diện ngược chiều sáng của chàng. Lần đầu tiên nhìn thấy chàng trong trang phục như vậy, ở ngôi cao xa vời như vậy, trông chàng càng bội phần tuấn tú.
Tất cả sau đó giống như trong một giấc mộng, luôn có cảm giác không thực, nghe tiếng chàng chỉ vài câu lạnh lùng đã khiến sứ thần nước Triệu đang thao thao bất tuyệt không nói tiếp được, vừa nghĩ bình thường chàng chẳng phải vẫn thế sao, lại vừa nghĩ bình thường chàng như thế thật sao?
Trong ký ức tôi cơ hồ có hai con người, một người là Tô Dự, một người là Mộ Ngôn. Một người là chính trị gia bẩm sinh, một người là phu quân tôi.
Một người điềm tĩnh đối diện mọi nguy biến, ung dung điều hành triều chính, một người bỏ lại kinh thành phồn hoa, đêm ngày ngồi trong sơn động tấu ra những khúc đàn bi thương vì tôi.
Mặc dù hai người đó là một, nhưng nhìn thấy Mộ Ngôn lúc này, trong một khắc nào đó tôi không thể gắn hai người đó làm một.
Tôi không biết rốt cuộc tôi muốn nhìn thấy chàng quên tôi, sống vui vẻ hay là muốn thấy chàng suốt đời đau khổ, có lúc bản thân cũng cảm thấy ý nghĩ của mình thực quái dị, nhưng không sao kìm được tình cảm mâu thuẫn đó, đành để nó lan tràn như cỏ dại.
Trên bàn tiệc, bá quan đang đua nhau nâng cốc chúc tụng, chợt có tiếng kêu “ối” bật ra đầy kinh ngạc của Mộ Nghi, luồng suy nghĩ đang miên man đi xa bỗng quay về, mới phát hiện trên bàn tiệc, tiếng cười nói, tiếng chạm cốc một khắc trước còn ồn ào chợt im bặt, trên đài cao nơi các ca kỹ cung đình múa hát, không biết lúc nào xuất hiện một thiếu nữ áo đỏ muôn phần xinh đẹp, sứ giả Triệu quốc đang hướng về phía Trần vương thao thao bất tuyệt gì đó.
Tôi dỏng tai nghe, thấy ông ta tán tụng cô thiếu nữ xinh đẹp thế nào, đàn giỏi múa hay ra sao, tinh thông lễ nghĩa thế nào, cho dù mãi vẫn chưa đi vào chuyện chính, nhưng trong hoàn cảnh này, mang đến một mỹ nhân khuynh thành như thế, ai cũng hiểu ông ta muốn gì.
Không biết tại sao Mộ Nghi lại kinh ngạc như vậy, mặc dù xưa nay trong chuyện tình cảm tôi rất ích kỷ, chỉ muốn độc chiếm người mình yêu, nhưng trong hoàn cảnh này cũng không phải nghĩ không thông. Các nước tặng nhau mỹ nhân cũng bình thường như tôi và Quân Vỹ tặng nhau dưa gang, cũng không phải dưa gang nhận về đều ăn, mà đa phần đem tặng cho đầu bếp.
Trên trời sao ẩn hiện, theo tính cách Mộ Ngôn chàng vẫn giữ thái độ dửng dưng, không ngờ lời sứ giả vừa dứt, lại thấy chàng cúi nhìn cô gái áo đỏ rất lâu, đoạn trầm giọng nói: “Ngẩng đầu lên”.
Tôi băn khoăn nhìn lên đài cao, đúng lúc bắt gặp khuôn mặt từ từ ngẩng lên của cô gái. Hai hàng lông mày thanh như làn khói, đôi mắt hạnh nhân đen láy, chiếc mũi xinh, đôi môi nhạt như sắc xuân hơi mím.
Tôi kinh ngạc lùi lại một bước.
Chẳng trách Mộ Nghi chấn động như vậy. Khuôn mặt đó có vài phần giống tôi, một năm trước khi còn ở Vệ cung thường gặp. Cô gái áo đỏ đó chính là thập nhị tỷ Diệp Minh của tôi.
Tôi có mười bốn chị gái, cơ hồ tôi và Diệp Minh giống nhau nhất, nhưng sao tỷ tỷ có thể biến thành mỹ nhân do Triệu cống lên? Sau khi Vệ mất, tỷ tỷ đã cùng phụ hoàng và mẫu phi bị quản thúc ở biệt viện ngoại vi Hạo thành cơ mà?
Vẫn còn chưa hết bàng hoàng, lại nghe tiếng Triệu sứ giả gần như nói lại những lời tán tụng đã nói.
Mộ Nghi kéo váy tôi, dùng ngón tay chấm rượu viết lên bàn: “Cho dù ca ca thu nhận cô ấy, cũng bởi vì người ta giống tẩu, ca ca nhớ tẩu...”.
Chữ cuối cùng tôi không nhìn hết, trong lòng bất chợt như có nước băng thấm vào, lạnh đến tận đáy lòng. Thậm chí tôi còn chưa nghĩ đến điều đó, lúc này bị nhắc như vậy, đột nhiên nhớ lại chuyện này hình như đã từng có tiền lệ.
Nhưng sao có thể hoang đường như vậy, sao có thể vừa nhớ nhung một người vừa thu nhận một người khác. Dung Viên yêu Oanh Ca như vậy nhưng cũng không nói yêu Cẩm Tước giống hệt Oanh Ca.
Tôi ngẩng đầu nhìn Mộ Ngôn trên cao, trong khi sứ giả vẫn đang tiếp tục thao thao bất tuyệt, có lẽ do góc độ của ánh đèn trên đài cao, tôi lại có thể nhìn rõ thần sắc của chàng sau những tua rèm vương miện, chàng hơi nghiêng đầu hướng về tể tướng Doãn Từ ngồi bên trái bàn tiệc: “Quả nhân xưa nay không mấy hứng thú với ca vũ, còn nhớ Doãn khanh rất có nhã hứng về khoản đó, vậy ban Mạnh Diệp cô nương cho Doãn khanh”.
Tôi thở phào.
Sắc mặt Triệu sứ giả đang đỏ hồng biến thành trắng bệch khi Mộ Ngôn nói vậy, nhưng nhất thời không biết đối đáp ra sao, Diệp Minh bên cạnh đã lạnh lùng lên tiếng: “Hai chân Mạnh Diệp đứng trên quốc thổ nào chỉ biết phục hầu người cường đại nhất của quốc thổ đó, bệ hạ nếu không muốn để Mạnh Diệp hầu hạ, lại ban cho người khác, chi bằng hãy giết chết Mạnh Diệp”.
Diệp Minh, Mạnh Diệp. Nói thật tôi hầu như không có tình cảm gì đối với người chị này, nhưng trong mười bốn chị gái có ai có thể khiến tôi thích một chút, người đó chính là Diệp Minh .
Nghe nói trước khi tôi trở về Vệ quốc, người phụ hoàng thích nhất là Minh tỷ. Vệ quốc thập nhị công chúa Diệp Minh kiêu sa cao ngạo, trong cung không ai dám động đến. Nhưng tôi không hiểu, Diệp Minh tỷ tỷ của tôi tuy đã là công chúa vong quốc, nhưng với tôn nghiêm và hào quang đã có sao có thể hạ mình biến thành món cống vật trong tay người khác.
Tôi thấy Mộ Ngôn cười một tiếng, lòng đang run sợ liệu chàng có bị nhan sắc của Diệp Minh cám dỗ, lại nghe thấy giọng nói thanh lạnh quen thuộc: “Vương hậu của quả nhân rất hay ghen, thu nạp nàng rất dễ, nhưng vương hậu sẽ không vui, nàng nói xem, quả nhân nên để cho nàng không vui hay để cho vương hậu của quả nhân không vui?”.
Tay tôi nắm chặt run run, Mộ Nghi bật cười thành tiếng, trên bàn tiệc yên tĩnh, tiếng cười nghe rất rõ, ánh mắt Mộ Ngôn liếc lại, tôi vội cúi đầu. Lại nghe tiếng Diệp Minh không chút nao núng: “Bất luận vương hậu không vui hay Mạnh Diệp không vui đều không quan trọng, quan trọng là bệ hạ thuận theo tâm ý của người”.
Mộ Ngôn bỏ tay chống cằm để lên tay ghế: “Thuận theo tâm ý của quả nhân?”.
Chàng cười, thong thả nói: “Tâm ý của vương hậu là tâm ý của quả nhân”.
Hai tay nắm ống tay áo khẽ run. Quần thần bên dưới nhất định cảm thấy vui mừng vì vương hậu của họ chỉ là một linh vị, nếu không thì đây đúng là một hôn quân.
Cuối cùng Diệp Minh vẫn lựa chọn đi theo tể tướng Doãn Từ, không biết kết cục đó là tốt hay xấu, có nhiều lựa chọn, nhưng tỷ tỷ đã lựa chọn như vậy, cũng giống như có nhiều con đường, nhưng tôi lại lựa chọn tuẫn tiết cùng xã tắc, một việc không cho phép hối hận.
Khi bữa tiệc sắp kết thúc, Mộ Ngôn ban cho Mạnh Diệp một chén rượu, nhưng chén rượu của chàng lại do Mộ Nghi rót.
Lòng bàn tay dâm dấp ướt, tôi thầm mong mọi sự suôn sẻ, mấy giọt máu đựng trong lọ sứ đưa cho Mộ Nghi, cô đã thêm vào mấy giọt nước cỏ đắng, hơn nữa chỉ cho vào rượu ba giọt, dù lưỡi chàng có tinh đến mấy cũng không thể nhận ra mùi máu mới phải.
Khi Mộ Nghi rót rượu, hình như Mộ Ngôn nói gì với cô, chỉ nhìn thấy bàn tay rót rượu của cô hơi run, Diệp Minh bên cạnh đón chén rượu từ tay hầu nữ, mặt bỗng trắng bệch, tay run đến nỗi cơ hồ không cầm nổi chén rượu.
Khi chàng uống cạn, dưới đài ca vũ đã ngừng, trên đài cao, Mộ Ngôn lặng ngồi trên bảo tọa tay chống cằm, nửa người chìm trong bóng hai cánh chim khổng tước trên cao, không biết đang nghĩ gì.
Lát sau nhạc khúc thuộc về chàng văng vẳng vang lên trong ánh đèn hắt ra từ cung Thiện Mộc, âm phù xao động như một khúc vũ điển nhã, từng chút, từng chút, đi vào lòng tôi.
Tất cả đều theo đúng kế hoạch, thuận lợi không ngờ, cũng may kế hoạch đã vạch định chu toàn, tâm thần mới không bị rối loạn bởi thắng lợi nhất thời, vẫn nhớ bước tiếp theo là tìm một nơi không bị ai quấy rầy đợi đến giờ Tý, niệm lời chú khởi động Hoa Tư điệu Tý Ngọ của Mộ Ngôn.
Nhìn bóng Mộ Ngôn rời bàn tiệc, tôi không thể kìm lòng, bước lên hai bước nhìn chàng. Đây là lần cuối cùng nhìn chàng trên đời, lại diễn ra trong màn đêm với mấy ngôi sao tàn trên trời, chỉ nhìn thấy bóng áo đen của chàng. Hoa thiên trúc trải đầy mặt đất, như nở ra từ gót chân chàng, sắc hoa ánh lên xiêm áo chàng, lung linh theo nhịp bước chân.
Mộ Ngôn. Em sẽ không quên những ngày đẹp nhất của chúng ta, nhưng đời này em không thể gặp lại chàng được nữa.
Mộ Nghi hỏi tôi: “Tẩu có biết vừa rồi ca ca nói gì với muội không?”.
Tôi lắc đầu.
Cô quay đi, khẽ nói: “Ca ca bảo ‘Đến bây giờ ta mới cảm thấy A Phất đã đi thật rồi, nhìn thấy cô gái giống cô ấy, ta không nén nổi ý nghĩ, tại sao người chết không phải là bọn họ mà lại là A Phất. Một mình cô ấy sẽ rất cô đơn, ta lại không thể ở bên cô ấy, nếu đưa những cô gái đó đến bên cô ấy để bầu bạn, không biết A Phất có vui”.
“Choang!”. Tôi tuột tay đánh rơi chiếc cốc, Mộ Nghi thở dài: “Đi thôi, muội đưa tẩu đến một nơi không ai quấy rầy. Tẩu nói không thể để ca ca nhớ đến tẩu nữa”. Cô ngoái đầu lại: “Cuối cùng muội đã thấy tẩu nói đúng”.
 
Phần 4:Trọn đời bình an - Chương 04
Giờ Tý đang nhích đến gần theo tiếng trống điểm canh, đây sẽ là đêm trăng cuối cùng của tôi trên đời.
Trên mặt cây đàn gỗ đồng mộc đặt trong động băng đã đọng hơi nước, tôi ngồi trước cầm đài, bó người trong chiếc áo lông chồn rộng thùng do Mộ Nghi mang đến, khi ánh nến đầu tiên tắt phụt cùng với tiếng trống báo giờ Tý, tôi khẽ niệm lời chú từ những vết nứt của viên giao châu thoát ra quanh quẩn trong ý thức.
Tôi luôn cho là mình không đến nỗi phải dùng đến nó, những bậc tiền bối có kết cục bi thảm do tu luyện Hoa Tư dẫn, tôi biết khúc cuối cùng họ đều gảy cho chính mình, hơn nữa đa phần chính là Hoa Tư điệu Tý Ngọ.
Mơ quá nhiều mộng đẹp, cuối cùng có ngày chìm đắm trong đó không thoát ra được, đó là tham vọng của con người, mặc dù tôi không vì bản thân nhưng cũng có ước vọng, luyến tiếc trong lòng không thể nói ra.
Tiếng đàn dìu dặt cùng lời chú chầm chậm vang lên, băng động tối om đột nhiên bừng sáng, trong cảnh đất trời rung chuyển, một bóng trắng đột nhiên xuất hiện trước mắt, bàn tay bị ai chộp lấy, bên tai vang lên tiếng thét như tiếng hổ gầm, tích tắc tôi đoán ra người đó là ai, khi cả người đã đi vào mộng cảnh do Hoa Tư điệu Tý Ngọ dệt ra, chân vừa chạm đất, ngẩng đầu quả nhiên nhìn thấy khuôn mặt cau có của Quân Vỹ, cúi đầu lại thấy Tiểu Hoàng nằm phục dưới chân.
Tôi bỗng chốc không biết nói sao. Quân Vỹ nghiêng đầu nói: “Muội định làm gì, huynh đã nghe Mộ Nghi nói hết rồi, đừng trách cô ấy”. Ngừng một lát, cúi nhìn tôi, “Cha và huynh tìm muội mãi, khi muội vui, đương nhiên không cần đến huynh, nhưng khi muội buồn, A Phất, tại sao không đến tìm huynh?”.
Tôi cúi đầu vuốt ve Tiểu Hoàng: “Quân sư phụ có khỏe không? Nghe nói Mộ Ngôn không làm khó sư phụ”. Ngẫm nghĩ một lát, lấy giọng vui vẻ thoải mái nhất nói với anh ta, “Đại khái như huynh đã biết, đây là ngày cuối cùng của muội, thực ra huynh nên coi là muội đã chết, bắt đầu từ khi muội được tái sinh, huynh cũng biết ngày đó sẽ đến, phải không? Nhưng muội muốn dùng mấy ngày cuối cùng này làm một việc có ý nghĩa, huynh định ngăn cản muội sao?”.
Tiểu Hoàng sau một hồi hốt hoảng ra sức liếm tay tôi, đương nhiên nó không hiểu chuyện gì đang xảy ra, giọng khàn đặc của Quân Vỹ từ phía trên vọng xuống: “Không, huynh đến là để giúp muội”.
Tôi kinh ngạc, không phải vì lời của Quân Vỹ, mà bởi vì giọng nói run run của mình: “Quân Vỹ, huynh hãy đỡ muội, chân muội tê không đứng lên được”.
Tôi ngửi thấy mùi hương dưới ánh trăng, đó là mùi y phục của Quân Vỹ được xông hương, đã lâu không ngửi thấy, tôi lại có thể khôi phục tri giác rồi sao?
