Bởi Vì Yêu - Guillaume Musso 

Monmunmon

Thành viên thân thiết
Thành viên thân thiết
Tham gia
1/1/2012
Bài viết
4.527
You are here

Trang chủ » Bởi Vì Yêu
Bởi Vì Yêu


anan
18:04 - 24/04/2013
537 lần đọc
B%E1%BB%9Fi%20v%C3%AC%20y%C3%AAu.jpg

Bởi Vì Yêu
Tác giả: Guillaume Musso
Thể loại: Tiểu thuyết
Dịch giả: Thu Phương
Biên tập: Diana C.



GIỚI THIỆU
Layla, một bé gái năm tuổi biến mất trong một trung tâm thương mại Los Angeles.
Bố mẹ cô, đã chia tay nhau vì không thể vượt qua cú sốc.
Năm năm sau, cô bé lại xuất hiện, vẫn tại trung tâm thương mại đó. Cô còn sống, nhưng mắc phải một chứng câm lạ thường.
Layla đã ở đâu trong suốt quãng thời gian đó? Cùng với ai? Và nhất là: Vì sao cô bé lại trở về?
Một chuyện tình yêu cuốn hút.
Một cuốn sách làm độc giả đắm chìm trong cảm giác hồi hộp và huyền bí.
Một kết cuộc mở nút khiến ai nấy đều ngỡ ngàng.
"Musso chẳng khác nào Sipelberg của nền văn học đương đại Pháp."
- Nostalgie
"Cuốn tiểu thuyết hay nhất của Guillaume Musso từ trước tới nay, gây ngạc nhiên nhất, sâu kín nhất, nhân văn nhất."
- La Voix du Nord
"Một ly cocktail chứa đầy bất ngờ và tưởng tượng."
- Elle
"Musso đã chứng tỏ tài năng bậc thầy của mình trong nghệ thuật tạo bất ngờ."
- Paris Match
"Ngay từ trang đầu tiên, chúng ta đã lọt vào bẫy. Và toàn bộ sự kháng cự sẽ là vô ích."
- Le Figaro Magazine
"Độc giả hoàn toàn bị cuốn theo câu chuyện, giữa một bên là mộng mị và bên kia là hư ảo. Một kết cuộc khiến ta phải ngỡ ngàng."
- Gala
"Cảm xúc, hồi hộp, siêu nhiên... Trí tưởng tượng làm nên tất cả."
- Télé Star
"Không có lấy một nét hoa mỹ, Guillamue Musso đã tạo ra sự bất ngờ theo bản năng."
- Le Parisien
"Khám phá Bởi vì yêu tức là bị dẫn dụ bởi ngòi bút linh hoạt và quyến rũ của Guillaume Musso."
- Nice Matin
"Một cuốn sách rất khó để khép lại."
- Matin Plus
Không gì tốt hơn một cuốn tiểu thuyết giúp ta hiểu rằng hiện thực khác xa bình thường, rằng hiện thực không đủ để thỏa mãn những mong muốn, dục vọng và mơ ước của con người.
Mario VARGAS LLOSA
Trước khi bắt đầu, thông điệp của tác giả:
Để giữ bất ngờ, không nên tiết lộ đoạn kết cuốn sách này cho bạn của bạn!
CHƯƠNG 1 - BUỔI TỐI BẮT ĐẦU MỌI CHUYỆN
Chúng ta phải làm quen với điều này: vào những thời điểm quan trọng nhất trong cuộc đời, không có dấu hiệu báo trước.
Ernest HEMINGWAY
THÁNG MƯỜI HAI 2006
Đêm Giáng sinh, trung tâm Manhattan...
Tuyết không ngừng rơi từ buổi sáng. Đờ đẫn vì lạnh, "thành phố không bao giờ ngủ" dường như quay chậm lại, bất kể ánh đèn vẫn luôn ngập tràn.
