Fukuzawa Yukichi: Khuyến học

ngominhquynh

If you rest, you rust
Thành viên thân thiết
Tham gia
5/10/2013
Bài viết
1.764
scan0005.jpg

Lời giới thiệu: Cuốn sách mà các bạn đang cầm trên tay là cuốn Khuyến học, được ông (Fukuzawa Yukichi) viết trong thời gian 1872-1876. Đây không phải là tác phẩm đồ sộ và sâu sắc nhất của ông, nhưng lại là tác phẩm có ảnh hưởng sâu rộng nhất đến công chúng Nhật Bản. Khi mới được in lần đầu, cuốn sách này có một số lượng ấn bản kỷ lục là 3,4 triệu bản, trong khi dân số Nhật Bản thời đó chỉ khoảng 35 triệu người. Chỉ riêng điều đó đã cho thấy đây thực sự là cuốn sách gối đầu gi.ường của người dân Nhật trong thời kỳ Duy Tân. Và kể từ đó đến nay, cuốn sách này đã được tái bản liên tục, chỉ tính từ năm 1942 đến năm 2000, riêng nhà xuất bản Iwanami Bunko đã tái bản đến 76 lần.

Trong cuốn sách này, Fukuzawa Yukichi đề cập đến tinh thần cơ bản của con người và mục đích thực thụ của học vấn. Với các chương viết về sự bình đẳng, quyền con người, ý nghĩa của nền học vấn mới, trách nhiệm của nhân dân và chính phủ trong một quốc gia pháp trị... cuốn Khuyến học đã làm lay chuyển tâm lý người dân Nhật Bản dưới thời Minh Trị. Với tuyên ngôn "Trời không tạo ra người đứng trên người và cũng không tạo ra người đứng dưới người", Fukuzawa Yukichi đã gây kinh ngạc và bàng hoàng – như "không tin vào tai mình" – cho đa số người dân Nhật Bản vốn bị trói buộc bởi đẳng cấp, thân phận, quen phục tùng, phó mặc và e sợ quan quyền suốt hàng trăm năm dưới chính thể phong kiến Mạc phủ. Ông khẳng định mọi người sinh ra đều bình đẳng và nếu có khác biệt là do trình độ học vấn. Về học vấn, Fukuzawa Yukichi phê phán lối học "từ chương" và nhấn mạnh Nhật Bản phải xây dựng nền học vấn dựa trên "thực học". Nền học vấn thực học phải gắn liền với cuộc sống hàng ngày, phải dựa trên tinh thần khoa học, tinh thần độc lập, tính thực dụng. Việc tiếp thu văn minh phương Tây phải có chọn lọc. Và quan điểm xuyên suốt cuốn sách là "Làm thế nào để bảo vệ nền độc lập Nhật Bản" trong bối cảnh các cường quốc phương Tây đang muốn biến toàn bộ Châu Á thành thuộc địa.

Với độc giả Việt Nam hiện nay, nhiều tư tưởng của Fukuzawa Yukichi trong Khuyến học có lẽ không còn là điều mới mẻ gây chấn động lòng người như đối với người dân Nhật Bản ở thời Minh Trị. Tuy nhiên, cách đặt vấn đề của ông thì vẫn còn nguyên ý nghĩa thời sự đối với những quốc gia đang trên con đường hiện đại hóa. Ngoài ra, cuốn "Cẩm nang" của người Nhật này cũng sẽ giúp độc giả Việt Nam hiểu rõ hơn những đặc điểm về tính cách và tinh thần của người Nhật Bản hiện đại, những người từ thân phân nông nô "ăn nhờ ở đậu", nhờ có sự khai sáng của những con người như Fukuzawa Yukichi mà đã trở thành "quốc dân" của một đất nước Nhật Bản hiện đại và văn minh ngày nay.

nguồn :https://khaisang.blogspot.com/2013/02/fukuzawa-yukichi-khuyen-hoc_8.html
 
PHẦN I. TRỜI KHÔNG TẠO RA NGƯỜI ĐỨNG TRÊN NGƯỜI

Mọi người sinh ra đều bình đẳng, nếu có khác biệt chỉ là do học vấn:

Người ta thường nói: “Trời không tạo ra người đứng trên người và cũng không tạo ra người đứng dưới người.”. Kể từ khi tạo hóa làm ra con người thì tất cả sinh ra đều bình đẳng, mọi người đều có tư cách, có địa vị như nhau, không phân biệt đẳng cấp trên dưới, giàu nghèo.

Loài người – chúa tể của muôn vật – bằng hoạt động trí óc và hoạt động chân tay mà biến mọi thứ có trên thế gian thành vật có ích cho bản than mình. Nhờ thế mà thỏa mãn được nhu cầu ăn, mặc, ở, sống tự do theo ý muốn và không làm phiền, làm cản trở cuộc sống của đồng loại. Con người có thế sống yên ổn, vui vẻ trên thế gian. Đó là ý trời, là niềm hy vọng của Trời đối với con người.

Vậỵ mà nhìn rộng ra khắp xã hội, cuộc sống con người luôn có những khoảng cách một trời một vực. Đó là khoảng cách giữa người thong minh và kẻ đần độn; giữa người giàu và người nghèo; giữa tầng lớp quý tộc và tầng lớp hạ đặng.

Như thế là tại làm sao? Nguyên nhân thực ra rất rõ ràng.

Cuốn sách dạy tu than “Thực ngữ giáo” có câu: “Kẻ vô học là người không có tri thức, kẻ vô tri thức là người ngu dốt”. Câu nói trên cũng có thể hiểu: Sự khác nhau giữa người thông minh và kẻ đần độn là ở chỗ có học hay vô học mà thôi.

Trên thế gian có cả việc khó lẫn việc dễ. Người làm việc khó được coi là người quan trọng. Người làm việc dễ thường có địa vị thấp, bị coi thường. Công việc cần sự khổ nhọc về tinh thần được xem là việc khó, còn lao động chân tay là việc dễ. Vì thế, học giả, quan chức chính phủ, giám đốc các công ty lớn, chủ trang trại sử dụng nhiều nhân công là những người có địa vị cao, quan trọng. Và một khi đã là những người có địa vị, quan trọng thì đương nhiên gia đình học cũng giàu sang sung túc đến mức tầng lớp hạ đẳng nằm mơ cũng không được. Tuy vậy, nếu suy nghĩ kỹ lưỡng gốc rễ của vấn đề thì chỉ có một nguyên nhân. Đó là chẳng qua do có chịu khó học hay không mà thôi, chứ có người nào được trời phú cho đâu. Ngạn ngữ có câu: “Trời không ban cho con người phú quý. Chính con người tạo ra giàu sang phú quý”. Có nghĩa là trời nhìn vào kết quả hoạt động, lao động của con người để ban thưởng.

Như tôi đã đề cập: Ở con người vốn dĩ không có chênh lệch sang hèn, giàu nghèo. Vì thế, có thể nói rằng: người chịu khó học, hiểu biết nhiều sẽ trở thành người quan trọng, sống sung túc; người vô học sẽ trở thành con người thấp kém, nghèo khổ.

Những môn học thiết thực cho cuộc sống:

Học vấn là gì? Đó không phải là học chỉ cốt để hiểu câu khó, chữ khó; càng không phải là việc học chỉ để giải nghĩa văn cổ, đọc thơ, vịnh thơ. Học như vậy không có ích gì cho cuộc sống cả.

Đọc các tác phẩm văn học cũng là để động viên an ủi lòng người, như thế chẳng phải là môn học có ích cho cuộc sống đó sao? Nhưng tôi không nghĩ rằng văn học là môn học quan trọng đến mực “phải thờ phụng nó” như các thầy dạy Hán văn, Cổ văn thường nhấn mạnh. Trong cuộc sống, tôi hầu như không thấy thầy dạy hán văn nào có được tài sản đáng kể, cũng như các thương gia vừa giỏi thơ phú vừa thành công trong kinh doanh lại càng hiếm.

Với lối học như hiện nay, chỉ tăng thêm sự lo lắng trong các bậc phụ huynh, nhà nông… những người hết long chăm lo việc học tập của con cái: “Chúng nó cứ học theo kiểu này, chắc có ngày tán gia bại sản mất”. Điều đó là đúng. Vì lối học này không thực tế, không thể áp dụng kết quả học tập vào thực tiễn cuộc sống.

Vậy thì giờ đây chúng ta phải học cái gì và học như thế nào?

Trước hết phải học những môn thực dụng cần thiết cho cuộc sống hang ngày. Ví dụ: phải thuộc long bảng 47 chữ cái Kana. Học cách soạn thảo thư từ, ghi chép trương mục kế toán. Sử dụng thành thạo bàn tính. Nhớ cách cân, đong, đo, đếm. Tiếp đến là phải học các môn như Địa lý để biết được phong thổ Nhật Bản và các nước trên địa cầu. Vật lý là môn học giúp ta phân biệt được tính chất của mọi vật thể trong thiên nhiên, qua đó chúng ta có thế nghiên cứu quá khứ, hiện tại của mọi quốc gia. Học Kinh tế là môn giải đáp cho chúng ta mọi vấn đề liên quan đến việc chi tiêu trong mỗi gia đình cũng như nền tài chính của cả quốc gia. Học môn Đạo đức, môn này giúp ta hiểu về hành vi, hành động của bản than, hiểu cách cư xử, cách giao tiếp, cách sinh hoạt giữa người với người.

Để học các môn này, cần thiết phải đọc tất cả các quyển sách của châu Âu đã được dịch ra tiếng Nhật. Đối với các bạn trẻ có khả năng thì tôi khuyên nên đọc trực tiếp các nguyên bản tiếng Anh, Pháp, Đức. Khi học phải nắm được nội dung chủ yếu của môn học, trên cơ sở đó phải hiểu được phản chất cơ bản của mọi sự vật. Học như vậy mới có ích cho cuộc sống. Đó là “Thực học” mà ai cũng phải học, là học vấn mà hết thảy mọi người đều phải tự trang bị, không phân biệt đẳng cấp, khoảng cách giàu nghèo. Chính việc tự trang bị kiến thức này, từng cá nhân trên cơ sở làm trọn chức trách của mình, sẽ điều hành quản lý tốt gia nghiệp được giao.

Cá nhân có độc lập thì gia đình mới độc lập. Và như thế quốc gia cũng độc lập.

Tự do không phải là chỉ biết có tôi, cho riêng tôi:


Biết đúng vị trí, chỗ đứng của mình là rất quan trọng. Kể từ khi sinh ra, con người không phải chịu sự can thiệp của bất cứ một ai. Nam cũng như nữ đều có quyền tự do sinh sống. Và đúng là con người có quyền tự do, nhưng lúc nào cũng khăng khăng đòi phải được làm theo ý muốn của riêng mình mà không biết rõ vị trí của mình thì sẽ trở nên chỉ biết có mình, cho riêng mình. Như thế là tự mình làm hỏng mình.

Dựa trên đạo lý mà Trời đã định, vị trí của mỗi người là ở chỗ: biết trọng tình người, không làm phiền hay cản trở người khác, biết bảo vệ quyền tự do bản thân.

Tự do bản thân không có nghĩa là muốn làm gì thì làm, khống có nghĩa là làm phiền hoặc cản trở người khác. Ví dụ như có người nói: “Tiền tôi, thích uống rượu tôi uống, thích mua “hoa” tôi mua. Đó là quyền tự do của tôi, chứ động chạm gì tới ai”. Suy nghĩ như vậy là sai. Ham mê tử sắc làm ảnh hưởng tới người khác, lại lôi kéo bạn bè, làm hại nền giáo dục xã hội. Cứ cho tiền tôi tôi xài, nhưng không vì thế mà có thế bỏ qua những hành vi tội lỗi gây ra cho xã hội.

Tự do và độc lập không chỉ liên quan tới từng các nhân mà còn là vấn để của quốc gia nữa.Nhật Bản chúng ta là một quốc đảo nhỏ nằm ở phía Đông châu Á, cách xa đại lục, lâu nay không giao thương với ngoại quốc, bế quan tọa cảng, tự cung tự cấp. Mãi đến thời Gia Vĩnh (1848-1854), khi hạm đội Mỹ kéo đến gây áp lực, Nhật Bản mới bắt đầu mở cửa giao thương với nước ngoài. Thế mà ngay cả khi đã mở cửa, trong nước vẫn chưa hết tranh cãi ồn ào xung quanh việc tiếp tục đóng hay mở cửa, tiếp tục lên án người ngoại quốc là lũ man di mọi rợ… Những cuộc tranh cãi như vậy thật là vô bổ, có khác nào “ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung”.

Thử nghĩ xem, chẳng phải là người Nhật chúng ta cũng như người dân các nước phương tây cùng ở trên một quả đất, hưởng chung ánh mặt trời, ánh trăng, thở cùng một không khí, hưởng cùng một đại dương và đều là con người cả đó sao? Chúng ta thừa sản vật thì chia bớt cho người ta; người ta thừa sản vật thì chia lại cho mình, cùng học hỏi lẫn nhau, không ai tự cao tự đại, không làm nhau hổ thẹn. Dân Nhật ta cũng như dân học đều cùng mong phát triển, cùng mong hạnh phúc đó sao?

Chúng ta phải tận tâm làm hết sức mình trong quan hệ quốc tế sao cho đúng ý Trời, hợp long người. Nếu đúng đạo lý thì cần phải chuộc lỗi với người Phi châu cũng phải làm. Còn để bảo vệ lập trường chính nghĩa thì dù là pháo hạm Anh hay Mỹ, chúng ta cũng không sợ. Khi quốc gia chịu nỗi nhục mất nước thì mọi người dân Nhật, không trừ một ai, đề sẵn sàng xả thân để bảo vệ thanh danh của tổ quốc. Như vậy, đất nước mới tự do, quốc gia mới độc lập.

Thế nhưng trên thế gian này, vẫn có quốc gia tự phong cho mình là trung tâm vũ trụ. Họ nghĩ là ngoài trái đất nước họ ra không có quốc gia nào tồn tại cả. Hễ cứ nhìn thấy người ngoại quốc thì miệt thị như loài thú hoang, gọi họ là man di mọi rợ. Kết cục là quốc gia đó tự chuộc lấy sự căm ghét của nước khác. Đó là kiểu “chỉ biết cái tôi” ở tầm quốc gia, đó là cách ngoại giao khôn biết mình biết người, không nắm rõ ý nghĩa từ Tự do.

Học để dám nói lên chính kiến và thực hiện đầy đủ bổn phận với đất nước

Kể từ khi thiết lập chế độ quân chủ, nền chính trị Nhật Bản đã có những thay đổi mạnh mẽ. Về đối ngoại, chính phủ đã bang giao với ngoại quốc trên cơ sở công pháp quốc tế. vè đối nội, chính phủ đã mang lại tinh thần “tự do, độc lập” cho dân chúng. Người dân chúng ta đã được phép mang đầy đủ họ và tên; được phép cưỡi ngựa. Đó là sự thay đổi to lớn kể từ thủa lập quốc, tạo cơ sở bình đẳng về địa vị giữa các thành phần Võ sĩ, Nông, Công, Thương trong xã hội.

Chế độ đẳng cấp – địa vị của một người được quy định trước cả khi người đó ra đời – đã hoàn toàn bị xóa bỏ

Từ nay trở đi địa vị xã hội của cá nhân sẽ được quyết định tùy theo tài năng, phẩm cách và vai trò của mỗi người. Quan chức chỉnh quyền được bổ nhiệm theo tài năng và nhân cách và là người thực thi luật pháp cho chúng ta. Chúng ta kính trọng họ theo lẽ đó, chứ không phải chúng ta kính trọng chức vụ và thành phần xuất thân của họ. Chúng ta không phải tuân theo con người họ. Chúng ta chỉ tuân thủ luật pháp (quốc pháp) mà họ đang thừa hành.

Dưới thời chính quyền phong kiến mạc phủ, người dân chúng ta luôn phải khiếp sợ, né tránh, cúi rạp mình trước các Tướng quân. Ngay cả lũ ngựa của các Tướng quân cũng làm chúng ta hoảng sợ không dám đi chung đường với chúng; bầy chim cắt dùng nhử mồi khi các tướng quân đi săn bắn, cũng làm ta khiếp đảm, phải cúi lạy phải phủ phục cho đến khi lũ chim bay khuất mới dám ngẩng đầu đứng lên đi tiếp. Người ta đã đã buộc chúng ta phải quen, phải sợ những thứ được coi là “luật lệ”, “tập quán” hà khắc ấy. Giờ đây nghĩ lại ai ai cũng cảm thấy kinh tởm.

Những thứ “laautj lệ”, “tập quán” đặt ra một cách vô cớ đó, không phải là luật pháp hay quốc pháp để chúng ta phải quân thủ. Chúng là những thứ đã cướp đoạt mọi quyền tự do của chúng ta. Chúng là những thứ được đặt ra để gieo rắc nỗi sợ hãi trong chúng ta trước uy quyền của chế độ phong kiến Mạc phủ và nhắm đẻ che đậy bản chất lộng hành, không minh bạch của chính chế độ đó.

Giờ đây, toàn bộ cái chế độ và luật lệ ngu xuẩn ấy đã bị xóa sổ. Vì thế, không lẽ gì chúng ta cứ phải sợ bong sợ vía các cấp chình quyền đó mãi.

Nếu có gì bất mãn với chính quyền hiện tại, chúng ta phải kháng trị, tranh luận một cách đường đường chính chính. Tại sao chúng ta chỉ dám nói xấu, kêu ca sau lưng họ mà không dám chỉ mặt vạch tên?

Những kháng nghị hợp long dân đúng đạo trời dù có phải đổi cả tính mạng ta cũng phải tranh đấu. Đây là bổn phẩn mà mỗi người dân chúng ta phải thực hiện đối với đất nước.

Học để hiểu trách nhiệm của bản thân

Như tôi đã nói ở trên kia, “độc lập và tự do” dựa trên đạo lý của trời đã trở thành nguyên tắc trong từng người cũng như của cả quốc gia chúng ta. Nếu như có kẻ gây phương hại đến nguyên tắc này thì dù có phải biến cả thế giới thành kẻ thù, chúng ta cũng không sợ, huống hồ chúng phải sợ một số quan chức chính phủ lộng quyền?

Giờ đây,cúng ta đã xác lập được tình thần cơ bản: mọi người dân đều bình đẳng, vì thế chúng ta hãy yên tâm phát huy hết mọi khả năng sức lực và trí tuệ của mình.

Mỗi người đều có mỗi bổn phận, do đó phải tự vun đắp tài năng, rèn luyện nhân cách sao cho xứng đáng với bổn phận đó. Để làm được điều này, ai ai cũng phải học chữ, học ngôn ngữ. Có chữ, biết ngôn ngữ sẽ lý giải được mọi đạo lý của sự vật.

Nói đến đây chắc các bạn sẽ hiểu giúp tôi rằng: Học vấn là vấn đề cấp bách biết nhường nào.

Hiện nay, tầng lớp thường dân đã sánh vai ngang hàng với tầng lớp Võ sĩ, cho nên con đường được lựa chọn vào các chức vụ trong chính quyền cũng mở ra cho chúng ta nếu chúng ta có tài.

Chúng ta phải tự giác trước bổn phận của bản thân, không chạy theo những hành động rồ dại, phải cẩn trọng.

Tôi chắc rằng không ai đáng thương hại hơn là những người vô tri thức, những người không hiểu lẽ phải, và cũng không ai khó giao tiếp hơn những người ấy. Vì không có tri thức, không có năng lực tự thức tỉnh nên học căm ghét án giận những người giàu có chính đáng, đôi khi họ tập hợp thành bầu đoàn đi đánh cướp.

Bản thân học được luật pháp bảo vệ, nhưng hễ cứ cảm thấy bất lợi cho mình thì họ lại thản nhiên vi phạm, ngang nhiên phá luật

Lại có không ít người, có được chút ít tài sản, tiền bạc thì chỉ lo tích trữ, cất giấu, không bao giờ suy nghĩ đầu tư cho con cháu học hành. Vì thế con cháu họ chỉ biết ăn chơi, lêu lỏng, dốt nát và cứ thế tiêu pha tàn phá tài sản của ông cha mình.

Đói với những người như vậy, không thế mang đạo lý ra để giảng giải mà chỉ có cách là dùng uy lực đe dọa chứ không có cách nào khác. Ám chỉ điều này, người phương Tây có câu tục ngữ: “Dân ngu tự chuốc lấy chính sách bạo tàn”. Người dân tử tế nghiêm túc thì chính phủ cũng buộc phải tử tế nghiêm túc.

Nước Nhật chung ta có dân, trên dân có chính phủ. Phẩm cách của dân rơi vào vòng ngu tối, vô học thì luật pháp của chính phủ cũng trở nên hà khắc. Nhưng nếu quốc dân có chí học hành, tiếp thu văn minh thì không có cách nào khác, chính phủ cũng sẽ phải quảng đại, nhân đạo.

Luật nước hà khắc hay quảng đại hoàn toàn tùy thuộc vào thái độ, phẩm cách cảu quốc dân.

Có người dân nào lại mong muốn một chế độ chính trị tàn bạo?

Có người dân nào lại mong cho đất nước kém phát triển?

Có người dân nào lại mong cho nước mình bị ngoại bang khinh miệt?

Không và không thế có. Đó là tình con người trong mỗi chúng ta.

Nếu như ai ai cũng một lòng một dạ báo đáp cho Tổ quốc, nơi mình sinh thành thì chúng ta không bao giờ phải lo nghĩ hay bất an đến tương lại, đến tiền đồ của Nhật Bản. Mục đích của chúng ta chỉ có một: giữ gìn hòa bình cho đất nước.

Do vậy, điều quan trọng hơn bất kỳ điều gì khác là mỗi người chúng ta ai ai cũng phải học hành, mở mang tri thức, mài giữ tài năng, nhân cách sao cho xứng với bổn phận của mình.

Ngược lại, chính phủ phải có trách nhiệm soạn thảo và thong báo đến mọi người dân những chính sách dễ hiểu. Mục tiêu duy nhất của chính phủ là phải mang lại cuộc sống ấm no, yên ổn cho dân.

Những lời về học vấn mà tôi khuyên nhủ các bạn cũng chỉ nhằm tới điều này.

Nhân dịp khai trương trường “Kejo Nghĩa Thục” tại quê tôi, huyện Nakastu tỉnh Oita, tôi chấp bút viết chương này đưa cho bạn bè, đồng hương xem. Nhiều bạn hữu, sau khi đọc xong, nói với tôi rằng: Bài viết này không chỉ cho bạn bè đồng hương tham khảo mà nên gửi tới bạn đọc gần xa nữa, như vậy sẽ có hiệu quả hơn, nên tôi đã cho in thành nhiều bản để các bạn cũng đọc.

Tháng 2 năm Minh Trị thứ năm (tức năm 1871)

https://khaisang.blogspot.com/2013/08/khuyen-hoc-phan-i-troi-khong-tao-ra.html
 
PHẦN II. NGƯỜI CHỊU THIỆT THÒI NHẤT LÀ NHỮNG KẺ VÔ HỌC:


Không thế có miếng ăn ngon nếu chỉ là cái “Tủ kiến thức”:

Từ học vấn có nghĩa rất rộng, vừa trừ tượng vừa cụ thể. Tính trừu tượng (vô hình) trong học vấn thể hiện qua các môn Đạo đức, Thần học, Triết học… Còn như các môn như Thiên văn học, Địa lý học, Hóa học.. là học vấn mang tính cụ thể (hữu hình).

Nhưng dù có trừu tượng hay cụ thể thì mục đích của học vấn là làm cho con người mở mang kiến thức, biết quan sát, lắng nghe, lý giải được đạo lý của sự vật, làm cho con người tự giác về trách nhiệm của bản thân.

Để mở mang kiến thức, để quan sát tiếp thu tốt thì phải lắng nghe ý kiến những người xung quanh, phải đào sâu suy nghĩ, phải đọc nhiều. Vì thế, để có học vấn cần phải biết chữ. Nhưng “chỉ vần biết chữ là có học vấn” như người xưa thường nghĩ là sai lầm lớn. “Biết chữ” mới chỉ là công cụ trên con đường học vấn, cũng giống như cái đục, cái cưa – những công cụ không thể thiếu để cất nhà. Nếu chỉ biết gọi đúng tên những thứ đo, không có tư duy, không biết cách đóng bàn, ghế, tủ, gi.ường.. thì không thể gọi là thợ mộc được. Cũng như vậy, người biết chữ không thể gọi là người có học vấn nếu người đó không biết lý giải, không hiểu biết đầy đủ đạo lý của sự vật.

Tục ngữ có câu: “Đọc Luận Ngữ mà không biết luận ngữ” (không biết ý nghĩa của lời lẽ, ngôn từ). Tức dù có nhồi nhét đầy tru thức trong đầu, nhưng không thể ứng dụng vào hành động thực tế thì cũng vô nghĩa.

Dù có thuộc làu làu truyện xưa tích cũ nhưng không biết giá một ký gạo, một mớ rau là bao nhiêu.

Dù có hiểu biết cặn kẽ kinh điển Trung Hoa nhưng không biết làm thương mại, không biết giao dịch làm ăn.

Mất nhiều năm gian khổ đèn sách, tiêu tốn bao nhiêu tiền bạc để học hành, trang bị đủ loại kiến thức Âu Tây, nhưng kiếm miếng ăn chỉ nuôi miệng mình cũng không nổi.

Những người ấy chỉ là “cái tủ kiến thức” suông. Đối với chính miếng cơm của bán thân, đối với lợi ích của đất nước, đối với nền kinh tế của quốc gia, học hoàn toàn vô dụng, học chỉ là hạng người “dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm”.

Kiếm kế sinh nhai cũng là học vấn. Lập sổ sách thu chi trong buôn bán cũng là học vấn. Nắm bắt thời cuộc cũng là học vấn. Nếu chỉ đơn thuần đọc nào là sách Tây, sách Tàu, sách Nhật thì không thể coi là có học vấn.

Tựa đề của cuốn sách này là Khuyến học, nhưng không có nghĩa là tôi khuyên các bạn chủ có đọc sách.

Đề cập tơi tinh thần cơ bản của con người, đề cập tới mục đích thực thụ của học vấn là chủ đích chính mà tôi muốn nói với các bạn.

Tại sao không triệt để vận dụng “bình đẳng”?

Những dòng đầu tiên trong phần một, tôi đã nói tơi vấn đề bình đẳng giữa người và người. Kể từ khi dược sinh ra, ai ai cũng được quyền tự do sinh sống, không phân biệt trên dưới.

Tôi muốn bàn rộng hơn ý nghĩa: “Mọi người đều bình đẳng”.

Con người sinh ra là do ý muốn của Trời, chứ không phải là do ý muốn của con người. Con người vốn cùng một loài, cùng sinh sống ở trong trời đất, vì thế yêu thương nhau, tôn trọng nhau, mình làm trọn bổn phận của mình, người ta làm trọn bổn phận của người ta, không ai cản trở ai. Trong gia đình, an hem hòa thuận, giúp đỡ nhường nhịn nhau cũng do dựa theo đạo lý cơ bản là được sinh ra cùng một nhà, được nuôi dưỡng cùng một cha mẹ.

Mọi “h.am m.uốn” không làm ảnh hưởng tới người khác đều là thiện

Bây giờ hãy mang giá trị của con người ra so sánh thử xem? Chẳng phải là tất cả đều bình đẳng đó sao? Nhưng “bình đẳng” ở đây, không có nghĩa là người nào cũng phải có điều kiện sống ngang nhau. Mà “bình đẳng” ở đây có nghĩa là ai ai cũng đều có quyền lợi ngang nhau, vì chúng ta đều là con người cả.

Nếu nói về điều kiện sống thì có người giàu, người nghèo; kẻ mạnh, kẻ yếu, người thông minh, người đần độn. Có người sinh ra thuộc tầng lớp lãnh chúa, quý tộc, ở trong lâu đài, biệt thự, ăn ngon mặc đẹp, thì cũng có người sinh ra phải đi làm thuê làm mướn, sống trong ngang cùng ngỏ hẻm, hàng ngày chỉ đủ vắt mũi bỏ miệng.