Hơi thở lan ra trong không khí, ngưng thành làn sương trăng trắng, Tiểu Hoàng liếm tay tôi, răng nanh cào vào tay đau điếng, tôi nhăn mặt. Cuối cùng vẫn chưa dám tin, tri giác của tôi đã khôi phục thật rồi.
Quân Vỹ đưa cho tôi chiếc gương, trong gương hiện lên một vầng trán trắng ngần, vết sẹo khiến tôi buồn khổ bao ngày đã biến mất, dường như đã trở về thời hoàng kim, tuổi mười bảy đẹp nhất của tôi.
Phải, đây là lúc tôi đẹp nhất.
Xưa nay, tôi luôn muốn Mộ Ngôn nhìn thấy tôi như thế này. Quả là Hoa Tư điệu Tý Ngọ lấy sinh mệnh của mình gảy cho người khác, không ngờ lại có thể khiến tôi được thỏa mãn ước nguyện của mình, tính mạng này quả thật đổi không oan.
Quân Vỹ mỉm cười nhìn vẻ kinh ngạc của tôi, đề nghị nhân dịp này nên đến tửu lầu ăn mừng một trận. Ý kiến rất hay, huống hồ Tiểu Hoàng vừa nghe nói đi tửu lầu đã sướng rơn lăn tròn một vòng, nhưng tôi vẫn sốt ruột nói: “Thời gian không còn nhiều, nên đi tìm Mộ Ngôn đã”.
Quân Vỹ cau mày, chỉ một câu đã hoàn toàn thuyết phục tôi: “Trong mộng cảnh này muội đã là một người sống, không phải như trước. Muội không ăn làm sao có sức đi tìm anh ta”.
Rất may chỗ đang đứng không phải là cánh đồng hoang, đi theo Quân Vỹ một hồi đã nhìn thấy tửu lầu. Có thể một lần nữa đi lại trên thế gian như một người sống, mặc dù trong mộng cảnh tôi cũng thấy sung sướng vô chừng.
Trên đầu có hạt mưa, từng giọt rơi xuống mặt sông, gợn lên những vòng tròn nhỏ lan tỏa, bầu trời mùa đông màu chì nằng nặng, in bóng xuống mặt sông trong vắt, bên sông là tửu lầu. Bụng đói cồn cào, tôi sải bước đi vào cửa lớn, đang đảo mắt lựa chọn chỗ ngồi, ánh mắt lướt đến chiếc bàn bên cửa sổ, đột nhiên không thể nào di chuyển được nữa.
Hai cánh cửa mở toang, rèm trúc cuốn cao, một cành mai trắng để trên mặt bàn gỗ hình vuông. Sắc mai trinh trắng nổi bật bên cạnh bình rượu sứ màu lam nhẵn bóng long lanh như giọt sương đầu cành. Ống tay áo gấm đen huyền của chàng trai phủ trên bàn tay đang cầm bình rượu, trên sống mũi là chiếc mặt nạ màu bạc.
Mộ Ngôn. Không ngờ chúng ta lại gặp nhau ở đây.
Chàng hơi ngẩng đầu, hình như đang lắng nghe chàng trai trẻ vận áo trắng đối diện nói, do người đó quay lưng lại, chỉ có thể thoáng nhìn thấy chiếc vòng ngọc màu đen trong tay chàng ta.
Tôi sững người, xem ra người ngồi cùng với chàng chính là Công Nghi Phỉ. Quân Vỹ có lẽ nhìn thấy cảnh đó, nhưng làm sao biết người đó là Mộ Ngôn, nên đẩy tôi đi vào phía trong. Tiểu nhị ra đón, cười nói ân cần: “Bên dưới đã hết chỗ, nhị vị quan khách xin mời lên lầu”.
Nhưng tôi không thể nào cất bước. Mộ Ngôn hơi nghiêng đầu, cuối cùng cũng ngoái lại, nhưng không nhìn tôi. Tôi túm tiểu nhị hỏi: “Tiểu nhị ca có biết năm nay là niên hiệu gì?”. Đã đi tới chiếu nghỉ ở lầu hai, tiểu nhị gãi đầu: “Năm Trang Công thứ hai mươi ba”.
Trang Công. Nếu nhớ không nhầm lúc đó thiên hạ chỉ có một vị Trang Công, chính là Lê Trang Công. Lê Trang Công năm thứ hai mươi ba, đó là năm tôi mười sáu tuổi, hai năm sau khi tôi gặp Mộ Ngôn ở núi Nhạn Hồi. Ánh mắt lơ đãng đó rút cục là có nhận ra tôi nhưng lờ đi như không quen, hay là hoàn toàn không nhận ra?
Lên lầu hai ngồi vào bàn, tôi vốn định làm rõ đây là thời điểm nào, nơi nào, ít nhất cũng dành thời gian suy nghĩ cần làm gì khi gặp Mộ Ngôn, không ngờ lại gặp nhanh như vậy.
Tôi cúi đầu trầm ngâm suy nghĩ, cảm thấy để tránh đi vào vết xe đổ, điều cần làm chỉ có một, chính là để Mộ Ngôn nhanh chóng yêu tôi. Mộng cảnh này có thể tồn tại mãi, nhưng tôi lại không thể. Trong hiện thực, tôi vẫn còn sống được mấy tháng nữa, trong mộng cảnh tôi cũng còn chừng ấy thời gian sống. Nếu trong mấy tháng này Mộ Ngôn chưa yêu tôi, cuối cùng vẫn là kết cục Vệ quốc bị diệt, tôi vẫn tuẫn tiết, mộng cảnh này không mảy may thay đổi, vậy tôi hà tất phải dùng ba tháng tính mệnh của mình đổi cho chàng Hoa Tư mộng Tý Ngọ.
Thực ra mộng cảnh bắt đầu từ đây là tốt nhất, chỉ cần chàng có thể yêu tôi, nhiệm vụ của tôi coi như hoàn thành, lúc đó tôi sẽ để cho chàng bức thư, bảo chàng đến Vệ quốc cầu hôn tôi, mộng ảnh của tôi đang tìm chàng khắp nơi nhất định sẽ đối tốt với chàng, khiến chàng hạnh phúc, chàng sẽ không muốn ra khỏi Hoa Tư mộng này. Như vậy tôi sẽ yên tâm.
Ý đã thế, tôi vẫy tay ra hiệu cho Quân Vỹ ghé lại gần, nói: “Huynh xuống dưới lầu được không, giúp muội để ý vị khách đeo mặt nạ bạc, xem lúc nào chàng đi, thì ra ám hiệu cho muội”.
Quân Vỹ vừa rót trà vừa chau mày: “Muội định làm gì?”.
Kỳ thực tôi định tạo ra một cuộc tái ngộ bất ngờ thật đặc sắc, tham khảo những vở kịch đã xem, dự định khi Mộ Ngôn vừa ra khỏi tửu lầu, tôi sẽ nhảy từ lầu hai xuống, cố gắng rơi đúng vào tay chàng, gây ấn tượng thật sâu với chàng.
Đương nhiên không thể nói điều đó với Quân Vỹ, rất có thể anh ta sợ tôi cắm thẳng đầu xuống đất, sẽ ngăn cản không cho tôi thực hiện ý định. Nhưng không vào hang cọp sao bắt được cọp con, Quân Vỹ có lúc rất bảo thủ. Tôi nghĩ một lát rồi nói thật với anh ta: “Người đó chính là Mộ Ngôn”.
Tay Quân Vỹ hơi run, có vẻ chăm chú nhìn cốc trà trong tay, tôi tưởng anh ta đang mải suy nghĩ, không nghe thấy tôi nói, không ngờ mãi lúc sau, anh ta chỉ đáp gọn lỏn: “Được”.
Quân Vỹ đứng đợi dưới lầu không biết bao lâu, tôi uống hết một cốc trà, một cốc nữa, lại một cốc nữa thì chợt nghe có tiếng huýt sáo, đang nhâm nhi cốc trà thầm nghĩ, chắc có ai trêu chọc Tiểu Hoàng, đột nhiên sực nhớ, có phải là ám hiệu của Quân Vỹ?
Vội vàng đến bên cửa sổ, ngó đầu nhìn ra, quả nhiên thấy Mộ Ngôn đứng cạnh gốc mai đang chuẩn bị giương ô, tôi còn chưa kịp suy tính nên nhảy như thế nào để tránh nguy hiểm, cả cơ thể đã bay khỏi cửa sổ rơi thẳng xuống không thể nào kiểm soát, mà Mộ Ngôn bên dưới lại không hề có phản ứng. Tôi đã nghĩ rất nhiều phương thức và tư thế tiếp đất, quả thực không nghĩ đến sẽ rơi thẳng vào người chàng. Vừa hét lên “Cẩn thận” thì mùi hương mai thanh khiết đã thoảng qua mũi, đầu va vào ngực ai, có tiếng nói vui vui như cười vọng xuống: “Cô nương mới cần cẩn thận một chút”.
Tay tôi hơi run, nắm chặt vạt áo chàng, chàng trai trẻ bên cạnh đã lên tiếng: “Chiếc ô làm khéo thế này mà bị hỏng, tiểu cô nương nên bồi thường cho chúng tôi mới phải”.
Dừng một lát, người đó lại tiếp, “Xem ra trận mưa chưa thể tạnh ngay, hay là quay lại ngồi lát nữa”. Nghe giọng nói, quả nhiên là Công Nghi Phỉ.
Tôi không có thời gian để ý gì khác, trong đầu mê mải cố nhớ câu mở màn đã nghĩ ra trong lúc uống trà, thầm nhắc đi nhắc lại mấy lần, một câu mở màn sao cho vừa nho nhã lại vừa khiến mình không bị mất giá. Nhưng chưa kịp nhớ ra, người đó đã định buông tay thả tôi xuống đất. Tôi buột miệng nói: “Chàng không muốn chịu trách nhiệm sao?”.
Im lặng một hồi, Mộ Ngôn vẫn buông tôi ra, thong thả nói: “Dám hỏi cô nương tại hạ sao phải chịu trách nhiệm?”.
Thực ra tôi cũng không biết tại sao lại buột miệng nói như vậy, nhưng không thể để lỡ cơ hội, đành cứng đầu nói bừa: “Ở nước chúng tôi, các cô gái chưa xuất giá nếu không cẩn thận bị đàn ông chạm vào, nhất định phải lấy người đàn ông đó, nếu không chỉ có nước tự vẫn. Chàng vừa ôm tôi thì phải chịu trách nhiệm đến cùng”. Nói xong trộm liếc sắc mặt chàng.
Mộ Ngôn không nói gì, Công Nghi Phỉ đã cười ha hả: “Tập tục này thật thú vị, nhưng có điều mưa to thế, hai người định tắm mưa hay sao?”.
Đương nhiên chẳng ai muốn tắm mưa, vẫn trở về ngồi ở bàn cũ, tiểu nhị hâm nóng rượu đem đến, tôi vẫn chờ phản ứng của Mộ Ngôn, đến khi chàng rót đầy ba chén rượu, mới nghe một giọng nhẹ tênh: “Quân cô nương là người nước Vệ, sao tôi không nghe nói nước Vệ có tập tục đó?”.
Tôi kinh ngạc vội ngẩng đầu: “Chàng, chàng còn nhớ tôi?”.
Tôi có cảm giác môi chàng hơi nhếch lên sau lớp mặt nạ, như nghĩ ra điều gì: “Muốn không nhớ cũng khó...”. Thuận tay đưa cho tôi chén rượu đã hâm nóng, “Chắc có người cùng đi với cô? Người đâu?”.
Tôi liếc qua khóe mắt ra hiệu với Quân Vỹ lúc này đang đứng phía xa thỉnh thoảng liếc lại, ngầm ý bảo: Hãy nhớ bắt đầu từ bây giờ chúng ta không quen nhau. Ra hiệu xong tôi nhìn Mộ Ngôn lắc đầu: “Chẳng có ai, tôi đi một mình”.
Nghĩ một lát mạnh dạn bổ sung: “Đi tìm huynh”.
Chàng ngạc nhiên ngẩng đầu: “Tìm tôi?”.
Gật đầu lia lịa, bụng nghĩ chẳng cần e dè giữ ý gì hết, thời gian không còn bao nhiêu, e dè giữ ý chi bằng tốc chiến tốc thắng, chỉ còn ba tháng ngắn ngủi làm sao có thể áp dụng chiến lược mưa dầm thấm lâu.
Tôi căng thẳng nắm chặt cái cốc trong tay: “Chắc chàng không biết, suốt hai năm qua, tôi đã tìm chàng, vừa rồi bị ngã là do nhìn thấy chàng xúc động quá...”.
Công Nghi Phỉ ngồi bên xen lời: “Cô nương nóng lòng tìm công tử đây là có việc gì gấp?”.
Mộ Ngôn không nói, chỉ nghịch chiếc cốc trong tay. Tôi đắn đo một lát, hơi ngẩng đầu, dũng cảm nhìn chàng: “Giả sử tôi muốn gả tôi cho chàng, chàng có ưng không?”.
Công Nghi Phỉ bật cười, phun cả rượu trong miệng ra ngoài, một nửa bắn lên áo tôi.
Mộ Ngôn để cái chén xuống, ngồi im không nói, mắt nhìn cành mai để trên bàn. Mặc dù cũng biết không nên hy vọng nhiều, nhưng lòng không kìm được vẫn thầm hy vọng.
Lát sau, cuối cùng chàng lên tiếng, nhưng chẳng ăn nhập gì với câu hỏi của tôi: “Cha mẹ cô nương có biết chuyện không?”.
Tôi hiểu ra, trang trọng gật đầu.
Chàng cười: “Họ có biết người cô nương muốn lấy là chủ hiệu tạp hóa?”.
Tôi ngớ người: “Sao?”.
Công Nghi Phỉ lại bật cười, rượu lại phun ra lần nữa, Mộ Ngôn thoáng liếc chàng ta, quay đầu nói với tôi: “Lấy tôi rất khổ, cô có bằng lòng?”.
Tôi ngẫm nghĩ, cuối cùng hiểu ý chàng, có lẽ chàng vẫn cảm thấy chuyện quá hoang đường, không muốn lấy tôi, nhưng lại sợ làm tôi tổn thương mới viện cớ đó để tôi nản chí tự rút lui. Nhưng chàng không biết nếu chàng đúng thật chỉ là chủ hiệu tạp hóa, nếu...
Tôi nghĩ mặt tôi nhất định nở một nụ cười thật tươi: “Nếu là ông chủ hiệu tạp hóa thì quá tốt...”.
Không kìm được nắm tay Mộ Ngôn: “Tôi có thể nuôi chàng”.
Lần đầu tiên cảm nhận vẻ mịn màng, êm dịu của bàn tay chàng, nhưng lòng còn xúc động hơn. Một giọt nước long lanh trên cành mai trắng, rơi trên bàn tay, cảm giác trên mặt hơi ươn ướt, vội lấy ống tay áo lau, không biết có phải tửu lầu bị dột?
Cuối cùng Mộ Ngôn cũng đồng ý để tôi đi theo, thầm hiểu có lẽ chàng muốn đưa tôi về Vệ quốc, nhưng không có người hộ tống, lại không thể bỏ mặc tôi, không có cách nào khác, đành đưa tôi đi cùng.
Đi theo mấy ngày mới biết hai người bọn họ định đi đến Dĩnh Xuyên. Nghe nói ở đó có một người họ Hình làm nghề đúc kiếm nổi tiếng. Hình lão gia cơ hồ dùng tâm huyết nửa đời đúc được một thanh kiếm quý, mời các bậc anh hùng thiên hạ đến thử sức để tìm chủ nhân cho thanh bảo kiếm của mình. Chuyến đi này của họ là vì chuyện đó. Cũng phải nói thêm, đương kim gia tộc đúc kiếm nổi tiếng nhất phải là Công Nghi gia ở Bối Trung.
Mặc dù đến nay Công Nghi gia đã bị hủy hơn sáu năm, nhưng Mộ Ngôn đã lấy được từ Khanh Tửu Tửu bí thuật đúc kiếm gia truyền của họ, không hiểu sao vẫn có hứng với thanh kiếm của Hình gia.
Tôi quay sang hỏi dò Công Nghi Phỉ mới biết thì ra thanh kiếm Hình lão gia đúc không phải là kiếm thường, ngay từ khi cho thép vào lò đã chế vào máu người để tế lễ, bởi vậy đó là một thanh hung kiếm, một binh khí tùy thân lợi hại hiếm có, theo ông ta, mọi kiếm khách trong thiên hạ đều thích.