Đối với một đêm Giáng sinh, giao thông thuận lợi một cách đáng ngạc nhiên, bởi màn tuyết cùng lớp tuyết dày khiến việc di chuyển nhỏ nhất cũng gặp khó khăn.
Tuy vậy tại góc Đại lộ Madison và Phố 36, những chiếc limousine vẫn nối đuôi nhau theo một nhịp điệu ổn định. Chúng thả những vị khách trong xe xuống hiên một công trình mang phong cách Phục hưng, trụ sở của Morgan Library, một trong những tổ chức văn hóa nổi tiếng nhất New York, hôm nay trung tâm này sẽ kỷ niệm 100 năm ngày thành lập.
Trên cầu thang lớn là một cơn lốc smoking, áo váy lộng lẫy, áo da lông thú và đồ trang sức. Đám đông tập trung về phía chái nhà được xây bằng thủy tinh và thép chạy dọc theo tòa nhà để gắn kết công trình với thế kỷ XXI một cách hài hòa. Ở tầng trên cùng, một hành lang dài dẫn đến căn phòng rộng, nơi có tủ kính trưng bày một vài báu vật của trung tâm: cuốn Kinh thánh của Gutenberg, bản thảo viết tay có minh họa thời Trung Cổ, những bức họa của Rembrandt, Léonard de Vinci và Van Gogh, những bức thư của Voltaire và Einstein, và thậm chí một mẩu khăn giấy mà trên đó Bob Dylan đã viết lời cho bài hát Blowin'in the Wind.
Dần dần, trật tự được thiết lập, những người đến muộn bước nhanh vào chỗ của mình. Tối nay, một phần của phòng đọc đã được sắp xếp thật đặc biệt để cho phép một vài người được hưởng đặc ân nghe nữ nghệ sĩ violon Nicole Hathaway chơi những bản sonat của Mozart và Brahms.
Nữ nghệ sĩ violon bước lên sân khấu trong tiếng vỗ tay nhiệt liệt. Đó là một phụ nữ khoảng ba mươi tuổi, dáng vẻ thanh lịch và mực thước. Búi tóc theo kiểu Grace Kelly[1] tạo cảm giác cô giống như vai nữ chính trong các bộ phim của đạo diễn Alfred Hitchcock... Được đánh giá cao trên các sân khấu quốc tế, cô đã từng chơi với những dàn nhạc lớn nhất thế giới, và kể từ khi đĩa nhạc đầu tiên của cô được thu âm vào năm mười sáu tuổi, cô đã nhận được vô số lời khen tặng. Năm năm trước, một tấm thảm kịch đã tàn phá cuộc sống của cô. Báo chí và truyền hình đã nhắc đi nhắc lại sự kiện này và kể từ đó, sự nổi tiếng của cô đã vượt xa khỏi phạm vi những người yêu nhạc cổ điển.
Nicole chào khán giả và đặt nhạc cụ của mình xuống. Vẻ đẹp cổ điển của cô hoàn toàn phù hợp với nét duyên dáng quý tộc của không gian nơi đây, như thể nữ nghệ sĩ được đặt một cách rất tự nhiên vào giữa những bức điêu khắc cổ và bản thảo viết tay thời Phục hưng. Bằng một khởi đầu mạnh dạn và có chiều sâu, cây vĩ cầm ngay lập tức hòa hợp với dây đàn và sẽ duy trì như vậy trong suốt buổi trình diễn.
Bên ngoài, tuyết vẫn tiếp tục rơi trong đêm giá lạnh.
Nhưng ở đây, chỉ có tiện nghi, sang trọng và sự tinh tế.
o O o
Cách đó chưa đầy năm trăm mét, không xa trạm tàu điện ngầm Grand Central, một nắp cống từ từ được mở ra, một cái đầu bù xù nhô lên, ánh mắt trống rỗng, khuôn mặt bầm dập vì những cú đánh...