Bằng tài năng, có người trở thành chính khách, thành doanh nhân tầm cỡ có thể xoay chuyển thế gian, thì cũng có người có trí tuệ vừa phải, buôn bán lặt vặt, đến đâu hay đó. Có lựa sĩ, đô vật Sumo lực lưỡng thì cũng có công tử bột, thiếu nữ liễu yếu đào tơ. Mỗi người mỗi vẻ, nhưng quyền lợi cơ bản với tư cách là con người thì ai cũng nư ai, hoàn toàn ngang nhau.

Vậy thì thế nào là quyền lợi của con người? Đó chính là quyền coi trọng sinh mạng, quyền bảo vệ tài sản, quyền tôn trọng nhân cách và danh sự.

Kể từ khi sinh ra con người trên thế giới này, Trời đã truyền cho con người năng lượng thể xác và tinh thần, đã quy định rõ ai cũng có quyền sống. Không kẻ nào được phép xâm phạm quyền lợi đó. Sinh mạng của lãnh chúa cũng quý giá như sinh mạng của người la thuê. Ý hức bảo vệ đống gia tài khổng lồ của các nhà tư bản kếch sù cũng không khác gì ý thức bảo vệ đồng vốn ít ỏi của người buôn bán lặt vặt.

Người xưa có câu: “Trẻ con mà khóc thì ai cũng phải chào thua”. Lại còn có câu: “Cha mẹ có nói sai thù con cái vẫn phải cho là phải. Ông chủ bào gì người làm cũng phải dạ theo”. Ngụ ý là con người không thể có chuyện ngang nhau về quyền lợi. Đấy chính là ví dụ “vơ đũa cả nắm”, ví dụ điển hình cho việc không biết phân biệt đâu là “điều kiện sống”, đâu là “quyền lợi của con người”.

Dân cày có thể khác với địa chủ về điều kiện sống nhưng không khác về quyền lợi.

Giẫm phải gai, người dân kêu đau, không lẽ cũng giẫm phải gai mà địa chủ bảo không đau. Ăn của ngon, chủ đất khen ngon, không lẽ cùng ăn của ngon mà dân làm thuê cuốc mướn lại chê dở.

Đã là con người thì ai cũng muốn ăn ngon mặc đẹp, có nhà cao cửa rộng và chẳng có ai lại muốn khổ cả. Âu cũng là lẽ thường.

Người nắm giữ quyền lực vừa có tiền vừa có thế, người nông dân thì lại vừa nghèo vừa yếu thế. Phải thừa nhận rằng ở trên cõi đời người mạnh người yếu, người giàu người nghèo, có sự khác biệt trong điều kiện sống.

Nhưng việc cậy thế vì có tiền, có quyền, lợi dụng sự hơn kém trong điều kiện sinh hoạt để chèn ép người nghèo yếu, chính là hành vi xâm phạm đến quyền lợi của người khác.

Kẻ yếu có cách của kẻ yếu, họ sẽ tự bổ khuyết cho họ. Không có sự chèn ép nào tệ hạo hơn việc sử dụng quyền thế để ức hiếp những người nghèo yếu.

Học để hiểu “thế nào là làm tròn công việc của mình”


Dưới thời Mạc phủ, giữa tầng lớp Võ sĩ và tầng lớp thường dân có sự phân biệt sâu sắc. Võ sĩ ra sức lộng quyền, coi nông dân và thị dân như những kẻ tội phạm. Chúng còn đặt ra luật “chém trước, xử sau”. Theo luật này, người dân chỉ cần có biểu hiện trái ý Võ sĩ là lập tức bị hành quyết tại chỗ, Tính mạng của dân không khác sâu bọ, cho sống thì được sống, bảo chết là phải chết.

Ngược lại, nông dân và thị dân lúc nào cũng phải cúi lạy, nhường lối tránh chỗ cho Võ sĩ dù chẳng có quan hệ, duyên nợ gì. Ngựa mình nuôi nhưng bị cấm cưỡi. Thật đáng căm giận.

Mối quan hệ giữa Võ sĩ và thường dân là quan hệ giữa cá nhân với cá nhân mà đã bất công đến như vậy, thử hỏi quan hệ giữa chính phủ và nhân dân là quan hệ giữa tập thể và tập thể sẽ như thế nào? Các bạn hãy cùng tôi xem xét.

Có thể nói: Mối quan hệ giữa chính phủ và nhân dân còn tệ hại hơn nhiều. Không chỉ chính quyền trung ương Mạc phủ, mà tại các địa phương, các lãnh chúa đều lập ra chính phủ con trên lãnh địa mình cai quản, mặc sức hà hiếp bóc lột dân chúng, mọi quyền con người của người dân đều không được thừa nhận. Thi thoảng lắm, các lãnh chúa ra vẻ từ bi đưa ra một vài chính sách tử tế (thực ra chỉ khi bị các lãnh chúa vùng khác âm mưu thôn tín lãnh địa của mình thị học mới làm thế), nhưng cũng chỉ nhằm mị dân nhất thời mà thôi.

Quan hệ giữa chính phủ và nhân dân, như tôi đã nói ở trên, chỉ khác nhau ở tình trạng giàu nghèo, mạnh yếu. Còn quyên lợi thì hoàn toàn ngang nhau.

Người nông dân làm ra thóc gạo, nuôi sống con người; người thị dân buôn bán, lưu thông hàng hóa mang lại sự tiện lợi trong cuộc sống. Đó là công việc của bản thân họ.
Mặt khác, chỉnh phủ đặt ra luật lệ, trấn áp kẻ bất lương, bảo vệ dân lành. Đó là công việc phải làm của chính phủ.

Để làm việc này, chính phủ cần nhiều tiền. Nhưng chính phủ lại không tự mình làm ra được lúa gạo, không có tiền nong. Vì thế nông dân và thị dân nộp thuế, nộp thóc, tạo ra nguồn ngân sách cho chính phủ.

Hai phía, dân và chính phủ bàn bạc cùng nhau thỏa thuận về nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi bên như nêu trên. Quan hệ giữa nhân dân và chính phủ là quan hệ như vậy.

Nộp thóc, đóng thuế, sử dụng đúng và công khai nguồn tài chính, bảo vệ dân là nghĩa vụ và trách nhiệm của chính phủ.

Nếu cả hai phía đều thực hiện đúng nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi bên như trên đây thì chẳng có gì để mà nói. Vì hai bên, bên nào bên nấy cũng đều làm đúng bổn phận của mình, chính phủ không làm phiền dân và dân cũng không làm phiền chính phủ.

Không còn cảnh bị cùm chân cùm tay về tinh thần và vật chất.

Trong xã hội Mạc phủ Tokugawa, người ta tôn chính quyền thành “Đấng bề trên”. Mỗi khi “Đấng bề trên” vi hành thì tiền nhà trọ cũng không trả, tiền đò qua song cũng không thanh toán, tiền công người phục dịch cũng không trao, ngược lại còn đòi hỏi các nơi phải chi tiền rượu chè. Thật là hết chỗ nói. Các lãnh chúa, quan chức chính quyền nghĩ ra đủ trò để tiêu xài, họ liền đặt ra đủ loại sắc thuế bắt chẹt dân, buộc dân phải đóng góp. Dân chúng kêu ca, họ ngụy biện rằng đó là sự “đền ơn, báo đáp đất nước”.

Cái mà họ gọi là đên ơn báo đáp đất nước là gì? Chắc là họ muốn nói rằng nhờ có chính quyền này mà dân chúng mới được sống thành bình, yên ổn làm ăn, không phải lo sợ kẻ xấu. Thế nhưng lập ra luật pháp, bảo vệ dân chúng giữ gìn an ninh là công việc, là nghĩa vụ đương nhiên của chính quyền. Không thể coi đó là sự ban ơn, không thể coi đó là long tốt để rồi bắt dân phải hàm ơn hay báo đáp lại chính quyền. Nếu như chính quyền nghĩ như vậy là thì ngược lại người dân sẽ nói rằng: Chính quyền phải hàm ơn dân và báo đáp cho dân mới phải, vì chính quyền sống bằng tiền thuế, tiền thóc lúa cho dân đóng, cớ sao lại có chuyện ngược đời như thế được?

Thực ra bên nào cũng nhận “ơn”của bên kia. Đó là sự có đi, có lại.

Không có đạo lý nào buộc dân phải hàm ơn chính quyền mà chính quyền lại không cần phải hàm ơn dân cả.

Vì sao tập quan xấu này vẫn diễn ra trong cuộc sống hàng ngày? Đó là vì chính quyền miệng nói bình đẳng nhưng không hiểu bình đẳng, lợi dụng chênh lệch giàu nghèo, mạnh yếu, sử dụng quyền lực chèn ép quyền lợi của dân lành.

Đã là con người thì phải thưởng xuyên nhớ rằng: mọi người sinh ra đều bình đẳng về tư cách và quyền lợi. Đây là điều quan trọng nhất. Ở châu Âu, người ta gọi là reci procity, tức là quan hệ có đi có lại, tác động lẫn nhau, lợi ích song phương.

Trong phần một, tôi viết tấc cả mọi người sinh ra đều bình đẳng, có nghĩa cùng có tư cách là như vậy.

Không có gì đáng sợ hơn là ngu dốt

Đoạn trên, đứng trên góc độ của người dân, tôi đã bàn luận về “quyền lợi” theo như sự suy nghĩ của tôi.

Thế nhưng đứng trên góc độ chính quyền để nhìn nhận, trường hợp dùng người thì phải thấy được sự khác nhau ở mỗi người, phải suy xét kỹ khi áp dụng luật pháp.

Người này được coi là nhân dân, người kia được coi là quan chức chính quyền, nhưng đứng ở vị trí nào cũng đề là người Nhật. Và người Nhật phân chia công việc lẫn nhau, lập ra chính phủ đại diện cho nhân dân. Nhân dân và chính phủ thỏa thuận với nhau để chính phủ soạn thảo, ban hành các đạo luật, nhân dân dựa trên các đạo luật đó làm ăn sinh sống.

Hiện nay, người dân của thời Minh Trị đã ký thỏa ước với chính phủ tuân theo các luật pháp hiện hành. Quốc pháp đặt ra có thể không làm hài lòng tất cả mọi cá nhân, nhưng không vì thế mà chúng ta lại hành động tùy tiện, mà hãy kiên nhẫn trong việc sửa đổi nó. Nghĩa vụ của người dâ là thực hiện thật đúng luật, tôn trọng và bảo vệ luật.

Nhưng thử nhìn lại xem , không ít người trong nhân dân dưới thời Minh Trị vô học, mù chữ, cái thiện, cái ác không phân biệt nổi, chỉ biết ăn xong rồi lại ngủ, “vô công rỗi nghề”. Không những thế, thường đã ngu dốt lại hay tham vọng, tìm mọi cách lừa đảo, luồn lách luật pháp, không cần hiểu ý nghĩa của luật pháp, không cần biết đến nghĩa vụ của bản thân, chỉ biết đẻ cho thật nhiều con nhưng lại không hề chăm sóc, dạy dỗ chúng.

Những kẻ ngu dốt đó không biết xấu hổ và con cái của họ khi lớn lên cũng chẳng có ích gì cho đất nước, trái lại chỉ là gánh nặng, nỗi khổ cho xã hội. Xã hội mà toàn là những con người như vậy thì có đem đạo lý ra giảng giải cũng vô ích, để trấn áp những hành động bạọ lực, hành vi quậy phá, phá rối mà thôi. Và đó cũng là lý do khiến cho các chính phủ chuyên chế, chỉnh phủ độc tài được thể tồn tại trên thế giới.

Chính quyền Mạc phủ ở nước ta đã vậy, các chính quyền ở một số nước châu Á cũng có khác là bao.

Có thể nói, nền chính trị hà khắc không chỉ là do một bạo chúa hay những kẻ nắm quyền lực gây ra, mà còn là lỗi ở chính người dân chúng ta, do vô học và do ngu dốt nên mới dẫn tới thảm họa cho chính mình.

Đâm thuê chém mướn, giết người cướp của, kéo bè kéo cánh tụ họp nổi loạn, chà đạp lên mọi luật pháp… Không một vụ việc nào trong số những hiện tượng trên đây lại được coi là hành động của con người cả. Vậy mà chúng đang là hình ảnh hiện thời của xã hội Minh Trị chúng ta. Trong xã hội toàn là “giặc dân” như thế này dẫu có vời Đức Phật hay Khổng Tử thì hau ngài có lẽ cũng đành phải bó tay. Để cai trị chắc phải dùng tới chế đọ chính trị tàn bạo chuyên chế. Nhưng tôi tin rằng không người dân nào lại muốn được cai trị bằng chế độ chính trị hà khắc cả.

Ngay bây giờ chúng ta phải học, mài giũa tài năng và nhân cách, phải có thực lực để đứng vững trên địa vị và tư cách bình đẳng, để tranh đấu với những sai trái của chính quyền.

Đây cũng chính là mục đích của học vấn tôi muốn khuyên các bạn.
Tháng 11 năm Minh Trị thứ sáu (tức năm 1872)
 
PHẦN III. HUN ĐÚC, NUÔI DƯỠNG CHÍ KHÍ ĐỘC LẬP RA SAO?

Nỗ lực có thể thay đổi được thiên mệnh:

Đã là con người thì dù là người giàu hay người nghèo, kẻ mạnh lẫn kẻ yếu, nhân dân hay chính phủ, tất cả đều bình đẳng về quyền lợi. Tôi đã viết rõ ở Phần Hai về vấn đề này.

Chữ Quyền lợi tương ứng với chữ Right trong tiếng Anh.

Bây giờ, tôi thử luận từ này rộng ra, ở góc độ quốc gia với quốc gia xem sao.

Quốc gia là nơi người dân xứ sở ở đó ở. Nhật bản là nơi dân Nhật ở, Anh quốc là nơi dân Anh ở. Người Nhật cũng như người Anh, đều là con người, được tạo hóa sinh ra trong cùng trời đất. Nên không có đạo lý nào cho phép dân hai nước chà đạp lên quyền lợi của nhau. Cũng không có lý lẽ nào dung thứ cho việc một nhóm người này xâm phạm quyền lợi của một nhóm người kia. Đạo lý đó đúng với mọi trường hợp, không thuộc va đa số hay thiểu số. Kể cả có là một triệu người hay trăm triệu người cũng vậy.

Trên thế giới hiện nay, có quốc gia giàu mạnh, văn minh tiến bộ, giáo dục phát triển, quốc phòng vững mạnh thì cũng có quốc gia còn nghèo khổ, man rợ hoang sơ, giáo dục lạc hậu, quốc phòng yếu kém. Nhìn chung thì châu Âu, châu Mỹ giàu mạnh còn châu Á, châu Phi nghèo yếu. Thế nhưng, sự giàu, nghèo, mạnh, yếu ở mỗi quốc gia là do thực trạng của từng quốc gia và do điều kiện của mỗi nước nên mới có sự khác nhau. Nhưng sẽ ra sao, nếu có quốc gia viện cớ giúp đỡ các nước nhỏ yếu phát triển giàu mạnh như nước mình để áp đặt những điều vô lý lên các nước đó. Làm như vậy có khác nào một đô vật Sum lực lưỡng cứ đòi vật nhau với một người đau ốm lẻo khẻo. Cho dù họ biện minh cho hành động của mình là vì quyền lợi quốc gia, nhưng đó là những hành động bạo ngược không thể dung thứ.

Nước Nhật bản chúng ta hiện nay yếu kém, hoàn toàn không thể sánh vai với các cường quốc Âu, Mỹ giàu mạnh. Nhưng về quyền lợi, với tư cách là một quốc gia, thì chúng ta hoàn toàn ngang hàng với họ. Trường hợp nếu các cường quốc phương Tây đi ngược lại đạo lý quốc tế, xâm phạm đến lãnh thổ của chúng ta thì cho dù có phải biến cả thế giới này thành kẻ thù, chúng ta cũng quyết không sợ. Như tôi đã nói ở Phần Một, khi đất nước bị làm ô nhục thì tất cả người Nhật bản chúng sẵn sàng xả thân để bảo vệ đến cùng thanh danh của Tổ quốc.

Nhưng, còn tình trạng gia, nghèo, mạnh, yếu dứt khoát không phải là do mệnh trời hặc là do ý trời mà ta đành phải cam chịu. Mà đó là do con người có nỗ lực hay không chịu nỗ lực mà thôi. Nhờ có nỗ lực như thế, không biết chừng mới hôm qua còn là kẻ ngu dốt, nhưng nga mai đã trở thành người tài giỏi, mới hôm qua còn tự vỗ ngực giàu mạnh, nhưng ngày mai trở nên hèn kém. Từ xa xưa, lịch sử đã nhiều lần minh chứng cho điều này.

Quốc dân Nhật bản chúng ta phải xắn tay ngay vào học tập, hun đúc chí khí. Trước hết mỗi cá nhân, từng con người hãy kiên quyết tự chủ, độc lập. Có như vậy, đất nước mới giàu mạnh. Có như vậy chung sta mới hết mặc cảm, hết sợ hãi trước các thế lực phương Tây.

Nói tóm lại, nước Nhật bản chỉ có một con đường là phải mở rộng quan hệ ngoại giao với các quốc gia tôn trọng đạo nghĩa. Còn đối với các nước không tôn trọng đạo nghĩa chỉ muốn dùng sức mạnh thì chung sta phải can đảm tranh đấu để xóa bỏ các cuộc thương lượng bất bình đắng.

Mỗi người tự chủ, độc lập thì đất nước sẽ tự chủ, độc lập, nghĩa là vậy.

Thường xuyên “tôi luyện chí khí tinh thần” là rất quan trọng:

Như tôi đã trình bày, quan hệ giữa quốc gia với quốc gia là mối quan hệ bình đăng. Nhưng người dân nước đó thiếu tinh thần tự chủ, thiếu chí khí độc lập thì khó có thể tranh đấu với thế giới để bình đẳng về quyền lợi với tư cách là một quốc gia độc lập.
Đó là do ba lý do dưới đây:

Thứ nhất, Quốc dân không có tính cách độc lập thì long yêu nước cũng hàm hồ, nông cạn, vô trách nhiệm.

Tính cách độc lập là gì? Là tính cách không dựa dâm hay ỷ lại vào người khác. Việc của mình, mình phải tự lo giải quyết. Người có tính cách độc lập là người không bị chi phối hoặc chịu ảnh hưởng của người khác, tự mình biết phân biệt sự thể đúng sai, phải trái, không phạm sai lầm trong hành động. Người độc lập về kinh tế là người có thể sống mà không cần dựa và sự viện trợ của người khác.

Nếu như toàn thể quốc dân, ai nấy đều chỉ tìm cách dựa dẫm hay ỷ lại vào người khác, không có tính độc lập thì khi ra xã hội cũng sẽ lại trở thành những kẻ chuyên ăn bám đục khoét tiền của đất nước, của các tổ chức xã hội. Giữa cá nhân với cá nhân có lẽ cũng chẳng còn ai sẵn long giúp đỡ ai. Tất cả đều dửng dưng với nhau, có nhìn thấy người mù lòa qua đường cũng không một ai chìa tay ra giúp đỡ.

Cổ nhân có câu: “Dân thì phải tuân theo sự cai trị. Còn cai trị thế nào thì dân không cần phải biết”. Câu này có nghĩa là ở trên đời, những người hiểu được đạo lý không nhiều. Chi bằng thiểu số người đó lên nắm chính trị, cai trị nhân dân, bắt dân phải tuân theo chính sách vạch ra là được. Không cần phải thong báo hay giải thích gì cả. Như thế tốt hơn là việc cái gì cũng phải giải thích, phải cắt nghĩa, mà có giải thích xong, cắt nghĩa xong thì đâu lại vào đấy cứ như nước đổ đầu vịt vậy.

Đây là lời răn dạy của Khổng Tử. Nhưng lời răn này thật phi lý, hoàn toàn xa rời thực tế.

Người có năng lực để có thể cai trị được dân chung thật ra rất ít ỏi. Trong cả ngàn người may ra mới có được một người. Giả dụ, dân số của một quốc gia nọ là một triệu người. Trong số đó chỉ có một nghìn người có tri thức. Chín trăm chín mươi nghìn người còn lại là những kẻ một chữ cắn đôi cũng chịu. Cứ cho rằng một nghìn người có trí tuệ đó, cai trị số dân ngu bằng tất cả long yêu thương, chăm bẵm họ như chăm bẵm bầy cừu. và chín trăm chín mươi nghìn người mù chữ này cũng một mực tuân theo lời răn dạy của “cha mẹ dân”, sống trong cảnh ngu si hưởng thái bình. Cứ như thế, dần dần quan hệ giữa người cai trị và nhân dân sẽ trở thành quan hệ chủ nhân và khách ăn nhờ ở đậu. Mà đã là phận khách ăn nhờ ở đậu thì nhân dân (khách) cứ chỉ biết dựa vào chính phủ (chủ nhân). Người dân đâu cần màng tới việc nước, càng không chút mảy may lo lắng tơi vận mệnh quốc gia. Việc quốc gia đại sự đã có chủ nhân lo rồi.

Và cũng giả dụ, quốc gia này bị nước ngoài gây hấn, chiến tranh bùng nổ. Và cứ giả thử là không có một người dân nào phản bội, bán mình cho nước ngoài. Vậy thì sự thể sẽ ra sao?

Từ trước tới tay, dân chúng như bầy cừ ngoan ngoãn nghe theo chính phủ và họ cũng chẳng có điều gì phải phàn nàn về chính phủ cả, nhưng khi bảo họ phải hy sinh tính mạng để bảo vệ đất nước thì đứng tưởng rằng họ cũng sẽ một mực tuân theo. Tôi chắc rằng phần lớn sẽ tìm cách thoái thác, tìm cách bỏ trốn. Tức là khi có việc đại sự như lúc đất nước lâm nguy thì người dân chỉ biết lo cho sự an toàn của bản thân, không có long yêu nước. Và như thế khó mà giữ được sự độc lập cho đất nước.

Làm thế nào để hun đúc và gìn giữ được chí khí độc lập và tự do:

Để bảo vệ độc lập cho đất nước trước hiểm họa ngoại bang, toàn thể quốc dân phải ý thức được tinh thần độc lập và tự do, trên dưới một long, coi vận mệnh của Tổ quốc như vận mệnh của bản thân, đem hết tinh thần và trách nhiệm với tư cách là người Nhật bản ra phục vụ.

Người Anh coi nước Anh là Tổ quốc thì người Nhật chúng ta cũng phải coi Nhật bản là Tổ quốc. Đất đai của Tổ quốc là đất đai của mình, phải gìn giữ nó như gìn giữ nhà mình vậy, sẵn sang dâng hiến tính mạng và tài sản. Như thế mới là đại nghĩa để báo đáp cho đất nước.

Đương nhiên, chính trị là công việc của chính phủ, nhân dân sống trong nền chính trị ấy. Nhưng chính phủ hay nhân dân chẳng qua là sự phân chia vai trò, phân chia vị trí để mỗi bên gánh vác, chỉ khác nhau trong công việc mà thôi.

Không có đạo lý nào cho phép chúng ta với tư cách là con người lại khoanh tay ngồi nhìn, bỏ mặc hay phó thác cho chính phủ giải quyết vận mệnh đất nước trước nguy cơ trọng đại liên quan tới sự tồn vong của Tổ quốc.

Tên, họ của chúng ta là “Người Nhật bản”. Chức trách của chúng ta là “chức trách của người Nhật bản”. Với tư cách đó, chúng ta mang trên mình bổn phận của quốc dân – quốc dân Nhật Bản. Hơn thế nữa, chúng ta đang được quyền tự do sinh sống, tự do hành động tại Nhật bản. Vậy thì, đi đôi với quyền lợi đó, đương nhiên chúng ta phải có nghĩa vụ và trách nhiệm.

“Dân” của Imagawa Yoshimoto và “dân” của Napoleon Đệ Tam


Vào thời chiến quốc, Imagawa Yoshimoto, lãnh chúa vùng Suruga thống lĩnh một đội quân lên tới hàng vạn người tiến đánh Nobunaga Oda, lãnh chúa vùng Aichi.

Nobunaga đã tổ chức mai phục tại núi Oke tỉnh Aichi, rồi bất ngờ tập kích đánh thẳng vào đại bản doanh và chém đầu Imagawa. Quân sĩ của Imagawa mất chủ tướng, hoảng loạn bỏ chạy như “ong vỡ tổ”. Sự nghiệp lừng lẫy một thời của Imagawa bỗng chốc tan thành mây khói.

Trái lại, trong cuộc chiến Pháp – Phổ (1870 – 1871) xảy ra cách đây vài năm, lúc đầu quân Pháp thua trận, Napoleon đệ tam bị quân Phổ bắt làm tù binh. Thế nhưng quốc dân Pháp không vì thế mà tuyệt vọng. Họ tiếp tục chiến đấu với long quả cảm, tử thủ bảo vệ Paris bằng mọi giá, cuối cùng buộc quân Phổ phải chấp nhận ký Hòa ước. Nhờ thế mà nước Pháp giữ được lãnh thổ toàn vẹn, không bị mất vào tay người Phổ.

Quả là khập khiễng nếu so sánh tinh thần binh sĩ của Imagawa với binh sĩ của Napoleon. Bởi người dân xứ Suruga chỉ như những kẻ ăn nhờ ở đậu, mọi việc đê ỷ lại, trông cậy vào một mình chủ tướng Imagawa Yoshimoto. Không một ai trong số họ, coi xứ sở Surug là nơi “chôn nhau cắt rốn” của mình. Họ suy nghĩ nông cạn và tin tưởng rằng xứ Suruga có làm sao thì đã có tướng Imagawa lo rồi.

Trong khi đó ở Pháp, có nhiều quốc dân mang trong ình tin thần báo đáp cho Tổ quốc. Họ coi nguy cơ của đất nước cũng là nguy cơ của chính mình, vì vậy họ săn sang xả thân chiến đấu vì Tổ quốc. Nhờ tinh thần xả thần của nhân dân nên đã cứu được nước Pháp.

Sự khác nhau của hai nước là vậy.

Từ thực tế trên, để bảo vệ nước mình trước họa xâm lăng, long yêu nước của nhân dân sẽ tăng lên khi trong con người họ có tinh thần, có chí khí độc lập mạnh mẽ. Nói đến đây chắc các bạn sẽ hiểu như tôi rằng: người Nhật chúng ta, nếu thiếu chí khí độc lập thì lòng yêu nước cũng hồ đồ, nông cạn.

Lý do thứ hai là tự bản thân không giác ngộ về tính độc lập, thì khi thương lượng với ngoại bang cũng không thể tranh đấu cho quyền lợi của mình được.

Người không có tính độc lập thì thường phải dựa dẫm vào kẻ khác. Người dựa dẫm vào kẻ khác thì lúc nào cũng phải thăm dò ý tứ, trông vào thái độ của người ta. Người lúc nào cũng phải dò ý dò tứ, trông vào thái độ của người khác thì nhất định phải tìm cách lấy long người đó. Luôn phải lấy long thành ra chịu ơn, lâu dần sẽ trở nên xu nịnh và luồn cúi người mình dựa dẫm. Chẳng mấy chốc, tính xu nịnh, luồn cúi trở thành thói quen. Một khi đã quen xu nịnh, quen luồn cúi hì phải “trơ” ra và “dây thân kinh” xấu hổ cũng mất. Điều muốn nói không dám gặp ai cũng phải xun xeo, khúm na khúm núm. Và cuối cùng thì quen xu nịnh, thói luồn cúi trở thành bản chất, tính cách. Nên người xưa mới có câu “Thói hư thành tật” cũng là vậy. Đã là tật, là bản chất, là tính cách thì khó sửa.