Tôi ngẫm nghĩ, cảm thấy cũng có lý. Về điểm này tư duy của kiếm khách và lãng khách có thể cũng có chỗ tương đồng, chỉ là một người khao khát sưu tầm danh kiếm, một người khao khát sưu tầm mỹ nhân, không được sở hữu cũng phải sờ một cái, không sờ được, ít nhất cũng phải nhìn một cái, nếu ngay nhìn cũng không được thì đâu phải là kiếm khách hoặc lãng khách đích thực.
Không lâu sau, chúng tôi đến một thị trấn nhỏ tựa lưng vào núi, nghe nói bên kia núi chính là Dĩnh Xuyên. Có lẽ do tôi đeo bám Mộ Ngôn quá chặt, mười hai canh giờ trừ lúc đi ngủ tôi đều bám riết chàng, khiến chàng cảm thấy phiền hà, dù không cố ý tránh, nhưng không hòa nhã như lần đầu gặp ở núi Nhạn Hồi.
Tôi nhận ra vấn đề, nhưng không biết giải quyết thế nào, thời gian không còn nhiều, chỉ muốn nhanh chóng gây được thiện cảm với chàng. Buổi tối nhân lúc Mộ Ngôn và Công Nghi Phỉ có việc đi ra ngoài, Quân Vỹ vẫn lẽo đẽo theo chúng tôi suốt chặng đường cuối cùng tìm được cơ hội gặp tôi, dắt theo Tiểu Hoàng chỉ trích tôi: “Suốt ngày muội lẽo đẽo đi theo người ta nói là thích, là yêu phỏng ích gì, chỉ nói suông ai chẳng nói được? Yêu không phải chỉ nói, mà phải làm”.
Tôi ngớ ra hồi lâu: “Làm... làm ư? Ý huynh là bảo muội đêm nay...”.
Anh ta cũng ngớ ra, mặt đỏ bừng: “... Huynh nói chỉ là ý mặt chữ đơn thuần muội đừng suy diễn...”.
Ý kiến của Quân Vỹ xứng đáng là ý hay, xứng danh tiểu thuyết gia, trước giờ quả thật tôi coi đã thường anh ta. Làm thế nào để động lòng Mộ Ngôn, tôi vắt óc nghĩ mãi, cuối cùng quyết định nấu cho chàng một bữa cơm ngon, lúc đầu cũng chỉ thoáng nghĩ như vậy, nhưng khi chí đã quyết bỗng hưng phấn bừng bừng.
Tôi chưa bao giờ nấu ăn cho Mộ Ngôn, dù lúc đã lấy chàng cũng chẳng mấy khi đoàn tụ, mỗi người bận lo việc mình, không có cơ hội làm việc đó.
Những cảnh hạnh phúc đời thường vợ nấu nướng, giặt giũ cho chồng trong tiểu thuyết mô tả ngày trước tôi không mảy may quan tâm, bây giờ lại thấy trân trọng. Mặc dù tôi nấu ăn không thạo, may có Quân Vỹ giúp, hơn nữa có lẽ đây là việc duy nhất anh ta có thể có tự tin giúp đỡ mà không làm tôi bận thêm.
Đã nghĩ xong các món, tôi xuống bếp nhà trọ mượn dụng cụ, lại phát hiện thiếu hai loại gia vị đặc trưng của món ăn Vệ quốc, được nhà bếp gợi ý, tôi chạy thẳng đến hiệu tạp hóa, Quân Vỹ không yên tâm, dắt Tiểu Hoàng đi theo.
Một thị trấn nhỏ toàn những người dân chất phác như vậy không hiểu anh ta có gì không yên tâm. Mặc dù trời đã sẩm tối, nhưng lòng tôi lâng lâng ngọt ngào, nhảy chân sáo trên đường, lúc đi qua lầu xanh duy nhất của thị trấn lại còn khe khẽ hát, rồi bất ngờ ngẩng đầu nhìn lên, lại bất ngờ khựng chân.
Tôi dụi mắt, chàng trai trẻ dáng thực hào hoa nhàn tản đứng tựa song cửa sổ là... Mộ Ngôn?
Quân Vỹ không biết từ lúc nào đã đến sau lưng, kéo tôi đi một mạch, miệng lẩm bẩm, “Đó không phải là Mộ Ngôn, muội nhìn nhầm”. Cảm thấy anh chàng thật ngốc, tôi còn chưa nói người đó giống ai, anh ta làm vậy khác nào lạy ông tôi ở bụi này.
Bị anh ta kéo đi một đoạn, tôi hỏi: “Có phải huynh sợ muội buồn?”. Anh ta còn chưa kịp trả lời, tôi lại tiếp, “Kể ra thì cũng hơi buồn, nhưng biết làm sao, vả lại đây là mộng cảnh tái hiện quá khứ, lúc đó muội vẫn chưa tìm thấy chàng”.
Quân Vỹ ngập ngừng: “Nhưng bây giờ muội đã tìm thấy rồi”.
Phía xa màn đêm đã buông, tôi hà hơi sưởi bàn tay lạnh cóng, cười: “Vả lại chàng vẫn chưa thích muội”.
Quân Vỹ ngoái đầu nhìn tôi, thần sắc nghiêm túc chưa từng có: “A Phất, cho dù muội thích anh ta cũng không nên hạ mình như thế, trước đây muội có thế đâu?”.
Tôi sững người, buông tay, lát sau khẽ nói: “Đó là mộng cảnh, hoặc là chưa xảy ra trong hiện thực, hoặc đã thành quá khứ. Nếu có một người như muội, chỉ còn sống được ba tháng nữa, thiết nghĩ không nên, cũng không thể dùng quãng thời gian quý báu đó để đắn đo câu nệ những chuyện bất đắc ý trong quá khứ, cho dù chỉ là một khắc. Huống hồ, vẫn chưa phải là quá khứ chung của muội và chàng. Chúng ta có lúc quyết chí muốn làm một việc nào đó, cuối cùng thường thất bại, không phải bởi vì không có khả năng, mà do trong quá trình thực hiện lại bận tâm vào những chuyện vụn vặt, dẫn tới xao nhãng mục tiêu ban đầu. Muội luôn luôn nhớ muội đến đây để làm gì, còn huynh, huynh còn nhớ không, Quân Vỹ?”.
Anh ta cau mày: “Huynh chưa hỏi muội, muội vì anh ta như vậy, anh ta có đáng không?”.
Tôi ngẩng đầu mỉm cười: “Đáng!”.
Cho dù trong mộng, có lúc nhắm mắt cũng có thể nghe thấy giọng trầm ấm của Mộ Ngôn dường như vẫn vẳng bên tai: “Nếu em không muốn cùng tôi ở trần gian, thì tôi sẽ đi cùng em, được không”.
Phu quân của tôi, chàng là quân vương Trần quốc, chàng điềm nhiên nói ra những lời đáng sợ như vậy nhưng cũng khiến tôi vui. Chàng là người tôi thích nhất, tôi lưu luyến nhất trên trần thế.
Được sự giúp đỡ của Quân Vỹ, tôi hoàn thành một bàn thức ăn thịnh soạn, thực ra anh ta chỉ đứng bên chỉ dẫn, còn mọi khâu từ nhóm bếp, rửa rau, chặt thái xào nấu, đến bày lên đĩa đều do tôi tự tay làm. Chỉ có điều thao tác không quen, khi thái thịt bị đứt tay hai lần, lúc xào rau mỡ bắn ra làm phồng một nốt trên tay.
Mặc dù hơi đau, nhưng cảm giác từ ngón tay truyền đến não lại khiến người ta hoài niệm, quả thật quá lâu rồi không có cảm giác đau. Quân Vỹ đã rời đi khá lâu, Mộ Ngôn vẫn chưa trở về quán trọ, bếp vẫn còn củi, cũng đủ để hâm nóng nếu thức ăn bị nguội. Tôi gục đầu xuống bàn chờ chàng trở về, chờ mãi chờ mãi, ngủ thiếp lúc nào. Trong mơ màng thoảng thấy mùi hương mai thanh khiết, dưới ánh trăng mênh mang một cây mai cô đơn trổ hoa, thần trí lơ mơ một hồi, đột nhiên tỉnh giấc, nhìn thấy Mộ Ngôn đang cúi xuống.
Từ khi rời thị trấn nơi gặp chàng trong mộng, chàng bèn bỏ mặt nạ, có lẽ ở đó có người chàng không muốn gặp, giống như trong hiện thực ngoài lần đầu gặp ở núi Nhạn Hồi hầu như chàng không đeo mặt nạ. Chỉ là thấy tôi tỉnh ngủ, chàng hơi lùi lại, đôi mắt đen trầm tĩnh như nước: “Muộn thế này sao không về phòng ngủ, ngồi ở đây làm gì?”.
Nếu như trước đây, nhất định tôi không khách khí trợn mắt đối lại: “Chàng cũng biết là muộn cơ đấy!”.
Nhưng bây giờ tôi hiểu, thực ra đó là một kiểu làm nũng, không phải ai cũng có thể nói với chàng như vậy, ngập ngừng một lát, tinh thần phấn chấn, miệng mỉm cười: “Em chờ chàng về cùng ăn cơm”.
Chàng nhìn thức ăn trên bàn: “Tôi...”.
Tôi giật thót, ngắt lời chàng: “Dù đã ăn ở ngoài cũng phải ăn một chút, chỉ một chút chút thôi, em đã chuẩn bị rất lâu”. Còn chưa nói hết, sực nhớ có lẽ thức ăn đã nguội, đúng lúc tiểu nhị đi qua, vội cầm bát canh nấu xong trước nhất, “Này tiểu nhị ca...”.
Tôi chưa nói xong, Mộ Ngôn đã ngồi vào bàn, cầm đũa hướng về đĩa bánh chẻo nhân tôm đặt giữa bàn, ngẩng đầu: “Tôi vẫn chưa ăn, cùng ăn đi”.
Tôi ngẩn người: “Chàng thích món này ư?”.
Mộ Ngôn ngắm nghía chiếc bánh kẹp trên đũa, dường như nghĩ gì, lát sau mới trả lời: “Có ấn tượng lờ mờ, không nhớ rõ, cô làm à?”.
Tôi gật đầu thật mạnh, háo hức chờ đợi thái độ tiếp theo của chàng, trong lòng có phần để ý cái gọi là ấn tượng lờ mờ chàng vừa nói, nhưng chỉ lát sau lại xua đi ngay, cho dù có ấn tượng cũng không liên quan đến tôi, Hoa Tư điệu Tý Ngọ nếu dễ nhìn thấu sao có thể xứng được coi là khúc nhạc cuối cùng của đời người.
Ăn xong một chiếc bánh chẻo, chàng buông đũa, uống một ngụm trà, miệng hơi nhếch lên: “Vị không tồi, trông cô không có vẻ là người biết nấu ăn”.
Trong ánh nến lờ mờ, tôi chống cằm khẽ nói: “Phải, em rất biết nấu ăn, vậy chàng... có thích em thêm chút nào không?”.
Bàn tay cầm cốc trà của chàng khựng lại, nụ cười tan dần, liếc nhìn hai ngón tay tôi băng bó như củ nhân sâm, không trả lời câu hỏi của tôi: “Tay cô sao thế? Cắt vào tay à?”.
Tôi vội vàng định giấu tay ra sau: “Không”. Nửa khắc trước nếu chàng hỏi câu đó, tôi không chỉ nói thật mà còn thêm dấm thêm ớt, biết đâu sẽ khiến chàng thương xót, nhưng vừa rồi đã hùng hồn khẳng định mình rất biết nấu ăn, bây giờ nếu thừa nhận bị cắt vào tay thì quá thiếu trí tuệ, đành thầm thở than, đã ăn xôi thì khỏi ăn thịt.
Chàng nhìn tôi từ đầu xuống chân, rõ ràng không tin: “Vậy sao lại băng bó thế kia?”.
Tôi há miệng, nhất thời không nghĩ ra cớ gì, lát sau nói: “... Băng bó chơi thôi”.
Chàng lẳng lặng kéo tay tôi, từ từ tháo lớp băng, khi vết thương lộ ra hết mới nói nhẹ tênh: “Còn chối nữa không?”.
Vết thương chạm vào vẫn hơi đau, nhung tôi quả thật còn có lời muốn nói, ghé lại hỏi nhỏ: “Mộ Ngôn, các cô gái lầu xanh có đẹp không?”.
Những ngón tay cầm tay tôi hơi khựng lại, cảm thấy có lẽ chàng sẽ không trả lời, lát sau lại nghe thấy tiếng chàng dửng dưng: “Không để ý”. Dừng một lát, lại tiếp: “Tôi đến để bàn chuyện”.
Tôi cho là mình nên cười một cái, ghé lại gần hơn: “Em đẹp hay họ đẹp?”.
Chàng băng lại vết thương cho tôi, nghe hỏi vậy, tay thít chặt giải băng, tôi đau điếng rụt tay về, vùi đầu vào cánh tay thở dài: “Sao chàng không thích em nhanh lên, em cũng thấy vất vả quá!”.
Chỉ nghe thấy tiếng vải băng cọ xát, cử động của chàng rất thành thạo duyên dáng, băng khéo hơn tôi và Quân Vỹ nhiều, chỉ có điều vẫn chưa trả lời tôi.
Nhưng cho dù vậy, lúc này tôi cũng thấy vui và mãn nguyện. Đời người nếu không nhìn về phía trước cũng không nhìn về phía sau, chỉ sống với hiện tại, sẽ chẳng có phiền não gì hết, có lúc chúng ta cảm thấy sống quá mệt mỏi chỉ là bởi vì suy nghĩ quá nhiều.
Quân Vỹ cho rằng từ khi tôi nấu ăn cho Mộ Ngôn, chàng đối với tôi khác đi rõ rệt, vậy mà tôi không nhận ra.
Hết một ngày, lại một ngày, thời gian lặng lẽ trôi, một ngày trôi qua là một bước tiến dần tới cái chết. Mộ Ngôn không phải là người dễ bị xao lòng bởi các cô gái đẹp, chàng yêu tôi... phải, sao chàng có thể yêu tôi?
Tôi lại chưa bao giờ nghĩ đến điều đó, tôi chỉ biết đã cùng chàng trải qua nhiều chuyện, chàng tìm thấy tôi trong trận mưa như trút nước đêm đó, nói với tôi: “A Phất, tôi thích em”.
Những hồi ức đẹp đẽ đó tôi đã thầm ôn lại bao lần, bao đêm tuyết rơi trong giấc mộng này, mặc dù biết mưa dầm thấm lâu mới là vững bền, nhưng tôi không có nhiều thời gian.
Nếu chàng cao quý bởi thân phận thế tử chắc hẳn đã có bao nhiêu thiếu nữ xinh đẹp tìm mọi cách làm chàng động lòng, cho nên một chút thành ý của tôi lúc này có là gì? Nhưng liệu có cô gái nào từng tình nguyện vì chàng hy sinh đôi tay của mình?
Nếu tôi làm thế, liệu chàng có động lòng, liệu tất cả có như tôi mong muốn, cuối cùng chàng có thể quên tôi? Suy nghĩ mãi, cuối cùng cảm thấy thực ra có thể thử xem.
Mộ Ngôn đến Dĩnh Xuyên thuần túy chỉ là vì thanh bảo kiếm. Nhưng tôi được biết, thanh bảo kiếm đó của Hình gia cuối cùng không thuộc về Trần quốc thế tử.
Chuyện này rất nổi tiếng hồi đó, nghe đâu Hình gia cố tình mời quần hùng trong thiên hạ đến thử kiếm, quy định vốn là ai có thể phá hết thất tinh kiếm trận của gia chủ là có thể mang thanh kiếm đi.
Nhưng người muốn có thanh kiếm nhất lại là một vị phu nhân không hề biết kiếm thuật, phu quân đã qua đời của bà sinh thời nổi tiếng là người say mê kiếm. Tiểu thiếu gia được cưng sủng nhất Hình gia là một điêu khắc sư tài năng nức tiếng thiên hạ, đặc biệt sở trường tạc tượng nữ giới, tác phẩm làm ra sống động có hồn như thật, nhưng duy nhất bàn tay của bức tượng luôn giấu trong tay áo, nghe đồn là do chưa tìm thấy đôi bàn tay khéo léo, khả dĩ đem ra giải phẫu nghiên cứu tỉ mỉ cấu tạo xương bàn, xương ngón, vì thế chưa thể tạc được đôi bàn tay ưng ý, liền dứt khoát bỏ lại.