Sau khi thả con chó săn Labrador lông đen tuyền đang ôm trên tay ra, người đàn ông khó nhọc leo lên vỉa hè phủ đầy tuyết trắng. Anh ta băng qua đường, bước thấp bước cao trên mặt đường, chỉ thiếu điều bị cán nát giữa dàn hợp âm còi xe inh ỏi.
Gầy gò và ốm yếu, kẻ vô gia cư mặc chiếc áo măng tô bẩn thỉu đã sờn rách. Khi anh ta gặp người qua đường, những người này rảo bước nhanh hơn và theo bản năng, tránh xa anh ta.
Điều đó hoàn toàn bình thường. Anh biết rằng anh khiến họ sợ, rằng anh bốc mùi cáu ghét, nước đái và mồ hôi.
Anh chỉ mới ba lăm tuổi, nhưng trông như năm mươi. Ngày trước, anh cũng có một công việc, một người vợ, một đứa con và một ngôi nhà. Nhưng điều đó đã xảy ra lâu lắm rồi. Ngày hôm nay, anh chỉ còn là một cái bóng lang thang, một bóng ma được bao bọc bằng đống quần áo nhàu nát như giẻ rách và lẩm bẩm những lời lẽ rời rạc.
Anh khó nhọc đứng thẳng người lên, bò lê thì đúng hơn là bước đi, loạng choạng.
Hôm nay là ngày bao nhiêu? Mấy giờ rồi? Giờ là tháng mấy?
Anh không còn biết nữa. Trong đầu anh mọi thứ lẫn lộn hết cả. Trước mắt anh, ánh sáng thành phố dường như nhòa đi. Những bông tuyết lạnh giá do gió thổi tới rạch xé khuôn mặt anh như từng nhát dao cứa. Bàn chân lạnh cóng, dạ dày đau quặn, xương cốt như muốn sụm xuống.
Đã hai năm kể từ ngày anh rời bỏ xã hội loài người để chui xuống lòng thành phố. Như hàng nghìn kẻ vô gia cư khác, anh đã tìm đến dưới bến tàu điện ngầm, ống cống và hệ thống đường sắt. Những công dân trung thực và du khách đã được an lòng biết mấy: chính sách không khoan hồng[2] được thành phố thực hiện mang lại nhiều thành quả, góp phần dọn sạch bề mặt Manhattan một cách triệt để. Nhưng dưới những tòa nhà chọc trời rực rỡ ánh đèn còn ẩn giấu một thế giới song song: một New York của những con người thân tàn ma dại hoạt động trong mạng lưới cống ngầm, hốc tường và các lỗ hổng. hàng nghìn "người-chuột", bị đẩy vào những khu dành cho người nghèo, trốn chạy sự trấn áp của cảnh sát, nêm chặt trong những ống cống bẩn thỉu giữa nhung nhúc chuột và phân cứt.
Thực tế là như vậy đấy.
Người đàn ông lục tìm trong túi áo lôi ra một chai đựng loại rượu kém chất lượng. Hiển nhiên là anh ta uống. Làm sao có thể khác được cơ chứ?
Một cốc đầy tràn, rồi lại một cốc nữa.
Để quên đi giá lạnh, sợ hãi, và bẩn thỉu.
Để quên đi cuộc sống trước kia.
o O o
Tiếng vĩ cuối cùng của Nicole Hathaway. Khoảng thời gian giữa hai khuôn nhịp, không khí im ắng trầm lắng bao trùm khắp cử tọa. Sự im lặng tuyệt vời dõi theo Mozart, như vẫn đang còn dư âm bản nhạc của Mozart, ngay lập tức bị những tràng pháo tay rôm rả đẩy lui.
Nữ nghệ sĩ violon nghiêng đầu cúi chào, đón nhận những bó hoa rồi bước qua khán phòng để nhận những lời chúc mừng không dứt. Khán giả phấn khởi cũng vô ích. Nicole biết rõ rằng màn trình diễn của cô chẳng phải là điều gì đó vĩ đại. Cô đã chơi những bản sonat với một kỹ thuật hoàn hảo, sự tập trung tuyệt đối và dồn vào đó nhiều công sức.