Hiện nay, ở nước Nhật chúng ta thường dân đã được phép mang họ, được phép cưỡi ngựa. Tòa án cũng đã thay đổi. Việc xét xử công bằng hơn, chính trực hơn. Và nhất là luật pháp ít ra cũng đã quy định thường dân ngang hàng với sĩ tộc. Tuy vậy, để thay đồi lề thói cũ, tập quán cũ thì cũng cần phải có thời gian, không thể một sớm một chiều và gột bỏ hết được. Ý thức của người dân chung sta vẫn như xưa. Văng tục khi nói, bỗ bã khi ăn, nhu nhược trong thái độ, gặp cấp trên thì run sợ, bảo đứng thì đứng, bảo ngồi thì ngồi, bảo múa cũng phải múa, cứ y như lũ chó nuôi mãi mà cứ ốm nhom, chỉ biết xun xoe trước mặt chủ. Thật là khí lực không có, hổ thẹn cũng không.

Nếu là xã hội phong kiến mạc phủ - một xã hội hoàn toàn mất tự do – trong thời kỳ “bế quan tỏa cảng” thì người dân càng mất sinh khí lại càng tốt cho chính quyền. Vì tầng lớp cai trị khi đó chỉ muốn dân ngu để dề bề dạy bảo.

Nhưng thời thế giờ đây đã đổi khác. Cứ kéo dài mãi tình trạng này thì chỉ mang lại tổn hại chó quốc gia trong thời buổi phải giao thương với ngoại quốc.

Nỗi hổ nhục của cá nhân cũng là nỗi hổ nhục của quốc gia:

Giả dụ, có một số thương nhân địa phương muốn kiếm lời bằng cách buôn bán với người ngoại quốc, bèn khăn gói lên đường tới những đặc khi ngoại kiều như Yokohama chẳng hạn. Lần đầu tiên trong đời đi gặp “ông Tây” để tính chuyện làm ăn. Vừa thấy cái dáng to lớn lừng lững của họ thì thương nhân ta đã hồn xiêu phách lạc. Lại càng khiếp vía khi thấy trong ca-táp của “Tây” hàng xốp giấy bạc. Được “Tây” đưa vào văn phòng bong lộn nằm trong những tòa nhà lộng lẫy thì thương nhân ta lại càng lung túng, không biết đứng ngồi ở dâu, chân tay cứ long nga long ngóng., không biết để đâu, đặt đâu. “Tây” mời lên tàu hơi nước chạy một vòng biểu diễn, thương nhân ta cứ chóng hết mặt mày vì con “quái vật” đen xì này chạy nhanh quá. Và thế là ngay từ đầu, cái “gan” làm ăn của thương nhân ta teo hết cả lại.

Có thương nahan đánh liều giao dịch thử thi trong bụng thán phục sao “Tây” cái gì cũng thong thạo, nhưng cũng lại sờ sợ vì thấy họ thật lắm thủ đoạn, thương thảo lúc cương lúc nhu thật khó lường. Cuối cùng bị ép ký hợp đồng, dù biết là thiệt mà vẫn phải nhắm mắt đặt bút ký, vì run sợ trước thái độ hung hăng xấu hổ của “Tây”. Kết cuộc là phải hận phần thu thiệt về mình.

Ví dụ trên đây chung thấy không chỉ người thương nhân ấy thiệt hại mà phải xem đó là thiệt hại của cả quốc gia và không chỉ người thương nhân đó chịu sỉ nhục mà phải coi đó sự sỉ nhục của cả quốc gia.

Xét cho cùng, có lẽ từ bao đời nay, tầng lớp Thị dân luôn sống khom lưng luồn cúi, không có tính độc lập nên mục ruỗng từ trong ruột mục ra. Trong xã hội Nhật bàn, Thị dân bị Samurai chèn ép đày đọa. Tại các phiên tòa họ cũng luôn bị xử ép, xử oan nên phần hồn của họ khó mà vực lại được. Đã không vực lại được cả phẩn xác lẫn phần hồn thì cũng đừng mong giao dịch, quan hệ bình đẳng với nước ngoài.

Nói tóm lại bản thân mỗi người chúng ta không có tính độc lập thì cũng không thể giành được độc lập với nước ngoài.

Lý do thứ ba là người không có tinh thần độc lập là người dựa dẫm vào quyền lực của người khác, chạy theo cái xấu.

Dưới thời phong kiến Mạc phủ, có một kiểu tín dụng được gọi là “tín dụng mượn danh chúa”. Đây là hình thức nhà giàu đứng tên lãnh chúa cho vay lấy lãi. Khi con nợ chậm trả, chủ nợ lợi dụng “cái ô” quyền uy của lãnh chúa để khiến kiện và bao giờ cũng được tòa xử cho thắng kiện kèm theo những điều kiện bắt bí con nợ. Vì sợ lãnh chúa, nên con nợ cũng phải tìm cách trả trước cho chủ nợ nếu không muốn bị rầy rà. Đây là cách làm đê tiện. Lẽ ra, người vay chưa trả được thì người cho vay phải kiện lên chính phủ nhờ chính phủ can thiệp đòi giúp. Đằng này họ lại cứ mượn oai của lãnh chúa đe dọa người vay. Đương nhiên chắc cũng biết xén hối lộ cho lãnh chúa. Thật là quá quắt.

Bây giờ không còn nghe nói nhiều về kiểu tín dụng ấy nữa, nhưng biết đâu đấy vẫn có nhà giàu cấu kết với ngoại quốc có quyền thế, mượn danh họ để cho vay và bắt chẹt dân.

Những thói quen xấu, tập quan xấu như vậy vẫn còn tồn tại. Sau này, người phương Tây được quyền tự do cư trú ngoại khu vực kiều dân thì các tập quan đó gặp thời chắc lại nổi lên lúc nào không hay. Cứ như thế thì quốc gia sẽ chịu nhiều tổn thất. các tập quán đó cũng có thể coi là hành vi bán nước. Lợi dụng, cậy thế người có quyền lực làm bậy là như vậy.

Tôi phải nói như trên, vì xuất phát từ thực tế là người Nhật bản chúng ta không có tinh thần độc lập nên mới sinh ra đủ thức xấu xa. Hiện nay, với tư cách là người Nhật bản, nếu có long yêu nước thì mỗi người chúng ta đều phải suy nghĩ trước hết về độc lập cho bản thân mình, rồi hãy giúp đỡ người khác cùng độc lập. Cha mẹ phải khuyên dạy cho con cái, thầy giáo phải quyên dạy cho học trò về tinh thần độc lập. Toàn thể nhân dân cùng phải giữ gìn độc lập, phải bảo vệ đất nước.

Cá chính trị gia, thay vì trói buộc nhân dân, chỉ biết tự mình khổ tâm động não lo chuyện quốc sự, chi bằng biết kết gắn nhân dân thành một khối, mang lại tự do cho nhân dân, dựa vào dân, sướng khổ cùng dân, có như vậy mới mong vượt qua được nguy cơ cho cả dân tộc.
Tháng 2 năm Minh Trị thức sáu (tức năm 1873)
 
PHẦN IV. TRÁCH NHIỆM CỦA “NGƯỜI ĐỨNG TRÊN NGƯỜI”

Làm sao để Nhật bản có được nền độc lập thực sự?

Gần đây, những người có học thức thường bàn riêng với nhau về tương lai của Nhật bản. Gặng hỏi mãi, người ta mới cho tôi hay về những gì họ đương bàn luận. Đành rằng không ai biết trước được tương lai của nước ta sẽ ra sao, và điều này cúng không dễ dàng mà dự đoán được. Liệu sau này Nhật bản giữ được nền độc lập hay không? Nỗi lo mất nước cứ canh cánh trong long chúng ta. Nếu tình trạng như thế này mà cứ kéo dài thì cũng không ai dám chắc là nước Nhật chúng ta có thể trở thành một quốc gia văn minh giàu mạnh. Còn giữ được độc lập hay không, chắc phải ba mươi năm sau mới có dược câu trả lời chính xác. Những ngoài ngoại quốc – vốn khinh miệt Nhật bản – lại càng bán tín bán nghi, họ cho rằng Nhật bản làm sao mà giữ nổi độc lập.

Không phải vì những lời bàn ra tán vào như vậy mà chúng ta quá bị quan. Nhưng rõ ràng là chẳng ai tin Nhật bản sẽ giữ vững được sự độc lập trước phương Tây. Không phải bỗng dưng mà chúng ta bàn bạc, lo lắng cho vận mệnh của đất nước, nếu tương lại xán lạn đang chờ đón chúng ta thì chúng ta bàn tán để làm gì?

Nếu có ai đó hỏi người Anh: “Này, liệu các ông có giữ được độc lập cho nước Anh không?” thì người Anh chắc chắn sẽ cười vào mũi người đó mà không thèm trả lời. Vì có ai dám nghi ngờ nước Anh, nước Anh mà không đọc lập thì còn nước nào độc lập?

Bây giờ, hãy nhìn lại nước ta, trình độ văn minh của chúng ta ra sao? Cho dù đã có tiến bộ nhưng vẫn chưa hết sự hoài nghi. Bản thân tôi, với tư cách là người Nhật bản, cũng cảm thấy không được an tâm về sự tiến bộ này.

Chúng ta là người Nhật, sinh ra lớn lên ở đây. Đã vậy, mỗi người đều phải tự giác và nỗ lực với bổn phận của mình. Điều hành đất nước đương nhiên là công việc của chính phủ. Nhưng có nhiều lĩnh vực trong dân sinh, chính phủ không thể biết và can thiệp hết được. Vì thế, để duy trì nền độc lập của đất nước, thì chúng ta – những người dân – phải làm trọn nghĩa vụ của mình, nghĩa vụ của công dân trong một nước, và chính phủ phải làm tròn trách nhiệm của mình, trách nhiệm của người điều hành đất nước. Quốc dân chúng ta phải hợp tác với chính phủ thì mới mong thành công trong việc phát triển quốc gia một cách toàn diện, đồng bộ.

Lực có cân bằng thì mới duy trì được mọi vật. Điều đó cũng giống như duy trì cơ thể con người. Để giữ cho cơ thể khỏe mạnh thì mọi thứ như ăn uống, không khí, ánh sang đều phải đầy đủ. Có như vậy cơ thể mới tự đề kháng, tự điều chỉnh trước mọi tác động đến từ bên ngoài như khi nóng, khi lạnh, lúc đau, lúc ngứa. Còn nếu không bị kích thích, không quen thích ứng với môi trường, chỉ trông cậy vào sức sống vốn có ở cớ thể thì con người không thể duy trì sức khỏe. Duy trì một đất nước cũng giống như duy trì sức khỏe của con người.

Nói tới chính trị là nói tới hoạt động của quốc gia. Để giữ vững nền độc lập, để vận hành quốc gia trơn tru, thì cần phải có đủ và cân bằng cả hai yếu tố “trong” và “ngoài”. “Trong” ở đây là khả năng điều hành đất nước (làm chính trị) của chính phủ và “ngoài” ở đây tôi muốn nói tới sức dân. Cứ tam coi chính phủ là “sức sống vốn có” của quốc gia và sức dân là “môi trường kích thích từ bên ngoài”. Không có sự kích thích tức không có sức dân mà chỉ trông vậy vào chính phủ thì độc lập dân tộc không thể duy trì dù chỉ một ngày.

Văn minh không tiến bộ nếu chỉ dùng quyền lực

Trong tình hình hiện nay của nước ta, phải công nhận rằng học thuật, kinh tế, hệ thống luật pháp là ba điểm yếu kém so với phương Tây. Văn minh của một xã hội phụ thuộc sâu sắc vào ba mặt ấy. Điều hiển nhiên là nếu ba mặt này của một quốc gia chưa phát triển sâu rộng thì quốc gia đó khó mà có được độc lập. Vậy thì, ở nước ta khi nền học thuật, nền kinh tế, hệ thống luật pháp mới trong thời kỳ “phôi thai” chưa thành hình hài thì đặt vấn đề độc lập với phương Tây chỉ là ảo tưởng.

Sau khi chính phủ Minh Trị ra đời, nhìn vào các thành viên trong nội các, tôi phải công nhận tài cán, năng lực và sự tận tụy của họ. Thế nhưng vì sao sự nghiệp khai hóa văn minh cho đất nước ta lại chưa đạt được kết quả như mong đợi? Nguyên nhân chính là đâu? Câu trả lời của tôi là: Nhân dân ta quá ngu dốt, vô học. Chính phủ Minh Trị đã tận tụy thực thi nhiều chính sách như kêu gọi khuyến khích dân ta học văn hóa, học khoa học kỹ thuật, ban hành các đạo luật, hướng dẫn chỉ đạo cách làm kinh tế, thương mại… Vậy mà vẫn không sao vực xã hội phát triển lên được.

Dưới mắt tôi, việc điều hành đất nước không mang lại kết quả cũng có nghĩa là trình độ của chính phủ Minh Trị đại để cũng chỉ như trình độ của chính quyền phong kiến chuyên chế mà chúng ta đã lật đổ. Nhân dân ta vẫn còn trong vòng u mê xưa, cũng có nghĩa là người dân dưới thời Minh Trị cũng vẫn chỉ là người dân dưới thời Mạc phủ, không hơn không kém. Hãy thử so sánh công lao, sức lực, tiền của mà chính phủ đã bỏ ra với kết quả đạt được mới thấy ít ỏi biết nhường nào.

Qua đó tôi muốn khẳng định với mọi người rằng, nền văn minh của quốc gia không thể tiến bộ nếu chỉ bằng quyền lực của chính phủ.

Cái gì đẻ ra “khi chất nhu nhược” của người Nhật Bản?

Hiện nay, có nhiều người đưa ra lý lẽ: “Lãnh đạo cái lũ dân ngu này phải có kế sách mới được. Chính phủ định làm việc gì cứ thế mà làm, không cần thong báo, giải thích hay chờ đợi gì cả. Còn khi nào dân chúng có tri thức, đạo đức thì đưa họ đến với văn minh cũng chưa muộn”. Nhưng theo tôi, nếu thực hiện theo cách nói trên thì sẽ thất bại ngay từ đầu. Vì sao vậy?

Đã bao năm, nhân dân phải chịu nhiều khổ đau dưới chế độ chính trị chuyên chế. Điều nghĩ trong long không dám nói ra miệng, hay sẵn sàng nói láo miễn sao khỏi mang vạ vào thân, lừa đảo cũng được cho qua. Gian dối, ngụy tạo trở thành cách sống. Không thành thật trở thành thói quen hàng ngày. Làm sai không dám nhận, lại còn tìm cách đổ lỗi cho người khác. Không còn ai biết hổ thẹn, biết tức giận, chỉ biết suy bì tị nạnh, ghen ăn tức ở. Còn việc nước, việc quốc gia là việc “chùa”, hơi đâu mà lo nghĩ.

Chính phủ đã dùng nhiều biện pháp nhằm thay đổi những tạp quán xấu nói trên, lúc khuyên nhủ, khi răn đe, đôi khi dùng cả quyền lực cưỡng chế dân chúng. Nhưng các biện pháp hầu như đều phản tác dụng, dường như chỉ càng làm cho người dân thêm mất long tin nơi chính phủ. Trên xa lánh dưới, dưới chẳng muốn gần trên. Theo thời gian cái sự xa lánh ấy tạo ra cho mỗi tầng lớp trong xã hội mội khí chất khác nhau. Và người ta gọi chúng là “khí chất Võ sĩ”, “khí chất Thị dân”. Khí chất này, nếu chỉ nhìn vào từng cá nhân hay nhìn phiến diện thì khó thấy. Nhưng nếu nhìn vào tổng hợp các hiện tượng xã hội thì chúng ta sẽ hiểu rõ thực trạng của nó.

Phải công nhận là trong các quan chức chinh phủ hiện nay có rất nhiều người tốt, có tấm long nhân hậu. Bản thân tôi, khi nhìn vào các quan chức đó cũng phải thừa nhận họ không có điểm gì đáng phàn nàn cả, ngược lại họ có nhiều điểm rất đáng học hỏi. Nhưng khi họ tập hợp trong chính phủ thì không hiểu sao công việc cứ rối như tơ vò. Chính phủ đã vậy, còn dân chúng thì sao? Trong nhân dân, có không ít người trung thực, chính trực. Nhưng không hiểu sao mỗi khi quan hệ với chinh quyền thì nhân cách lại thay đổi, trở nên dối trá, ngụy biện, trơ tráo, lừa dối cả chính quyền. Quan chức và dân chúng trong một nước mà cứ như là hai cáu đầu trên một cái cổ vậy.

Trên cương vị cá nhân thì người nào cũng tỏ ra thong thái. Nhưng hễ trở thành quan chức chính quyền thì sự thong thái thương thấy lại biến đi đâu mất. Khi đứng một mình thì ai cũng nói hay cả. Nhưng khi tập hợp nhau trong một tập thể thì cái cảnh trống đánh xuôi kèn thổi ngược thường xuyên xảy ra.

Tôi buộc phải nói rằng chính phủ Nhật bản hiện nay là một tổ chức của nhiều người có tri thức, tập hợp nhau lại để làm một việc hồ đồ. Có lẽ họ đã không thể phát huy được cá tính vì bị trói buộc bởi nếp nghĩ theo kiểu “chủ nghĩa bình yên vô sự”.

Chính sách của chính phủ không hiệu quả cũng di vậy. Bằng một số kế sách như dùng những lời lẽ hoa mỹ mị dân, dùng quyền lực, áp đặt văn minh… chính phủ có thể giật dây được dân chúng. Nhưng như thế cũng chỉ là nhất thời mà thôi. Chính phủ trị dân bằng uy quyền thì dân sẽ đáp lại bằng sự giả vờ chấp hành. Chính phủ lừa dối dân thì dân cũng sẽ tạo ra vỏ bọc hữu hiệu. Mà cứ như vậy thì không thể chỉ dựa vào quyền lực để thúc đậy văn minh xã hội.

Đáng buồn là nước ta chỉ có người Nhật mà không có quốc dân Nhật:

Vậy phải làm cách nào để khai hóa văn minh tại nước ta? Trước hết phải quét sạch “cái khí chất” đã thấm sâu trong long người. Dùng biện pháp hành chính mệnh lệnh của chính phủ cũng khó. Thuyết giảng cho từng người chắc chắn sẽ thất bại. Cần phải có những người gây dựng được sự nghiệp mà mọi người dân đều tự giác tham gia, phải đặt ra được mục tiêu rõ ràng để nhân dân tin cậy.

Thế thì ai sẽ là người làm được việc này? Trong giới Nông, Thương rõ ràng chẳng có ai. Trong giới học giả Quốc học hoặc Nho học cũng không thấy gương mặt nào. Xem ra chỉ có những người trong nhóm tây học là có thể gánh vác được nhiệm vụ đó. Gần đây, những nhà Tây học tăng lên đang lên. Học đọc sách dịch, nghiên cứu văn minh châu Âu. Tuy vậy, không phải ai trong số họ cũng đều hiểu được cặn kẻ về văn minh phương Tây. Ngược lại có nhiều người hiểu được, lý giải được, cắt nghĩa được nhưng lại không sao biến chúng thành hiện thực. Họ nói được nhưng không làm được điều mình nói.

Hiện nay, thực tế cho thấy hầu hết các nhà tây học trong xã hội ta đều chỉ mơ đến một chức vụ cao trong chính phủ, họ không màng làm trong khu vực tư nhân. Nhật thức của học chẳng khác là bao so với các nhà Nho học trước đây, học để ra làm quan. Bụng dạ hủ nho đội lốt Tây Âu, đúng y như câu nói của người xưa: Bình mới rượu cũ. Đương nhiên, trong số các nhà tây học đang làm quan chức chính phủ, không phải tất cả đều háo danh, tham lam bổng lộc. Suy cho cùng, nó la kết quả của quan niệm giáo dục cố hữu ở nước ta: “Làm quan là cách tiến thân tốt nhất trong mọi cách tiến thân”. Trong suốt hàng ngàn năm qua, quan niệm đó đã thấm sâu vào máu thịt, đã thành nếp trong suy nghĩ của con người. Chính vì thế mà từ đời này qua đời khác, người ta chỉ học để làm quan chứ có ai muốn học để làm dân đâu. Làm quan đã trở thành cái đích trong cuộc đời. Ngay cả các bậc tiên sinh danh giá cũng không thoát khỏi ảnh hưởng đó. Tuy nhiên, xu hướng “làm quan” cũng là điều dể hiểu vì khí chất xã hội đã khiến người ta phải như vậy. Cứ thế, trào lưu “quyền lực là chìa khóa vạn năng” nhiễm sâu vào long người. Nên dân ta ai cũng chỉ muốn làm trong công sở chính quyền, rồi tìm cách leo lên hàng quan chức chính phủ để có quyền hành và bổng lộc. Thí dụ: gần đây trên các tờ báo hiếm thấy bài viết nào có ý kiến ngược lại với ý kiến của chính phủ. Lâu lâu chính phủ đưa ra được một vài chính sách cải cách nho nhỏ, tức thì những bài viết tán dương tang bốc chính phủ xuất hiện đầy rẫy trên mặt báo. Những bài viết như vậy có khác nào thái độ phỉnh nịnh khéo léo của các cô gái làng chơi để lấy long khách mua hoa đâu. Tệ hại hơn nữa, nhưng người viết bài đó lại chính là những thành viên trong nhóm Tây học. Thật khó có thể chấp nhận. Họ đâu phải là “gái làng chơi” và lại càng không phải là những kẻ tâm thần hay thiếu hiểu biết.

Thái độ xu nịnh và suy nghĩ cơ hội đang đầy rẫy trong xã hội Nhật Bản như hiện nay là do đâu? Vì chưa có một minh chứng thực tế nào chứng tỏ có tự do dân quyền trong xã hội, vì người Nhật bản đã nhiễm quá nặng bản tính nhu nhược, không còn nhìn ra bản sắc vốn có của mình.

Tóm lại,, hiện nay Nhật bản có chính phủ, có cả dân. Nhưng có lẽ chúng ta mới chỉ có dân mà chưa có “quốc dân Nhật bản”. Điều này có nghĩa là để thay đổi được khí chất trong dân, để tiến hành mở mang văn minh thành công thì các nhà Tây học hiện tại cũng chẳng giúp ích gì được.

Những thứ không có ích chắc chắn sẽ có hại:


Luận thuyết nêu trên nếu đúng, thì việc khai hóa văn minh ở nước ta để bảo toàn độc lập cho đất nước, không phải chỉ có chính phủ mới làm được. Và cũng không thể trông chờ vào các học giả Tây học. Nếu vậy thì trông cậy vào ai? Còn ai khác vào đây nếu đó không phải là nhóm Fukuzawa chúng ta? Tôi và các đồng chí chúng ta phải thực hiện nhiệm vụ này. Tự chúng ta sẽ phải đi tiên phong trong nhân dân, gây dựng sự nghiệp khai hóa văn minh, đối đầu trực diện với thách thức, mở ra triển vọng cho Nhật bản.

Có thể nói thẳng, tôi và các đồng chí thuộc tầng lớp trung lưu, học thức của tôi và các đồng chí tuy còn nông cạn, nhưng chúng ta tìm hiểu nghiên cứu Âu – Mỹ cũng đã lâu. Mọi tầng lớp xã hội cũng đã thừa nhận và gọi chúng ta là những nhà cải cách, vì những năm qua chúng ta khi ra mặt trong các cuộc cải cách xã hội, khi âm thầm lặng lặng giúp đỡ cải cách. Chúng ta có thể tự hào vì nhân dân đã nhìn nhận sự nghiệp khai phá văn minh mà chúng ta đang theo đuổi như sự nghiệp của mình. Và đã như vậy thì người lãnh nhiệm vụ đi đầu trong nhân dân, triển khai sự nghiệp ấy không ai khác, đó chính là chúng ta.

Khai hóa văn minh bắt đầu từ việc tự mình bắt tay vào làm và chứng minh bằng thực tế cụ thể, cho mọi người tận mắt thấy việc thực. Làm trước nói sau. Chứ không thể để như tình trạng nước ta hiện nay, hễ định làm cái gì cứ phải họp bàn, giải thích, thảo luận dài dòng vô bổ. Chính phủ có quyền ban bố chỉ thị, mệnh lệnh. Nhưng hiểu và biến chúng thành hiện thực phải là nhân dân, là khu vực tư nhân. Chính vì thế, song song với việc mở trường tư thục, chúng ta phải quyết định thực hiện sự nghiệp khai sang cho dân chúng bằng cách giảng dạy học thuật, làm thương nghiệp, nghiên cứu luật pháp, xuất bản sách, phát hành báo, với tư cách của một người thuộc khu vực tư nhân, không nằm trong chính phủ. Chúng ta làm việc này trong phạm vi, bổn phận của một quốc dân làm theo luật pháp, không sợ làm mất mặt chính phủ. Nếu chính phủ đi ngược lại lợi ích của nhân dân, với bổn phận của mình, chúng ta sẽ đường đường chính chính kháng nghị, tranh luận với chính phủ cho đến khi chính phủ tỉnh ngộ, giành lại cho dân “Tự do dân quyền”.

Trên đây chính là nhiệm vụ cấp bách của chúng ta.

Sự nghiệp khai hóa văn mình rất đa dạng, những người tham gia vào công cuộc này nằm trong những lĩnh vực, những chuyện môn khác nhau. Có nhiều việc chúng ta chưa thể gánh vác được vì trong nhóm chúng ta còn quá ít các học giả. Nhưng mục đích của chúng ta là ở chỗ: truyền đạt cho mọi người dân biết con đường văn minh mà chúng ta nhắm tới, đó là con đường văn minh do người dân thực hiện, chứ không phải để khoe khoang mình làm hay, làm tốt hơn chính phủ. Điều tâm niệm hàng đầu của chúng ta đó là: một minh chứng bằng thực tế nhất định hơn cả trăm thứ lý thuyết.

Khai hóa văn minh cho con người không thể là sự nghiệp độc quyền của chính phủ. Học giả trước sau cũng là học giả, phải ở trong khu vực tư nhân để nghiên cứu. Thị dân trước sau cũng là thị dân, phải ở trong khu vực tư nhân để sản xuất, buôn bán làm ăn. Chính phủ là chính phủ của Nhật bản thì nhân dân cũng là nhân dân của Nhật bản. Nếu như vậy thì nhân dân phải tiếp cận chính phủ, thân thiết với chính phủ, không phải sợ chính phủ, hay nghi ngờ chính phủ. Làm cho dân hiểu rõ điều này là nhiệm vụ cấp bách của chúng ta.

Có như vậy, cái khí chất nhu nhược cố hữu mới biến khỏi nhân dân. Và khi đó người dân mới thực sự là quốc dân Nhật bản chân chính. Quốc dân là liều thuốc kích thích chính phủ. Học thuật, kinh tế, luật pháp cũng hoàn thiện. Quyền lực chính phủ và sức dân có cân bằng, chúng ta mới duy trì được độc lập trước phương Tây.

Tóm lại, tôi đã đề cập đến vấn đề: Trước áp lực của phương Tây, để bảo vệ nền độc lập của dân tộc, vị trí của các trí thức Nhật bản là ở chỗ nào? Ở trong chính phủ trở thành quan chức, nỗ lực làm việc thì tốt hơn hay nằm ngoài chính phủ làm trong khu vực tư nhân thì tốt hơn. Và tôi cũng đưa ra kết luận: ở ngoài chính phủ thì hơn.

Nếu suy nghĩ cho thật thấu đáo, thì mọi sự vật nếu không có tác dụng thế nào cũng có hại. Nếu làm một việc nào đó không có kết quả thì thế nào cũng là do người làm có khiếm khuyết, chứ không thể có sự vật nào nửa lợi nửa hại cả. Vì thế tôi không chủ trương nói tốt cho “khu vực tư nhân” bằng sự vụ lợi, tính toán. Nếu có ai đó đưa ra được bằng chứng xác đáng, nói rằng sự nghiệp độc lập theo kiểu “dân lập” là bất lợi, hay không thể làm được, để phản bác hoàn toàn luận thuyết của tôi thì tôi sẽ vui long nghe và sẵn sang làm theo người đó, chứ tôi sẽ không trở thành cái gai gây hại cho bàn dân thiên hạ đâu.

Chưa làm thử mà cứ ngồi phán đúng sai:

Người ta chất vất tôi như sau:

Hỏi: Trong công cuộc khai hóa văn minh, nên dựa vào chính phủ mà làm thì có lợi hơn không, vì chính phủ có quyền lực?