Vị phu nhân muốn có thanh kiếm đó không biết dùng kiếm nhưng lại giỏi nữ công, tài thêu đứng đầu thiên hạ. Vậy là vị phu nhân tình nguyện hiến đôi tay vàng cho Hình thiếu gia, ngay đêm trước ngày diễn ra hội thi kiếm đã mang đến cho bảo kiếm gia chủ. Anh hùng thiên hạ từ ngàn dặm tề tựu ở Dĩnh Xuyên nhưng lại không được chiêm ngưỡng bảo kiếm, mặc dù hơi tiếc nhưng cũng cảm thấy bảo kiếm cho dù quý hiếm nhưng rốt cuộc cũng không thể sánh với đôi tay bằng xương bằng thịt.
Tôi không dám nói đôi tay tôi khéo léo hơn đôi tay quý phụ kia, nhưng có thể vẽ ra những bức họa khiến đương thế danh gia trầm trồ tán thưởng, biết gảy khúc đàn ngay Mộ Ngôn cũng không phê phán, tôi nghĩ có lẽ nó cũng có tư cách đổi lấy bảo kiếm.
Dĩnh Xuyên không phồn hoa như trong tưởng tượng, chỉ có quá đông người, nhưng một nửa là khách vãng lai đến xem hội thi kiếm của Hình gia bảy ngày sau.
Tôi không hiểu tại sao Mộ Ngôn phải đến sớm như vậy, hai ngày sau phát hiện khách trọ đến sau đành trải chiếu ngủ ngoài sân mới biết hóa ra chàng rất có kinh nghiệm.
Mặc dù đồng hành suốt chặng đường nhưng Mộ Ngôn và Công Nghi Phỉ không quá bận tâm về tôi, cho nên vào một đêm không sao, trên trời chỉ có một vầng trăng đơn độc, tôi mới thuận lợi ôm đàn ra khỏi quán trọ đi đến biệt phủ của Hình gia gặp tiểu thiếu gia.
Thực ra là tôi hẹn anh ta, vừa đến Dĩnh Xuyên đã nhờ Quân Vỹ đưa thư hẹn, không ngờ lại rất suôn sẻ, hai ngày sau nhận được hồi âm của anh ta.
Xem ra tiểu thiếu gia rất hứng thú với đôi tay của tôi. Quân Vỹ dù không biết tôi viết gì trong thư, nhưng một mực theo tôi đến chỗ hẹn, may mà tôi kịp tìm cơ hội bỏ thuốc mê vào thức ăn của anh ta.
Nếu để Quân Vỹ biết, việc này nhất định không thành, cùng tôi đi vào Hoa Tư mộng Tý Ngọ, Quân Vỹ nói anh ta đến giúp tôi, cho rằng giúp tôi là bảo vệ tôi, nhưng lại không biết trong những ngày cuối cùng này, tôi không cần sự bảo vệ nào hết.
Tuy nhiên, nếu nói thẳng Quân Vỹ sẽ cảm thấy bị tổn thương, vả lại tôi cũng nghi ngờ, vấn đề tình cảm rắc rối như vậy liệu anh ta có hiểu?
Đi qua đình bia bằng bạch ngọc, bên ngoài biệt phủ của Hình gia toàn hoa lê trắng xóa, tựa hồ tuyết phủ, hai bên đường hoa lê đó còn có rất nhiều bức tượng phật bằng đá tọa trên đài sen, trên đài thắp nến, gió thổi ánh nến chập chờn lúc mờ lúc tỏ.
Thỉnh thoảng có những cô hầu vận áo dài tay cầm những cây đèn cao đến nửa người lướt dưới tán hoa lê, bóng đổ dài không biết do ánh trăng hay ánh đèn. Hình tiểu thiếu gia Hình Sở đã đứng chờ dưới mái hiên phòng trà mở rộng cửa, bên trong đèn thắp sáng trưng, trên chiếc bàn thấp giữa phòng để một cây đàn bằng gỗ đồng mộc, sát tường phía trong có chiếc bàn cao chân chạm trổ hình chân thú, bên trên để một thanh kiếm.
Hai thứ đó là chuẩn bị cho tôi. Hình Sở toàn thân áo chùng màu bạc như ánh trăng, tay ôm chiếc lò sưởi nhỏ, cũng trạc tuổi Quân Vỹ. Nhìn tôi đi đến, không hiểu sao thần sắc sững sờ, nói vẻ băn khoăn: “Quân cô nương?”.
Tôi cười: “Quân Phất vì sao đến đây, thiết nghĩ đã nói rõ trong thư, Hình công tử ắt đã hiểu rõ. Công tử muốn có đôi tay tôi, còn Quân Phất lại muốn thanh bảo kiếm”. Tôi hơi ngẩng đầu nhìn anh ta, “Không biết công tử có bằng lòng trao đổi với Quân Phất?”.
Anh ta xoa xoa cái lò sưởi trong tay, ánh mắt dừng trên đôi tay ôm đàn của tôi, khóe miệng khẽ nhếch, hiện ra nụ cười: “Tại hạ nghe đồn, hiện nay thiên hạ đệ nhất am tường nhạc lý không ai vượt qua Trần quốc thế tử Tô Dự, cầm âm tuyệt thế là Vệ quốc Văn Xương công chúa Diệp Trăn. Trong một nhạc khúc công chúa có thể biến hoán mười hai chỉ pháp không sai một âm, trong mắt tại hạ đó mới xứng là đôi tay khéo léo, hôm nay Quân Phất cô nương muốn trao đổi với tại hạ, nhưng không biết đôi tay cô nương liệu có xứng với thanh bảo kiếm tâm huyết nửa đời của thân phụ tại hạ?”.
Điều anh ta nói có lẽ là chuyện xảy ra lúc tôi mười lăm tuổi. Một nhạc sư người nước Lầu không hiểu sao biết được Huệ Nhất sư phụ là một cao nhân lễ nhạc, một lòng muốn cùng sư phụ so tài, sư phụ vốn cảm thấy mình không phải là người của hồng trần, không muốn tiếp khách nhân kiểu đó.
Nhưng người này rất ngoan cố, cho dù bị sư phụ quá tam ba bận từ chối vẫn không nản chí, ở liền mấy ngày trong tông phái không ăn không uống, khiến sư phụ rất phiền, cũng muốn nhượng bộ nhưng lại sợ sau đó sẽ mở ra tiền lệ, thiên hạ lại đua nhau tìm đến muốn so tài. Nghĩ đi nghĩ lại mới cho tôi ra ứng chiến. Nhưng nói thật, tuy tôi học đàn từ nhỏ, nhưng chỉ sau khi gặp Mộ Ngôn mới bắt đầu học nghiêm túc, chưa đầy một năm, chỉ có thể gọi là cao nhân bình thường, để khiến tôi ngay từ đầu đã đánh bại đối phương, sư phụ mới nhất thời dạy tôi vài chiêu.
Trong một khúc biến hoán mười hai chỉ pháp chỉ là trò vặt, đến năm mười bảy tuổi là lúc tôi qua đời đã có thể trong một thời gian ngắn biến hoán hai mươi tư chỉ pháp trong một nhạc khúc mà ngón tay vẫn bay múa tự nhiên như lưu thủy hành vân.
Nhưng sư phụ không khuyến khích cái đó, ông cho rằng đại âm mà hy thanh, đại hình mà vô hình, trong nhạc lễ, cao minh nhất không phải là biến hoán bao nhiêu chỉ pháp phức tạp, mà là dựa vào một chỉ pháp đơn giản nhất có thể tấu ra những cầm âm khiến trăm hoa đua nở, bách điểu quần tụ, trăm sông quy hải. Mặc dù giới hạn đó cả đời sư phụ cũng chưa đạt tới, tôi cũng vậy. Hình Sở liếc nhìn tôi mấy lần, như đang chờ tôi thấy khó mà lui. Tôi nhìn quanh một lượt, vầng trăng bạc, đêm thanh vắng, hoa lê trắng tuyết, ánh nến chập chờn, tượng phật băng lạnh tỏa màu thiền.
Khung cảnh quá tuyệt để dạo một khúc đàn, tôi lẳng lặng lấy cây đàn khỏi túi vải bố, ôm đến ngồi trên chiếc chiếu trải dưới mái hiên, cúi đầu có thể nhìn thấy xiêm áo trắng muốt trên người hòa với màu hoa lê trên đất, khúc nhạc cuối cùng có thể được tấu lên ở một nơi tuyệt đẹp như vậy, nhìn theo cách khác âu cũng là một may mắn.
Hình Sở từ hành lang gỗ đi xuống, chầm chậm đến gần tôi: “Quân cô nương rất tự tin vào đôi tay mình. Nếu đôi tay có thể địch được đôi tay diệu kỳ của Văn Xương công chúa, tại hạ tự nguyện hai tay nâng bảo kiếm dâng lên, nếu không, Quân cô nương định thế nào?”.
Tôi cúi đầu thử đàn: “E là không phải tôi định thế nào, mà là Hình công tử định thế nào?”.
Anh ta cười: “Nếu cô nương bằng lòng ở lại một năm gảy đàn hầu tại hạ, tại hạ sẽ...”.
Đây là lần đầu tiên nghe thấy có người muốn tôi hầu đàn, cảm giác cũng thật mới mẻ, tôi cúi đầu tiếp tục thử đàn: “Có phải Hình công tử cho rằng một quốc gia chỉ cần thành trì phồn hoa là phú cường? Một lữ quán chỉ cần trang trí hào nhoáng là thượng hạng? Một thiếu nữ chỉ cần sinh ra có bề ngoài đẹp đã là giai nhân? Nếu gật đầu chắc tự công tử cũng cảm thấy rất nực cười? Vậy tại sao lại cho rằng một cầm sư chỉ cần giỏi múa mười ngón tay trên dây đàn là cầm kỹ cao siêu?”.
Gảy âm phù đầu tiên, ngẩng đầu bắt gặp ánh mắt mông lung của anh ta, tôi bổ sung: “Tôi nói vậy không phải là tự tìm cớ rút lui, chỉ là cảm thấy nên cải chính một chút quan điểm của công tử”.
Ngón tay dán vào dây tơ phiêu du, dây tơ vấn vít như đan vào ngón tay, đó là chỉ pháp sư phụ đã dạy, lâu không dùng tới, nhưng đúng như sư phụ nói, mặc dù lúc học hơi vất vả nhưng một khi đã thành thục sẽ không bao giờ quên.
Cầm âm như nước chảy hòa với ánh trăng. Sư phụ nói một khúc đàn hay không chỉ là nhạc mà còn là họa, trong nhạc có họa nghĩa là không chỉ tạo ra những thanh âm đẹp mà còn khiến người ta nhìn thấy bức họa ẩn sau thanh âm.
Trước mắt tôi vốn là một bức tranh hoàn mỹ, tự cảm thấy không còn không gian để vẽ gấm thêm hoa, nhưng vừa ngẩng đầu, một người tuyệt đối không thể xuất hiện lại hiện ra trong tầm mắt, ngẩng nhìn lần nữa đã không thấy bóng dáng.
Tôi thật ngốc, nếu không phải là ảo giác thì còn có thể là gì?
Một khúc nhạc vừa kết thúc, mấy cánh hoa lê rụng xuống đất, Hình Sở ngồi cách chỗ tôi ba bước nhìn tôi ánh mắt mông lung. Khi bắp gặp ánh mắt tôi, anh ta vỗ tay nồng nhiệt. Mấy cánh hoa lê rơi trên giày của tôi, anh ta thong thả nói: “Xin cho phép tại hạ mạo muội hỏi, Quân cô nương có đôi tay như vậy tại sao không trân trọng, lại đem đi đổi lấy một thanh sắt vô dụng?”.
Nếu là bình thường tôi cũng không hẳn vì Mộ Ngôn thích thanh kiếm đó mà dùng đôi tay để đổi, nhưng bây giờ tôi sắp chết... một thời điểm đặc biệt như vậy.
Tại sao không trân trọng đôi tay, không phải không trân trọng mà bất đắc dĩ phải làm thế, để thực hiện bằng được kế hoạch ban đầu, nhưng không cần thiết phải giải thích với anh ta.
Tôi vừa cho đàn vào bao vừa thong thả nói: “Đó không phải là thanh sắt vô dụng, người tôi thích rất muốn có nó. Thỉnh thoảng tôi cũng muốn chàng vui lòng”.
Thu xong cây đàn, tôi đứng lên nhìn anh ta: “Hình gia ở đất Dĩnh Xuyên vốn luôn trọng chữ tín, thiết nghĩ Hình công tử đã chuẩn bị xong bảo kiếm?”.
Nhưng anh ta không trả lời, chỉ nhìn phía sau tôi. Hiếu kỳ theo ánh mắt anh ta ngoái đầu, giật nảy mình suýt làm rơi cây đàn.
Mộ Ngôn đã đứng cách tôi không đầy ba thước, bên cạnh một cây lê hoa chi chít như tuyết phủ đầy cành, nặng trĩu như sắp rơi.
Còn chàng toàn thân áo chùng lam lóng lánh đứng dưới gốc cây như đang hẹn hò một giai nhân nào đó trong đêm trăng, nhưng sắc mặt lại dửng dưng, lạnh lùng nhìn tôi: “Cô cho rằng như vậy tôi sẽ vui?”.
Bước trên mặt đất rụng đầy hoa lê, đi đến trước mặt tôi, nhìn tôi bằng đôi mắt đen không chút hơi ấm, điềm nhiên nhắc lại: “Cô cho rằng dùng đôi tay cô đổi lấy bảo kiếm, tôi sẽ vui?”.
Chàng giận, nhất định chàng đang giận. Tôi không biết chàng sẽ đến, hoặc là đến sớm như vậy, trong kế hoạch ban đầu, tôi sẽ làm cho chàng cảm động, nhưng chàng nói như vậy đúng vào lúc này, nhìn rõ vẻ chế giễu khinh thường trong mắt chàng, đột nhiên cảm thấy thứ bấy lâu chống đỡ mình nhanh chóng mất đi, mệt mỏi lùi hai bước, dựa vào bức tượng phật: “Em cứ nghĩ em có thể nuôi chàng, có thể bảo vệ chàng, nhưng chàng quá mạnh mẽ, chàng hoàn toàn không cần em, em chỉ muốn chàng vui, đây là điều duy nhất em có thể làm được, nhưng chàng vẫn không vui. Hay là tại em quá ép chàng, cho nên dù em làm gì, chàng cũng ghét em? Ngày trước chàng...”.
Tôi giơ tay bịt mắt, “... ngày trước chàng không thế”.
Chàng nhấc bàn tay đó ra, cau mày nhìn tôi: “Cô gái nhỏ mà tôi quen cũng không như cô bây giờ. Quân Phất, cơ thể được cha mẹ ban cho, bản thân cô không tự trân trọng như vậy, sao có thể yêu cầu người khác trân trọng?”.
Tôi như muốn cười, lại như muốn khóc, cuối cùng chỉ có thể ngẩng đầu thở dài: “Chàng chẳng biết gì cả”.
Đúng, chàng chẳng biết gì cả.
Miễn cưỡng vùng ra, lại bị Hình Sở chặn lại: “Quân cô nương dừng bước, trong thư chúng ta đã hẹn, bảo kiếm cũng chuẩn bị xong, không biết cô nương định giữ lời thế nào?”.
Vừa rồi có thể vùng khỏi tay Mộ Ngôn là vì chàng nắm không chặt, lúc này, cánh tay lại bị chàng nắm chặt kéo ra sau lưng, hoàn toàn không thể động đậy.
Nghe thấy chàng nói với Hình Sở, vẫn giọng lạnh nhạt: “Không biết công tử dựa vào đâu cho rằng thanh kiếm lệnh tôn đúc đủ tư cách đổi lấy đôi tay của Quân cô nương?”.
Hình Sở ho một tiếng: “Bất luận có tư cách hay không khế ước là khế ước, lẽ nào công tử định hủy khế ước?”.
Chàng cười: “Hoặc là chúng ta so tài, tại hạ thắng sẽ hủy khế ước, hoặc là tại hạ lập tức hủy khế ước, Hình công tử tùy ý lựa chọn”.