Nhưng không phải với tình cảm của cô.
Lơ đễnh, cô máy móc bắt tay một vài người, nhấp môi một cốc sâm banh, rồi tìm cách trốn đi.
- Em muốn chúng ta về không, em yêu?
Cô từ từ quay người về phía giọng nói làm yên lòng đó. Eriq, người bạn trai sống cùng cô, đang đứng trước mặt với ly Martini trong tay. Anh chàng luật sư thương mại này ít nhiều cũng đã cùng chia sẻ cuộc sống với cô từ vài tháng nay. Vẫn luôn ân cần, anh ta biết có mặt ở đó vì cô vào thời điểm cô cần.
- Vâng. Đầu em đang quay cuồng. Đưa em về nhà đi.
Tiên liệu trước được câu trả lời của cô, anh ta vội vàng chạy về phía phòng treo áo và dang rộng chiếc áo bằng vải flanen màu ghi để cô mặc vào trước khi kéo khóa che kín cổ.
Sau khi chào tạm biệt ngắn gọn các vị khách mời, họ đi xuống cầu thang lộng lẫy bằng đá cẩm thạch, trong khi đó, ở trên tầng, buổi lễ vừa mới bắt đầu bước vào giai đoạn cao trào.
- Anh sẽ gọi taxi cho em, Eriq đề nghị khi cả hai bước vào sảnh lớn. Anh đi lấy xe của mình ở văn phòng và sẽ gặp lại em sau.
- Em đi cùng anh, chỉ cách đây chưa đầy năm phút mà.
- Em đùa chắc! Thời tiết đang tệ lắm.
- Em cần đi bộ và hít thở chút không khí trong lành.
- Nhưng điều đó có thể sẽ nguy hiểm!
- Đi bộ ba trăm mét trở nên nguy hiểm từ khi nào vậy? Vả lại còn có cả anh đi cùng nữa chứ.
- Tùy em thôi.
Họ bước ra vỉa hè trong im lặng và rảo bước trở về Đại lộ 5 trong cái lạnh cắt da cắt thịt. Giao thông vẫn luôn thưa thớt; những bông tuyết nặng nề và lặng lẽ tiếp tục chất đống trên thành phố.
Hiện giờ chiếc ô tô chỉ còn cách chưa đầy một trăm mét, ngay sau công viên Bryant. Trong những ngày đẹp trời, nơi đây là một khoảnh đất tuyệt vời nằm lọt thỏm giữa thảm xanh cây cối, địa điểm lý tưởng để tắm nắng, dã ngoại hay chơi cờ gần đài phun nước. Nhưng vào tối nay, nơi này trở nên đầy nguy hiểm, chìm trong bóng tối, vắng tanh vắng ngắt...
- ĐƯA TIỀN ĐÂY!
Nicole hét lên một tiếng khô khốc.
Một lưỡi dao vừa lóe lên trước mắt cô, sáng chói như tia chớp.
- TIỀN ĐÂU, TAO NÓI MÀY ĐẤY! tên cầm dao ra lệnh.
Đó là một gã đàn ông không đoán định được tuổi, trông thô lỗ và lực lưỡng. Cái đầu cạo nhẵn thín của hắn lộ ra khỏi tấm áo gió tối màu dài tới tận đầu gối. Khuôn mặt hắn, bị xuyên thủng bởi hai con mắt nhỏ tí ánh lên tia nhìn điên cuồng, có một vết sẹo lồi chạy dọc theo suốt chiều dài.
- NHANH LÊN!
- ĐƯỢC RỒI! ĐƯỢC RỒI! Eriq đầu hàng bằng cách đưa ví rồi đưa luôn cả chiếc đồng hồ Breitling cùng điện thoại di động của mình.
Gã đàn ông cướp tất cả rồi tiến lại gần Nicole để giật túi xách cùng túi đàn violon của cô.