Đáp: Để khai hóa văn minh, không thể dựa vào chính phủ được. Như tôi đã nói đến trong bài này, trên thực tế những gì mà chính phủ đang làm chưa có hiệu quả. Cũng không chắc tư nhân làm lại có kết quả, nhưng về lý luận nếu có khả năng làm được thì cần thiết phải làm thử. Chưa làm thử mà cứ ngồi lo thành công hay thất bại thì không thể gọi là dũng cảm.

Hỏi: Chính phủ ít nhân tài. Đã thế ông lại khuyên nhân tài lại rời bỏ chính phủ để làm việc trong khu vực tư nhân thì e rằng việc điều hành đất nước sẽ bị đình trệ?

Đáp: Không phải như vậy, chính phủ hiện thời có quá nhiều nhân tài. Vấn đề là cần tinh giản bộ máy, giảm bớt người thì công việc sẽ trôi chảy. Những người dư ra có thể hoạt động trong khu vực tư nhân. Như thế “bắn một phát trúng hai đích”. Vả lại, rời khỏi chức vụ chứ có phải rời bỏ Nhật bản để ra nước ngoài sinh sống đâu mà lo. Họ vẫn ở Nhật bản và làm việc tại Nhật bản cơ mà. Lo lắng như vậy là thừa.

Hỏi: Việc tập hợp các nhân tài trong khu vực tư nhân ngoài chính phủ như ông kêu gọi, có khác nào lại thành lập thêm một chính phủ thứ hai. Nếu thế thì chính phủ hiện tại sẽ ra sao?

Đáp: Đó là cách suy nghĩ hẹp hòi. Chính quyền và những người nằm ngoài chính quyền đều là “tập thể” người Nhật bản chúng ta cả. Nếu có khác thì chỉ khác về địa vị mà thôi, không phải là kẻ thù của nhau mà là sự hợp tác của các “tập thể” với nhau. Nếu tư nhân vi phạm luật thì chính phủ có quyền trừng phạt họ.

Hỏi: Ra khỏi chính phủ, thì cuộc sống của họ không được bảo đảm, giải quyết vấn đề này như thế nào?

Đáp: Nói như vậy thì không xứng đáng là chí sĩ. Với những người ngày đêm ưu tư, lo lắng cho vận mệnh đất nước, nhất lại là các trí thức, thì không ai có suy nghĩ tầm thường như vậy. Những người có năng lực thì không lý gì lại không thể kiếm sống được. Làm quan chức hay làm tư nhân đều giống nhau. Cùng một công sức bỏ ra, nhưng quan chức sẽ được chia phần nhiều nhơn, nếu nghĩ như vậy thì đó là thứ suy nghĩ của những kẻ lạm dụng công quỹ một cách bất chính. Thủ đoạn chiếm đoạt, ăn bớt của công không thể là bạn của “Nghĩa thục” chúng tôi.
Tháng Giêng năm Minh Trị thứ bảy (tức năm 1874)
 
PHẦN V. LÒNG QUẢ CẢM CỦA CON NGƯỜI SINH RA TỪ ĐÂU?

Khi viết “Khuyến học”, tôi vốn có ý định là cung cấp “sách nhập môn” hoặc “sách giáo khoa bậc tiểu học” cho độc giả. Cho nên từ Phần Một đến Phần Ba, tôi chủ tâm dùng nhiều tục ngữ, khẩu ngữ và câu văn cũng gắng viết sao cho độc giả dễ đọc, dễ hiểu.

Từ Phần Bốn trở đi, tôi thay đổi đôi chút cách hành văn, có đôi chỗ sử dụng những từ ngữ hơi khó hơn.

Riêng Phần Năm này – ghi lại bài nói của tôi trong buổi họp mặt của hội Kejo, nhân dịp ngày đầu năm, mồng Một tháng Giêng năm Minh Trị thứ bảy – mang văn phong giống như Phần Bốn. và tôi e rằng sẽ khó hiểu hơn đối với bạn đọc.

Vì Phần Bốn và Phần Năm này tôi muốn nhắm tới đối tượng là sinh viên và muốn luận đàm với họ.

Trong xã hội, sinh viên nói chung xem ra có vẻ uể oải., thiếu sinh lực. Nhưng họ có năng lực đọc rất tốt. Đối với họ, vấn đề càng khó càng muốn tìm hiểu. Vì vậy, cả hai Phần Bốn và năm này, tôi không ngần ngại đưa ra vấn đề khó và nội dung bài viết cũng được nâng lên một cách tự nhiên. Tôi cũng thành thật tạ lỗi với các bạn mới học, vì đã làm sai chủ ý ban đầu của “Khuyến học”.

Từ phần Sáu, tôi sẽ trở về với ý tưởng mục tiêu ban dầu, viết sao cho dễ hiểu, kiên quyết loại bỏ các từ khó, câu khó, nghĩa khó. Mong bạn đọc thong cảm cho ý tôi ở hai phần Bốn và Năm này, chứ đừng vì thế mà đánh giá toàn bộ cuốn sách mà tôi đã và đang viết sẽ khó hiểu, xa rời với trình độ người học, người đọc.

Đang hạnh phúc thì chớ quên sẽ có lúc phải đối mặt với tủi nhục:

“Hôm nay, mồng Một tháng Giêng năm Minh Trị thứ bảy, chúng ta họp mặt tại đây – trường tư thục Kejo, để đón chào năm mới. Niên hiệu Minh Trị là niên hiệu Độc lập của nước ta. Và trường tư thục này cũng là trường độc lập trong xã hội ta. Sum họp ở trường độc lập, đón năm mới độc lập, chúng ta thật vui sướng. Nhưng khi đang hân hoan sống trong niềm vui sướng, chúng ta cũng không được phép quên rằng, sẽ có lúc phải đối mặt với tủi nhục, buồn khổ.

Từ xa xưa, nước ta đã bao lần hết lâm vào cảnh hoạn nạn, qua thanh bình, rồi lại loạn lạc. Chính quyền cai trị trên đất nước ta cũng biết bao lần hưng thịnh, suy vong. Nhưng chúng ta chưa bao giờ cảm thấy mất độc lập, mất nước. Vì quốc dân chúng ta đã quen với tập quán, phong tục của một đất nước “bế quan tỏa cảng”, đất nước đóng cửa với nước ngoài.

Đóng của với nước ngoài suốt bao đời nay nên đất nước ta chưa từng đứng trước nguy cơ bị nước ngoài xâm lăng, chưa từng rơi vào nguy cơ bị chiến tranh xâm lược. Và một khi đã cắt đứt mọi quan hệ với thế giới bên ngoài thì việc loạn lạc hay thanh bình chỉ là vấn đề trong nhà giữa người dân ta với nhau mà thôi.

Dân tộc ta đã từng kinh qua biết bao cuộc chiến tranh, nhưng đó chỉ là nội chiến giữa các thế lực trong nước với nhau. Chính quyền có thay đổi cũng chỉ là thay đổi từ thế lực này qua thế lực khác, và vẫn là thế lực Nhật Bản. Chính vì thế mà chúng ta chưa từng mất nước, mất độc lập dân tộc. Điều nay cũng giống như những đứa trẻ sinh ra và được nuôi nấng, chăm bẵm trong vòng tay bảo vệ chặt chẽ của người trong dòng họ, những đứa trẻ đó chưa từng một lần va vấp với cuộc sống bên ngoài gia đình. Những đứa trẻ như vậy chắc hẳn sẽ yếu ớt khi bước ra ngoài xã hội

Hiện nay, việc giao thương với phương tây ngày một mở rộng. Mọi mối bang giao quốc tế đều ảnh hưởng trực tiếp tới tất cả các lãnh vực trong nước. Chúng ta đang ở trong tình thế tất cả mọi thứ đều phải xử lý trên cơ sở tính toán hơn thiệt với phương tây. Trình độ của nền văn minh hiện có ở nước ta là kết quả của bao đời ông cha chúng ta tự lực làm nên, nhưng nếu đem so với phương tây thì rõ ràng “mình mới bước được một bước thì người ta đã nhảy ba bước”. Đã chậm hơn phương tây thì đương nhiên phải học, ừng này trong chúng ta lại nảy sinh tư tưởng chỉ biết ngồi bi quan than thở; vì họ chạy nhay như vậy, ta có cố mấy cũng chẳng làm sao mà bằng được phương tây.

Và đến bây giờ chúng ta mới cảm nhận được một thực tế là nền độc lập của nước ta sao mà mong minh, yếu ớt đến thế khi đứng trước sức mạnh của phương Tây.

Tinh thần, chí khí độc lập là điểm xuất phát của mọi vấn đề:

Không thể đánh giá được công cuộc khai hóa văn minh của một nước nếu chỉ nhìn vào diện mạo bề ngoài không thôi. Dù chính phủ Minh Trị có tự mãn đến mấy vì đã xây dựng được rất nhiều trường học, nhà máy xí nghiệp, xây dựng lục quân hải quân, thì tất cả những thứ đó cũng chỉ là cái vỏ bên ngoài, chỉ là “phần xác” của một quốc gia văn minh. Để hoàn thiện hình thức bề ngoài thì rất đơn giản. Vì chỉ cần có tiền. Có tiền thì xây được trường học, mua được máy móc, dựng được nhà xưởng, trang bị sung ống tàu bè cho quân đội.

Nhưng, có một vấn đề không hiện ra thành hình ở đây. Vấn đề này mắt không nhìn thấy, tai không nghe được, không thể mua bán, không thể vay mượn. Nó liên quan tơi hết thảy người Nhật bản chúng ta. Nó ảnh hưởng rất mạnh. Không có nó, thì mọi hình thái của văn minh như những gì mà tôi đã nêu ra ở trên đều không thể phát huy được hiệu quả trong thực tế. Nó là cái quan trọng nhất cà phải được coi là “phần hồn” của văn minh. Vậy đó là cái gì?

Đó chính là: “Chí khí độc lập của nhân dân, tinh thần độc lập của nhân dân”.

Thời gian qua, chính phủ nước ta ra sức xây dựng trường học, chấn hưng xí nghiệp nhà xưởng, cải cách quân đội. Và hầu như đã hoàn tất diện mạo bề ngoài, “phần xác” của một nước văn minh trên đất Nhật Bản. Thế nhưng, cái quan trọng nhất mà chúng ta thiếu đó là chí khí, tinh thần của nhân dân để đưa đất nước thực sự độc lập, thực sự bình đẳng với phương tây. Nhân dân ta cũng không có cả chí khí tinh thần quyết không để đất nước thua kém phương Tây. Và không chỉ nhân dân không có chí khí đó, tinh thần đó, mà ngay cả những quan chức chính phủ - những người có trách nhiệm phải tìm hiểu phương tây – cũng thế, chưa tìm hiểu thì họ đã tặc lưỡi buông xuôi, vì chính họ cũng mang tâm lý tự ti, mặc cảm trước phương Tây. Đã tự ti và mặc cảm như vậy thì còn đầu óc đâu để mà tỉnh táo nắm bắt tình hình được nữa.

Vấn đề chính là ở chỗ: Nếu không có chí khí độc lập, tinh thần độc lập thì mọi hình thái của văn minh chỉ còn là hình thức, hoàn toàn vô dụng.

Vận hội sẽ hé mở ở những nơi phát huy được chí khí của mình:

Cả ngàn năm qua, chính phủ nắm trong tay mọi quyền hành trên khắp đất nước. Từ quân đội, học thuật, công thương nghiệp cho tới cả những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống hằng ngày, không cái gì mà chính phủ không nhúng tay vào. Nhân dân chỉ còn biết nhắm mắt tuân theo các chỉ thị của chính phủ. Đất nước ta giống như tài sản riêng của chính phủ, còn nhân dân chẳng khác nào như những người ăn nhờ ở đậu vậy. Đất nước ta như quần đảo không người ở. Nhân dân ta mang tư tưởng như những kẻ ăn nhờ ở đậu trên mảnh đất này. Và thế thì quốc gia cũng chỉ như cái nhà trọ, để người dân tạm dừng chân trong cuộc đời họ mà thôi. Vì thế, đối với người dân, vận mệnh quốc gia không dính dáng gì đến mình cả, không phải là nơi để phát huy chí khí. Tư tưởng này bao trùm khắp mọi miền đất nước.

Trên thế gian này, mọi sự vật nếu không tiến bộ ắt sẽ thụt lùi. Còn nếu nỗ lực thì không thể thụt lùi mà chắc chắn sẽ tiến về phía trước. Chẳng có sự vật nào lại không lùi không tiến mà chỉ dẫm chân tại chỗ cả.

Nhìn vào xã hội nước ta hiện nay, tôi có cảm tưởng như hình thái văn minh đang tiến lên, nhưng “phần hồn” của văn minh thì ngày càng suy giảm. Tôi muốn nói với các bạn thế này: ngày xưa, dưới thời phong kiến Mạc phủ, chính quyền chỉ dùng sức mạnh cai trị dân. Nhân dân do yếu thế nên chỉ còn có cách là ngoan ngoãn phục tùng chính quyền, nhưng trong bụng thì không phục chút nào cả. Học sợ sức mạnh của chính quyền nên phải theo, và bề ngoài phải tỏ ra phục tùng.

Hiện nay, chính phủ Minh Trị không những có sức mạnh mà còn có cả trí tuệ nữa. Chính phủ Minh Trị đang đảm đương, xử lý mọi vấn đề bằng sự mẫn cảm, hết sức nhanh nhậy.

Chưa đầy 10 năm sau khi lên nắm quyền, chính phủ đã cải cách toàn bộ hệ thống giáo dục, quân đội, xây dựng hệ thống đường sắt, thành lập mạng lưới bưu điện, điện tín, xây dựng nhưng công trình kiến trúc bằng đá, xây dựng hệ thống cầu cống bằng sắt thép… Tính quyết đoán, năng lực hành động và những kết quả đạt được của chính phủ thu hút sự quan tâm chú ý của dân chúng.

Nhưng trường học là trường học của chính phủ, quân đội là quân đội của chính phủ. Đường sắt, bưu điện, điện tín, công trình kiến trúc bằng đá, cầu cống bằng sắt thép cũng như vậy. tất cả đều của chính phủ.

Người dân suy nghĩ về những việc trên như thế nào? Và dân chúng nói với nhau ra sao? Họ bảo rằng: “Chính phủ hiện nay vừa có sức mạnh vừa có đầu óc, nên chẳng ai có thể đọ nổi. Chính phủ ở trên cao trị quốc, mọi thứ đã có chính phủ lo nghĩ và làm cho rồi. Còn chúng ta là loại dân đen ở dưới, cứ có cái ăn để sống là được. Việc nước là chuyện đại sự, là việc của “các quan trên”, chứ đâu phải việc của lũ dân đen mình mà lo”.

Nhưng tôi xin phân tích thế này: chính quyền phong kiến Mạc phủ trước đây, chỉ biết dùng quyền lực để cai trị, còn chính phủ Minh Trị hiện nay, dùng cả sức và trí để cai trị. Chính quyền cũ không biết thủ thuật để cai trị dân, còn chính phủ mới bây giờ thì ngược lại. Chính quyền cũ dùng mọi cách làm tê liệt, làm rã rời sức dân, chà đạp tới tận cùng chân tơ kẽ tóc của dân, quy định cả cách ăn mặc, đi đứng của mọi thành phần trong xã hội, trừng phạt nghiêm khắc mọi sự lẫn lộn. Còn chính phủ hiện nay thì cai trị khéo léo tới mức người dân bị lấy mất cả “hồn lẫn xác” mà cũng không hay. Vì thế dân ta thời trước sợ chính quyền như sợ ma quỷ, còn dân ta ngày nay thì tôn chính quyền lên như thần thánh để thờ.

Nếu nhân dân ta không tỉnh ngộ, không nhận ra sự “lầm tưởng” mà cứ thế quen dần với tình trạng như hiện nay, thì chính phủ có đổ công đổ của để hoàn thiện “cái vỏ” căn minh nhiều đến đâu đi nữa cũng chỉ tổ làm cho khí lực trong dân ngày một mất đi và như thế tinh thần – phần hồn của văn minh – cũng suy yếu theo.

Lẽ ra phải tự hào về quân đội thường trực của chính phủ là để bảo vệ đất nước, thì ngược lại dân chúng vẫn nhìn quân đội như một công cụ để chính phủ đe dọa và đàn áp. Lẽ ra phải tự hào về trường học, đường sắt – là bằng chững tiến bộ của nền văn minh – thì ngược lại dân chúng coi chúng như vậy phẩm được chính phủ ban tặng. Thói ỷ lại vào chính phủ cứ thế mà gia tăng.

Tình thần độc lập trong nhân dân khô héo, teo tóp như thế, cái gì cũng “sợ hãi” mà trông cậy vào chính phủ của nước mình thì thử hỏi bằng cách nào và làm thế nào mà Nhật Bản chúng ta có thế tranh đấu để văn minh so với phương Tây được?

Vì thế tôi nghĩ: Nếu không vun đắp chí khí độc lập trong nhân dân, mà chỉ lo hoàn thiện cái vỏ bề ngoài của văn minh trên đất nước ta, thì điều đó cũng là vô nghĩa. Ngược lại, cái vỏ văn minh đó chỉ khiến cho lòng dân thêm yếu đuối, hoang mang.

Khai phá văn minh là nhiệm vụ của tầng lớp trí thức trung lưu:

Văn minh của một quốc gia, không phải do chính phủ sang tạo từ trên xuống và cũng không phải do thường dân làm được từ dưới đưa lên. Văn minh của một quốc gia phải do tầng lớp giữa – giai cấp trung lưu – có tri thức, kiến thức, động não trước thời cuộc, suy nghĩ hợp lòng dân thực hiện. Có như vậy mới mong thành công.

Lịch sử của các quốc gia Tây Âu cho thấy sự phát triển công thương nghiệp ở các nước này không phải do chính phủ tạo ra. Mà tất cả đều là thành quả được sinh ra từ sự lao tâm khổ tứ, từ quá trinh lao động trí óc cật lực, từ quá trinh nghiên cứu tìm tòi đầy gian nan vất vả của các học giả thuộc giai cấp trung lưu.

Đầu máy hơi nước là phát minh của Watt. Đường sắt là thành quả công phu của Stevenson. Người nghiên cứu và tìm ra nguyên lý kinh tế là Adam Smith. Họ đều thuộc tầng lớp giữa, không phải bộ trưởng nội các chính phủ và cũng không phải là công nhân trực tiếp sản xuất. Họ thuộc giai cấp trung lưu, có tri thức, tìm tòi nghiên cứu, nhờ đó mà làm thay đổi bộ mặt xã hội.

Để mọi cá nhân có thể nghiên cứu, phát minh và ứng dụng kết quả rộng rãi trong xã hội, giúp ích cho cuộc sống thì cần phải tổ chức các công tu, phải khởi nghiệp trong khu vực tư nhân. Bảo hộ và tạo mọi điều kiện cho các công tu tư nhân phát triển là nhiệm vụ và trách nhiệm của chính phủ. Khai phá văn minh là công việc của khu vực tư nhân, bảo hộ là công việc của chính phủ. Có như thế thì mọi người dân mới không dửng dưng, mới tự hào “công cuộc văn minh hóa” là công cuộc của chính họ, chứ không phải là vật sở hữu riêng của chính phủ. Có như thế thì nhân dân mới vui sướng đồng cảm với mọi phát minh sang chế trên đất nước mình và càng muốn đồng lòng hợp sức sao cho mình không thua kém phương Tây. Chỉ có như vậy văn minh mới làm tăng chí khỉ của dân, mới trở thành sức mạnh hậu thuận cho nền độc lập của đất nước.

Thử nhìn vào công cuộc văn minh đang diễn ra trên đất nước ta mà xem, tôi chỉ có thể nói rằng chúng ta đang làm ngược với quy luật.

Ở nước Nhật chúng ta hiện nay, người chủ trương thúc đẩy văn minh, gìn giữ độc lập trước áp lực phương Tây là những người thuộc tầng lớp giữa trong xã hội, là các nhà trí thức và đơn độc chỉ có họ. Nhưng số đó cũng chỉ là thiểu số ít ỏi. Còn đa phần các tri thức đều thiếu con mắt nhận biết thời cuộc. Họ yêu quý à lo giữ chỗ cho bản thân họ hơn là lo lắng ưu tư cho đất nước. Đối với họ, gió chiều nào theo chiều ấy. Đa số các tri thức kiểu này luôn rình rập tìm kiếm lợi ích trước mắt, săn đón cơ hội leo vào hàng “quan chức”, sa vào các sự vụ quản lý vặt vãnh, tiêu phí thời gian bằng những việc vô bổ, xa rời công việc nghiên cứu, học thuật. Họ thỏa mãn với quyền cao bổng hậu. tệ hại hơn nữa, họ lại tự cao tự đại: “Uyên bác như chúng tôi đã tập trung hết trong hàng ngũ chính quyền rồi, trong xã hội đâu còn ai?”.

Tôi buộc phải nói rằng những người trí thức như vậy là nỗi bất hạnh cho công cuộc văn minh đất nước. Lẽ ra phải đảm nhiệm vai trò mở mang, nuôi dưỡng văn minh với tư cách của người trí thức, thì học lại vùi đầu vào việc kiếm lợi cho riêng bản thân, họ chẳng bận tâm đến sự thoái hóa của tinh thần học vấn trong xã hội, đất nước ra sao họ cũng mặc. Như thế mà vẫn tự cho mình là trí thức được sao?

Đó là một thực tế đáng hổ thẹn.

May sao, trường tư thục Kejo của chúng ta không có ai chạy theo trào lưu đang thịnh hành nói trên. Kể từ khi sáng lập, dù đơn độc nhưng trường chúng ta chưa bao giờ đánh mất niềm tự hào, dù phải “đơn thương độc mã” trong xã hội hiện tại, chúng ta đã, đang và vẫn tiếp tục vun xới, nuôi dưỡng tinh thần độc lập. Chúng ta chỉ có một mục đích gánh vai nâng đỡ tinh thần độc lập trong nhân dân.

Chúng ta lẻ loi, đang đứng mũi chịu sào trong cơn cuồng phong, trong dòng nước chảy xiết, chúng ta đang phải gồng mình chống chọi với cả một trào lưu đang làm thoái hóa xã hội. Nhiệm vụ của chúng ta thật khó khăn. Nhưng chính lúc này đòi hỏi chúng ta phải có lòng quả cảm và tinh thần cương quyết.

Dũng khí của con người không sinh ra từ sách vở.

Đọc sách là phương tiện nâng cao học vấn.

Học vấn là phương pháp tiến tới thực tiễn.

Chính kinh nghiệm, sự từng trải sản sinh ra lòng quả cảm.

Hội Kejo chúng ta, bất chấp khó khăn, bất chấp gian khổ, nguyện đem hết tri thức kiến thức có được, xây đắp con đường phát triển văn minh. Để đi tới đó, chúng ta không phân biệt, không từ nan bất kỳ lĩnh vực nào, ngành học nào. Chúng ta làm thương nghiệp, chúng ta tranh luận luật pháp, chấn hưng công nghiệp, khuyến nông, viết sách, dịch sách, phát hành báo, tất cả những gì liên quan tới văn minh.

Mỗi người chúng ta phải suy nghĩ về vai trò, sự đóng góp của bản thân, phải đi tiên phong trong nhân dân. Chúng ta cũng hợp tác với chính phủ.

Sức dân và sức chính quyền có cân bằng thì tiềm lực quốc gia mới gia tăng, nền móng độc lập của quốc gia mới vững chắc, có như vậy nước ta mới mong được bình đẳng với phương Tây.

Tôi tin rằng, vài mươi năm sau, cũng trong một dịp đón mừng năm mới, khi nhắc tới buổi sum họp hôm nay, chúng ta sẽ cùng nói với nhau rằng: “Mới chỉ có nền độc lập mong manh như hồi đó mà chúng ta sung sướng đến vậy. Bây giờ đã sánh vai bình đẳng thực sự với phương Tây như thế này thì còn sung sướng đến nhường nào?”. Như thế mới là niềm vui thực sự phải không các bạn?

Tôi muốn nói với các bạn trước khi cho phép tôi kết thúc.

Các bạn sinh viên. Các bạn hãy tự quyết định tương lại, chí hướng của chính mình theo mục đích của trường tư thục chúng ta ngay từ hôm nay, ngày đón năm mới này.

Tháng Giêng năm Minh Trị thứ bảy (tức năm 1784)
 
1355699422_7885_detail_fukuzawa_yukichi_a1.jpg

Fukuzawa Yukichi (1835 - 1901)


PHẦN VI: LUẬT PHÁP QUÝ GIÁ NHƯ THẾ NÀO?


Quốc dân phải làm trọn bổn phận “một thân hai vai”:

Chính phủ là người đại diện cho dân, làm theo ý nguyện của dân. Nhiệm vụ của chính phủ là trấn áp, bắt giữ kẻ có tội, bảo vệ người vô tội. Nếu mọi sự đều diễn ra trôi chảy như vậy thì trị an, trật tự trong nước tốt đẹp biết bao!

Người ta thường gọi kẻ có tội là ác nhân, gọi người vô tội là lương thiện.

Giả thử có kẻ xấu định gây nguy hại, chẳng hạn như chúng định h.ãm hại bố mẹ, vợ con chúng ta. Về lý mà nói, trong trường hợp này người lương thiện hoàn toàn có quyền tự vệ trước bạo lực của kẻ xấu, và còn có quyền “dần cho chúng một trận nhừ tử”. Nhưng không phải lúc nào người lương thiện cũng có thể chống trả nỗi lũ người xấu nếu chỉ biết cậy vào sức mình. Mà cứ cho là có thể tự vệ được đi nữa, thì cũng cần phải bỏ ra rất nhiều tiền bạc để lo phòng chống tội phạm.

Nhưng, chẳng phải là chúng ta đã thỏa thuận với chỉnh phủ rằng người dân ủy thác cho chính phủ - với tư cách làm người đại diện cho quốc dân – đứng ra bảo vệ trật tự trị an, đổi lại người dân sẽ đóng thuế đảm bảo cho mọi khoản chi cần thiết của chính phủ, kể cả lương lậu cho các viện chức đó sao? Ngoài ra, chính phủ - với tư cách là tổng đại diện cho người dân – có mọi quyền hành để giải quyết tức thì bất cứ việc gì xảy ra, theo hướng có lợi cho nhân dân.

Quốc dân nghe theo chính phủ không có nghĩa là chúng ta quân theo pháp luật do chính phủ soạn thảo. Cái mà chúng ta tuân theo chính là luật pháp do chính chúng ta lập ra. Chúng ta phá luật tức là chúng ta tự xé bỏ những quy định do bản thân chúng ta đặt ra. Nếu vi phạm luật, chịu sự trừng phạt thì đó không phải là do chính phủ mà là theo luật tự chúng ta quy định.

Mỗi người dân chúng ta có hai nhiệm vụ. Thứ nhất là lập ra chính phủ làm đại diện cho chúng ta, để bắt giữ kẻ xấu trong xã hội, bảo vệ dân lành. Thứ hai là thực hiện đúng sự thỏa thuận với chính phủ, tuân thủ pháp luật, và được chính phủ bảo vệ.

Theo lẽ đó, một khi chúng ta đã giao phó quyền lực chính trị cho chính phủ thì nhất thiết không được vi phạm thỏa thuận, nhất quyết không được quay lưng lại luật pháp. Bắt giữ lũ sát nhân, xử tử hình chúng là quyền hạn thuộc chính phủ. Quyền xét xử cũng như hòa giải mọi cuộc tranh chấp không phải là việc để quốc dân chúng ta phải nhúng tay vào. Nếu chỉ “vì căm thù” mà tự ý phán xử, bằng cách giết bọn ác nhân, hành động như vậy sẽ là phạm tội. Và tội này khó được pháp luật bỏ qua. Không có sai phạm nào lớn như sai phạm này.

Ở các quốc gia văn minh phát triển, hành vi “cá nhân tự coi mình là quyền phán quyết, hành xử” bị luật pháp khép tội rất nặng. Còn tại Nhật bản, người ta lầm tưởng rằng chính phủ rất có uy. Nhưng thật ra nhiều người chỉ biết sợ chính phủ thôi, chứ họ hoàn toàn không am hiểu luật, không biết được luật pháp cao quý ra sao.