Từ trước tôi đã biết có lúc chàng tương đối vô lý, ví dụ lúc bắt nạt tôi, nhưng không ngờ lúc này chàng cũng vô lý.
Hình công tử có lẽ cũng muốn xuống thang, lựa chọn so tài, cầm kỳ thi họa đều thử hết, kết quả thua thảm hại, tôi cảm thấy có lẽ chỉ có so tài nữ công anh ta sẽ thắng Mộ Ngôn một ván.
Tâm trạng tồi tệ của tôi không tốt lên chút nào khi thấy Hình Sở còn xúi quẩy hơn mình. Rốt cuộc tôi cũng có giới hạn của mình.
Tôi thầm quyết định không để ý đến Mộ Ngôn nữa, không phải là bỏ kế hoạch ban đầu đối với chàng, chỉ là tạm thời không quan tâm đến chàng nữa, những lời chàng nói như lưỡi dao, cho dù da dày đến mấy cũng bị tổn thương, huống hồ tôi thuộc loại da non bẩm sinh.
Nhưng khi cùng về lữ quán, Mộ Ngôn lại chủ động nói chuyện với tôi: “Muốn tôi vui không cần làm những chuyện điên rồ như vậy, cô có thể chơi cho tôi nghe khúc đàn đã chơi ở chỗ Hình Sở tối nay”.
Tôi băn khoăn: “Chàng cũng nghe thấy?”.
Chàng vượt lên trước, bóng đổ dài dưới trăng, dừng lại một lát: “Tôi đã nhìn thấy. Một khúc biến hoán hai mươi tư chỉ pháp, không sai một âm, khoan bàn về cầm âm, chỉ riêng hai mươi tư chỉ pháp đó cũng là hiếm có”.
Tôi cắn môi: “Nhưng chàng chơi đàn rất giỏi. Có phải chàng cảm thấy những lời nói với em lúc trước là rất quá đáng, cho nên tìm cách dỗ dành em?”.
Chàng lắc đầu, cơ hồ nhìn ra chỗ khác: “Cô đàn cho tôi nghe và tôi tự đàn là hai chuyện khác nhau, A Phất”.
Tôi ngẩng đầu nhìn trăng trên cao: “Nhưng em phải đàn cho chàng nghe bao nhiêu lần chàng mới thích em? Em muốn chàng lập tức thích ngay, cho dù thích chỉ vì cảm thấy có lỗi với em cũng không sao”.
Chàng dừng chân, ngoái đầu, ánh mắt băn khoăn nhìn tôi, lát sau chậm rãi nói: “Cô vẫn còn quá nhỏ”.
Buổi tối đó kết thúc trong lời nói mập mờ như vậy. Ngày hôm sau tôi chạy đi hỏi Quân Vỹ, một người đàn ông nói với cô gái cô còn quá nhỏ nghĩa là sao, kết quả anh ta nhìn tôi hồi lâu, “Nói thật nhé, muội còn không được coi là một cô gái, nhiều nhất chỉ là một bé gái, không, bé gái cũng không được, phải thêm một chữ ‘bé’ vào nữa, gọi là ‘bé gái bé’ mới phải”.
Kết quả bị tôi đấm cho một trận. Nhưng tôi nghĩ câu nói đó của Mộ Ngôn đúng là ý đó, chàng cảm thấy tôi quá nhỏ, thấy tôi không đủ xinh đẹp, chưa trưởng thành.
Làm thế nào mới coi là xinh đẹp trưởng thành, tôi không biết. Giả sử chàng thích một cô gái như thế, tôi sẽ cố trở nên như thế. Vì yêu mà hủy hoại bản thân tôi cũng không tán thành, nhưng tôi không còn cách nào khác, tôi không giống Oanh Ca, dù không toại nguyện nhưng cô vẫn còn thời gian, còn tôi không còn cơ hội nữa.
Chỉ cần đạt được mục đích, bất luận phương thức nào cũng có thể thử. Đây mới thử một lần, làm cho Mộ Ngôn thích thật quá khó. Nhưng cũng không thể trách chàng, chàng vốn là người không dễ động lòng.
Mặc dù tôi gây chuyện như vậy, khiến Mộ Ngôn và Hình gia bất hòa, nhưng hội thử kiếm hai ngày sau cũng không thấy chàng có động tĩnh chuẩn bị tham dự.
Mới sực nghĩ thực ra có thể chàng đến đây không hẳn vì thanh kiếm đó, chẳng qua tôi chỉ nghe một phía, tin lời Công Nghi Phỉ.
Con người quan trọng hơn kiếm, những người đua tài trong hội thử kiếm cần phá được thất tinh kiếm trận của gia chủ, chính là lúc kiếm khách trong thiên hạ trổ tài, rất có thể mục đích chính yếu của chàng là muốn tìm ra anh tài. Thế mới phù hợp tư duy của chàng.
Ban ngày, Mộ Ngôn và Công Nghi Phỉ hầu như không ở lữ quán, Quân Vỹ đến lầu xanh lớn nhất Dĩnh Xuyên tìm giúp tôi một hoa khôi ăn khách nhất, nói là để dạy tôi trở nên phong tình, chỉ có anh ta mới nghĩ ra chiêu đó, nhưng có lẽ là một chiêu tốc chiến tốc thắng.
Từ nhỏ tôi đã rất giỏi bắt chước, bằng chứng là tôi có thể vào vai Tống Ngưng và Mộ Dung An một cách tự nhiên, bởi vì tuy mang mặt nạ giống hệt họ, nhưng nếu cử chỉ dáng điệu không giống, công việc cũng khó thành công. Cho nên, mọi ánh mắt, nụ cười, cử chỉ của cô hoa khôi đó tôi lập tức ghi nhớ.
Làm thế nào đem ngàn vạn lời khó nói gửi vào một cái liếc mắt như gió thoảng mây bay, làm thế nào nâng cốc trà một cách tao nhã duyên dáng như nhành hoa lan, làm thế nào phảy chiếc quạt hoa che nửa miệng một cách quyến rũ nhất. Học suốt một ngày cơ hồ đã có thể thành thục mọi động tác cô ta truyền dạy, khiến Quân Vỹ luôn mồm ngợi khen, nhưng trước sau tôi vẫn cảm thấy có gì không ổn.
Mãi đến khi cô hoa khôi giúp tôi trang điểm một khuôn mặt vừa cầu kỳ vừa đậm phấn son, mới đột nhiên phát hiện ra vấn đề, đợi Quân Vỹ sau khi tiễn khách quay về tôi mới ôm đầu, nói: “Cả ngày hôm nay coi như uổng công, huynh cũng miễn cưỡng được coi là đàn ông, huynh có nhận ra những điệu bộ đó mặc dù duyên dáng, phong tình vạn độ, nhưng Mộ Ngôn nhất định vừa nhìn đã nhận ra muội học được ở đâu, lúc đó mười phần chắc chín bị ăn đòn...”.
Quân Vỹ phẫn nộ hét lên: “Cái gì? Sao lại nói huynh miễn cưỡng được coi là đàn ông!”.
Hét xong nhìn tôi chằm chằm, nói dỗi, “Kiểu gì muội cũng nói được, vừa muốn lả lơi quyến rũ vừa muốn hiền thục đoan trang, khó thế ai làm được...”. Đột nhiên mắt sáng lên, “Thân mẫu muội ngày xưa chẳng phải được gọi là phu nhân đoan nhã nhất Vệ cung sao? Muội có còn nhớ tư phong của phu nhân không?”.
Tôi ngây người: “Sao?”.
Quân Vỹ nói tiếp: “Thân mẫu muội đối với thân phụ muội thế nào, muội cứ đối với Mộ Ngôn như thế, thế là đơn giản nhất, coi như hôm nay mất tiền oan...”.
Tôi sáng mắt: “Vậy huynh nhìn giúp muội xem có giống không”.
Có điều Quân Vỹ không biết ấn tượng của tôi về mẫu phi thực ra rất mờ nhạt. Tình thân trong vương thất vốn đã nhạt, huống hồ từ nhỏ tôi không sống bên bà.
Từ năm mười sáu tuổi trở lại Vệ cung, những lần gặp bà cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Trong ấn tượng của tôi, mẫu phi luôn trang điểm rất tinh tế, các bà phu nhân của phụ vương nhiều người múa giỏi hát hay, thân mẫu tôi lại khác, bà có tài thẩm định rượu.
Một lần phụ vương mang về một bình rượu quý do một thần tử dâng cống, bảo thân mẫu thẩm định, tôi nhìn thấy động tác cầm chén rượu của bà quả thực vô cùng mê ly.
Cốc và rượu đã có, ngoài cửa ánh trăng mờ, tôi thận trọng nâng thử chiếc cốc sứ mấy lần, Quân Vỹ dùng kim khêu cao bấc đèn.
Nghiêng đầu nhìn bàn tay nâng cốc in bóng lên tường, trông tựa như người chủ lễ dâng bình nước thánh. Nhớ lại hồi nhỏ sư phụ không cho chúng tôi xuống núi xem múa rối, tôi và Quân Vỹ chăng một tấm vải bố rộng lên tường, đốt mấy ngọn nến, dùng ngón tay tạo hình các con thú in bóng lên tấm vải, chơi cũng rất hào hứng. Lúc này tôi dùng khuỷu tay hích Quân Vỹ ý bảo nhìn bóng tay tôi trên tường. Quân Vỹ cười nhấc cái cốc khỏi tay tôi, cũng dùng ngón tay làm ra hình con chuột, cho nó xông tới mổ bàn tay khum khum vẫn giữ tư thế cầm cốc của tôi. Tôi buông tay, con chuột ngã chúi.
Quân Vỹ cau mày: “Ấy, phải diễn nốt cảnh con chuột ăn vụng mỡ đã chứ”.
Tôi giơ ngón tay: “Muội đã chụm tay lâu như vậy mà huynh không chớp thời cơ. Đến lượt muội, đến lượt muội, mau làm hình con thỏ đi, lần này cho hai con thỏ đánh nhau”.
Quân Vỹ gãi đầu nhăn nhó, “Khó quá, huynh không biết làm thỏ, làm chim khổng tước đi, một con trống, một con mái cùng... cùng...”.
Tôi gật đầu: “Vậy được, hai con khổng tước trống tranh giành địa bàn, nhưng con của huynh phải đứng yên, để con của muội đến mổ”.
Mỏ khổng tước vừa mổ, Quân Vỹ hét lên, “... Ối, móng tay muội dài thế, lại còn mổ mạnh như vậy, muội thù gì huynh?”.
Ba tiếng gõ cửa vang lên, còn chưa kịp phản ứng cửa phòng đã mở. Mộ Ngôn khoanh tay trước ngực, mặt lạnh tanh, tựa khung cửa nhìn chúng tôi. Tôi và Quân Vỹ vẫn giữ tư thế buồn cười như vậy. Đèn hoa bỗng xèo một tiếng, không hề có dấu hiệu báo trước, Quân Vỹ rụt tay vào ống tay áo, ấp úng: “Hai người nói chuyện đi”. Lúc đứng lên còn nháy mắt với tôi, ý bảo: Có chuyện gì cứ hét to lên, huynh ở phòng bên.
Quân Vỹ vừa đi, Mộ Ngôn liền đóng cửa, ung dung bước tới, ngồi bên tôi, tiện tay nhấc một chén trà, liếc nhìn bình rượu và chiếc cốc tiểu nhị vừa mang đến, nhưng không nói gì.
Nhưng càng im lặng như vậy càng khiến tôi thấp thỏm, tôi cảm thấy nhất định phải giải thích một chút, đắn đo mở miệng: “Quân Vỹ là ca ca của em, chúng em từ nhỏ thường chơi trò này”.
Tay chàng rót trà chợt dừng lại: “Em có ba ca ca, Diệp Tề, Diệp Kỳ, Diệp Hy, sao không nghe nói em còn một ca ca tên là Quân Vỹ”.
Tôi kinh ngạc nhưng chỉ chốc lát, nghĩ cũng phải, sao chàng có thể để một cô gái lai lịch không rõ ràng đi theo. Nhưng nhìn thần thái chàng không có vẻ muốn nói chuyện phiếm với tôi, tôi nuốt nước bọt: “Là bạn hữu từ nhỏ cùng lớn lên với em, giống như ca ca vậy”.
Chàng xoay xoay cái cốc trong tay: “Ồ? Thì ra là đôi bạn thanh mai trúc mã”.
Tôi đột nhiên lo lắng, đầu lắc như trống bỏi: “Chúng em không có gì”.
Chàng lại cười, chậm rãi nói: “Trăng thanh, rượu nồng, hai tiểu đồng vô tư vui đùa”.
Chợt liếc tôi một cái, “Tối nay trang điểm thế này...”.
Sống lưng toát mồ hôi lạnh, trong những vở kịch, hiểu lầm thường xảy ra từ những lời nói như vậy, tôi vội ngắt lời chàng: “Có phải chàng cảm thấy không đẹp, vậy em sẽ đi rửa ngay”.
Nói xong chạy đi tìm cái gương, nhúng khăn mặt vào nước đang định lau mặt lại nghe giọng chàng lành lạnh sau lưng: “Thực ra cũng chẳng có gì khác biệt”.
Tôi ngẩn ra, gượng cười, quay lại hỏi chàng: “Vậy rốt cuộc em nên lau hay nên để?”.
Chàng vẫn chăm chú nhìn cái cốc trong tay: “Can hệ gì đến tôi?”.
Nhìn mặt mình trong gương, khẽ hỏi: “Mộ Ngôn, rốt cuộc chàng thích kiểu thế nào?”.
Lời vừa nói, nước mắt đã tuôn. Tôi đã khóc bao lần trước mặt chàng, chẳng còn thấy ngượng nữa, chỉ là lúc đó biết chàng thương xót, có lúc cố ý khóc trước mặt chàng, lần này lại không thể.
Lấy ống tay áo lau nước mắt, giơ tay định nhấc then cửa, cố kìm tiếng khóc: “Trà chẳng có gì ngon, Mộ công tử cứ thong thả thưởng thức, tôi có việc, đi trước...”.
Lời vừa dứt, bày tay để trên then cửa bị bàn tay khác đặt lên, giọng chàng từ phía trên vọng xuống, có vẻ nén giận: “Muộn thế này còn đi đâu?”.
Đã khiến tôi bực mình lại không cho tôi ra ngoài xả giận, tôi thấy bải hoải, quay người, vận ra chút sức lực cuối cùng sau một ngày vất vả: “Chàng thích thế nào? Rốt cuộc phải thế nào chàng mới thích?”.
Có thể bộ dạng đó khiến chàng hoảng sợ, nét mặt vốn điềm tĩnh của chàng lộ vẻ hốt hoảng, cố giữ bàn tay đang giằng ra của tôi, nhưng tay bị trói vẫn có thể dùng chân đá, lúc này, sự kích động của tôi khiến chàng bất lực, dứt khoát một tay ôm tôi, ép chặt vào sau cửa: “Em sao thế, bình tĩnh một chút”.
Sao có thể bình tĩnh, tôi đã bình tĩnh quá lâu rồi, ngay Quân Vỹ cũng cảm thấy có lúc tôi quá... quá mất tự trọng. Chàng chẳng đã bảo tôi giống đứa trẻ đó sao?
Đằng nào tôi cũng chỉ là đứa trẻ, dằn dỗi như một đứa trẻ cũng chẳng sao. Lúc này bị chàng ép như thế khiến tôi khó chịu như vậy, vậy mà còn bảo tôi bình tĩnh.
Không hề biết mình có sức lực như thế, chàng có sức lực như thế, tôi cực lực chống lại, “Đằng nào tôi có làm gì cũng khiến chàng bực mình, nhìn thấy tôi là chán ngán phải không, vậy không nhìn thấy cho xong, tôi mệt rồi, chàng bỏ tôi ra để tôi bình tĩnh lại được không, sao chàng đáng ghét thế, chưa biết chừng tôi nghĩ thông rồi sẽ không đeo bám chàng nữa, tôi... tôi...”.
Đột nhiên cả phòng yên tĩnh lại, cảm giác âm ấm ở môi khiến tôi bất chợt không phản kháng nữa, mà cảm giác đó vẫn không ngừng tăng, lại có ảo giác nó miên man không dứt. Lát sau tôi nghe thấy giọng mình: “Chàng, chàng đang... đang làm gì vậy?”.