Nữ nhạc công cố gắng che giấu nỗi sợ hãi của mình, nhưng cô không thể đối mặt với ánh mắt của kẻ cướp và không thể làm gì khác ngoài việc nhắm mắt lại. Trong khi một bàn tay giật lấy chiếc vòng ngọc trai của cô, cô đọc nhẩm bảng chữ cái ngược từ cuối lên. Rất nhanh. Như cô vẫn thường làm lúc còn nhỏ, để chế ngự nỗi sợ hãi.
Z Y X W V U...
Đó là cách duy nhất cô tìm được để tập trung chú ý vào một cái gì đó, đồng thời hy vọng giây phút này từ giờ trở đi chỉ còn là một kỷ niệm tồi tệ.
T S R Q P O...
Hắn sẽ bỏ đi, hắn đã có cái hắn muốn: tiền, điện thoại, đồ trang sức...
N M L K J I H...
Hắn sẽ bỏ đi. Giết chúng ta hắn chẳng được lợi lộc gì cả.
G FE D C B A...
Nhưng, khi cô choàng mở mắt, gã đàn ông vẫn luôn ở đó và hắn đưa tay ra trước với ý định đâm cô một nhát.
Eriq đã nhìn thấy con dao vung lên phía trước, nhưng anh ta đông cứng lại vì sợ và không thực hiện bất kỳ hành động nhỏ nhất nào để bảo vệ cô.
Tại sao cô không ngạc nhiên về thái độ của anh ta?
Dù sao đi nữa, cô cũng không có thời gian để nhúc nhích. Là nữ khán giả bất lực, cô nhìn như thôi miên con dao sẽ cắt đứt cổ họng mình.
Vậy là cuộc đời cô sẽ chỉ có như vậy thôi sao? Một khởi đầu đầy triển vọng, một môi trường xán lạn sau đó là tụt dốc xuống địa ngục rồi đến một kết cục lãng xẹt xảy đến mà không hề báo trước. Với cảm giác xót xa là nhân vật nữ chính trong một câu chuyện vẫn còn dang dở...
Thật lạ lùng. Người ta thường nói rằng vào thời điểm cận kề cái chết, bạn có thể thấy lại những thời điểm quan trọng của cuộc đời mình dần dần hiện lên như đoạn phim quay chậm. Đối với Nicole, cô chỉ thấy một cảnh duy nhất: một bãi biển trải dài xa ngút tầm mắt, không một bóng người, ngoại trừ hai người đang vui mừng vẫy tay chỉ về hướng cô. Cô thấy rõ ràng khuôn mặt hai người ấy. Khuôn mặt thứ nhất là của người đàn ông duy nhất mà cô mãi yêu và là người cô không thể giữ lại bên mình. Khuôn mặt thứ hai là của con gái cô, người mà cô không thể bảo vệ.
o O o
Mình đã chết.
Không. Mình chưa chết. Tại sao vậy?
Ai đó đột nhiên xuất hiện như từ trên trời rơi xuống.
Một kẻ vô gia cư.
Ban đầu Nicole nghĩ đến một vụ tấn công mới, trước khi kịp hiểu ra là kẻ mới đến đang cố gắng cứu cô. Trên thực tế, chính anh ta vừa mới nhận một nhát dao vào bả vai. Bất chấp vết thương, anh ta nhanh nhẹn nhỏm dậy và tức giận lao vào tên cướp, tước vũ khí của hắn và khiến hắn phải buông chiến lợi phẩm ra. Kết quả là một cuộc chiến tay không, quyết liệt và bất phân thắng bại. Thân hình kém vạm vỡ hơn không ngăn cản anh chàng vô gia cư giữ thế thượng phong. Được con chó của mình, một chú Labrador sẫm màu giúp sức, cuối cùng anh đã khiến đối thủ buộc phải bỏ chạy.