Bây giờ tôi sẽ giải thích rõ hơn, vì sao bất kỳ cá nhân nào cũng không được “tự ý phán quyết hành xử”, cũng như vì sao luật pháp lại quý giá đến như vậy.

Tôi lấy ví dụ thế này: Có một lũ cướp, xông vào nhà mình, đe dọa gia chủ và định thực hiện hành vi cướp tài sản. Theo luật thì chủ nhân phải báo ngay cho nhà chức trách biết. Nhưng thực tế, vì sự việc xảy ra quá bất ngờ, gia chủ luống cuống và cũng chẳng có thời gian để làm việc đó. Trong lúc bọn cướp đã xông vào nhà và bắt đầu cướp tài sản. Gia chủ muốn ngăn lũ cướp lại, nhưng một mình thì rất nguy hiểm nên hợp sức với mọi người trong nhà chống chọi lại lũ cướp. Nhờ thế mà lũ cướp bị tóm và bị giải tới nhà chức trách. Khi bắt được lũ cướp, đánh què chân, có trường hợp vì quá tay nên đánh chết bọn cướp.

Tuy vậy, gia chủ và những người trong nhà không bị khép tội “tự coi mình có quyền phán quyết hành xử”. Vì họ rơi vào hoàn cảnh buộc phải dùng phương tiện tự vệ để bảo vệ tính mạng, bảo vệ tài sản của mình.

Trừng phạt tội phạm là quyền hạn của chính phủ, dứt khoát không phải là bổn phận hay trách nhiệm của một cá nhân nào cả. Vì vậy, trường hợp bắt được lũ cướp và cho dù chúng ta chưa bị chúng gây thương tích gì cả, nhưng chỉ và quá căm tức mà đánh đập hay giết phắt chúng đi là không được. Luật pháp không cho phép, dù chỉ dùng một ngón tay động vào cơ thể chúng. Nhiệm vụ của chúng ta là phải cấp báo ngay cho nhà đương cục, và chợ đợi sự phán xử của chính phủ. Nếu tóm chúng xong, chúng ta hành động theo cảm tính, tức là “tự cho mình có quyền đánh đập, trả thù”, thì hành động như thế tương đương với tội cố ý giết người vô tội, sẽ bị luật pháp khép vào tội giết người.

Luật pháp của quốc gia nghiêm minh có nghĩa là vậy.

“Trung thần nghĩa sĩ” dưới góc độ pháp luật:

Nếu xem xét vấn đề như trên, thì bạn se hiểu rõ việc “tự cho mình cái quyền phán quyết” là nghiêm trọng đến nhường nào? Chúng ta phải hiểu rằng trước khi bị trả thù thì những kẻ h.ãm hại cha mẹ mình đã phạm tội giết người. Bắt giữ và kết án chúng là trách nhiệm của chính phủ, quốc dân chúng ta không liên quan. Có cái lý nà cho phép tự tiện giết tội phạm thay cho chính phủ với lý do trả thù cho cha mẹ bị hại. Hành động như vậy cũng có nghĩa là quay lưng lại với những thỏa thuận với chính phủ, đi chệch khỏi trách nhiệm của quốc dân, không phải phận sự mà cứ tùy tiện phán xử.

Nếu thấy cách xử trí củ chính phủ là sai lầm, bao che cho tội phạm thì phải kiện chính phủ vì sự vô lý đó. Giả thử, kẻ thù của cha mẹ đứng ngay trước mặt cũng không có nguyên tắc nào cho phép con cái được tự động trả thù.

Dưới thời Genroku co câu chuyện các võ sĩ thuộc hạ của Asano – lãnh chúa vùng Akou – sát hại sứ thần triều đình là Kira Kozukenosuke để rửa nhục cho chủ.

Người đời ca tụng những người tham gia việc báo thù này,gọi họ là các “Nghĩa sĩ thành Akou”. Lời ca tụng như thế chẳng phải là một lầm lẫn sao?

Vào thời đó, chính quyền Nhật bản là shogun Tokugawa. Lãnh chúa Asano Takuminokami, sứ thần Kira Kozukenosuke, võ sĩ thuộc hạ của nhà Asano… tất thảy đều là người Nhật bản. Lẽ đương nhiên mọi người đều thỏa thuận sẽ tuân thep chính phủ và nhận sự bảo hộ của chính phủ. Vậy mà khi xảy ra chuyện sứ thần Kira có điều sai trái, thất lễ với Asano, lẽ ra phải thưa kiện với chính phủ thì lãnh chúa Asano lại nổi trận lôi đình theo cảm tính, rút gươm dọa giết sứ thần. Từ đó, cả hai nhà tìm mọi cách trả thù nhau, buộc Shogun Tokugawa phải phán xử. Kết cục là lãnh chúa Asano bị khéo tội giết người, buộc phải mổ bụng tự vẫn. Còn phía nhà Kira không phải chịu thêm hình phạt nào hết.

Có thể khẳng định rằng kết quả của phiên tòa đó có sự thiên lệch, bất chính. Nhưng nếu nhận thấy sự không minh bạch, thiên vị như vậy, tại sao thuộc hạ gia thân của nhà Asano lại không kháng kiện chính phủ. Nếu như cả 47 võ sĩ thuộc hạ nhà Asano, lần lượt khiếu kiện theo đúng quy định, thủ tục của luật pháp thì sự thể sẽ ra sao? Có thế sự khiếu kiện của họ sẽ không được chấp nhận, ngược lại những người tham gia khiếu kiện sẽ bị bắt và bị giết vì bản chất nền chính phủ do shogun Tokugawa cầm đầu là độc đoán, bạo ngược. Nhưng chúng ta không sợ, người này bị bắt, bị giết thì người khác tiếp tục tranh đấu. Việc khiếu kiện thấu tình đạt lý thì dù lần lượt cả 47 võ sĩ buộc phải hi sinh mạng sống cũng phải khiếu kiện cho đến cùng.

Làm như thế thì chính phủ có tàn bạo độc đoán đến mấy cuối cùng cũng phải thừa nhận đạo lý, phải xử lại phiên tòa, buộc nhà Kira cũng phải chịu tội. Có như vậy tôi mới coi là những nghĩa sĩ chân chính và mới đáng được ca ngợi.

Tiếc thay, họ hoàn toàn không biết tới nguyên tắc đó. Là quốc dân mà không suy tính tới sức nặng của pháp luật. Tự cho mình có quyền trả thù chém giết nhà Kira. Chỉ có thế nói rằng họ đã ngộ nhận về trách nhiệm của quốc dân, phán quyết tội lỗi theo cảm tính cá nhân. Cũng may là chính quyền Mạc phủ Tokugawa thời đó đã trấn áp toàn bộ cuộc bạo hành này, nếu không thì cả hai dòng họ Asano và Kira cùng các thuộc hạ của họ sẽ tiếp tục báo thù, hạ sát lẫn nhau không biết khi nào mới chấm dứt cảnh đầu rơi máu chảy. Và kết quả là xã hội sẽ rơi vào tình trạng vô chính phủ, vô luật pháp.

Tự cho mình có quyền phán quyết, việc này gây tổn hại cho quốc gia ra sao, bạn đọc chắc đã hiểu. Chúng ta phải cân nhắc trong suy nghĩ và hành động, Đó là điều tôi muốn nói.

Ngày xưa, ở Nhật Bản có luật cho phép các Võ sĩ chém đầu bất kỳ một người nông dân nào dám thất lễ với tầng lớp Samurai. Chính phủ đã dung túng, hợp pháp hóa cho tầng lớp Võ sĩ có “quyền được tự ý phán quyết” trong xã hội. Thật đáng lên án.

Luật pháp của quốc gia, phải do duy nhất chính phủ nơi đó có quyền thực thi. Nếu không như vậy thì chính phủ sẽ suy yếu. Chính quyền Mạc phủ Tokugawa suy vong cũng vì lẽ đó.

“Tenchyu” – Thay trời trừng phạt:

Có một kiểu “tự ý phán xử” hết sức nguy hại, có thể làm nghiêng ngả nền chính trị đất nước, đó là ám sát.

Từ xa xưa, các vụ giết người thong thường vì tư thù, hoặc để cướp đoạt của cải. Những kẻ giết người đều thừa hiểu hành động đó là phạm tội, và bản thân sẽ trở thành tội phạm.

Và trong xã hội còn có một kiểu giết người khác. Hình thức này không mang tính tư thù. Nó được gọi là hành vi ám sát các địch thủ chính trị.

Trong một đất nước, việc có các luồng tư tưởng chính trị khác biệt là lẽ bình thường. Chỉ vì cái gọi là “chống lại hiểm họa của những người có quan điểm, chính kiến khác với mình”, họ căm tức tư tưởng của người khác, họ vi phạm quốc pháp bởi động cơ cá nhân, họ giết người theo cảm tính, họ không những không biết hổ nhục mà lại còn lấy làm đắc ý và dõng dạc tuyên bố: “Đó là hành động thay trời trừng phạt”. Những kẻ ám sát được tâng bốc, được coi là “nghĩa sĩ”.

Cái gọi là Tenchyu – Thiên tru, hay thay trời trừng phạt là cái gì vậy? Có thật là họ thực sự chủ trương thay trời trừng phạt? Vậy thì trước đó, hãy tự ngẫm lại xem họ là cái gì trong xã hội đã. Chẳng phải là họ đang sống ở đất nước này và đã thỏa thuận với chính phủ như thế nào với tư cách là một công dân? Đó là nhất định tuân thủ tôn trọng quốc pháp và nhận được sự bảo vệ che chở của chính phủ đó sao?

Nếu như có bất mãn với nền chính trị của đất nước, hoặc cảm nhận thấy có nhiều kẻ định xâm phạm thế chế thì bình tĩnh kháng nghị sự tình đó lên chính phủ. Tại sao lại phớt lờ, qua mặt chính phủ, tự cho mình cái quyền được phán quyết như vậy? Những người thuộc loại này thường không có cái nhìn tổng thể, họ vừa cứng nhắc lại vừa nóng vội trước tiền đồ của quốc gia. Họ không nắm được nguyên nhân sâu xa dẫn tới tình trạng như hiện nay của đất nước, nên cũng không biết phải dùng biện pháp nào để đưa đất nước rời khỏi tình cảnh hiện tại.

Thử nhìn lại xem, trong lịch sử đông tây cổ kim đã có vụ ám sát chính trị nào làm cho thế giới này tốt hơn, làm cho con người trong xã hội trở nên hạnh phúc hơn chưa?

Luật cần rõ ràng, đơn giản nhưng phải nghiêm minh:

Những người không tôn trọng phép nước, không thấy sự quý giá của quốc pháp, ngoài mặt luôn tỏ vẻ nghiệm chỉnh, đứng đắn, nể sợ cán bộ công quyền, nhưng bên trong thì ngấm ngầm vi phạm luật pháp mà không chút mảy may hổ thẹn. Họ luôn tìm mọi kẽ hở trong luật để luồn lác, né tránh. Những kẻ giỏi luồn lách luật lại được dư luận khen ngợi là “tài ba”. Họ rất khoái chí khi khoa khoang cùng đồng bọn về thủ đoạn của mình: “Bề ngoài phải làm như thế này. Muốn tránh được luật thì phải làm thế kia”. Tệ hại hơn, họ còn bí mật móc ngoặc với các công chức, để tạo lợi thế cho họ trong công việc làm ăn. Đổi lại là hai phía cùng chia chác món hời, cùng tham nhũng và giấu nhẹm tội lỗi.

Phải thừa nhận rằng “đại pháp do các đấng bề trên” lập ra có nhiều điểm rất nhiêu khê, phiền phức, thậm chí có khi còn trái hẳn với thực tế, nên mới xảy ra tình trạng như trên. Nhưng, nếu xem xét vấn đề trên góc độ chính trị của một quốc gia thì cá vụ việc đó là những tập quán xấu đáng sợ. Một khi coi thường luật pháp, quốc dân đã trở thành những người không trung thực với đất nước, thản nhiên vi phạm luật, dửng dưng trước mọi tội lỗi.

Ví dụ như khi chính quyền đề ra luật “Cấm tiểu tiện không đúng chỗ”. Vậy mà không ít người trong chúng ta lại coi thường lệnh cấm này, thản nhiên “tè” bậy, miễn sao đừng để cảnh sát trông thấy là được. Bị phát hiện, họ không tỏ ra hối hận nhận mình sai trái, mà lại còn kêu ca “người khác cũng thế sao không bắt, lại chỉ bắt có mình tôi”, rồi tự than vãn cho “cái số không may” của mình.

Tôi chỉ còn biết than trời trước tình trạng thản nhiên coi thường phép nước như vậy.

Vì thế, chính phủ khi làm luật cần phải đơn giản và rõ ràng. Và luật pháp phải được thực hiện nghiêm minh. Mặt khác, quốc dân chúng ta nếu nhận thấy luật đưa ra còn nhiều điểm bất tiện thì phải cùng nhau tranh luận và kháng nghị với chính phủ một cách thằng thắn, không ngần ngại. Và cũng phải hiểu rằng một khi luật đó đang được áp dụng thì trước hết phải chấp hành luật cái đã. Vì đó là nghĩa vụ của quốc dân.

Bộ máy hành chính với những quan chức “đầu gỗ”:

Mới đây, trường Keio chúng tôi có một vụ việc.

Số là, từ năm kia trường chúng tôi được nhà quý tộc Ota Sukeyoshi tài trợ cho một khoản tiền để thuê một người Mỹ sang giảng dạy. Hết hạn hợp đồng, ông ta về nước. Chúng tôi tìm được người khác sang thay và đã thỏa thuận xong với người mới về mọi điều khoản.

Nhà quý tộc Ota bèn gửi đơn đến Bộ Giáo dục ở Tokyo, đề nghị chấp thuận cho người Mỹ này đang có mặt tại trường giảng dạy về Văn học Mỹ. Thế nhưng, theo quy chế mà Bộ giáo dục ban hành thì “không chấp nhận cho các giảng viên người Mỹ nếu không xuất trình được bằng tốt nghiệp khao học tại Mỹ cho dù chi phí thuê là do cá nhân tài trợ cho trường tư thục”. “Người Mỹ này không xuất trình bằng tốt nghiệp nên Bộ không thể cho phép ông ta giảng dạy về Văn học Mỹ. Còn nếu dạy tiếng Anh thì được”.

Tokyo đã phúc đáp thư thỉnh cầu của nhà quý tộc Ota như trên.

Thấy vậy, tôi bèn viết đơn gửi lên Bộ để trình bày cụ thể hơn. Trong đơn tôi viết: “Quả thật người Mỹ này không có bằng tốt nghiệp theo yêu cầu của Bộ, nhưng chúng tôi xét thấy rằng năng lực của ông ta hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu giảng dạy cho học sinh của nhà trường, nên chúng tôi mong Bộ cấp phép. Nếu chúng tôi ghi trong đơn đề nghị “ông ta sang Nhật để dạy ngoại ngữ” thì mọi việc sẽ xong. Nhưng trường chúng tôi vốn có nhu cầu học về Văn học Mỹ, nên chúng tôi mới viết đơn đề nghị chính thức. Vả lại dối trá với quý Bộ bằng cách xin một đằng làm một nẻo thì lương tâm của chúng tôi lại càng không cho phép”. Nhưng Bộ vẫn giữ nguyên tắc của mình và trả lại toàn bộ hồ sợ đề nghị của tôi.

Chằng còn cách nào khác, chúng tôi buộc phải xin lỗi và không thể tuyển dụng người Mỹ ấy. Cuối tháng 12 năm ngoái, ông ta trở về Mỹ. Kế hoạch giúp đỡ trường của nhà quý tộc Ota vì thế cũng tan thành mây khói. Hàng trăm học sinh cũng mất hết hi vọng.


Đại học Keio ngày nay

Thật ra, không chỉ riêng trường tư thục của tôi bị ảnh hưởng mà phải nói rằng quyết định của Bộ là rào cản nặng nề cho nền giáo dục của cả đất nước. Bao công sức trở nên vô tích sự. Sự tức giận vì những quy định ngu ngốc trào lên trong chúng tôi.

Nhưng vì đó là nguyên tắc, luật pháp nên phải tuân thủ, không thể làm khác. Sắp tới, chúng tôi sẽ tiếp tục gửi đơn đề nghị.

Chỉ riêng việc này, trướng chúng tôi họp đi họp lại cả chục lần. Đa số ý kiến nghiêng về việc xóa chữ Văn học, thay vào đó là chữ Ngoại Ngữ. Làm như vậy cũng chỉ vì lợi ích của học sinh thôi chứ có làm gì xấu đâu.

Kết cục là trường chúng tôi không thuê được giảng viện. Cho dù việc đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến Hội và học sinh nhà trường nhưng cũng không vì thế mà chúng tôi lừa gạt cơ quan công quyền. Để đạt được mục đích mà phải dối trá thì thật đáng hổ hẹn vì chúng ta là những học giả chân chính, những người sống luôn phải tuân thủ pháp luật. Phương sách tối ưu là không làm sai bổn phận cơ bản của quốc dân một nước. Và cũng vì thế mà dẫn tới quyết định như tôi kể ở trên.

Trên đây là một ví dụ liên quan tới việc giải quyết chuyện học hành ở một trường tư thục. Đọc tơi đây, các bạn có thể cho là tưởng chuyện gì ghê gớm lắm chứ sự việc cỏn con thế này không đáng bàn luận. Nhưng nếu chúng ta cùng cảm nhận nguyên nhân của sự việc thì tôi nghĩ là nó hệ trọng tới cả một nền giáo dục quốc gia.
Với chủ ý đó tôi xin được kết thúc bài viết ở đây.
Tháng 2 năm Minh Trị thứ bảy (tức năm 1874)
 
Khuyến học: Phần VII - Trách nhiệm của quốc dân

samurai2.jpg


Trong phần Sáu, tôi đã bàn về “Sự quý giá của luật pháp” và đề cập tới “hai vài trò của quốc dân”. Để bổ sung thêm cho Phần Sáu, trong Phần Bảy này, tôi muốn giải thích kỹ hơn về nhiệm vụ, vai trò đó.

Có thể nói ở mỗi quốc dân, người nào cũng đều có hai vai trò. Thứ nhất là với tư cách một người dân đứng dưới chính phủ, tức là vai trò “khách”. Thứ hai là trên cơ sở mọi người dân trong đất nước thống nhất tự nguyện kết nối thành một công ty mang tên “quốc gia”, đề ra quy định, luật pháp và đưa “quốc gia” vào hoạt động, tức là vai trò làm “chủ”.

Tôi giả dụ thế này: Có 100 thị dân định lập công tu thương mại gì đó. Mọi người cùng bàn bạc quyết định thành lập, đề ra quy chế nội quy rồi đưa công ty vào hoạt động. Khi đó cả 100 người đều là chủ nhân của công ty. Và dựa vào những điều đã cùng nhau quy định, mọi người thống nhất tuân theo nó, thì khi đó 100 người đồng thời cũng là nhân viên công ty.

Đất nước giống như công ty, nhân dân giống như nhân viên, mỗi người vừa đứng trên vị trí cai trị vừa đứng trên vị trí duy trì sự cai trị ấy, vừa là chủ vừa là khách.

Nghĩa vụ của quốc dân:

Đứng trên góc độ là “khách”, thì mọi quốc dân ai cũng phải tôn trọng luật pháp, đồng thời không được quên rằng “tất cả mọi người đều bình đẳng”. Anh không xâm phạm đến quyền lợi của tôi thì ngược lại tôi cũng không được cản trở quyền lợi của anh. Anh có niềm vui của anh thì tôi cũng có niềm vui của tôi. Không được chiếm đoạt niềm vui của người ta. Không được cướp của người ta để làm giàu cho nhà mình. Không được giết người, không được thậm thụt mật báo, bới móc dựng chuyện cho người khác. Việc tuân thủ luật pháp, tôi cũng như anh phải tuân theo quy định như nhau.

Luật pháp do chính phủ lập ra, cho dù còn nhiều điểm rắc rối, xa rời thực tế, thì cũng không có đạo lý nào cho phép chúng ta tùy tiện thích thì theo, không thích thì vu phạm. Ngay cả việc đại sự như quyết định chiến tranh, hay ký các hiệp ước ngoại giao cũng đều thuộc thẩm quyền của chính phủ. Quyền hạn đó, vốn dĩ là thỏa thuận với quốc dân và chúng ta đã trao cho chính phủ. Vì thế, nếu không can hệ tới đại sự thì không nên tranh luận.

Nếu quốc dân chúng ta quên tình thần này, kể cả trường hợp cách xử lý của chính phủ trải hẳn với tôn chỉ mục đích của chúng ta đi chăng nữa, chúng ta cũng không nên tranh cãi tùy tiện, không thể xuất phát từ lợi ích nhỏ mà xóa bỏ thỏa thuận, bạo động khiêu khích gây ra chiến tranh với ngoại bang, như thế nền độc lập của nước ta một ngày cũng không mong giữ nổi.

Điều này cũng giống như ví dụ về công ty thương mại mà tôi đưa ra ở trên. Trong số 100 thành viên có 10 người được chọn vào hội đồng quản trị. Dù có bất mãn hay không hài lòng với cách làm của 10 người đó thì cũng không vì thế mà 90 người còn lại, tự ý làm theo suy nghĩ của riêng mình. Chẳng hạn 10 thành viên hội đồng quản trị muốn nhập rượu để bán thì 90 người kia lại muốn nhập gạo về. Bàn bạc đôi co không ai chịu ai, rồi mạnh bên nào bên nấy làm, quên hẳn những điều đã quy định với nhau, thì thử hỏi công việc kinh doanh của công ty sẽ ra sao? Chẳng phải là mọi sự chia rẽ đều dẫn tới tổn thất khiến cho tất cả 100 người đều phải gánh chịu đó sao?

Vì thế nếu mới chỉ cảm nhận luật pháp còn sai, bất cập thì không coi đó là cái cớ để phá bỏ nó. Và giả sử sự bất chính, bất cập có là sự thực đi chăng nữa thì phải bình tĩnh kháng nghị, kiên trì kháng nghị đến khi chính phủ phải sửa đổ mới thôi. Khi chính phủ cố tình làm ngơ, thì hợp sức lại kiên nhẫn chờ đợi thời cơ.

Quyền lợi của quốc dân:

Nếu đứng ở góc độ chủ nhân để bàn thì quốc dân một nước cũng chính là chính phủ của nước đó. Vì sao vậy? Đương nhiên toàn thể quốc dân không thể tất cả đều làm chính trị. Chúng ta thỏa thuận với nhau lập ra chính phủ, chúng ta quyết định giao cho chính phủ thi hành luật pháp với tư cách là người thay mặt cho chúng ta.


Vì lẽ đó, hân dân là chủ nhân của đất nước, là gia chủ của người cai trị và chính phủ là người đại diện, người cai trị. Giống như từ trong số 100 người lập công ty, chọn ra 10 người vào hội đồng quản trị tức là vào chính phủ, số 90 người còn lại là nhân dân. Cho dù là nhân dân – số 90 người còn lại – không trực tiếp làm các sự vụ quan trọng, nhưng một khi đã giao phó cho 10 thành viên thay mặt mình thì nếu suy xét thật kỹ thì bản thân mỗi chúng ta chẳng phải là chỉ nhân của công ty đó sao?

Mặt khác, 10 người trong hội đồng quản trị, hiện đang điều hành hoạt động của công ty, nhận được sự tin cậy của nhân viên, gánh nặng trách nhiệm nhằm đáp ứng tình cảm đó, vì thế phải đem hết sức mình trong công vụ của công ty, không được nghĩ tới cái lợi cho bản thân. Bây giờ nếu thử suy nghĩ điều trên, người ta thường gọi việc tham gia vào chính phủ là công vụ, việc công. Gốc gác của từ này là công việc của chính phủ không phải là sự vụ cá nhân của các quan chức. Mà nó có nghĩa là thay mặt chó nhân dân, thực hiện việc công, việc chung cho cả xã hội, để cai trị toàn bộ đất nước.

Phải đóng thuế:

Chính phủ dựa trên sự tin cậy, ủy thác của dân, thực hiện đúng lời hứa trước dân, không được phân biệt đốt xử đối với dân, phải mang lại quyền lợi tối đa cho nhân dân. Tức là pháp luật phải nghiệm minh. Không được phép hưởng lợi bất chính dù là cái lợi đó có nhỏ nhặt đến mấy. Giả dụ, có một toán cướp đột nhập vào nhà dân. Lúc đó chỉnh phủ biết, nhưng làm gơ không có bất cứ biện pháp gì để trấn áp, thì có thể nói rằng chính phủ đó cũng là lũ cướp và chẳng khác gì đồng đảng của lũ cướp. Chính phủ có trách nhiệm của chính phủ thì mỗi người dân cũng có trách nhiệm của mình.






Giả dụ, một quan chức chỉnh phủ mắc sai sót trong quá trình thực thi công vụ, làm tổn thất 3 vạn yen. Ngay cả tiền để đền bù tổn thất cho chính phủ, bản thân người đó cũng không có, Và đương nhiên quốc dân chúng ta là nơi xuất ra khoản tiền bồi thường thiệt hại đó.

Nếu đem chia số tiền tổn thất là 3 vạn yen cho 30 triệu người – là tổng dân số Nhật bản chúng ta hiện nay – thì đổ đồng mỗi đầu người phải chịu 10 mon (đơn vị tiền lè thời Minh Trị, bằng 1/100 yen, hiện nay không còn sử dụng nữa). Một quan chức chính phủ mười lần gây tổn thất như vậy thì số tiền mỗi quốc dân phải gánh chịu là 100 mon. Điều này cũng có nghĩa là một gia đình có năm nhân khẩu thì số tiền phải gánh chịu là 500 mon. Số tiền này đối với nông dân ở vùng quê tương đương với một bữa ăn tối ngon lành cho cả nhà gồm ông bà đến con cháu. Vậy mà sự lỗi lầm của một quan chức như nói trên vô thìn trung đã cướp đi niềm vui của những người dân lương thiện, những người nông dân làm việc cật lực cả ngày ngoài đồng. Thật hết chỗ nói.

Thế là quốc dân chúng ta liền nghĩ việc gì phải chi tiền cho những việc ngu xuẩn như vậy. Nhưng cũng chẳng có cách nào khác vì chúng ta là gia chủ của chính phủ, là chủ nhân của đất nước. Vả lại ngay từ đầu chúng ta đã thỏa thuận và giao phó công việc chính tị, tài chính của Nhật bản cho chính phủ rổi, nên cũng không thể mỗi khi xảy ra những chuyện chẳng hay ho của các quan chức là chúng ta lại qua bận tâm luận bàn, bực bội. Điều quan trọng hơn là thường nhật chúng ta phải hợp tác hết lòng với chính phủ. Trên cơ sở đó ta xem xét mọi việc làm của chính phủ, nếu thấy các quan chức hành động sai trai, chúng ta phải dám nói, phải tố cáo một cách trung thực với chính phủ, chứ đừng im lặng để mọi việc xảy ra rồi mới kêu ca.

Nhân dân chúng ta là chủ nhân của quốc gia, nên không thể chỉ vì trả khoản chi phí nói trên mà chúng ta bực bội khó chịu. Lương của các quan chức chính phủ, ngân sách quốc phòng, lương của công chức các cấp từ trung ương tới địa phương... đó là những khoản tiền khổng lồ nếu gộp lại, nhưng nếu chia đều ra cho từng người thì chúng ta mỗi người sẽ phải chỉ gánh chịu 1 hoặc 2 yen thôi. Chỉ cần trả số tiền như vậy trong suốt cả năm, đổi lại nhận được sự bảo vệ của chính phủ, được yên ổn làm ăn, tự do sinh sống thì cũng đáng “đồng tiền bát gạo” chứ sao?

Dù thế nào đi chăng nữa, chúng ta – mỗi quốc dân Nhật bản – phải thực hiện tốt việc đóng thuế cho chính phủ.