Môi chàng kề sát tai tôi: “Đang ghen”.
Tôi ngừng nghẹn ngào, sững người hỏi: “Cái gì?”.
Chàng lùi ra một chút, giơ tay lau nước mắt cho tôi: “Không làm loạn nữa sao?”.
Tôi hơi lùi ra: “Câu vừa rồi chàng nói lại xem”.
Chàng lặng lẽ nhìn tôi, nhắc lại: “Tôi đang ghen”.
Tôi mở to mắt đăm đăm nhìn chàng, không hiểu sao tình thế lại bất ngờ chuyển ngoặt như vậy, chỉ cảm thấy trên đời không có gì ly kỳ hơn chuyện này: “Chàng nói... chàng nói chàng đang ghen? Sao có thể? Chẳng phải chàng... chàng không thích em, cảm thấy em rất chán hay sao? Mà em đã nói rồi, em với Quân Vỹ chỉ đùa vui thôi”.
Chàng ôm trán thở dài: “Tôi nói không thích em, nói em rất chán lúc nào?”.
Tôi nghĩ, hình như chàng không trực tiếp nói ra như vậy, nhưng lập tức tìm cách phản bác: “Nhưng chàng cũng chưa nói thích em”.
Chàng thở dài, vẻ bất lực: “Đầu óc em thế nào vậy? Tôi thích hay không em cũng không nhận ra?”.
Tôi lùi lại: “Không... không nhận ra mấy”.
Chàng xoa trán, “Thôi vậy”. Tay vừa buông, giọng lại nghiêm khắc, “Lớn như thế còn chạy đi tìm người khác chơi trò đó, không thấy quá trẻ con sao? Muốn chơi sao không đến tìm tôi?”.
Tôi tủi thân, “Không phải em chủ ý đi tìm Quân Vỹ, hôm nay vốn là mời người đến dạy em phong tư lễ nghĩa của một cô gái trưởng thành, nhưng cô ta dạy không tốt, em và Quân Vỹ thương lượng phải bắt chước tư thái bình dị của thân mẫu em, chẳng phải chàng thích các cô gái như thế sao?”.
Khăn tay để sang bên, bàn tay lau nước mắt cho tôi sững lại: “ ... Ai bảo tôi thích các cô gái như vậy?”.
Tôi lườm chàng: “Chàng nói mà, chàng nói em còn quá nhỏ”.
Tay chàng lại ôm trán: “Câu nói đó không phải ý như vậy”.
Tôi liếc chàng: “Vậy ý thế nào?”.
Chàng im lặng một lát, đột nhiên một tay bế bổng tôi lên: “Được rồi, hôm nay em nghịch cả ngày, cũng khóc mệt rồi, ngủ sớm đi”. Nói xong đặt tôi lên gi.ường, còn kéo chăn đắp cẩn thận. Bị bất ngờ bắt ép như vậy, tôi quên mất mình vừa nói gì.
Thấy chàng định đi ra, tôi vội níu áo: “Chàng ở lại với em lát nữa, nếu không em không ngủ được”.
Chàng cúi xuống: “Em đã nói tôi rất đáng ghét cơ mà?”.
“Ai nói...”. Tôi ngoẹo đầu: “... Nhưng cũng không phải không khiến người ta ghét, vậy chàng đi đi”.
Chàng cười một tiếng, nằm xuống bên cạnh, ôm tôi qua lần chăn: “Miệng nói một đằng bụng nghĩ một nẻo”.
Tôi quay đầu nhìn khuôn mặt chàng kề sát: “Đợi em ngủ rồi chàng mới được đi, em muốn ở bên chàng thêm lát nữa”.
Ánh trăng chiếu qua cửa sổ, lòng nhẹ nhõm như cất được gánh nặng, cuối cùng, cuối cùng vẫn làm được, chàng nằm nghiêng, nửa người tắm trong ánh trăng, thì ra nếu gặp nhau trước khi tôi tuẫn tiết cùng Vệ quốc, chúng tôi sẽ như vậy.
Cảm thấy ánh mắt tôi, chàng cười, dùng ngón tay úp lên mắt tôi, môi chạm nhẹ vào trán tôi, giọng thầm thì như tiếng gió: “Ngủ đi”.
Đó là câu tôi muốn chàng nói nhất, thầm thì bên tai, A Phất, ngủ đi, vậy là tôi có thể thỏa mãn ngủ không tỉnh lại nữa.
Ngày hôm sau, sáng sớm vừa mở mắt đã nhìn thấy Mộ Ngôn ngồi bên mép gi.ường, chống tay bóp trán. Tôi hơi mơ hồ, không biết là thực hay là mộng, có ánh sáng nhẹ chiếu vào, nhưng không giống ánh mặt trời, phân vân hồi lâu mới nhìn thấy ngọn nến vẫn cháy, vậy là vẫn chưa sang ngày hôm sau.
Tôi khẽ động đậy, khi ngước mắt, bắt gặp ánh mắt tĩnh lặng của Mộ Ngôn, tôi dụi mắt, “Bây giờ là canh mấy rồi? Sao không về ngủ đi? Em đã nói em ngủ là chàng có thể về cơ mà?”. Lại nắm tay chàng, “Hay là chàng cũng không ngủ được?”.
Không thấy chàng có phản ứng gì, ánh mắt khó hiểu nhìn tôi.
Tôi ngẩn ra: “Sao thế?”.
Chàng giơ tay vén món tóc xõa trên trán tôi, cứ thế nhìn tôi đăm đăm: “Em còn dối tôi đến bao giờ, A Phất?”.
Tôi nắm chặt một góc chăn: “Sao?”.
Chàng chậm rãi: “Đây chỉ là một giấc mộng phải không? Tại sao em dệt mộng cho tôi, chạy vào giấc mộng của tôi là muốn giữ tôi ở lại đây sao? Vì thế mới muốn tôi lập tức yêu em? Dùng một người giả là em trói buộc tôi vĩnh viễn ở đây? Đúng không?”.
Ngực đột nhiên chấn động, nhất định là tôi đang mơ, mau tỉnh lại đi, mau tỉnh lại đi. Nhắm mắt, lại mở ra, không được, lại nhắm, lại mở, vẫn không được. Chàng lại nắm tay tôi, ép tôi đối diện với chàng: “A Phất, có phải thế không?”.
Tôi lắc đầu lia lịa, thở hổn hển phản bác: “Không phải, không phải. Đây không phải là mộng cảnh gì hết, em ở đây, em đích thực đang ở đây, Mộ Ngôn, nhìn em đi, là em thật mà”.
Chàng nhìn tôi: “Sau khi em ngủ, tôi đã nghĩ rất nhiều, những gì không hiểu, tôi đi hỏi Quân Vỹ. Em nói đúng, em là thật”. Chàng dừng lại, “... nhưng tôi lại là giả”.
Trán toát mồ hôi lạnh, tôi lắp bắp: “Không... không thể, không ai có thể, xưa nay chưa từng có, chàng... chàng, sao có thể biết được... không, chàng nói dối em...”.
Chàng ngắt lời tôi, ánh mắt buồm thảm: “Trước đây em đã nói với tôi, mỗi người đều bị ám ảnh bởi những ước nguyện không thành. Mỗi khi tôi nhìn em, những ký ức không nên thuộc về tôi lúc này lại giằng xé tôi. Em muốn dùng hư ảo để trói tôi ở đây, em tưởng trên đời không có ai có thể nhìn thấu Hoa Tư mộng ư, A Phất, đó là em tưởng vậy thôi”.
Tôi ngước nhìn chàng, cuối cùng bình tĩnh lại: “Rốt cuộc chàng biết bao nhiêu?”.
Ánh nến mờ dần, giọng chàng rất nhẹ: “Tất cả. Đủ để tôi thoát ra khỏi giấc mộng em đang dệt cho tôi”.
Trong phòng đột nhiên nổi gió, mang đi ánh nến cuối cùng, từ xa hình như có tiếng móng ngựa đạp trên lá khô, nhưng tôi biết không phải, đó là mộng cảnh đang tan vỡ.
Tôi không nhìn thấy Mộ Ngôn, mảnh chăn gấm trong tay biến mất, đầu choáng váng, đột nhiên cảm thấy một tia sáng chói mắt. Cố mở mắt, cùng với hơi thở và khứu giác biến mất, tôi nhìn thấy không biết bao nhiêu những mỏm băng nhấp nhô, đây là băng động của Trần cung. Mộ Nghi tròn mắt nhìn tôi và Quân Vỹ từ trên không rơi xuống cùng với Tiểu Hoàng đang ngủ gật, cô kinh ngạc không nói lên lời, phải một lúc lâu sau mới nói: “Mới canh năm, nến cũng mới cháy được một nửa, lẽ nào...”.
Tôi giơ ngón tay, chạm vào cây đàn đã đứt hết dây, gật đầu: “Muội đoán không sai, thất bại rồi”.
Viên giao châu trong ngực lại không vỡ tan như tôi đã nghĩ, thật là chuyện thần kỳ, có lẽ chưa từng có ai thoát khỏi Hoa Tư mộng Tý Ngọ, cho nên không ai biết thoát khỏi sẽ ra sao. Có lẽ tôi vẫn còn có thể sống thêm hai tháng nữa?
Mộ Nghi khẽ ối một tiếng, lại vội bịt miệng: “Vậy ca ca...”.
Hơi lạnh thấm vào d.a thịt, tôi quấn chặt áo lông chồn vào người, “Chàng sẽ tỉnh lại, những chuyện xảy ra trong mộng có lẽ chàng sẽ không nhớ được, thôi vậy, coi như tôi chưa dệt cho chàng giấc mộng đó, đành vậy, muốn ra sao thì ra”.
Quân Vỹ im lặng nãy giờ mới lên tiếng: “Huynh không muốn nói với anh ta, nhưng anh ta đã đoán ra gần hết”.
Tôi lắc đầu: “Không phải lỗi của huynh”.
Quân Vỹ thu lại cây đàn đồng mộc đứt dây: “Vẫn còn hai tháng, muội không muốn ở bên anh ta sao?”.
Tôi cúi xuống đánh thức Tiểu Hoàng, trầm ngâm rất lâu, vẫn nói: “Chàng không biết muội còn sống trên đời, để chàng nhìn thấy hy vọng, rồi lại tuyệt vọng, chi bằng...”.
Không biết là vật gì rơi xuống, sau lưng có tiếng động nhẹ và tiếng bước chân quen thuộc, toàn thân tôi đột nhiên cứng đờ, thầm nghĩ sao có thể như vậy, nhưng trên nền băng trơn sáng như một tấm gương trước mắt đã hiện lên rõ ràng bóng Mộ Ngôn. Mái tóc chưa búi, áo chùng tơ trắng tuyết, một chiếc áo rộng khoác hờ trên vai: “Em nói chi bằng thế nào?”.
Mộ Nghi giơ tay ra hiệu cho Quân Vỹ, cả hai đi khỏi, Tiểu Hoàng xem chừng không bằng lòng, bị Quân Vỹ kéo đi. Còn tôi sững sờ nhìn Mộ Ngôn, cặp mày đậm, sống mũi cao, đôi môi mỏng, một khuôn mặt đẹp hiếm có in trên nền băng tuyết lại như tỏa hơi lạnh.
Tôi tưởng ánh mắt nhìn chàng lúc tiệc tàn sẽ là lần cuối cùng tôi được nhìn chàng trên trần thế, không ngờ lại còn cơ hội này, vốn nên rất vui, nhưng nỗi buồn ập đến lớn hơn niềm vui... tôi giơ tay che mắt, không biết nên làm thế nào. Mộ Ngôn, không biết chàng có hiểu lòng em lúc này.
Nghe thấy tiếng băng vỡ.
Chàng ôm tôi từ phía sau. Ôm thật mạnh, cả người bị vòng tay chàng khóa chặt, như muốn hòa hai cơ thể làm một. Buông bàn tay che mắt, trên mặt băng trơn láng tôi nhìn thấy chàng nhắm mắt, mái tóc đổ sau lưng, áp má vào má tôi, mặt không biểu cảm, từ hàng mi khép chặt lăn ra... một giọt lệ.
Tôi không thể nói, cảm thấy cơ thể run rẩy dữ dội, lát sau nghe thấy giọng chàng khàn đặc: “Trong giấc mộng đó tay em rất lạnh, khi tỉnh lại tôi nghĩ là em sẽ ở đây”.
Tôi vội ngắt lời: “Chàng nhớ được ư?”.
Chàng nhìn tôi, “Chỉ một ít”. Chàng kéo tôi vào lòng, “Quân Vỹ nói với tôi, em muốn dùng giấc mộng đó để tôi quên em. Có phải đó là điều em muốn?”.
Tôi há miệng, nhưng không thể cất lời, vùi đầu vào ngực chàng, cuối cùng tôi nghẹn ngào bật ra: “Không, em không muốn chút nào, nhưng thấy chàng đau buồn như vậy, Hoa Tư điệu Tý Ngọ không phải là cách tốt, nhưng nó có thể khiến chàng quên em, sau này chàng sẽ có hạnh phúc, em cũng yên tâm”.
Tay chàng để trên đầu tôi: “Nếu quên em, người đó chỉ là Tô Dự, không còn là Mộ Ngôn, nếu tôi đã không còn là tôi nữa, theo em tôi có hạnh phúc? Em có yên tâm?”.
Làm sao tôi biết, lúc đó tôi không còn trên đời nữa, chàng luôn thích đưa ra những vấn đề nan giải như vậy, nhưng không câu nào tôi có thể trả lời. Tôi sịt mũi: “Nhưng chàng biết không, em chỉ còn hai tháng nữa. Tại sao chàng không coi đó chỉ là một giấc mơ, tại sao còn đến tìm em?”.
Người chàng bỗng cứng đờ, bàn tay vuốt tóc tôi cũng dừng lại. Tôi không biết chàng sẽ phản ứng như vậy, tưởng chàng đến tìm tôi là chàng đã nghĩ thông mọi chuyện.
Lát sau tôi lại tiếp: “Nhưng đây là sự thực, chàng không muốn chấp nhận ư?”.
Lâu như chờ đợi một cái cây ra hoa, chàng khàn giọng: “Có lúc tôi vẫn hoài nghi, rốt cuộc có phải chính bàn tay này đã đâm kiếm vào em. Là tôi đã giết em. Hai lần, một lần tôi bức em nhảy từ tường thành Vệ quốc, một lần...”.
Tôi ôm chặt chàng: “Không phải lỗi của chàng. Có lúc em rất hận số phận đã khiến chúng ta nhầm lẫn, có lúc em lại cảm kích nó, không có nó khai ân em sẽ không được gặp chàng, cho nên cuối cùng cũng không phân định rõ hận bao nhiêu, cảm kích bao nhiêu. Em vốn nghĩ để chàng quên em sẽ tốt hơn, nhưng chàng cho là em sai. Vậy thì em sẽ cùng chàng, chúng ta sẽ để lại những hồi ức đẹp, cho dù hai tháng sau em...”.
Người chợt nhẹ bẫng, chàng đã bế bổng tôi lên, giọng điềm tĩnh khiến người nghe yên lòng: “Không chỉ có hai tháng, tôi sẽ tìm cách”. Không biết chàng an ủi tôi hay là an ủi chính mình. Ngừng một lát lại tiếp: “Em coi hồi ức là quan trọng, nhưng đối với tôi, hiện tại và tương lai quan trọng hơn quá khứ rất nhiều. Bây giờ em vẫn sống, không có gì tốt đẹp hơn điều này, quan trọng hơn điều này. Tôi sẽ tìm được cách, mặc dù em luôn không chịu tin tôi”.
Tôi phản bác một cách bản năng: “Không phải em không tin chàng”. Vừa nói vậy đã cảm thấy đó là lời nói dối.
Tôi quả thực không tin chàng, nếu tin, một khắc trước đã không trốn chàng. Bởi vì tôi chưa bao giờ nghĩ chàng có thể tìm được cách gì, tôi đành tuân theo số phận. Thực ra ngay đến bây giờ, tôi cũng không tin chàng sẽ tìm được cách gì. Nhưng chàng đã thoát khỏi Hoa Tư mộng, tìm thấy tôi. Chàng không thích tôi lựa chọn cho chàng, cuối cùng lại là chàng lựa chọn cho tôi.