Nhưng chiến công của anh cũng để lại những hậu quả. Kiệt sức, anh ngã vật xuống nền tuyết, mặt úp xuống vỉa hè đóng băng.
Ngay lập tức, Nicole lao về phía anh, một trong hai chiếc giày cao gót bóng láng của cô văng ra.
Cô ở đó, đầu gối quỳ trên lớp băng lạnh giá, bên đầu người đàn ông vừa mới cứu mạng mình. Cô nhận thấy vết máu trên tuyết. Tại sao kẻ vô gia cư này lại chấp nhận mạo hiểm vì cô?
- Chúng ta sẽ đưa anh ta hai mươi đô la để cám ơn anh ta, Eriq vụng về đề nghị trong khi thu lượm ví và điện thoại của mình dưới lớp tuyết lạnh giá.
Giờ thì nguy hiểm đã qua, luật sư đã tìm lại được vẻ cao ngạo vốn có.
Nicole nhìn anh ta trừng trừng vẻ khinh bỉ.
- Anh không thấy anh ta bị thương à?
- Trong trường hợp này, anh sẽ gọi cảnh sát.
- Không phải gọi cho ảnh sát mà là gọi xe cứu thương!
Khó nhọc lắm rốt cuộc cô cũng lật được người đàn ông xa lạ nằm ngửa ra. Cô đặt bàn tay lên bờ vai anh giờ đang chảy máu xối xả, rồi cô ngắm gương mặt anh, phủ đầy râu ria.
Ban đầu cô không nhận ra anh, cho đến khi cô nhìn thấy đôi mắt anh đang chăm chăm nhìn cô đầy lo lắng.
Vậy là có thứ gì đó trong cô bỗng nhiên vỡ òa. Một luồng hơi nóng tràn ngập khắp cơ thể cô. Cô còn chưa biết đó là nỗi đau hay sự thở phào nhẹ nhõm. Cảm giác đau đớn hay niềm hy vọng đã trỗi dậy trong đêm đen.
Cô nghiêng người về phía anh, cúi sát vào mặt anh để bảo vệ anh trước cơn lốc tuyết đang vây lấy anh.
- Em làm gì vậy? Eriq lo lắng hỏi.
- Tắt điện thoại và đi lấy xe của anh đi, cô vừa đứng lên vừa ra lệnh cho Eriq.
- Tại sao?
- Người đàn ông này... em có quen anh ta.
- Sao cơ, em có quen anh ta à?
- Hãy giúp em đưa anh ta về nhà, cô yêu cầu mà không trả lời câu hỏi của Eriq.
Eriq gật đầu, rồi thở dài:
- Chết tiệt, nhưng gã này là ai mới được chứ?
Mắt nhìn xa xăm, Nicole im lặng một lúc trước khi thì thầm:
- Đó là Mark, chồng em.
Chú thích
[1] Nữ diễn viên nổi tiếng người Mỹ gốc Ireland sau trở thành bà hoàng Monaco (Những chú thích nếu không có lưu ý gì thêm đều là của người dịch).
[2] Chính sách nhằm trừng phạt nghiêm khắc những tội phạm mắc lỗi nhỏ nhất do thành phố New York áp dụng. Không có bất kỳ sự dung thứ cũng như tình tiết giảm nhẹ nào.
 
CHƯƠNG 2 - MẤT TÍCH
Ta chưa bao giờ gặp phải nhiều khổ đau đến thế như khi ta yêu nhau.
FREUD
Brooklyn, phía bên kia bờ sông, trong sự tiện nghi êm ái của ngôi nhà nhỏ xây từ thời Victoria được tô điểm bằng loạt tòa tháp nhỏ và máng nước...
Ngọn lửa bập bùng tí tách trong lò sưởi.
Vẫn còn bất tỉnh, Mark Hathaway nằm dài trên tràng kỷ ngoài phòng khách, một tấm chăn dày quấn quanh chân. Cúi người bên vai anh, bác sĩ Susan Kingston kết thúc mũi khâu cuối cùng.