Đánh mất khí tiết, làm hại đến con cái, cháu chắt:

Nhân dân lẫn chính phủ, nếu cả hai phía đều làm trọng bổn phận, trách nhiệm của mình thì chẳng cần phải nói gì thêm cả. Nhưng cũng có những lúc chính phủ đi chệch hướng, thi hành lối chính trị chuyên chế bạo tàn, chạy theo quyền lực vô tri thức.

Những lúc như thế, nhân dân buộc phải hành động. Và sẽ hành động theo một trong ba giải pháp như sau. Hoặc từ bỏ khí tiết, khuất phục chính phủ. Hoặc phản kháng chính phủ bằng bạo lực. Hoặc sẵn sàng hiến thân, hu sinh tính mạng chứ không chịu để mất khí tiết. Tôi xin giải thích rõ hơn:

Giải pháp thứ nhất: Nếu chấp nhận vứt bỏ khí tiết, tuân theo chính phủ vô điều kiện thì có thể coi đây là biện pháp mù quáng.

Tôi đã giải thích ở phần trước: Đạo làm người là tuân theo đạo trời. Nếu vất bỏ đạo lý, khí tiết, đồng lõa với những sai trái bất chính thì tự chúng ta đã làm hỏng vị thế của con người và tập quán xấu đó sẽ truyền tới đời con, đời cháu.

Từ trước tới nay, ở Nhật bản có nhiều chính phủ thi hành chế độ chính trị chuyên chế bạo ngược đối với lũ dân ngu muội chúng ta. Nền chính trị bạo người sẽ không thể kéo dài mãi được. Biết vậy nhưng lặng thinh chấp nhận cảnh sống cùng cực chỉ vì sợ Tướng quân – Mạc phủ nổi giận và trấn áp. Chính điều này là ví dụ rõ ràng nhất mà tôi phải nói: Nếu nhân dân từ bỏ vị thế của mình thì tương lai bất hạnh sẽ chờ đón chúng ta.

Giải pháp thứ hai: Cá nhân chống lại chính quyền, là điều không tường. Vì thế mà tập hợp nhau, lập nhóm lập đảng gâu nên nội chiện, nội loạn. Cách này tôi không cho là cách làm nghiêm tức. Bởi nếu xảy ra nội loạn thì vấn đề phân biệt thiện, ác sẽ bị loại bỏ. Các bên chỉ dựa vào sức mạnh trên chiến trường để giải quyết. Và kẻ thắng sẽ quyết định tất cả. Mà các bạn hãy xem lại lịch sử từ cô chí kim của Nhật bản sẽ rõ: dân chúng ta không bao giờ cũng yếu hơn chính phủ. Tôi nghĩ thế này, nếu suy nghĩ về nguyên nhân của loạn lạc nội chiến thì rõ ràng do oán giận căm ghét sự vô nhân đạo, không có tình người của tầng lớp cai trị, nên mới dẫn đến xảy ra các cuộc nổi dậy chống đối. Và không có gì vô nhân đạo, không đếm xỉađến tình người cho bằng nội loạn. Tình người bị chia cắt, cha con, anh em trở thành thù địch, nhà của bị cướp phá, giết chóc lẫn nhau, sự tàn bạo kinh khủng không sao kể xiết. Mà phe thằng có lập ra chính phủ thì có gì đảm bảo chính phủ đó sẽ thực thi một đường hướng chính trị tử tế, vì họ sinh ra trong máu của nội loạn kia mà.

Giải pháp thứ ba: Giữ trọn đạo lý chính nghĩa, sẵn sàng hi sinh mạng sống trước mọi áp bức của chính quyền. Tức là tin tưởng một lòng một dạ vào đạo trời, dù phải chịu mọi cực hình của chính quyền chuyên chế, bạo ngược cũng không khuất phục, giữ vững khí tiết, bảo vệ chân lý, niền tin, hơn nữa không bao giờ sử dụng vũ khí bạo lực, chỉ dùng đạo lý để kháng cáo với chính phủ.

Trong cả ba giải pháp, tôi cho rằng giải pháp thứ ba là thượng sách. Nếu chúng ta chất cấn chính quyền bằng lý lẽ thì những luật pháp tốt hoặc những chính sách tuyệt vời hiện hành trong quốc pháp không bị ảnh hưởng. Thuyết phục bằng lý lẽ, điều đó sẽ thấm dần vào lòng người theo lẽ tự nhiên. Năm nay, thuyết phục chưa được thì sang năm tiếp tục thuyết phục cho tới khi chính quyền hiểu ra. Vì mục đích của nó là ngăn chặn và cải thiện bất chính trong chính quyền. Và một khi chính phủ đã chấp thuận cải thiện chính sách thì việc chất vấn chính phủ cũng sẽ chấm dứt.

Nếu chúng ta dùng sức mạnh đối địch với chính phủ thì chính phủ cũng sẽ đáp trả lại bằng việc đàn áp, bắt bớ. Quan chức chính phủ dù có là những kẻ bạo chính thì cũng là người Nhật bản chúng ta cả. Trước những lời lẽ đúng với đạo lý của những người chất vấn chính phủ trong hòa bình và sẵn sàng hi sinh thân mình vì đạo lý đó thì không có lẽ không thuyết phục hoặc không làm lay động được các quan chức chính phủ. Tôi nghĩ rằng họ không thể không hối hận về những lầm lỗi, sai trí của họ và sẽ cải tà quy chánh.

Như thế nào là “từ vì đạo”?

Ở phương Tây, người ta gọi những người ưu tư trăn trở trong xã hội, coi nhẹ bản thân, sẵn sàng hi sinh cho nhân loại bất chấp hiểm nguy là những người “Tử vì đạo”. Tính mạng mất đi chỉ là tính mạng cả một người nhưng hiệu quả mang lại hơn hẳn bất kỳ một cuộc nội chiến nào làm chết đi hàng triệu sinh linh, tiêu tốn hàng triệu tiền bạc.




Từ xa xưa, ở Nhật bản có biết bao người chết trận, biết bao kẻ tự mổ bụng tự vẫn. Những người này đều được xã hội đánh giá cao, nào là trung thần nghĩa sĩ, nào là đáng mặt anh hùng. Thế nhưng các bạn hãy cùng tôi thử tìm hiểu nguyên nhân vì sao họ lại dám xả thân như vậy? Có thể nói phần lớn họ đều bị cuốn vào các cuộc nội chiến giữa hai thế lực tranh giành quyền lực chính trị trong xã hội. Ví như cuộc chiến tranh Nam Bắc Nhật Bản chẳng hạn (cuộc nội chiến dai dẳng suốt 60 năm từ năm 1336 đến 1395 giữa hai thế lực Thiên Hoàng (nam Triều) và Mạc phủ (bắc Triều)). Hoặc họ chết trong các trận đánh để báo thù cho lãnh chúa. Những cái chết của họ gây nên sự xúc động trong xã hội. Quả thật, họ chết thật khảng khái, thật đẹp đẽ. Những nghĩ kỹ mà xem, những cái chết đó thực ra có đem lại ích lợi chân chính gì cho xã hội không? Trong khi bản thân họ, một chữ bẻ đôi cũng không biết, năng lực nhìn nhận sự việc không có, lại luôn bì nhồi vào đầu nào là phải trung thành với chúa, nào là không giữ trọn chữ trung thì thà chết còn hơn. Cho dù dư luận xã hội có chấp nhận và tha thứ đi nữa, thì giờ đây đứng trên tinh thần của công cuộc khai hóa văn minh để nhìn nhận, chỉ có thể khẳng định rằng họ hoàn toàn không hiểu thế nào là sự hi sinh chân chính, không hiểu ý nghĩa đích thực của việc chết vinh còn hơn sống nhục.

Xưa nay, nói tới văn minh là nói tới trí dục và đức dục, tức là khả năng nâng cao tri thức và đạo đức con người. Mỗi người đều mang nhân cách riêng của từng cá thể độc lập, hòa mình vào xã hội, không xâm phạm đến người khác và cũng không bị người khác làm hại. Mỗi người đều tự xác lập quyền lợi riêng của mình, trên cơ sở đó đem lại sự ổn định và phồn thịnh cho toàn xã hội.

Phải chăng cuộc nội chiến Nam Bắc, những cái chết của các võ sĩ vô chủ là hoàn toàn phù hợp với tinh thần của văn minh, là đạt được mục tiêu “đưa đường chỉ lối cho xã hội đến với văn minh”? Có đúng là cứ thắng trong cuộc nội chiến đó, cứ chém giết thật nhiều những kẻ đối địch, không làm bẽ mặt các lãnh chúa là sẽ mang lại văn minh cho xã hội, công thương nghiệp sẽ phát triển, một xã hội phồn vinh sẽ đến?
Phải biết hi sinh thân mình như thế nào?

Không biết đã bao nhiều lần tôi được nghe những câu chuyện đại loại như một người hầu nọ chủ sai cầm tiền đi mua rượu. Giữa đường người hầu chẳng may đánh mất đồng tiền, phần lo sợ, phần bối rối vì không làm đúng lời chủ dặn, nên treo cổ tự tử trên một cành cây dọc đường.

Giờ đây, nếu thương cảm với tâm trạng khi tự vẫn của người hầu trung nghĩa ấy, cũng như tìm hiểu kỹ hoàn cảnh lúc bấy giờ thì quả thật trong chúng ta sẽ dấy lên long xót thương tội nghiệp. Ra đi mãi mãi không quay về. Lấy cái chết để chuộc lỗi với chủ. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng khiến người đời phải xót xa, rơi lệ.

Lẽ ra, người hầu đáng được lưu danh trong dân chúng vì lòng trung thành của anh ta, cũng giống như lòng trung thành của các nghĩa sĩ trung thần. Vậy thì vì sao người ta không những không ngợi khen lòng trung thành của người hầu nọ, mà ngược lại còn tỏ ra khinh miệt hành động của anh ta? Người ta nói thế này: “Cái chết của người hầu chẳng qua chỉ vì một đồng bạc, sự thể có ghê gớm đến mức phải bỏ mạng như vậy đâu”. Nhưng dù suy luận như thế thì ngay việc đem câu chuyện đặt lên bàn cân để cân nhắc nặng nhẹ cũng là điều không nên. Không chỉ vì số tiền bị mất lớn hay nhỏ, và số người chết nhiều hay ít.

Ý nghĩa của cái chết chỉ được đánh giá nặng nhẹ tùy thuộc vào điều đó có lợi gì cho sự tiến bộ của nền văn minh xã hội. Bỏ mình trên chiến trường cho lãnh chúa sau khi đã tiêu diệt hàng vạn quân địch của các nghĩa sĩ, hay tự tử chỉ vì làm mất một cắc bạc của người hầu, suy cho cùng thì cả hai cách chết này giống nhau ở chỗ đều không mang lại ích lợi gì cho xã hội. Và cũng không thể coi trọng cái chết nào cả. Có thể nói rằng cả nghĩa sĩ lẫn người hầu đều dâng hiến tính mạng một cách uổng phí. Những cái chết như vậy, không thể gọi là “tử vì đạo” được.

Theo như tôi biết ở Nhật bản, cũng có một người suốt đời chủ trương cho quyền lợi của nhân dân, kiên trì kháng nghị với chính quyền bằng đạo lý. Ông ấy đã hi sinh thân mình cho đạo lý, ông đã “tử vì đạo” không một chút hổ thẹn với đời. Ông ấy sống ở vùng Chiba, tên là Sagura Shyugorou. Ông khảng khái tâu trình với Tướng quân về sự tàn bạo của lãnh chúa cai trị lãnh địa nơi ông sinh sống. Toàn bộ gia tộc của ông bị xử chém, nhưng dân chúng trong lãnh địa được ông cứu thoát khỏi cảnh cùng khổ. Tiếc thay, những gì biết về ông chỉ được người đời lưu lại trong truyền thuyết ghi ở các cuốn Kusazoushi dân gian, mà chưa tìm thấy một tài liệu chính thức nào trong chính sử. Đến một lúc nào đó tìm ra được các tài liệu chính thức, tôi muốn ghi nhận công đức của ông và coi cuộc đời ông là quy phạm, chuẩn mực trong xã hội.
Tháng 3 năm Minh Trị thứ bảy (tức năm 1874)
 
PHẦN VIII: ĐỪNG ĐÁNH GIÁ NGƯỜI KHÁC BẰNG SUY XÉT CHỦ QUAN CỦA MÌNH



Fukuzawa Yukichi (1835 - 1901)

“Năm thứ tự do” sẵn có trong con người.

Trong tác phẩm “Khoa học về Đạo đức” của Wayland, một học giả người Mỹ, có đoạn viết về tự do th.ân thể, tự do tinh thần ở con người. Đại ý là “mỗi con người đều có mỗi cơ thể độc lập, riêng biệt so với người khác. Con người tự mình xử lý mọi hành vi của mình. Con người tự mình điều khiển được con tim, khôi óc của mình. Con người tự biết phải làm gì và cố gắng ra sao”.

Tôi tạm tóm lược thành năm điểm như sau:

Thứ nhất là mỗi con người có một cơ thể. Các chức năng của th.ân thể là tiếp xúc, tác động vào thế giới tự nhiên xung quanh. Nhờ đó con người biết hái lượm, săn bắt, trồng trọt, thỏa mãn nhu cầu của cơ thể. Như gieo hạt, trồng lúa, hái bông dệt vải.

Thứ hai là con người có trí tuệ. Vì thế, con người biết phân biệt rạch ròi sự vật, biết tình toán sao cho không lầm lẫn trong phương pháp sản xuất. Trồng lúa phải bón phân ra sao, dệt vải phải công phu, thành thạo kỹ thuật máy dệt thế nào, tất cả đều do sự hoạt động của trí não mà có.

Thứ ba là con người có h.am m.uốn, có tham vọng. Sự h.am m.uốn thúc đấy cơ thể hoạt động. Và con người có cảm giác hạnh phúc khi đạt được tham vọng. Con người ai cũng muốn ăn ngon, mặc đẹp. Và để ăn ngon, mặc đẹp, con người phải lao động, phải làm việc. Lòng h.am m.uốn, sự tham vọng thúc đấy con người hoạt động. Và chính lao động mới đem lại hạnh phúc, an nhàn cho con người.

Thứ tư là từ lúc sinh ra, con người ai cũng có thiện tâm. Thiện tâm là kiềm chế tham vọng, đưa con người đi đúng hướng, quyết định mức độ h.am m.uốn. Tham vọng giống như cái thùng không đáy. Không kìm h.ãm được h.am m.uốn, tham vọng ắt sẽ chỉ vì lợi mình mà hại người. Vì thế, lý tính – bắt nguồn từ thiện tâm – chính là khả năng cân nhắc giữa đạo lý và tham vọng ở con người.

Thứ năm là con người ai nấy đều có ý chí. Ý chí thúc đấy lòng quyết tâm trong công việc. Sự nghiệp xã hội không phải ngẫu nhiên mà có. Làm điều thiên hay gây tội ác đều do ý chí của con người quyết định.

Tự di sinh sống miễn là không vượt quá bổn phận tự thân:

Năm điều trên đây là thuộc tính không thể thiếu ở con người.

Bản thân mỗi người chỉ độc lập khi phát huy đầy đủ cả năm thuộc tính đó.

Tuy vậy, hễ cứ nói tới “độc lập cá nhân” thì y như rằng bị mọi người xung quanh coi là “kẻ khác người”, bị xem như kẻ “không muốn quan hệ với ai”. Thực ra, không phải như vậy. Việc giao tiếp phụ thuộc vào cả hai bên. Tôi muốn có bạn và bạn cũng muốn tìm tới tôi. Mối quan hệ đó, dựa theo luật pháp do Trời đã định, là cách sống quan trọng miễn sao không vượt quá bổn phận tự thân.

Vậy, thế nào là “bổn phận tự thân”? Đó là sự tự mình ý thức được khi mình phát huy khả năng của mình thì người ta cũng phát huy khả năng của người ta. Hai bên không gây cản trở cho nhau. Nếu sống trên đời mà giữ trọng bổn phận của mình, chắc chắn sẽ không bao giờ phạm tội lỗi, bị xã hội phê phán. Và người ta gọi đó là Quyền con người.

Làm được điều này, con người sẽ có toàn quyền tự do hành động, miễn là đừng xâm phạm tới quyền lợi của người khác. Và một khi không có quan hệ trục lợi hay làm tổn hại đến người khác thì không có cớ để bị người khác phê phán. Con người sẽ đi tới nơi muốn đi, dừng lại chốn muốn dừng, thích thì làm, không thích thì chơi, muốn thì học không muốn thì ngủ. Tất cả là quyền tự do cá nhân.

Luận thuyết vô lý: Phật Bà Quan Âm giết người:

Ngược hẳn với thuyết đã trình bày trên đây, người ta lại đưa ra luận thuyết thế này: “con người phải tuân theo và hành động theo sự điều khiển của người trên, bất chấp đúng sai hay thiện ác. Không được phép đưa ra chính kiến của mình”.

Luận thuyết này có đúng hay không? Nếu là đúng thì chắc chắn nó sẽ phổ biến khắp mọi nơi trong xã hội. Vì nếu thế ở Nhật Bản, Thiên hoàng quyền cao chức trọng hơn Tướng quân Tokugawa, nên Tướng quân muốn đi thì Thiên hoàng cũng có thể bảo đứng lại. Mà đã vậy thì Tướng quân sẽ không thể làm bất cứ việc gì theo ý mình. Mọi việc từ chuyện thức ngủ, ăn uống nhất thiết phải tuân theo và hành động the sự điều khiển của Thiên hoàng. Đến lượt mình, Tướng quân lại cai trị các Lãnh chúa của các vùng theo ý mình. Rồi nông dân cũng không được trái ý Võ sĩ.

Đừng tưởng rằng cứ theo lập luận trên thì thể chế cai trị có thể áp đặt từ trên xuống là được. Thực ra không hẳn đã vậy. Hãy suy nghĩ kỹ lập luận đó xem sao. “Đã là con người thì phải tuân theo và hành động theo sự điều khiển của người trên”.

Cứ theo đà này thì hết thảy người Nhật chúng ta mất hoàn toàn quyền tự quyết cho bản thân. Như thế cũng giống như “hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Cơ thể mình trở thành nơi trú ngụ cho phần hồn của kẻ khác. Phật Bà Quan Âm lại trở thành nơi trú ngụ của kẻ giết người. Không thể như thế được. Cái đó có thể gọi là khai hóa văn minh được sao. Ngay đến đứa trẻ lên ba cũng dễ dàng tìm ra câu giải đáp.

Trên đất nước ra, từ hàng nghìn năm trước, các nhà Hán học, Nhật học, luôn bàn luận ồn ào về tiêu chuẩn, về việc sắp đặt thứ bậc trên dưới, đẳng cấp sang hèn. Xét cho cùng đó là thủ pháp nhằm hợp pháp hóa việc nhập hồn người ta vào thân xác mình. Được thể, kẻ mạnh ra sức chèn ép người yếu. Lẽ nào các bậc thánh hiền thấy thế cũng sẽ mãn nguyện?

Những lời dạy không thể chấp nhận tại trường “nữ học”:

Tiếp theo, tôi muốn đưa vấn đề nam, nữ ra bàn ở đây.

Loài người sống ở trên đời có nam, có nữ. Nữ cũng như nam, đều là con người. Trong xã hội phải có cả hai giới, đàn ông và đàn bà. Và giới nào có vai trò của giới đó. Ở họ có điểm khác nhau nào? Đàn ông thường mạnh mẽ, phụ nữ thì yếu đuối. Nam và nữ khác nhau là vậy.

Trong xã hội hiện nay, kẻ nào dùng sức mạnh để cướp của cảu người khác, làm tổn thương danh dự người khác, đều bị khép tội và chịu hình phạt. Vậy mà trong gia đình, người phụ nữ thường xuyên bị ức hiếp, nhưng từ xưa đến nay, hành động này chưa bao giờ bị lên án cả. Vì sao vậy?

Trong trường “nữ học”, người ta ra sức thuyết giảng về “thuyết tam tòng” đối với phụ nữ. Còn bé theo cha, xuất giá theo chồng, chồng chết theo con (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử). Còn bé thì ai mà chẳng phải theo cha mẹ. Khi đã lập gia đình thì phải theo chồng. Người ta dạy cách “theo chồng” ra sao? Theo như bài dạy trong trường, khi chồng có rượu chè, chơi gái, mắng vợ, chửi con, phóng đãng dâm loạn, người vợ vẫn phải nhịn nhục, phải phục tùng người chồng “đã trót hư đốn”, chỉ được nhẹ nhàng tìm lời khuyên giải.

Cứ theo như chủ ý của các bài giảng này, người chồng có là kẻ đàn ông lăng nhăng, chơi bời nhưng một khi đã là vợ thì người phụ nữ chỉ còn cách nhắm mắt làm ngơ. Người vợ chỉ có quyền duy nhất dù không muốn là phải cố mà tươi cười với chồng. Còn chồng có nghe theo lời khuyên giải của vợ không là quyền của chồng. Ngoài ra, người phụ nữ cứ phải coi mọi việc xảy ra như duyên phận dã định và hãy mặc cho cuộc đời trôi đi.

Trong kinh sách Phật giá, nữ giới bị coi là những cám dỗ nguy hiểm. Nếu đúng như vậy thì từ khi sinh ra, người phụ nữ đã là người mắc tội tày đình rồi. Thêm nữa, trong trường “nữ học” người ta còn răn dạy “thất khứ” (bảy tội khiến phụ nữ bị chồng bỏ: không con, dâm dục, không kính thờ cha mẹ chồng, nói nhiều, trộm cắp, ghen tuông và có ác tật) tức là nếu người phụ nữ phạm vào một trong bảy điều này thì bị chồng ruồng bỏ cũng không được trách.

Chẳng phải là những điều răn dạy hoàn toàn thiên vị cho một phía hay sao? Đàn ông mạnh mẽ, đàn bà yếu đuối. Các quy định ấy là theo kiểu mạnh được, yếu thua và hoan toàn mang tính trọng nam khinh nữ.

Đừng tin những điều nói bậy của Chu Tử:

Trên thế gian này, số lượng đàn ông và đàn bà hầu như ngang nhau. Nếu dựa theo kết quả điều tra ở châu Âu, dường như nam giới nhỉnh hơn một chút, với tỷ lệ 22 đàn ông thì có 20 phụ nữ. Thế mà một người đàn ông lại có tới hai, ba vợ. Rõ ràng trái với đạo Trời. Và như thế thì con người có khác gì với muông thú?

Con cái sỉnh ra cùng bố mẹ, được gọi là anh em. Tất cả cùng chung sống dưới một mái nhà, được gọi là gia đình. Vậy mà cùng cha, khác mẹ, như thế cũng gọi là gia đình được sao? Giả thử có nhà cao cửa rộng đến mấy, tôi cũng không nhìn nhận đó là căn nhà của con người. Nó cũng chỉ như hang ổ của các loài súc vật, không hơn không kém. Chỉ vì thỏa mãn dục vọng trong chốc lát mà để lại hậu họa cho hậu thế, những kẻ đó là tội phạm.

Cũng có người nói thế này: “Có vợ lẽ thì đã làm sao? Chỉ cần biết khéo léo thu xếp”. Nếu thế, tôi đặt ra trường hợp ngược lại là một người phụ nữ cũng lấy vài ba ông làm “chồng lẽ”. Sự thể sẽ ra sao? Nếu mọi việc đều trôi chảy tốt đẹp thì tôi sẽ ngậm miệng ngay.

Lại có người lý sự thế này: “Vì muốn có con đàn cháu đống nên mới có vợ lẽ. Vả lại có phải chúng tôi muốn thế đâu, chẳng qua là làm theo lời dạy của Chu Tử mà thôi”. Tôi phải nói thế này, chẳng cần phải nể nang Khổng Tử hay Chu Tử gì sất. Họ đã rao giảng những lời sai trái. (Từ năm 1790 thuyết Chu Tử, đại biểu cho Nho học, được coi là triết học chính thống trong xã hội phong kiến Nhật Bản. Để duy trì hữu hiệu xã hội phong kiến về mặt luân lý, chính quyền Mạc phủ cấm học những học thuyết khác với thuyết Chu Tử).

Lấy vợ lấy chồng, chỉ vì không có con mà bị gọi là “đồ bất hiếu”. Thứ lý lẽ gì vậy? Chẳng qua là cách nói thoái thác, biện minh cho những quan điểm sai trái đáng lên án mà thôi.

Người có tấm lòng nhân hậu sẽ không bao giờ tin vào cách ăn nói hàm hồ của Chu Tử.

Xưa nay, chữ “bất hiếu” ám chỉ những đứa con làm khổ cha mẹ. Ông bà nội ngoại nào cũng đều vui khi có cháu chắt bồng bế. Nhưng có ông bà nào lại gọi con cái mình là “lũ bất hiếu” chỉ vì chưa sinh được cháu, được chắt không? Có người nào lại mắng con dâu, đánh đập con trai, đoạn tuyệt với con cái chỉ vì chưa có cháu đích tôn không. Không, không bao giờ có chuyện đó. Hãy tự vấn lương tâm mình thì sẽ rõ.

Không phải mọi điều trong “Luận ngữ” đều đúng:


Con người, ai mà chẳng có hiếu với cha mẹ. Với người già cả, dù là người dưng, ai cũng đều phải lễ phép, huống chi là đối vợ cha mẹ đẻ, không ai lại không có tình nghĩa. Tình cảm đó không vụ lợi, không vì danh dự. Mà nó là tình cảm rất đỗi tự nhiên, xuất phát từ quan hệ cha mẹ con cái.

Từ xa xưa, trong dân gian đã có vô vàn truyền thuyết giảng giải về chữ Hiếu, nhất là “Truyện Nhị thập tứ hiếu”. Tuy nhiên, có thể nói chín phần mười các ví dụ rao giảng “thế nào là hiếu thảo” trong đó đều kể về các hành vi hết sức phi lý, ngớ ngẩn, những việc làm vượt quá khả năng của con người.

Nào là chỉ vì thấy mẹ muốn được ăn món cá chép, người con không quản giá buốt trong ngày đông giá rét, cởi trần nằm đợi trên lớp băng tuyết chờ cho đến khi tan băng để bắt cá. Thử hỏi loại “người trần” bình thường như chúng ta, ai có thể làm được như vậy?

Nào là tỏng đêm hè oi bức, thương cha mẹ nghèo khó, lúc ngủ không có lấy tấm màn giăng muỗi, người con bèn cởi bỏ quần áo, ở trần truồng rồi lấy rượu đổ khắp lên người để muỗi nghe mùi, bâu tới đốt mình, tránh cho cha mẹ bị đốt. Thật vô lý, nếu có tiền để mua hàng lít rượu sao không lấy tiền đó mua mùng màn.

Chưa hết, lại còn chuyện này nữa. Nhà nọ có nhiều miệng ăn, lại phải nuôi dưỡng cha mẹ già. Không lo đủ gạo, nên người con chạy vạy khắp nơi để vay thóc, vay lúa. Không vay được, cùng đường nên người con quyết định chôn sống đứa con thơ dại để bớt đi một miệng ăn, chứ nhất quyết không để ông bà chết đói. Phải là quỷ dữ hay là rắn độc mới có thể đi rao giảng chữ hiếu theo kiểu như vậy. Thật trái với đạo trời, trái với tình người đến cực độ.

Trong “thất khứ” ở trên, họ rao giảng rằng sự bất hiếu lớn nhất là vợ chồng không có con cái. Thế mà ở đây họ lại thuyết giảng để có hiếu với cha mẹ, thì có phải chôn sống con mình dứt ruột đẻ ra cũng phải làm. Rặt những chuyện mâu thuẫn.

Thật ra, ý tứ sâu xa của những câu chuyện như thế chỉ là nhằm áp đặt thân phận trên dưới, khôn phép giữa các thế hệ, cố tìm mọi lý lẽ để nhấn mạnh vị thế yếu kém của thế hệ trẻ. Theo cách thuyết giáo trong “Luận ngữ” với mục đích như trên thì công ơn của cha mẹ rất sâu nặng. Kể từ khi còn trong bụng, người mẹ đã phải mang nặng, đẻ đau. Và còn phải chăm bẫm cho bú suốt 3 năm trời sau khi sinh.