Tôi phấn chấn tinh thần, vòng tay ôm cổ chàng: “Chàng định đưa em đi đâu?”.
Chàng dịu giọng: “Về đi ngủ, em không mệt sao?”.
Tôi lắc đầu, “Em vẫn khỏe, giấc mộng đó rốt cuộc chàng nhớ được bao nhiêu? Có nhớ em nấu ăn cho chàng, còn nữa, chúng ta đến Hình gia ở Dĩnh Xuyên để cầu bảo kiếm. À phải rồi, chàng còn ghen nữa, nhớ không?”.
“... Không nhớ”.
Tôi nghiêm túc nhắc chàng: “Chàng ghen với Quân Vỹ, rõ ràng em trang điểm đẹp như vậy, chàng tưởng đó là vì Quân Vỹ, mới ám chỉ bảo em trang điểm không đẹp”.
“... Không nhớ”.
Tôi càng nghiêm túc nhắc lại: “Thấy em và Quân Vỹ chơi lại trò chơi hồi nhỏ, chàng đã ghen, còn bảo em muốn chơi cũng không nên tìm Quân Vỹ, mà nên...”.
Chàng bất lực ngắt lời tôi: “Thôi, tôi nhớ rồi, em không cần nhắc lại”.
Nhưng tôi không kìm được hưng phấn: “Hơn nữa, chàng đối với em không tốt tí nào, lúc đó chàng lạnh lùng vô cùng, lại còn trách em không biết trân trọng cơ thể được cha mẹ ban cho, em không biết tự trân trọng, làm sao người khác trân trọng, đúng là quá đáng”.
“Được rồi, tôi hơi quá đáng”.
Một mảnh trăng lưỡi liềm đơn độc cuối trời, đêm đã tàn, trời sắp sáng, tiếng côn trùng cuối thu lẫn trong gió, hoa trong vườn bông nở bông tàn. Một chặng đường dài đã qua, tôi hồi tưởng lại những ngày tháng dường như đã rất xa xôi cùng với những ký ức đẹp. Sau lưng là ánh trăng lai láng, không biết nhiều năm sau, chuyện giữa tôi và chàng sử sách sẽ viết thế nào, những ngày hạnh phúc vô ưu, vui tươi đấu khẩu như vậy còn được bao lâu?
 
Phần 4:Trọn đời bình an - Chương 05

Đoạn kếtTừng ngày trôi qua, sức lực cạn dần, sự sống rời đi càng nhanh theo vết nứt mỗi ngày một sâu trên nửa viên giao châu. Trước đây chỉ không có hơi thở, khứu giác, vị giác và cảm giác đau, nhưng gần đây ngay đến xúc giác cũng không còn nhạy nữa.
Tôi không hy vọng sẽ có kỳ tích, nhưng mỗi sáng thức dậy, ý nghĩ đầu tiên luôn là về viên ngọc tàn trong ngực, dường như có thể nhận ra những vết nứt mới nhất, quả là sự giày vò đau khổ.
Tôi không nói với Mộ Ngôn chuyện đó nhưng tôi nghĩ chàng biết rất rõ, chỉ là trước mặt tôi tỏ vẻ cho dù trời sập cũng không sao, cơ hồ chỉ cần có chàng mọi việc đều có thể yên tâm.
“Nếu em làm việc gì đó, bản thân cũng không tin mình có thể làm được thì sao có thể thành công”. Chàng đã nói như vậy từ lâu. Ở bên chàng tôi học được nhiều điều, đây là một trong những điều đó, nhưng có một số việc, không phải cứ tin là có thể làm được.
Nhưng tôi muốn chàng thấy tôi một lòng tin chàng, thấy tôi yên tâm không chút nghi ngờ.
Từ hôm Mộ Ngôn tìm thấy tôi, trong cung bắt đầu xuất hiện rất nhiều pháp sư, tôi biết họ được mời đến làm gì. Mộ Nghi phấn khởi nói với tôi, trong số họ có nhiều pháp sư có pháp lực cao cường trong thuật nhập hồn, tôi hiểu ý cô, nhưng linh hồn người đã bị Hoa Tư dẫn cầm cố tuyệt nhiên không thể ngưng tụ thành ma, điều này Mộ Ngôn cũng biết.
Ngày trước chàng ân cần dặn tôi, cố sống đến lúc chàng tìm ra biện pháp, bây giờ nghĩ lại, khi nói như vậy thực ra chàng đã biết tôi là người chết, cái gọi là tìm ra biện pháp chỉ là cố gắng khôi phục những cảm quan hoặc đã mất hoặc đã suy thoái của tôi.
Nghĩ lại hồi đó còn ôm hy vọng như vậy quả là xa xỉ, hôm ngay, ngay giữ được thân xác nửa sống nửa chết này trên đời cũng trở nên vô vọng.
Phần lớn thời gian, chúng tôi luôn bên nhau như hình với bóng. Chỉ khi chàng bận luận đàm với pháp sư thì không đưa tôi đi cùng, có lẽ nội dung luận đàm duy nhất là chuyện sống chết của tôi.
Nhưng tôi không nghe lời như chàng nghĩ, từng đến ngự thư phòng nghe lén một lần. Cũng không khác nhiều so với nghị sự thông thường, đều là đầu tiên những người tham dự trình bày ý kiến, thông báo kết quả nghiên cứu mới nhất, sau đó tất cả luận bàn, chỉ ra những cái hay cái dở của kết quả đó, tranh luận gay gắt cuối cùng dẫn tới cãi nhau, điều này quả là bất ngờ. Kết quả là có tiếng cốc vỡ, cùng với giọng Mộ Ngôn nhàn nhạt: “Lỡ tay”.
Thư phòng im phăng phắc, giọng chàng trang nghiêm: “Nếu chia tính mạng của ta cho vương hậu, chư vị ai có thể làm được?”.
Sau đó, tôi không muốn đi nghe lén nữa. Ở đời nhiều khi người ta bị tổn thương nặng nề bởi một câu nói, có lúc chúng ta đau lòng không phải bởi câu nói đó quá tàn nhẫn, mà bởi không thể chấp nhận.
Trước đây tôi không cần ngủ, lúc muốn có thể ngủ, không ngủ cũng không sao, bởi viên giao châu có thể hóa giải giấc ngủ, nhưng gần đây ngày càng buồn ngủ, xem ra viên giao châu ngày càng mất công lực.
Mà Mộ Ngôn cũng bắt đầu có bệnh, nửa đêm thường đánh thức tôi, bảo tôi nói mấy câu cho chàng nghe, sau đó mới để tôi ngủ tiếp. Mấy lần như vậy, có lúc đầu óc tôi lơ mơ, nghe giọng chàng run run, rõ ràng chúng tôi đắp một cái chăn dày, nhưng hai tay chàng ôm tôi vẫn lạnh ngắt.
Lúc đầu tôi không biết tại sao, sau hiểu ra, chàng sợ, chàng sợ tôi ngủ mãi, vĩnh viễn thiếp đi. Mỗi ngày mỗi đêm chàng đều sợ nhưng ban ngày không để tôi nhận ra.
Trời đã sang đông, nghe nói cuộc chiến Khương - Triệu ngày càng ác liệt. Lần này Triệu tự dẫn lửa đốt chân, chiến sự lan rộng đến từng hộ thường dân, mặc dù tướng sĩ trên dưới đồng lòng chiến đấu ngoan cường, nhưng rút cục do thực lực chênh lệch, thất bại thê thảm. Khương quốc rõ ràng biết lợi thế, được đà rất có thể đánh thẳng vào kinh đô Triệu. Sự thể đã đến nước này, chắc chắn Mộ Ngôn sẽ ra tay.
Đây quả nhiên là tấm lưới chàng tung ra. Thiên tử ban cho chàng hiệu Hiển Khanh, để chàng phân ưu với ông ta. Lý do xuất binh lần này hoàn toàn danh chính ngôn thuận - “Thay thiên tử điều đình bất hòa giữa chư hầu”. Tham gia cuộc chiến này, về lý mà nói, khắp đông lục ngoài thiên tử cũng chỉ có chàng thích hợp nhất, thiên tử không thể trực tiếp xen vào, trong mắt thiên hạ, chàng là người nên ra tay nhất. Trần quốc mặc dù dân phong cởi mở, nhưng cũng như Vệ quốc, nữ nhân vẫn không được tham dự triều chính.
Nhưng lúc nằm trên gi.ường, Mộ Ngôn thường đem những chuyện đó kể cho tôi nghe trước khi ngủ, giống như ru ngủ. Chàng thích coi tôi là trẻ con, trước đây tôi không biết đó là cách chàng yêu một người. Cục thế đã sắp kết thúc, điều duy nhất khiến tôi hiếu kỳ là tông tích quân cờ ban đầu của cục thế này - Tần Tử Yên, bởi vấn đề quả thật khó suy đoán, cho dù nghe chàng kể rất nhiều, vẫn không thể lần ra manh mối. Đem khúc mắc hỏi Mộ Ngôn, nhưng chàng chỉ đáp gọn một câu: “Nếu còn sống có lẽ cô ta đang ở nước Triệu”.
Tôi vẫn băn khoăn, chàng giải thích: “Lần bí mật liên minh với Triệu, theo em, làm thế nào mới khiến Triệu vương hoàn toàn tin Khương giá họa cho Triệu?”.
Tôi không hề suy nghĩ: “Dựa vào tài diễn kịch của chàng!”.
Chàng tỏ vẻ không muốn tiếp tục câu chuyện: “... Chúng ta ngủ thôi”. Bị tôi bám riết mới hà tiện tiết lộ hai chữ: “Nhân chứng”, Tần Tử Yên là nhân chứng, đó chính là nguyên cớ chàng luôn tìm cô ta, cũng là nguyên do tại sao cuối cùng cô ta ở lại Triệu quốc.
Nằm gọn trong lòng chàng, bàn luận với chàng đại sự của thiên hạ như bàn chuyện trong nhà, nếu tôi có thể sống với chàng đến bạc đầu, chúng tôi suốt đời sẽ như vậy, tôi có thể làm một người vợ tốt của chàng.
Trước đây tôi luôn mơ ước một ngày có thể trở thành chỗ dựa của chàng, khi chàng cần đưa ra một phán quyết sáng suốt nào đó, tôi sẽ cùng chàng luận bàn cân nhắc với tầm nhìn đủ rộng, nếu có thể sống lâu và nỗ lực một chút, tôi nghĩ tôi cũng có thể làm được. Nhưng mỗi lần nghĩ tới chuyện đó, sâu trong lòng lại có tiếng nói lặng lẽ nhắc tôi, có nhìn thấy bóng đen sau lưng không? Bóng đen của chia ly và tử thần?
Tháng mười một, sau mấy trận sương mù, ngoài thành hoa mai nở rộ. Tôi mong thời gian trôi thật chậm, không nghĩ nhiều đến chuyện chia ly, vẻ mệt mỏi trong mắt chàng ngày một tăng, chàng tưởng rằng đã giấu được tôi, tôi cũng giả bộ không biết.
Nhưng không biết có phải tuyệt cảnh dễ nảy phùng sinh, chính vào lúc khó khăn lắm tôi mới từ bỏ tất cả những ước vọng không hiện thực, vị pháp sư mới được mời đến lại mang đến một tin tốt lành mong đợi bao lâu: Thế gian có lẽ vẫn còn một viên giao châu khác được phong ấn Hoa Tư dẫn.
Theo lý luận của ông ta, thế gian thường không có độc vật, vạn vật vạn sự đều coi trọng tương sinh, đây là quy luật của tạo vật ngay từ thượng cổ xa xưa, bất luận Hoa Tư dẫn là bị siêu lực tự nhiên phong ấn hay bị con người phong ấn đều không trái nguyên tắc này, vậy thì ở Cửu Châu nhất định còn tồn tại một viên di ngọc lưu lạc đâu đó.
Nhưng thế nhân đa phần không biết sức mạnh siêu nhiên của nó, có thể nó bị phủ bụi từ lâu, hoặc chỉ được coi là món đồ thông thường.
Tôi không muốn nói đó là do ông trời có mắt, bởi không biết đây có phải là một trò đùa khác của số phận. Nói một cách có trách nhiệm thì số phận rất thích đùa tôi. Nhưng bất luận thế nào, Mộ Ngôn đã bắt đầu tìm tông tích viên ngọc huyền bí đó ở khắp Cửu Châu, cho dù không biết thực sự có tồn tại viên ngọc đó không.
Xem ra đời tôi vận may vẫn chưa hết.
Bảy ngày sau, Quân sư phụ đến Trần cung thăm tôi lại mang đến một tin, đó là trong tế miếu của Khương quốc đang thờ một viên minh châu, tương truyền là báu vật từ thời thượng cổ, viên minh châu đó cũng đúng là viên giao châu.
Ngày mười hai tháng mười một, Trần quốc xuất binh vây Khương cứu Triệu, lần này Mộ Ngôn thân chinh xuất trận, tôi biết ý chàng ở đâu.
Đêm trước hôm xuất binh, dưới ánh nến hồng, chàng vẽ một bông mai trắng trên trán tôi. Trong chiếc gương đồng, bông hoa mai ở góc trán như mọc ra từ tóc, e ấp và diễm lệ. Tôi không biết dụng ý của chàng là gì, rất lâu sau nghe chàng nói: “Vốn định vẽ lông mày cho em, nhưng lông mày của em thanh như nét vẽ, không cần tô điểm cũng đẹp”.
Thì ra là vậy, mặc dù chàng không thích tôi quá coi trọng hồi ức, nhưng đó là cử chỉ âu yếm vợ chồng, chàng cũng muốn lưu lại một hồi ức đẹp.
Chàng chống tay vào má, mắt cười cười nhìn tôi: “Đẹp không?”.
Tôi gật đầu, lại muốn trêu chàng: “Đẹp, một bông mai lúng liếng, khiến quân vương không thể dự buổi chầu sớm”. Thấy chàng ngước mi, mắt nheo nheo, tôi vội lùi vào góc gi.ường: “Em đùa đấy, chàng, chàng chàng đừng lại gần”.
Chàng dịch đến: “Lại gần thì sao?”.
Tôi tiếp tục lùi sâu vào trong: “Vậy chàng phải hứa không làm chuyện quá đáng”.
Chàng cười: “Em thấy có thể không?”.
“...”.
Hôm sau Mộ Ngôn xuất chinh, đó là một ngày đông lạnh hanh khô, tôi đứng trên thành lầu nhìn chàng, nhưng không tiễn chàng ra cổng thành. Chàng đã hứa sẽ nhanh chóng trở về, vậy đây không phải là một cuộc chia ly.
Hoặc là nếu tôi từ bỏ thế gian trước khi chàng trở về thì cũng sẽ gắng đi tìm chàng. Thư mỗi ngày như hồng nhạn bay đến, đều là bút tích của chàng, vậy là chàng vẫn bình an. Thể lực tôi yếu dần, gần đây nhận ra thính giác cũng giảm sút. Hôm báo tin chiến thắng chính là ngày Hạo thành có trận tuyết đầu tiên kể từ khi vào đông, tuyết đầu mùa như cánh hoa mai bay lả tả trên bầu trời Hạo thành, rơi xuống tay hơi lành lạnh.
Ngày hai mươi bảy tháng mười một, một ngày đông buốt giá, tuyết rơi rất dày, tôi ăn vận thật ấm đứng trên tường thành, chờ đợi Mộ Ngôn khải hoàn trở về. Trên trán vẫn còn bông mai trắng chàng vẽ trước đêm xuất trận, dưới lớp áo choàng lông chồn nặng trịch là chiếc váy màu lam lóng lánh dài bảy thước.
Dưới chân tường thành cao vút, quần thần trang nghiêm đứng thành hai hàng trên con đường lát đá xanh, phía xa bạt ngàn mai trắng nở rộ trong tuyết, tưởng tượng cũng thấy trong không gian tràn ngập hương mai lạnh.
Chấp Túc đứng bên đỡ tôi, không ngừng thuyết phục tôi quay về: “Thánh giá của bệ hạ phải đến giờ Mùi mới đến thành ngoại, bây giờ mới là giờ Tỵ, tuyết lại rơi dày thế này...”.
Tôi lắc đầu: “Chàng sẽ sớm trở về”.
Chấp Túc không tin. Nhưng cũng không biết làm gì.