- Vết thương không sâu lắm, bác sĩ vừa tháo găng tay vừa giải thích cho Nicole. Nhưng chính tình trạng sức khỏe chung của Mark mới làm mình lo ngại: anh ấy bị viêm phế quản rất nặng và cơ thể anh ấy toàn vết xuất huyết dưới da cùng những vết cước do lạnh.
Vừa mới chập tối nay, trong khi đang cùng gia đình thưởng thức món bánh Christmas pudding truyền thống, Susan đã nhận được cú điện thoại của người hàng xóm, Nicole Hathaway, đề nghị cô đến chăm sóc người chồng đang bị thương của mình.
Mặc dù rất ngạc nhiên nhưng Susan không hề do dự một giây. Chồng cô và cô biết rất rõ Mark và Nicole. Trước khi tấn thảm kịch xảy ra cách đây năm năm, hai cặp vợ chồng rất có thiện cảm với nhau và thường xuyên đi chơi cùng nhau, cùng nhau thưởng thức những món ăn lần lượt tại từng nhà hàng Ý trong khu phố Park Slope, cùng nhau lục lọi tại nhà những người buôn đồ cổ ở Brooklyn Height và cùng chạy bộ trên những thảm cỏ rộng lớn của công viên Prospect vào mỗi dịp cuối tuần.
Ngày hôm nay, thời kỳ đó dường như đã mãi xa, gần như không còn trong thực tại.
Mắt dán chặt vào Mark, Susan không thể ngăn mình cảm thấy một cảm giác vô cùng rối bời.
- Cậu biết là anh ấy sống ở ngoài đường chứ?
Nicole lắc đầu, không thể thốt lên lời.
Một buổi sáng, vào hai năm trước, chồng cô nói với cô rằng anh sẽ ra đi, rằng anh không thể sống "như vậy" được nữa, rằng anh không còn chút sức lực nào nữa. Cô đã làm tất cả để giữ anh lại, nhưng đôi khi tất cả vẫn chưa phải là đủ. Kể từ đó đến nay, cô không hề có chút tin tức nào của anh.
- Mình đã tiêm cho anh ấy thuốc giảm đau cũng như thuốc kháng sinh, Susan vừa nói vừa thu xếp dụng cụ.
Nicole tiễn Susan ra đến tận cửa.
- Ngày mai mình sẽ quay lại, Susan hứa, nhưng...
Cô bỏ lửng câu nói giữa chừng, vừa cảm thấy xấu hổ vừa khiếp sợ điều gì sắp nói ra:
- ... đừng để anh ấy lại ra đi trong tình trạng này, cô nói tiếp, nếu không... anh ấy sẽ chết.
o O o
- Thế nào?
- Thế nào cái gì?
- Chúng ta sẽ làm gì? Eriq hỏi. Với chồng của em ấy?
Ly whisky trên tay, tay luật sư đi đi lại lại trong bếp.
Nicole ngước nhìn người đàn ông với tâm trạng đan xen giữa chán nản và kinh tởm. Cô đã làm gì với gã đàn ông như thế này từ gần một năm qua? Làm sao cô có thể để hắn bước vào cuộc đời mình? Tại sao cô lại dính vào hắn cơ chứ?
- Hãy đi đi, tôi xin anh đấy, cô thì thào.
Eriq lắc đầu.
- Không có chuyện anh bỏ em vào những lúc thế này đâu.
- Khi tôi bị dao kề cổ, điều đó không ngăn anh bỏ tôi chắc!
Anh ta đứng im bất động, cảm thấy nhục nhã ê chề, và phải mất một lúc trước khi thử cất lời biện minh:
- Nhưng anh không có thời gian để... anh ta bắt đầu câ nói mà không thể kết thúc câu.
- Đi đi, Nicole nhắc lại rất ngắn gọn.
- Nếu đó là điều em thực sự muốn... Nhưng ngày mai sẽ gọi cho em, anh ta nói thêm trước khi bỏ đi.