Nhưng, nào phải chí có loài người mới biết sinh đẻ và nuôi con. Các loài chim chóc, muông thú cũng vậy. Điểm khác biệt cơ bản với các loài vật khác là ở chỗ con người, ngời việc lo cái ăn, cái mặc, còn biết giáo dục và dạy dỗ cho con cái biết giao tiếp, biết làm người.

Vậy mà có nhiều kẻ làm cha, làm mẹ, chỉ sòn sòn đẻ mà không biết cách giáo dục, dạy bảo con cái, tối ngày vùi đầu vào bài bạc, rượu chè, chơi gái... Kết cục là nợ nần chồng chất, gia đình tan nát. Cùng đường họ lại bắt con cái phải cung phụng, phải gánh chịu mọi hậu họa. Những loại cha mẹ ấy vô liêm sỉ làm sao, nhục nhã làm sao. Những lúc đó, người vợ vốn như con ở, chỉ cần trái ý với bố mẹ chồng thì thiên hạ lại đồn ầm lên, bảo con dâu nhà đó không hiếu thảo. Ngay cả những người biết con dâu đúng cũng vẫn gièm pha.

Trước đây, đã có lần tôi nói với các bạn: mẹ chồng vốn cũng đã từng là người đi làm dâu. Trước khi chì chiết hay ngược đãi con dâu thì các bà mẹ chồng hãy chịu khó nhớ lại thời làm dâu của mình trước đã.

Trên đây là các ví dụ xấu nhất, được sinh ra trên cái nền tảng đạo đức cũ trong xã hội phong kiến. Con người bị đóng khung theo quy định về thân phận, về đẳng cấp trên dưới, sang hèn. Có rất nhiều phong tục cũ lạc hậu, nề nếp xấu xoay quanh mối quan hệ giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái. Nó ăn sâu và trong xã hội dưới nhiều hình thức khác nhau.

Về vấn đề này tôi sẽ tiếp tục đề cập đến trong các phần sau.
Tháng 4 năm Minh Trị thứ bảy (tức năm 1874)
 
110221091317-389-744.jpg


PHẦN IX: MỤC ĐÍCH CỦA HỌC VẤN LÀ GÌ?

Nếu khảo sát cụ thể các hoạt động ở mỗi con người thì sự hoạt động đó có thể chia thành hai loại như sau:
- Thứ nhất là hoạt động với tư cách của một cá nhân độc lập.
- Thứ hai là hoạt động với tư cách của một thành viện trong xã hội con người.

Có những người cảm thấy thỏa mãn chẳng khác gì loài sâu kiến:

Mưu cầu cái ăn, cái mặc, chỗ ở ổn định dựa vào hoạt động của khối óc và cơ thể là lẽ thường tình ở con người.
Mọi sự vật trong thế giới tự nhiên xung quanh ta, không có vật nào lại không có ích cho con người. Một hạt giống gieo xuống có thể cho ra cả hai ba trăm quả. Cây cối, tự mọc trong rừng sâu. Gió, làm quay cối xay. Biển, tiện lợi cho việc vận chuyển hàng hóa. Con người vào rừng đào hầm lò lấy than; ra sông xuống biển lấy nước; nhờ biết lợi dụng sức nước, sức lửa mà chế tạo ra tàu hỏa, tàu thủy chạy bằng hơi nước. Không sao kể xiết những ích lợi tuyệt vời của thế giới tự nhiên bao la.
Con người nhận được ơn huệ từ thế giới tự nhiên, tác động thêm một chút vào nó, tạo ra nguồn lợi cho chính mình. Chỉ cần thêm một phần trăm công sức vào những thứ sẵn có trong tự nhiên là con người đã có thể có được cái ăn, cái mặc và chỗ ở của mình. Điều này giống như nhặt được của do người khác vứt trên đường vậy. Tức là, tự bản thân con người chẳng phải khó nhọc gì cho lắm, vẫn kiếm sống được. Mà đã thế thì không có gì đáng để tự phụ.
Tất nhiên, đối với con người việc tự lập kiếm kế sinh nhai rất quan trọng. Người xưa thường dạy: “Hãy kiếm sống bằng chính mồ hôi của mình”. Thế nhưng theo tôi, cho dù chúng ta có làm đúng theo lời dạy này thì cũng chưa phải là đã làm đúng trách nhiệm và nghĩa vụ với tư cách là con người. Lời dạy này mới dừng lại ở chỗ răn người ta làm người thì đừng để thua kém muông thú và cũng chỉ dạy có thế.
Các loài chim chóc, muông thú, tôm cá, côn trùng... tự chúng không kiếm mồi được sao? Ví như loài kiến chẳng hạn. Loài kiến không những biết kiếm mồi mỗi ngày mà còn biết làm hang, làm tổ, tích trữ mồi trong suốt mùa đông giá rét.
Vậy mà trên đời này, có không ít người, hành vi của họ cũng chỉ ngang với đàn kiến thôi mà cũng tự mãn.
Tôi lấy một ví dụ để mọi người cùng thấy.
Có một người con trai đến tuổi trưởng thành. Anh ta có được việc làm trong ngành công thương nghiệp, hoặc có chân trong giới quan chức. Bản thân anh ta hoàn toàn có thể sống độc lập mà không cần phụ thuộc vào bất kỳ một sự trợ giúp nào từ gia đình và bạn bè. Tự tay anh ta xoay xở xây lên được một căn nhà, sắm sửa được mọi vật dụng thiết yếu trong gia đình mà không cần nhờ vả người khác và cưới được một cô vợ như ý. Anh ta sống tằn tiện, sinh con, nuôi con cái ăn học. Anh ta cũng có được một khoản tiền tiết kiệm, phòng khi “trái gió, trở giời” còn có cái để chi tiêu.
Anh ta mãn nguyện vì cho rằng như thế là mình đã có được cuộc sống độc lập. Dư luận xã hội cũng đều đánh giá anh ta là một người hoàn hảo và bản thân anh ta cũng lấy làm đắc chí.
Các bạn nghĩ sao về con người này? Tôi thì không nghĩ rằng anh ta là một con người hoàn hảo. Sẽ nhầm lẫn nếu dư luận xã hội đánh giá nhân vật này như tôi viết ở trên. Thực ra, anh ta chỉ lập lại những gì mà loài kiến đã và đang làm không hơn không kém. Tôi thừa nhận rằng không phải tự nhiên mà anh ta có được cuộc sống ổn định, có được căn nhà riêng. Anh ta đã phải nỗ lực và vất vả lắm mới có được như vậy. Vả lại, tự anh ta tạo ra cho mình và đình mình cuộc sống độc lập chứ có dựa dẫm vào ai đâu. Ở điểm này thì anh ta hoàn toàn không phải hổ thẹn trước lời dạy của người xưa.
Nhưng, tôi lại hoàn toàn không nghĩ rằng loài người – với tư cách là chúa tể của muôn loài – mới có được kết quả nhỏ nhoi như vậy mà đã coi là hoàn tất mục đích đích thực của cuộc đời.
Giải quyết được cái ăn, cái mặc, chỗ ở mà đã mãn nguyện, đã cảm thấy hài lồng rồi thì hóa ra cuộc đời con người trên thế gian này chỉ đơn thuần là được sinh ra rồi chết đi không thôi hay sao? Tình trạng lúc anh ta chết đi có khác gì lúc được sinh ra. Tức là quanh quẩn vẫn chỉ là chuyện sao cho có nhà cửa, có cuộc sống ổn định và có của ăn của để nữa. Vẻn vẹn chỉ có vậy. Và nếu đến thế hệ con cháu, cũng lặp đi lặp lại y hệt cuộc sống của anh ta thì dù có trải qua hàng trăm đời, làng xóm thị tấn nơi anh ta đã sống xưa thế nào nay chắc cũng vậy, không chút thay đổi.
Không một người nào nghĩ tới sự nghiệp công ích, công cộng, chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân và gia đình. Ngoài ra thì mặc kệ.
Không một người nào có suy nghĩ là phải làm gì, để lại cái gì cho quê hương khi đang còn sống.
Người châu Âu có câu: “Nếu mọi người ai cũng chỉ mong thỏa mãn và an nhàn cho riêng cá nhân mình, thì thế gian này cũng không khác gì khi mới có loài người”.
Thỏa mãn, toại nguyện có nhiều kiểu. Vì thế cần phải phân biệt và lưu ý về sự khác biệt đó. Lòng tham của con người giống như cái thùng không đáy, được cái này lại muốn ngay cái khác, vừa mãn nguyện đất nhưng lại bất mãn ngay. Đó là dục vọng, là dã tâm. Phải biết chế ngự chúng.
Như tôi đã nói ở trên, những kẻ không chịu lao động trí óc, lao động chân tay, không hướng tới mục đích cơ bản của con người, chỉ có thể gọi là lũ lười biếng ngu đần không khác gì loài sâu bọ có hại.
Học tập, làm việc vì xã hội:
Thứ hai, đặc tính của con người ta là luôn có khuynh hướng tập hợp lại thành nhóm, thành hội và thường né tránh các “bước tiến” với những nỗ lực đơn độc, lẻ loi. Con người ta cảm thấy nếu chỉ có các mối liên hệ hẹp giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái thôi thì không đủ. Ngược lại càng mở rộng được mối quan hệ với người ngoài thì con người lại cảm thấy tự tin, chắc chắn là yên ổn. Nhờ các mối liên kết với người ngoài đã tạo ra quan hệ giao tiếp giữa con người với con người, và cả lý do để hình thành xã hội nữa.
Một khi còn sống trên đời, còn giao tiếp với mọi người thì bản thân mỗi con người vẫn còn là một thành viên trong xã hội. Cho nên lẽ đương nhiên là phải có nghĩa vụ với xã hội. Ngay cả học vấn, kỹ thuật, chính trị, luật pháp... không có cái nào là không cần thiết để cho con người sống trong xã hội, tất cả những thứ này sinh ra là vì xã hội con người.
Luật pháp mà chính phủ thực thì là để bảo vệ quyền cơ bản của con người, để mối quan hệ giữa con người với con người diễn ra trôi chảy. Các học giả viết sách, giáo dục con người cũng để xóa bỏ cái cũ, cái lạc hậu, nâng cao tri thức, đưa những cái mới vào cuộc sống, nhằm làm cho xã hội ngày một tốt đẹp hơn.
Người Trung Hoa xưa có câu: “Cai trị thiên hạ cũng giống như việc biết chia đều, chia công bằng miếng thịt cho mọi người ở chốn hội hè vậy”. Và họ còn có câu “Hãy dọn sạch cỏ ở vườn thiên hạ trước rồi mới dọn cỏ trong sân nhà mình”. Cả hai câu nói đều thể hiện ý chí mong muốn làm cái gì đấy có ích cho xã hội trước khi nghĩ tới mình.
Con người ta, bất kỳ ai, hễ có chút ít “sở trường” là đều muốn đem ra giúp ích cho đời. Đó âu cũng là lẽ thường. Nhiều khi tưởng chừng như con người không có ý thức vì xã hội, nhưng rồi không biết bằng cách nào mà con cháu họ vẫn nhận được ơn huệ. Đó là vì trong con người có thiện tâm, nên các nghĩa vụ trong xã hội rồi cũng đều được thực hiện.
Nếu trong xã hội từ xa xưa mà không có những con người như vậy thì chúng ta ngày nay đâu có được hưởng thành quả của văn minh đang tràn đầy khắp nơi trên thế gian.
Được thừa hưởng “di sản vĩ đại” mà không biết tạ ơn ai:
Tài sản nhận từ tổ tiên được gọi là di sản. Thế nhưng, cái di sản, mà không khéo thì chỉ vung tay một vài đời là tiêu tán sạch sẽ chẳng còn lại chút dấu vết gì.
Di sản của nền văn minh thì hoàn toàn ngược lại.
Cứ tạm coi toàn bộ tổ tiên của chúng ta là một người cụ thể thì di sản đã được người đó để lại cho hết thảy mọi người. Di sản này cực kỳ to lớn, đến mức nhà cửa, đất đai, gia tài cũng không thể so sánh được. Trước ơn huệ đó, chúng ta dù có muốn cũng không sao tìm thấy ai ở đâu để mà cảm tạ. Nó cũng giống như việc con người đã không phải trả một đồng bạc nào để có được ánh sáng và không khí, những thứ không thể thiếu cho sự sống của chúng ta. Di san này rất cao quý và không phải từ một con người cụ thể nào để lại cho chúng ta. Mà chúng ta chỉ có thể nói rằng đó là ơn huệ, do công đức người xưa để lại.
Phải vất vả lắm nhân loại mới có được lịch sử của mình. Ở thủa còn chập chững của lịch sử nhân loại – là thời kỳ mà trí tuệ con người chưa phát triển đầy đủ - trí tuệ của con người chỉ giống như đứa trẻ sơ sinh mới chào đời, chưa được thừa nhận.
Tôi lấy ví dụ việc giã lúa mạch thành bột để minh họa.
Thủa sơ khai, loài người chỉ biết lấy cục đá có sẵn trong thiên nhiên giã nát hạt lúa mạch. Thế rồi, trải qua biết bao khó nhọc, công phu, người ta đã biết đục đẽo đá thành phiến, rồi tạo thành hai khối tròn, phẳng, làm ra cái cối xay bột. Lúc ban đầu, con người dùng sức mình để quay cối xay. Theo thời gian, hình dáng cái cối xay cũng được cải tiến. Có người còn biết lợi dụng sức nước, sức gió thay cho sức người để xay bột. Ngoài ra có người còn dùng cả tới máy móc chạy bằng hơi nước nữa. Cứ như vậy, việc xay bột trở nên dễ dàng, tiện dụng như ngày nay.
Mọi sự vật càng ngày càng tiến bộ. Đà phát triển của kỹ thuật diễn ra từng ngày. Mới hôm qua, có cái còn được xem như là phát minh rất tiện lợi thì hôm sau đã trở thành lạc hậu, lỗi thời. Những tiến bộ của nền văn minh phương Tây nhanh tới chóng mặt. Kỹ thuật điện tín, máy hơi nước, kỹ thuật ấn loát... theo nhau ra đời, ngày càng được cải tiến và hoàn thiện.
Mà không chỉ riêng lãnh vực kỹ thuật với những cỗ máy tân kỳ, tri thức của con người càng sâu thì mối giao tiếp giữa họ lại càng rộng. Sự giao tiếp càng rộng thì lòng người cũng cởi mở hơn, bao dung hơn và độ lượng hơn.
Và trên thế giới, nếu công pháp quốc tế được phổ cập rộng rãi và có hiệu lực thì các mưu mô gieo rắc chiến tranh cũng sẽ tự biến mất. Những tranh luận trong lãnh vực học thuật càng sâu rộng thì thể chế chính trị và kinh tế cũng sẽ thay đổi. Chế độc giáo dục và nhà trường, việc in ấn và phát hành, hình thức của sách, báo, tạp chí, phương châm của chính phủ, quyết sách tại nghị viện... tất cả đều được cải cách, trình độ tiêu chuẩn được nâng cao. Những tiến bộ đó không thể kể hết ra đây.
Để kiểm nghiệm, các bạn hãy cùng tôi giở thử cuốn ‘Lịch sử phát triển của phương Tây” ra xem. Nào hãy đọc thử giai đoạn từ khi bắt đầu của nhân loại đến thế kỷ 17. Sau giai đoạn đó chúng ta hãy bỏ qua hai trăm năm kế tiếp, lật ngay tới những trang viết về thế kỷ 19. Tôi đồ rằng không một ai trong chúng ta mà không cảm thấy kinh ngạc trước sự phát triển chóng mặt của tiến bộ và văn minh. Và tôi cũng tin chắc là không ít người phải thốt lên một cách ngỡ ngàng “Tiến bộ của nền văn minh là thực hay mơ?”.
Vậy nguyên nhân của các tiến bộ đó là gì? Đó chính là di sản của biết bao thế hệ đi trước. Đó chính là ơn huệ của những người đã khuất để lại cho chúng ta.
Nền văn minh của Nhật Bản, vốn dĩ có nguồn gốc từ Triều Tiên, Trung Hoa. Nền văn minh của chúng ta là thành quả, là sự đúc kết của tổ tiên và truyền lại tới tận bây giờ. Nhất là ngàng “Tây học”, đã được du nhập vào nước ta từ những năm 1751 – 1764. Các bạn hãy giở cuốn “Nhập môn Hà Lan học” ra coi sẽ rõ.
Những năm qua, từ khi Nhật Bản mở cửa giao thương bới quốc tế thì học vấn, tư tưởng phương Tây dần dần được mọi người biết đên, và những người theo học ngành “Tây học”, những dịch giả sách phương Tây ngày một tăng.
Nhờ thế, cách suy nghĩ trong xã hội cũng có nhiều chuyển biến, chính phủ cũng đã thay đổi, chế độ phong kiến chuyên chế Mạc phủ bị xóa bỏ và thời thế trở nên như hiện nay.
Công cuộc khai hóa văn minh bắt đầu mở ra trên đất nước ta cũng nhờ vào di sản, công đức do các bậc tổ tiên để lại.
Đừng để mai một tài năng:
Như tôi đã nói ở trên, từ xa xưa có biết bao nhân tài lao tâm khổ tứ, đem hết sức mình cho sự phát triển của xã hội. Trong tâm khảm của họ, tiền bạc, công danh không phải là mục đích, là lẽ sống duy nhất. Họ coi trọng nghĩa vụ của con người với xã hội. Họ mang trong lòng lý tưởng to lớn và ngày đêm nỗ lực thực hiện hoài bão đó.
Hiện nay, các bạn – những người đang cố gắng học hành – tất cả đều đang thừa hưởng di sản của tổ tiên, của những người đi trước. Hơn nữa, các bạn đang đứng trên tuyến đầu của sự tiến bộ nên lại càng phải gắng sức cho sự phát triển của nền văn minh. Vì lẽ đó, các bạn hãy tự nhủ rằng sự phấn đấu có nhiều mấy đi nữa cũng sẽ vẫn luôn chưa đủ.
Mất chục năm sau, chúng ta cũng muốn nhận được lòng biết ơn của những người đời sau, giống như lòng biết ơn mà chúng ta hiện đang dành cho các bậc tiền bối.
Nói tóm lại, trách nhiệm của chúng ta là phải để lại một cách sống động dấu tích của các hoạt động xã hội, phải tiếp tục truyền bá nó cho muôn đời sau.
Trách nhiệm này thật nặng nề. Không hề đơn giản là đọc vài chục cuốn sách lý thuyết, trở thành thương nhân, trở thành quan chức, trở thành thợ, có đủ tiền nuôi được gia đình con cái, thế là xong. Như thế thì mới chỉ dừng lại ở chỗ không làm ảnh hưởng đến người khác, chứ không mở ra, không đem lại con đường làm thế nào để sống có ích cho xã hội, cho con người.
Khi làm bất cứ việc gì, bao giờ cũng có một vấn đề rất quan trọng. Đó là thời cơ. Nếu không gặp thời thì người tài giỏi đến mấy cũng không thể phát huy được khả năng. Từ cổ kim đông tây, không út ví dụ chứng tỏ điều đó. Ngay tại Nakatsu quê hương tôi cũng có không ít những nhân tài. Đứng trên góc độc của nền văn minh hiện nay mà đánh giá thì có nhiều điều trong hành động và phát ngôn của họ khiến chúng ta phải đặt thành vấn đề. Nhưng thời đại lúc đó buộc họ phải hành động như vậy chứ bản thân họ không có lỗi. Ở họ tràn trề dũng khí trong hành động. Nhưng tiếc vì họ không gặp thời. Kết cục là cuộc đời họ chấm hết cùng với tài năng vô ích. Họ đường đầu với đời nhưng không thể cống hiến được gì cho xã hội. Tiếc thay!
Nhưng, hiện nay thời đại đã đổi khác. Nền học vấn và tư tường của phương Tây phổ biến khắp mọi nơi. Chính quyền cũ đã bị lật đổ, chế độ phong kiến Mạc phủ đã tan rã. Những biến đổi trong xã hội, không đơn giản là kết quả của cuộc nội chiến duy tân mang lại. Sức mạnh của nền văn minh không phụ thuộc và một vài cuộc chiến tranh. Và càng không phải do một hoặc vài cuộc chiến tranh dã mang lại ảnh hưởng to lớn đối với nền văn minh. Mà phải thấy rằng, chính sức mạnh vốn có của nền văn minh đã làm thay đổi nhận thức trong con người và nhờ đó mới có những biến đổi trong xã hội như hiện nay. Cuộc chiến tranh năm Canh Thìn (*) mới kết thúc cách đây bảy năm đã không còn sót lại bất kỳ vết tích nào nữa. Vậy mà ảnh hưởng của nó vẫn tiếp tục tác động lên nhận thức của người Nhật Bản chúng ta..
Đối với những vật thể bất động, hoàn toàn không có biện pháp nào để dẫn dắt cho chúng. Nhưng con người thì khác, con người vẫn đang hoạt động hàng ngày.
Để trở thành người dẫn đường chỉ lối, để đưa tinh thần của mọi người trong xã hội lên tầm cao hơn, để dạy được những điều hay trong học vấn cho mọi người, thì hơn hết thảy mọi việc nào khác, trước hết các bạn phải cố gắng phấn đấu trong sự nghiệp học tập.
Cơ hội tuyệt vời cho việc học tập chính là lúc này.
Tháng 5 năm Minh Trị thứ bảy (tức năm 1874)
__________________________________

Chú thích:
(*)
Chiến tranh năm Canh Thìn: Nổ ra năm 1868 (năm Minh Trị thứ nhất). Kết thúc năm 1869 (năm Minh Trị thứ 2). Kéo dài một năm năm tháng. Ngay sau khi chính phủ mới Minh Trị vừa ra đời, các thế lực còn sót lại của chính quyền phong kiến Mạc phủ, do mất hết quyền lợi, đã tập hợp lại dấy binh đánh quân đội chính phủ. Cuộc chiến tranh đã kết thúc với thằng lợi thuộc về quân chính phủ mới, đồng thời chấm dứt hoàn toàn 265 năm chính quyền phong kiến Mạc phủ cai trị Nhật Bản. Chính phủ mới đã thông nhất và mở ra một chương mới trong lịch sử Nhật Bản với công cuộc Minh Trị Duy tân, hiện đại hóa Nhật Bản.
 
PHẦN X. HÃY SỐNG VÀ HY VỌNG Ở TƯƠNG LAI




Còn trẻ mà lại muốn lựa chọn những công việc an nhàn:

Mục đích của học vấn phải đặt ở tầm cao.
Nếu tôi không nhầm thì việc nấu cơm, đun nước cũng là học vấn. Việc bàn luận về quốc gia đại sự cũng là học vấn. Nhưng lo cuộc sống của gia đình thì dễ hơn lo kinh tế, chính trị của một quốc gia. Hơn nữa trên đời này cái gì dễ kiếm thì ít được quý trọng, càng khó kiếm thì giá trị càng cao.
Tôi nhận thấy sinh viên hiện nay có xu hướng né tránh việc khó, tìm kiếm việc dễ.
Dưới thời phong kiến, người học có miệt mài học hành cũng không có chỗ để ứng dụng học vấn, vì trong xã hội đó con người mất tự do. Do vậy cực chẳng đã họ chỉ còn biết học, tự mình tích lũy học thức. Vì thế, sinh viên chúng ta hiện nay khó mà theo kịp họ về tri thức.
Sinh viện hiện nay không bị bất kỳ hạn chế nào cả. Cứ có học là có thể ứng dụng ngay kết quả học tập vào thực tế. Tôi lấy ví dụ, các sinh viên theo ngành Âu học trong ba năm, họ học lịch sử, học vật lý... Sau khi ra trường họ được tuyển dụng ngay tức thì để làm giáo viên giảng dạy, hoặc đi làm công chức chính quyền nếu họ muốn. Ngoài ra, nhiều người còn tìm cách đơn giản hơn, nhanh hơn. Đó là chỉ cần lùng sục và đọc các cuốn sách dịch đang bán chạy, đi đây đi đó để có chút thực tế, tích lũy thêm một ít thông tin trong và ngoài nước, gặp dịp may là được chọn ngay vào làm việc trong các công sở. Thế là họ nghiễm nhiên trở thành một thành viên đắc lực của bộ máy nhà nước.
Nhưng điều tôi lo sợ là các hiện tượng trên đây nếu trở thành xu hướng, thành trào lưu trong xã hội thì học vấn sẽ mất đi bản chất đích thực và mục đích cao quý của nó.
Tôi nói cụ thể hơn, và thành thật xin lỗi bạn đọc vì tôi sẽ đề cập tới chuyện tiền bạc ra đây. Có nhiều sinh viên ngành Âu học tính toán thế này. Học phí một năm phải đóng khoảng một trăm yên. Ba năm theo học mất ba trăm yên. Bỏ ra khoản tiền như vậy, sau khi tốt nghiệp nếu có việc làm, hàng tháng được lĩnh từ năm mươi đến bảy mươi yên tiền lương. Nói trắng ra, đi học có lãi thế này tội gì mà chẳng học.
Thế còn những người có được một mớ kiến thức rời rạc, qua số sách dịch đọc được, thì sao? Học chẳng phải tiêu đến ba trăm yên, mà vẫn thành quan chức đàng hoàn và số thu nhập là khoản lãi ròng tròn trịa. Trên đời này không có cách kinh doanh nào lại lãi đến vậy, ngay cả những người sống chuyên nghề bằng cho vay nặng lãi cũng phải ghen tị.
Đương nhiên, thù lao cao hay thấp tùy thuộc vào mức cung cầu trên thị trường nhân lực. Hiện nay, chính phủ và nhiều bộ ngành đang cần tuyển nhiều người có kiến thức Âu học. Nên mới dẫn đến tình trạng tuyển người ồ ạt. Đừng nghĩ rằng tôi “vơ đũa cả nắm”, phê phán tất cả những người đã được tuyển dụng đều không có năng lục và là lũ cơ hội. Thiển ý của tôi, chỉ mong sao họ đừng “tham bát, bỏ mâm” mà nên tiếp tục theo học một vài năm nữa, nỗ lực tiếp thu kiến thức kỹ thuật thực hành, rồi hẵng đi làm. Như vậy, chắc chắn họ sẽ thu được thành quả lớn hơn.
Chỉ đến kho trên khắp mọi miền đất nước Nhật Bản, nơi đâu cũng gặp những người vừa có tài, vừa có đức, ngày đêm rèn giũa và tích lũy thực lực thì ắt hẳn đến một ngày nào đó, chúng ta sẽ ngang hàng, sánh vai với nền văn minh của các cường quốc Phương Tây.