Cuối giờ Tỵ, tiếng vó ngựa phi gấp cùng với tiếng quân hành rầm rập từ xa truyền đến, tôi mỉm cười khẽ hỏi Chấp Túc: “Nghe thấy chưa?”.
Chấp Túc chưa kịp trả lời đã nghe thấy tiếng vó ngựa gấp gáp gõ trên mặt đường đá. Khoảng không giữa trời và đất lúc này tựa hồ không có âm thanh nào khác, chỉ có tiếng vó ngựa rõ dần gõ vào lòng tôi, hình bóng quen thuộc xuất hiện trong tầm mắt tôi. Tôi đẩy Chấp Túc ra, nâng váy chạy xuống thành lầu. Chiếc váy dài quét đất phấp phới trong gió, tôi nhìn chàng nhảy xuống ngựa, từ xa giang rộng hai tay bước về phía tôi. Thời khắc đó, cơ hồ có muôn ngàn tia sáng thấu qua tầng mây xám, những bông hoa tuyết như lông ngỗng lơ lửng biến thành những mẩu băng trong suốt long lanh. Tôi lao vào vòng tay chàng, ngón tay sượt qua chiến giáp lạnh ngắt, bất giác rùng mình, nhưng nhìn đôi mắt đẹp nhuốm phong sương tươi cười đó lại thấy yên tâm, tôi soi bóng mình trong mắt chàng.
Tôi muốn vuốt ve mặt chàng, cuối cùng chỉ dừng lại trên hàng lông mày: “Em biết nấu cháo yến sào, về nhà sẽ nấu cho chàng ăn”.
Khóe miệng khẽ nhếch, chàng cầm tay tôi áp lên má mình: “Có thể ăn được thật sao?”.
Hết
Đường Thất Công Tử
 
Phần 5 - Ngoại truyện: Khúc chia ly“Suốt nửa đời ta mải mê tìm kiếm, ngu muội vô tình làm mất báu vật trong tay. Nguyệt nương hỡi, ta nguyện dùng nửa đời còn lại, phổ khúc này mãi mãi nhớ về em”.
Chàng lại nghe thấy tiếng cô, dịu nhẹ nhưng quyết liệt vang bên tai: “Giết tôi đi, Dung Tầm, giết tôi đi, tôi sẽ được tự do”. Sau đó là tiếng thở dài, giống như ngọn lửa âm ỉ dưới lớp băng, ngấm ngầm thiêu đốt tâm can.
Chàng ôm ngực, đau đớn. Cùng một giấc mơ, mơ mãi bao lần, lần nào cũng đau.
Có những người đã chỉ cho chàng cách tránh cơn ác mộng, nhưng chàng không làm theo, bởi đây là cách duy nhất có thể lại được nhìn thấy cô. Trong suốt ba năm tưởng là cô đã chết, chưa bao giờ chàng chiêm bao thấy cô, còn hôm nay, cô vận hỉ bào đỏ chói biệt tăm ba tháng, khi chàng tin cô vẫn còn sống trên đời, thì đêm đêm cô lại đi vào giấc mơ của chàng.
Kỳ thực, chàng đã nghĩ đến khả năng đó, nhưng không muốn tin. Nếu cô quả thực không còn trên đời, hồn phách cô đêm đêm sẽ quay về, cho dù giày vò chàng, chàng cũng được nhìn thấy cô, chứ không phải chỉ có những âm thanh hư vô bé nhỏ.
Mỗi mộng cảnh về cô, đều không nhìn thấy bóng cô, đó là lý do chàng dùng để thuyết phục bản thân cô vẫn còn sống. Thuyết phục bản thân tin rằng, những giấc mơ không lành đó chỉ là do chàng quá nhớ nhung, chứ không phải là có chuyện gì chẳng lành xảy ra.
Nhưng đêm nay lại khác.
Trong giấc chiêm bao khiến chàng nghẹt thở đêm nay, chàng lại nghe thấy âm thanh đó, vốn tưởng vẫn như bao đêm trước, nỗi đau đớn sẽ khiến chàng sực tỉnh, nhưng lần này không hiểu sao chàng không thể nào tỉnh lại.
Chàng nhìn bàn tay mình, một vết đao dài, đường sinh mệnh bị cắt ngang, đường nhân duyên mờ mờ hiện ra một vết sâu.
Một đóa hoa không biết từ đâu bay đến rơi trên lòng bàn tay, sau đám mây mù vẳng ra tiếng hát: “Tuyết trắng rơi trên núi, trăng thanh treo giữa trời, hay tin chàng đã thay lòng, thiếp ôm sầu gạt lệ ra đi...”.
Chàng ngẩng đầu, nhìn thấy vô vàn đóa hoa trắng từ trên trời rơi xuống như mưa. Trong màn mưa hoa đó, một bóng áo tím từ từ đi đến, cánh tay khoác một dải sa hồng, bờ vai mảnh, đôi mắt huyền như nhung, môi đỏ thắm. Phía xa xa hoa vẫn rơi không ngớt, từng cánh, từng cánh đẹp như hạt chu sa, chớp mắt cô đã ở bên chàng.
Chàng biết đó là mộng, nhưng không kìm được giơ tay định ôm cô vào lòng, nhưng cô lại như không nhìn thấy, chàng kinh ngạc nhìn quanh, cô đã biến mất.
Hoa dưới chân như tấm thảm đỏ, phía xa màn đêm đen thẫm, cô đi đến đâu, trên không lóe sáng đến đó. Cuối cùng chàng nhìn thấy điểm cuối con đường, ba chữ vàng Điện Chiêu Ninh lóng lánh dưới ánh đèn mờ trong đêm, hai cây anh đào trước cửa điện hoa nở đầy cành, sắc đỏ như lửa, cánh cửa lớn đỏ thẫm từ từ mở ra, bên trong rực rỡ ánh đèn lồng và những chữ hỉ đỏ chói.
Chàng nghĩ có lẽ đó là cảnh hôn lễ của cô và Dung Viên. Lúc đó chàng không biết cô quan trọng thế nào đối với chàng, cúi đầu trao cô vào tay người đàn ông khác, cảm giác day dứt dằn vặt tựa như đau khổ đó, chàng tưởng chỉ là do mình chưa quen.
Tình với Oanh Ca thật khó nói, cô là thanh đao do chính tay chàng đúc ra, là người thân thiết nhất của chàng. Không có ai có thể như cô, tất cả đều do chàng chỉ dẫn, dìu dắt từng bước, từng bước, lớn lên trở thành người như chàng mong muốn.
Nhìn vẻ ngây thơ và những nét con gái của cô mất dần từng ngày, từng ngày trở thành sát thủ máu lạnh vô tình, có lúc chàng cũng luyến tiếc vẻ nhút nhát đơn thuần của cô ngày trước, nhưng nếu phải lựa chọn, chàng vẫn muốn cô trở thành thanh đao tốt nhất của Dung gia, là tác phẩm hài lòng nhất của mình.
Tình của cô chàng không phải không biết, nhưng chàng không thể yêu cô, người chăn gối có thể rất nhiều, nhưng thanh đao tốt nhất của Dung gia chỉ có một, thanh đao này không dễ đúc, chàng không thể tùy tiện ném đi.
Chàng tự nhủ, lần sau, nếu lần sau cô lao vào lòng chàng, chàng nhất định sẽ đẩy cô ra. Chàng không nghĩ mình là người thiếu ý chí, nhưng khi cô giang tay ôm cổ chàng, mùi hương ngọt ngào trinh trắng dưới trăng khiến chàng không thể chối từ, chàng lại nhủ, lần sau, lần sau...
Cẩm Tước xuất hiện đúng lúc đó. Một khuôn mặt giống hệt cô, mỗi khi cười trông thơ ngây vô hại, giống như cô trước năm mười sáu tuổi, khi chưa trở thành sát thủ, cũng đôi mắt tròn to khi nhìn chàng.
Lần đầu tiên nhìn thấy Cẩm Tước, chàng thở phào trước những dằn vặt bấy lâu trong lòng. Có những thứ con người ta có thể yêu, có những thứ không thể yêu, chàng nhìn Cẩm Tước cau mày đứng bên khóm hoa tử dương, tự bảo mình đây là một cô gái ngây thơ an toàn, có thể yêu. Lúc đó chàng không nghĩ, chàng đã quen nhìn bao nhiêu cô gái ngây thơ an toàn, tại sao chỉ có Cẩm Tước chàng thấy có thể yêu.
Oanh Ca không hiểu, tưởng là chàng thật lòng yêu Cẩm Tước, ngay bản thân chàng cũng tưởng thế. Đây là một cuộc chuyển dời triệt để nhất, mọi tình cảm với Oanh Ca chàng dồn cho Cẩm Tước, sau đó hết lần này đến lần khác tự nói với mình, cô gái này mới là người mình thật lòng yêu.
Nhưng nhìn thấy nụ cười nửa thật nửa giả của Oanh Ca, lòng chàng ngày càng bấn loạn. Chàng luôn bắt gặp nỗi bi thương thoáng trong mắt cô, ánh mắt đó cứa vào tim chàng, ám ảnh giấc ngủ đêm đêm của chàng, gạt hình ảnh một người ra khỏi thế giới của mình khó khăn vậy sao?
Trước giờ chàng vẫn tin mình có trái tim cứng rắn. Người chàng yêu, người chàng muốn cưới là Cẩm Tước, đó là cô gái khác hẳn Oanh Ca. Nụ cười của Oanh Ca quá giả, tính khí quá quật cường, lòng dạ quá độc ác, thủ đoạn quá tàn nhẫn, chàng ép mình ngày ngày chỉ nhìn thấy những cái xấu của cô, sự ám thị ngày này qua ngày khác khiến chàng ngày càng ghét dáng vẻ cầm đao của cô.
Mãi đến một ngày, chính tay chàng đưa cô vào cung, đưa vào tay người đàn ông khác. Trước đây chàng kìm nén tình cảm của mình như vậy là do chàng coi trọng giá trị của cô với tư cách là thanh đao tốt nhất của Dung gia, nhưng thời gian lâu dần, sau bao nhiêu sự biến, chàng đã hoàn toàn quên, thanh đao tốt nhất của Dung gia không phải sinh ra để vào cung.
Chàng tưởng mình sẽ càng trân trọng Cẩm Tước, nhưng không nhớ buổi đầu tiên vì sao chàng để Cẩm Tước lọt vào mắt xanh.
Ngày chàng tỉnh ngộ là trước hôm hôn lễ với Cẩm Tước.
Hôm đó chàng đến Thanh Trì cư thăm Cẩm Tước, thấy cô đang ngắm những mảnh gốm vỡ, sáng bóng trên tay. Nghe tiếng chân chàng, cô chầm chậm ngẩng đầu, khuôn mặt giống hệt Oanh Ca trắng như tờ giấy, khóe mắt đỏ hoe.
Chàng đi đến gần, những ngón tay Cẩm Tước có vài vết rách do mảnh gốm cứa vào. Chàng hốt hoảng định lên tiếng, cô lại cười đau khổ, đưa cho chàng mảnh gốm dày nhất, có lẽ vốn là đế cốc: “Đây là quà sinh nhật chị tặng chàng”.
Nói xong đẩy cửa đi ra. Chàng sững người, cúi đầu, mắt nhìn vào đế cốc, là một hình tròn vẫn nhìn rõ những chữ khắc trên đó.
Tên chàng và ngày sinh. Bàn tay chàng run run giơ ra, chạm vào hàng chữ đó. Sinh nhật lần thứ hai mươi tư của chàng, chàng vẫn nhớ hôm đó cô vượt đường trường ngàn dặm từ nước Triệu trở về, đến trước thư phòng lại nhìn thấy chàng đang ôm Cẩm Tước, lúc đó cô dừng lại, chiếc bọc nhỏ màu đen trên tay rơi xuống đất... mỗi chi tiết chàng đều nhớ rõ.
Những chuyện trước đây không nghĩ, cũng không muốn nghĩ lại hiện lên trong đầu. Ký ức về cô bất luận đã cố phủ nhận chàng đều nhớ rõ, rõ đến giằng xé tâm can, cho nên chàng mới không muốn nhớ.
Nhưng ngước mắt nhìn Thanh Trì cư, nơi ngày trước cô ở, chiếc bàn chân thú bên cạnh giá nến là chỗ cô để đao, chiếc ghế bằng gỗ hoa lê trước bàn là chỗ cô thường ngồi đọc sách, chiếc gi.ường sau bức bình phong quý phi là chỗ cô nằm, đâu đâu cũng có bóng hình cô.
Nhưng hôm nay, cô không còn nữa.
Chàng chưa bao giờ nghĩ, đối với chàng cô rốt cuộc là gì, trong một khắc đột nhiên bàng hoàng vỡ lẽ. Có lẽ từ khi chàng nhặt được cô, nuôi cô đến năm mười sáu tuổi, cô đã trở thành một phần của cơ thể chàng, giống như chân, tay chàng, khi cô ở bên, chàng không cảm thấy gì, khi cô rời đi, chàng, mới bỗng nhiên cảm thấy như bị chặt mất cánh tay.
Chàng nắm chặt những mảnh gốm vỡ, cạnh sắc của chúng cứa rách tay chàng, lòng bàn tay nhòe nhoẹt máu, tựa như điểm những bông mai đỏ. Chàng gục lên tay ghế ngày trước cô vẫn ngồi, như không còn sức lực. Nơi đây sẽ không còn bóng dáng cô, tiếng cười hơi lạnh dễ thương của cô, và cả ánh mắt cô đăm đắm nhìn chàng. Tất cả đều không còn.
Bây giờ trong giấc chiêm bao hoang đường, cô lướt trên thảm hoa đỏ, đi về phía điện Chiêu Ninh, không thèm ban cho chàng dù chỉ một ánh mắt, chàng muốn mở miệng, muốn gọi cô, thậm chỉ muốn đuổi theo cô, nhưng cổ họng như bị chẹn cứng, không thể nào cất tiếng.
Bóng Dung Viên vận thường y đứng trước cửa điện, chàng nhìn thấy cô hai tay nâng váy chạy vút về phía Dung Viên, chiếc khăn sa màu tím tuột khỏi cánh tay, bị gió cuốn đi, đèn trong cung tắt dần từng ngọn, hai người ôm chặt nhau trong sắc anh đào đỏ chói. Màu đỏ của đèn lồng, của những chữ hỉ như chích vào mắt chàng, chàng nhắm mắt thật chặt, bên tai có tiếng ai khẽ gọi: “Bệ hạ, bệ hạ!”.
Chàng tỉnh mộng, bên ngoài cung điện, một vầng trăng lạnh, cung nữ thắp thêm nến, một ngọn nến đơn độc trước long sàng in bóng chàng lên bức bình phong. Trong tòa điện vắng, bên dưới là long sàng Dung Viên từng nằm, chàng dựa chồng gối cao, ý nghĩ vừa thoáng qua cứ bám riết trong đầu, chiếc gi.ường này có phải là nơi họ từng ôm nhau như chàng nhìn thấy trong mơ.
Nỗi đau quen thuộc và cơn hận xoáy vào tim, suốt năm năm qua chúng không ngừng vò xé tâm can chàng, nhưng tất cả đều do chàng gây ra, hối hận ngàn vạn lần cũng không lấy lại được, sự quyết liệt của cô chàng hiểu nhất.
Không còn lý do gì để tự lừa dối mình hơn nữa, ba tháng trước, khi chàng đến tế đàn mang Oanh Ca đi, cô gái đeo mặt nạ đó nói với chàng, nếu Oanh Ca tỉnh lại, việc đầu tiên cô ấy làm là chết theo Cảnh hầu vương. Hai tay ôm đầu, chàng khẽ cười một tiếng: “Nguyệt nương, quả thực nàng không còn nữa”. Nước mắt chàng thấm ướt một mảng chăn.
Canh tư, có tiếng đàn âm thầm vọng ra từ cung điện vắng, ngày hôm sau, Bình hầu vương chuyển khỏi điện Thanh Lương, một chiếc khóa lớn khóa chặt cửa điện. Suốt những năm Bình hầu vương tại thế, điện Thanh Lương nơi ngự của các đời Trịnh vương cũng không bao giờ mở cửa, nghe đồn Bình hầu vương lưu lại chỗ ở cho cố nhân, nếu hồn phách cố nhân ban đêm có về không đến nỗi không tìm thấy nơi nương náu.
 
Quay lại
Top