Học tập phương Tây nhưng không được quá sùng bái:

Sinh viện học tập để làm gì? Nào là để giành được độc lập thực sự, để có được quyền tự chủ, tự do cho mình. Mà đúng là như vậy. Thế nhưng, đằng sau đó đương nhiên còn phải có ý thức tự giác về nghĩa vụ.
Độc lập cho bản thân mình không phải là cứ miễn sao có nhà riêng để sinh sống, miễn sao không làm phiền, không cản trở người khác là được. Đó mới chỉ là nghĩa vụ mang tính chất cá nhân đơn thuần.
Tạm gác sang bên vị trí của cá nhân, nếu chúng ta quan tâm tới nghĩa vụ đối với xã hội, thì trước hết là không làm vẩn đục danh dự người Nhật bản, tiếp đến là mọi người dân đồng lòng góp sức mang lại vị trí quốc tế trong độc lập và tự do cho Nhật Bản. Như thế mới được coi là làm tròn nghĩa vụ giữa cá nhân và xã hội.
Tôi thừa nhận những người đang toại nguyện với cuộc sống của bản thân họ trong căn nhà riêng của mình là những người độc lập. Nhưng tôi không thể thừa nhận họ là những người Nhật Bản độc lập được. Hãy thử nhìn kỹ xem. Ở thời điểm này, nền văn minh của nước Nhật Bản chỉ có danh mà không có thực. Về hình thức thì trông cũng được đấy, nhưng về tinh thần thì thật buồn lòng.
Lực lượng quân sự của Nhật Bản, từ lục quân tới hải quân, đã có khả năng kháng cự với lực lượng quân sự của các cường quốc phương Tây chưa? Hiển nhiên là chưa. Nước Nhật Bản không thể chống chọi được với các thế lực phương Tây trong lúc này.
Thế còn trình độ học vấn của Nhật bản hiện nay ra sao với nền học vấn hiện thời, chúng ta có thể đem ra rao giảng cho người phương Tây không? Rõ ràng là không có cái gì cả. Ngược lại, chúng ta phải học ở họ mọi thứ. Và không chỉ đơn thuần là cứ học những thứ mà chúng ta chưa có là được.
Mấy năm qua, chúng ta gửi lưu học sinh sang các nước phương Tây, mặt khác chúng ta đang thuê họ đến giảng dạy. Từ việc điều hành bộ máy chính phủ đến nội dung, phương pháp giảng dạy tại các trường công lập, từ việc chuyển đổi hệ thống hành chính của ba phủ (Tokyo, Osaka và Kyoto) đến việc vận hành năm cảng quốc tế (Yokohama, Kobe, Nagasaki, Niggata và Hakome), từ việc lập các kế hoạch sản xuất kinh doanh của các công ty tư nhân đến hình mẫu của các trường tư thục, không chỗ nào là chúng ta lại không phải thuê người phương Tây. Chúng ta trả lương cao, tạo mọi điều kiện sinh hoạt tốt nhất cho họ và trông cậy ở họ nhiều thứ. Chúng ta sử dụng thế mạnh của họ để bổ sung cho điểm yếu kém của chúng ta.
Càng ngẫm càng thấy phương Tây hơn hẳn chúng ta về mọi mặt. Mà cũng phải thôi. Nước Nhật bản theo đuổi chính sách đóng cửa “bế quan tỏa cảng” cả mấy trăm năm, mới mở cửa được vài năm nay. Mối giao thương với các quốc gia văn minh Tây phương lại phát triển quá nhanh, không sao theo kịp. Vì vậy, chúng ta đang ở trong tình trạng giống như lửa gặp nước, làm cái gì cũng chưa được. Chúng ta trong tình trạng phải chịu đựng cho đến khi chúng ta có đủ lực. Khi đó chúng ta không phải thuê người phương Tây nhiều như hiện nay, chúng ta không phải nhập ồ ạt hàng hóa của họ như hiện nay. Những hỗn loạn trong buổi đầu du nhập văn minh phương Tây là điều không tránh khỏi. Việc chính phủ Nhật Bản yêu cầu phương Tây viện trợ, cung cấp văn minh cho chúng ta cũng không phải là sai.
Nhưng điều quan trọng mà tôi muốn nói là tất cả những gì đang diễn ra trên đất nước ta hiện nay cũng chỉ là giải pháp nhất thời. Chúng ta không thể thuê vĩnh viễn người phương tây làm thay chúng ta. Chúng ta ra sức học tập họ, nhưng không nên quá sùng bái, tôn thờ họ.
Có cách nào để Nhật bản không phụ thuộc vào quốc gia khác? Làm như thế nào để chúng ta có thể đi trên đất nước mình bằng chính đôi chân của chúng ta? Để đạt được điều này, chúng ta còn phải vượt qua cả chặng đường vô cùng khó khăn.
Các bạn sinh viên! Chỉ có một cách, đó là các bạn phải ra sức học tập, chờ ngày đem mọi tinh lực ra phục vụ cho đất nước. Chính điều này cũng là trách nhiệm mà các bạn phải gánh trên vại, là trách nhiệm vô cùng cấp bách.

Hy vọng vào tương lai xán lạn là liều thuốc an ủi nỗi bất hạnh của hiện thời:

Thực lực của thanh niên sinh viên Nhật Bản còn yếu, nên chúng ta vẫn phải tiếp tục mời người nước ngoài vào làm việc thay. Trình độ sản xuất của nước ta còn thấp, nên chúng ta phải nhập hàng hóa từ nước ngoài. Việc chúng ta đang phải trả những khoản tiền lớn để thuê người nước ngoài, để nhập khẩu hàng hóa cũng bởi vì trình độ học thuật của nước ta quá lạc hậu so với các quốc gia phương Tây. Mọi thứ của cải, mọi đồng ngoại tệ nước Nhật bản tích cóp được, lại cứ phải đem dâng cho nước ngoài hết, như thế có khác nào “ky cóp cho cọp nó xơi”.
Chúng ta phải thấy xót xa, phải thấy đó là sự nhục nhã với tư cách là những nhà tri thức, những người quyết chí theo đuổi sự nghiệp học hành.
Tuy vật, đã là con người, ai nấy cũng đều hy vọng vào tương lại. Không có hy vọng thì không thể cố gắng trong mọi việc. Và chính vì hy vọng vào tiền đồ xán lạn, nên con người mới có sực lực, mới có tinh thần chịu đựng được mọi nỗi bất hạnh hiện thời. Ngày xưa, mọi sự vật trên đời đều bị trói buộc trong các hủ tục, tập quán cũ. Ngay cả người can đảm nhất cũng không dám hy vọng, không dám đánh cược vào tương lai.
Giờ đây, thời thế đã thay đổi. Mọi sự trói buộc đã bị quét sạch. Xã hội mới đang xuất hiện vì các bạn, làm nông nghiệp, làm thương nghiệp, trở thành học giả, trở thành quan chức chính phủ, mọi thứ các bạn đều có thể làm được. Viết sách, soạn thảo luật pháp, nghiên cứu nghệ thuật, khởi sự doanh nghiệp, trở thành nghị sĩ quốc hội... tất cả đều tùy thuộc vào năng lực của các bạn.
Hơn nữa, đối thủ mà các bạn phải tranh đấu về trí tuệ là những người phương Tây. Nếu các bạn thắng trong cuộc đọ sức tri thức này thì vị thế của nước Nhật Bản sẽ dâng cao trên trường quốc tế. Còn ngược lại, nếu các bạn thua thì chúng ta, những người Nhật bản, sẽ mãi mãi thấp kém dưới con mắt người Phương Tây.
Vì lẽ đó, niềm hy vọng của chúng ta lớn lao thế nào, mục tiêu rõ ràng ra sao, chắc các bạn đều đã hiểu.
Phát triển quốc gia là sự nghiệp lâu dàu, đòi hỏi sự bền bỉ. Tuy vậy, dù có thể nào đi nữa thì sự nghiệp khẩn cấp nhất – vì đất nước Nhật Bản hiện nay – là mọi quốc dân chúng ta, bất kể người nào cũng phải học tập, phải nghiên cứu. Nhất là sinh viên – những người ý thức rõ nhất nghĩa vụ của quốc dân – lại càng không thể bàng quan trước sự tình của đất nước. Phấn đấu học tập là công việc quan trọng nhất trong lúc này của các bạn.
Nếu nghĩ được như vậy thì sinh viên hiện nay quyết không thể thỏa mãn với một chút kiến thức học được ở trong nhà trường. Cần phải đặt mục tiêu cao hơn, xa hơn. Cần tìm hiểu cặn kẽ bản chất của học thuật. Cần phải xây dựng được vị trí độc lập đích thực. Dù chỉ một mình – không có bạn cùng chí hướng – cũng phải có khí phách để xây dựng đất nước Nhật Bản, tận tâm tận tụy đem hết mọi khả năng đóng góp cho xã hội.
Từ trước tới nay, tôi vốn không ưa lối học của các sĩ phu, các nhà nho tối ngày vùi đầu dùi mài kinh sử, làm thơ phú, câu đối... theo kiểu khoa cử Trung Hoa. Vì với lối học đó, có đỗ đạt ra làm quan, họ chỉ biết cai trị xã hội, cai trị dân chúng hoàn toàn theo cảm tính. Chính vì thế, ngay từ Phần Một, tôi đã nhấn mạnh đến sự cần thiết của “Thực học”, học các môn tự nhiên, các môn xã hội, ứng dụng vàocuộc sống thường ngày, sao cho tất cả mọi người đều có thế gây dựng được cuộc sống bằng trách nhiệm và khả năng của chính mình. Tôi nhấn mạnh tới tầm quan trọng về sự bình đẳng giữa các tầng lớp trong xã hội.

Hãy can đảm lên, hỡi các bạn hữu Nakatsu:

Gần đây, tôi nghe nói trong số bạn bè cũ vùng Nakatsu quê tôi, có nhiều người bỏ dở việc học hành, vội vàng tìm kế sinh nhai. Lẽ dĩ nhiên, tôi không coi nhẹ việc mưu sinh. Con người ta, có người tài có người không. Vì vậy, việc sớm quyết định tương lai của cuộc đời tùy vào cảnh ngộ cũng là lẽ bình thường. Nhưng nếu hiện tượng này biến thành phong trào xã hội – tất cả mọi người, ai ai cũng chỉ nghĩ kế sinh nhai, cứ đua nhau bỏ ngang việc học hành như thế - thì tôi sợ rằng sẽ làm thui chột tài năng không chỉ thế hệ hiện nay mà còn làm hỏng cả thế hệ mai sau nữa. Điều này vừa làm thiệt thòi cho các em, vừa làm tổn thất cho xã hội.
Vẫn biết rằng cuộc sống còn cơ cực, nhưng nếu bình tâm suy nghĩ cho kỹ về kinh tế, thì cái được, sau những nỗ lực và cần kiệm, do biết chờ thời để đạt được thành quả lớn sau này – chẳng phải là nhiều hơn so với việc kiếm được một chút ít tiền bạc trước mắt và sự ổn định nhỏ bé hay sao?
Cho dù còn phải mặc áo vá, phải ăn gạo hẩm cơm độn, phải chịu sự nóng, chịu rét cũng vẫn là học được.
Thức ăn của con người, không cứ gì phải là món Âu mới là ngọn. Dù húp canh rong biển, dù ăn kê, ăn mạch vẫn học được văn minh Tây Âu chứ sao?
Đã quyết chí học hành thì phải học cho đến nơi đến chốn.
Còn nếu theo nghề nông thì phải quyết trở thành hào phú.
Nếu làm thương nghiệp thì phải quyết trở thành đại thương gia.
Sinh viên không được mãn nguyện vì sự ổn định cỏn con.
Tháng 6 năm Minh Trị thứ bảy (tức năm 1874)
 
PHẦN MƯỜI MỘT: ĐẲNG CẤP ĐỊA VỊ ĐẺ RA CÁC CHÍ SĨ RỞM


Fukuzawa Yukichi (1835-1901)

Quan điểm thường thấy ở những người đứng trên:

Trong Phần tám, tôi đã đưa nhiều dẫn chứng về những tác hại nảy sinh trong quan hệ vợ chồng, trong quan hệ cha con, mà nguyên nhân chính là do đẳng cấp, địa vị của con người, điều tôi lo ngại nhất là những tác hại khác do nó gây ra cho xã hội. Tác hại đó thể hiện qua việc kẻ mạnh lấy quyền lực áp đặt, đè nén kẻ yếu.

Tuy vậy, không phải lúc nào “người đứng trên” cũng có ý định cai trị “kẻ ở dưới” bằng ác ý. Những người “đứng trên” thường có chung một quan điểm. Đó là, coi dân chúng trong xã hội vừa ngu muội vừa lương thiện. Chính vì vậy, cần phải lãnh đạo, phải giúp đỡ, phải giáo dục, phải cứu vớt, phải làm cho dân chúng biết phục tùng lệnh trên, và không được phép bày tỏ suy nghĩ. Họ coi nền chính trị của một quốc gia, việc cai trị trong một làng, việc kinh doanh ở một cửa tiệm, việc sinh hoạt trong nhà, trên dưới đều phải một lòng, sao cho mọi quan hệ phải được như quan hệ giữa cha mẹ với con cái trong gia đình.

Vì sao cứ muốn quan hệ ngoài xã hội phải như quan hệ cha con trong gia đình?


Tôi lấy ví dụ việc nuôi dạy một đứa con khoảng chín, mười tuổi làm ví dụ.

Khi nuôi con, cha mẹ thường không để ý xem chúng cần cái gì và suy nghĩ ra sao.

Cho ăn, cho mặc thế nào hoàn toàn dựa theo cảm tính. Miễn là con cái ngoan ngoãn biết vâng lơi, không làm trái ý mình thì trời lạnh sẽ cho mặc áo ấm, bụng đói sẽ cho ăn no. Thức ăn, manh áo, chỗ ở giống như của trời cho, cần lúc nào có lúc đó, con cái không phải lo nghĩ.

Đối với người làm cha làm mẹ, con cái là thứ quý giá nhất. Nếu có chiều chuộng, có yêu thương hay mắng mỏ, có cho roi cho vọt, cũng đề là hành vi xuất phát từ tình thương chân thực.

Hình ảnh cha mẹ với con cái là một như vậy mới đẹp làm sao. Đương nhiên, trong mối quan hệ này, trên (cha mẹ) vẫn ra trên, và dưới (con cái) vẫn ra dưới. Hoàn toàn không có bất cứ một sự lẫn lộn nào.

Những người chủ trương một xã hội phân thành đẳng cấp, có trên có dưới, luôn ước ao quan hệ xã hội cũng được như quan hệ cha con trong một nhà. Mong ước đó rất hay. Nhưng có một vấn đề lớn phải suy nghĩ. Thực ra, mối quan hệ cha con chỉ hình thành trong điều kiện cha mẹ là những người lớn, chín chắn và con cái là những đứa trẻ còn non dại. Mà phải là con đẻ mới được. Nhưng cho dù là con mình đẻ ra, khi tới độ tuổi nhất định thì người cha, người mẹ nào cũng cảm thấy chúng bắt đầu khó bảo. Và mối quan hệ cha con bất hòa dần theo thời gian.

Với con cái nhà mình còn khó, huống chi là với con cái nhà người. Bởi thế, quan hệ ở ngoài đời giữa những người lạ - mà đều đã trưởng thành – lại còn khó gấp bội. Vậy phải làm sao để có thể hình thành được mối quan hệ giữa người với người trong xã hội giống như quan hệ cha con trong gia đình? Biến lý tưởng thành hiện thực quả là không dễ.

Hơn nữa, một đất nước, một làng, một chính phủ, một công ty... tất cả những gì mà người ta gọi là “xã hội loài người” cũng đều là xã hội của những người đã trưởng thành, xã hội của những người không có quan hệ huyết thống với nhau. Trước một thực tế như vậy, mà lại mong ước áp đặt quan hệ cha con trong một nhà vào quan hệ người với người ngoài đời thì thật là ảo tưởng.

Nhưng dù biết là kho song ai cũng đều muốn biến trí tưởng tượng thành hiện thưc. Con người là vậy. Và đây cũng chính là nguyên nhân dẫn tới đẳng cấp, địa vị trên dưới trong quan hệ giữa người với người, cũng chính là nguyên nhân sinh ra nền chính trị chuyên chế tàn bạo trong xã hội.

Vì thế, tôi mới viết ở đoạn trên rằng: “Nguyên nhân chính đẻ ra đẳng cấp, địa vị không xuất phát từ sự ác ý mà xuất phát từ trí tưởng tượng của con người”.

Tại các quốc gia Á châu, người ta gọi quân chủ là “vua cha”, gọi dân chúng là “thần dân”, “con đỏ”. Ngoài ra, người ta còn gọi công việc của chính phủ là “mục dân” (chăn dắt, trông coi dân). Ở Trung Hoa, người ta còn đặt tên cho các quan cai trị địa phương là “quan châu mục”.

Thực ra, chữ “mục” ở đây, có nghĩa là chăn nuôi gia súc. Tức là đàn bò, bầy cừu được người ta chăn dắt vỗ về ra sao thì dân chúng trong vùng cũng được chăn dắt như vậy. Họ công nhiên tán dương “chiêu bài” này. Đối xử với người dân như lũ ngựa non, bầy nai tơ. Cách làm vô cùng thất đức, ngạo mạn.

Tuy vậy, như tôi đã trình bày ở đoạn trước, việc họ coi dân chúng như lũ trẻ non dại, như bầy cừu, như đàn bò cũng không phải do có ác ý. Chẳng qua họ cố gắng việc trị vì một đất nước theo kiểu cha mẹ chăm sóc, nuôi nấng con cái.

Để làm được như vậy, trước hết họ tự tôn quan chủ là “vua cha” vừa có đức, vừa có tài. Tiếp đến, bên dưới lại có các quan đại thần anh minh sáng suốt giúp sức. Ho ra sức truyền bá trong dân chúng, rằng đấng quân chủ và các đại thần có tấm lòng trong như nước, ngay thẳng như “mũi tên”, không tham lam hay vụ lợi. Đấng quân chủ yêu dân với tình thương bao la, lô cho dân từng bát cơm, manh áo, từng chốn nương thân. Dân đói thì cho gạo, gặp hỏa hoạn thì cho tiền bạc...

Cứ như thế, ơn đức của đấng quân chủ như luồng gió nam mát rượi thổi vào dân chúng. Còn dân chúng tuân phục đấng quân chủ như cờ phướn cuộn bay theo gió, nhũn như con chi chi, vô cảm như sỏi đá. Đấng quân chủ và thứ dân hòa quyện vào nhau. Thế gian yên ổn thanh bình.

Nghe họ ca tụng mà cứ ngỡ là quang cảnh trên thiên đường đang hiện ra trước mắt. Tuy vậy, thử suy ngẫm hiện thực xã hội thi sẽ rõ. Quan hệ giữa chính phủ và nhân dân vốn là mối quan hệ giữa những người lạ với nhau, không phải là quan hệ máu mủ ruột thịt. Quan hệ giữa người lạ với người lạ, nhất thiết phải ràng buộc nhau bằng khế ước, hợp đồng. Cả hai phía cùng phải tôn trọng hợp đồng, điểm nào chưa được thì phải tranh luận dàn xếp rồi thống nhất thực hiện. Luật pháp của một quốc gia cũng được hình thành trên cơ sở đó.

Trên thế gian này, có quốc gia nào có được đấng quân chủ nhân đức, có được các quan đại thần sáng suốt anh minh, có được lũ thần dân nhu mì dễ bảo. Không! Đó chỉ là giấc mộng ảo tưởng.

Có trường học nào bảo đảm sẽ đạo tạo ra toàn các bậc thánh nhân, toàn người tài đức? Có cách giáo dục nào chắc chắn sẽ sản sinh ra thần dân dễ sai bảo?

Ngay cả Trung Hoa, từ thời nhà Chu, các nhà cai trị đã bao lần đau đầu khổ sở vì ước nguyện đó. Và đã có lần nào họ trị vì dân chúng được đúng như ý nguyện không? Nếu được như thế thì đấu đến nỗi giờ đây cả quốc gia rộng lớn này đang bị ngoại bang giày xéo?

Vậy mà họ vẫn cứ ra giảng ra rả lòng dạ quân chủ như biển Thái Bình... Mà họ có muốn ca ngợi thì cứ việc ca ngời lấy một mình. Bị ngoại xâm giày xéo mà vẫn cứ tiếp tục ca ngợi nền chính trị nhân từ cảu quân chủ.

Cứ cho đó là chuyện của người ta, nhưng mù quang đến như vậy thì chỉ tổ cho thiên hạ chê cười.

“Biển thủ, tư túi”. Trách nhiệm của ai?


Khuynh hướng dựa vào đẳng cấp, địa vị để ra lệnh mà không cần biết dân chúng nghĩ gì không chỉ riêng một mình chính phủ. Hiện tượng này còn thấy cả ở trong các cửa hiệu, trường tư thục, đền chùa. Nơi nào cũng có.

Tôi đưa ra một dẫn chứng.

Có một cửa hiệu do một ông chủ tự bỏ tiền ra kinh doanh. Ông ta sắp đặt công việc sao cho mọi người từ cửa hàng trưởng đến các nhân viên, người nào việc nấy. Ngoài ông chủ ra, không một người nào được biết toàn bộ công việc kinh doanh của cửa hiệu. Lương bổng cao thấp, công việc nặng nhẹ, nhất nhất đều do ông chủ quy định. Bản thân ông ta luôn miệng quát tháo và tin rằng tất cả nhân viên đều nhất mực trung thành, nghiêm túc. Tiếc thay, trong số nhân viên có cả kẻ lợi dụng sự sơ hở của chủ, giấu nhẹm doanh số, sửa đổi sổ sách, biển thủ tiền bán hàng. Chỉ đến khi kẻ đó tự nhiên biết mất hoặc lâm bệnh chết, cho kiểm tra sổ sách, thấy số tiền bị cuỗm quá lơn, ông chủ mới tá hỏa lên. Phó thác hoàn toàn cho người khác chẳng dễ chút nào.

Tuy vậy, vấn đề không phải ở chỗ con người không thể tin tương, không thể trông cậy được, mà là ở cách điều hành của chính bản thân ông chủ. Ông ta tự cho rằng minh là tất cả, và nhân viên phải răm rắp tuân theo. Nên nhớ rằng nhân viên có trung thành đến mấy thì họ cũng chỉ là người dưng. Trong quan hệ với người dưng, phải thỏa thuận rõ ràng chuyện tiền nong, kiểm tra định kỳ chứ không thể cư xử theo kiểu con cháo trong nhà để rồi mang vạ vào thân.

Tại sao lũ chí sĩ rởm lại cứ hoành hành mãi vậy?

Trào lưu quyền lợi phụ thuộc vào đẳng cấp địa vị, hành xử công việc theo lợi ích riêng, đang lan rộng. Nó cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng mưu mô, dối trá, lừa đảo đầy rẫy trong xã hội hiện nay. Tôi gọi những kẻ hùa theo trào lưu này là “chí sĩ rởm”.

Ví dụ, các thuộc hạ của các lãnh chúa dưới thời phong kiến là một minh chứng tốt.

Bọn này, kẻ nào người nấy đều tỏ ra trung thành. Ngoài mặt luôn tỏ vẻ biết thân biết phận, lúc nào cũng khúm núm, cúi rạp mình. Trong ngày giỗ chạp, lể tết, thanh minh... không bao giờ thiếu mặt. Hễ mở miệng là đều có cùng giọng điệu “trung thành báo quốc”, hoặc “thân này sẵn sàng chết vì chủ”. Người thường dễ bị lừa phỉnh bằng vẻ bề ngoài của chúng. Kỳ thực, bọn chúng đều là một lũ chí sĩ rởm cả.

Được cất nhắc vào chức vụ cao một chút, ngoài lương bổng, phụ cấp quy định ra, không hiểu sao tiền cứ vào như nước. Hóa ra, kẻ trông coi việc xây cất thì luôn thúc giục chủ thầu phải cống lễ. Kẻ trông coi ngân khố thì đòi thị dân phải biếu xén quà cáp mới cho vay tiền. Những chuyện như vậy diễn ra như cơm bữa đến độ trở thành lệ. Ngay cả những Võ sĩ vốn được mệnh danh là trung nghĩa luôn trong tư thế chết thay cho chủ thì cũng tìm cách nâng giá trang phục để kiếm chênh lệch. Tất cả cái lũ này phải được gọi là “chí sĩ rởm chính hiệu” mới phải.

Họa hoằn lắm mới có một ông quan chính trực. Không một lời đồn nào về ông ta nhận hối lộ cả. Và thế là người đời ra sức khen ngợi. Nhưng ông ấy cũng chỉ là người không ăn cắp tiền của công quỹ mà thôi. Chẳng lẽ cứ phải khen người ta vì ở họ không có lòng dạ tham lam hay sao? Chẳng qua, vì có quá nhiều các chí sĩ rởm, nên ông ấy mới nổi đình nổi đám như vậy.

Vì sao lũ chí sĩ rởm lại nhiều đến thế? Nếu tra kỹ ngọn nguồn, thì đó là kết quả của ảo tưởng mù quáng luôn coi dân chúng là ngu muội, hiền lành và dễ trị.

Kết cục là tác hại đó đưa tới cách đối xử độc đoán, đẻ ra sự áp chế đối với người dưới. Có thể nói không có gì vô tách nhiệm hơn là cách hành xử dựa vào đẳng cấp, địa vụ, tự cho mình là cha mẹ của dân.

Không thể trông cậy vào thiểu số “nghĩa sĩ”:

Tuy vậy, có người sẽ nói: “Sao lại cứ toàn đưa ra các ví dụ chẳng hay ho gì về lũ người dối trá như thế? Người Nhật bản có phải ai cũng xấu cả đâu. Nước ra vốn là một đất nước trọng nghĩa. Từ bao đời nay, chẳng phải là có rất nhiều ví dụ của các nghĩa sĩ hy sinh thân mình vì chúa đó sao?”

Tôi xin thưa: “Quả thật, không phải là không có các nghĩa sĩ chính trực. Nhưng số đó thật ít ỏi. Tôi tính thử thế này. Dưới thời Genroku – thời kỳ mà tinh thần trọng nghĩa nở rộ nhất trong lịch sử nước ta – có 47 nghĩa sĩ tỉnh Akou. Tỉnh Akou có bảy mươi ngàn dân. Cứ bảy mươi ngàn dân có 47 nghĩa sĩ, thì bảy triệu dân có 4.700 nghĩa sĩ. Nhưng thời thế đổi thay, tình người cũng vơi dần theo thời đại, tấm lòng trọng nghĩa đang bước vào thời kỳ thoái trào, như mọi người đều nhận thấy. Cứ coi như giảm 30 phần trăm so với thời Genroku, và như vậy bảy triệu người chỉ còn 3.290 nghĩa sĩ. Dân số nước ta hiện nay là 30 triệu. Vậy thì số nghĩa sĩ vào khoảng 14.000 người. Với số lượng như thế này, không hiểu là có đủ người để bảo vệ đất nước Nhật bản không? Đến đứa trẻ lên ba cũng nhẩm tính được.

Địa vị đẳng cấp và chức vụ là hai việc hoàn toàn khác nhau:

Nếu theo luận cứ như trên, thì đẳng cấp địa vị không có ý nghĩa gì.

Tuy vậy, để cận thận hơn, tôi muốn nói thêm một ý thế này, nói tới đẳng cấp địa vị là nói về chức danh trống rỗng bề ngoài. Mà đã là chức danh trống rỗng thì bất kể trên hay dưới, nó là thứ hoàn toàn vô dụng. Nhưng mặt khác, chức danh cũng còn bao gồm chức năng thực tế. Chức năng thực tế là điều quan trọng nhất. Nếu làm tròn chức năng thực tế thì dù có đẳng cấp địa vị cũng còn có thể chấp thuận dung thứ được.

Tức là chính phủ là người coi giữ nhân khố của một nước. Chức năng của chính phủ là cai trị nhân dân. Nhân dân là người đầu tư của một nước. Chức năng của nhân dân là chi trả mọi khoản quốc phí. Chức năng của chính trị gia là quyết định chính trị, luật pháp. Chức năng của quân nhân là chiến đấu theo mệnh lệnh của quốc gia. Cũng như vậy, các học giả, thị dân đều có chức năng được quy định.

Tuy vậy cũng có người nhanh nhẩu đoảng, cho rằng làm gì có địa vị đẳng cấp, đứng trên lập trường cho rằng dân chúng chỉ chuyên vi phạm luật lệ. Có quan chức chỉ thích thọc tay vào sản nghiệp của tư nhân, họ gây ra những chuyện động trời. Huống chi quân đội lại tùy tiền can thiệp vào chính trị, gây ra chiến tranh, chính điều này làm đất nước rơi vào cảnh nội loạn. Đó không phải là phát huy ý nghĩa của tự chủ, tự do mà chỉ có thể gọi là bạo động vô chính phủ, vô pháp luật.

Nói tóm lại, về chức “chức danh” và “chức năng” trông thì có vẻ giống nhau, nhưng nghĩa thì hoàn toàn khác nhau, nên cần thiết phải phân biệt cho rõ rệt.

Các bạn không được phép lầm lẫn ý nghĩa mang tính bản chất mà từng chữ thể hiện.

Tháng 7 năm Minh Trị thứ bảy (tức năm 1874)
 
×
Quay lại
Top