Nhẹ nhõm vì đã rũ bỏ được Eriq, Nicole quay trở lại phòng khách. Cô tắt hết đèn, và không hề gây ra tiếng động nào, kê một chiếc phô tơi sát với tràng kỷ để được gần Mark.
Gian phòng chỉ được chiếu sáng bởi làn ánh sáng mờ mờ màu cam phát ra từ đám than hồng đang rực cháy trong lò sưởi và giờ đây đang ngập tràn trong bầu không khí thật yên bình.
Kiệt sức và lúng túng, Nicole đặt tay lên tay chồng và nhắm mắt lại. Họ đã từng vô cùng hạnh phúc trong ngôi nhà này! Họ từng sung sướng đến phát điên khi tìm ra ngôi nhà này. Đó là một trong những loạt nhà xây thẳng hàng và có kiến trúc hệt nhau kiểu brown-stones được xây dựng vào cuối thế kỷ XIX với mặt tiền bằng đá nâu và một mảnh vườn rất xinh. Họ đã mua ngôi nhà cách đây mười năm, ngay trước khi đứa con gái đầu lòng của họ chào đời, đứa con mà họ muốn nuôi sống trong điều kiện tách biệt khỏi sự ồn ào náo nhiệt của Manhattan.
Trong tủ sách gia đình, một vài bức ảnh được lồng trong khung gợi nhắc lại tháng ngày hạnh phúc đã qua. Trước tiên là bức ảnh một người đàn ông và một phụ nữ tay trong tay, ánh mắt đắm đuối và cử chỉ dịu dàng. Kỳ nghỉ lãng mạn tại Hawaii rồi cùng nhau phiêu lưu ở công viên quốc gia Grand Canyon bằng xe máy. Tiếp đến là một bức ảnh chụp lúc siêu âm và rồi vài tháng sau là bức ảnh một đứa bé khuôn mặt tròn trĩnh đang đón lễ Giáng sinh đầu tiên trong đời. Trong mấy bức ảnh cuối cùng, đứa bé ấy trở thành một cô gái nhỏ đã rụng những chiếc răng sữa đầu tiên. Cô bé tự hào đứng trước lũ hươu cao cổ ở vườn bánh thú Bronx, đang chỉnh sửa lại chiếc mũ bonê dưới làn tuyết của Montana và giơ ra trước ống kính đôi cá khoang cổ của mình, Ernesto và Cappuccino.
Hương vị của tháng ngày hạnh phúc đã biến mất mãi mãi...
Mark húng hắng ho trong khi ngủ. Nicole thốt rùng mình. Người đàn ông đang ngủ trên tràng kỷ chẳng có nét gì liên quan đến người mà cô đã lấy làm chồng. Chỉ có những bằng cấp, những bằng khen treo kín tường như chiến lợi phẩm chứng minh rằng Mark từng là một nhà tâm lý học trẻ nổi tiếng. Được đánh giá là chuyên gia trong việc đối phó với những cú sốc, Cục Hàng không liên bang FAA và Cục Điều tra liên bang FBI đã mời anh đến làm việc khi xảy ra tai nạn hàng không và những vụ bắt cóc. Sau vụ 11 tháng Chín, anh đã tham gia vào nhóm các nhà tâm lý học được thành lập để chăm sóc gia đình nạn nhân cũng như những nhân viên làm việc tại Trung tâm Thương mại thoát khỏi thảm họa. Bởi người ta không bao giờ bình an vô sự thoát khỏi thảm họa kinh hoàng kiểu này. Một phần trong chính con người chúng ta sẽ luôn bị cầm tù trong những tiếng kêu thét, ngọn lửa và máu. Có thể bạn không chết nhưng bạn sẽ luôn cảm thấy bị vẩn đục, bị hao mòn bởi cảm giác tội lỗi, bị giày vò bởi nỗi kinh hoàng ngấm ngầm và bị dằn vặt bởi một câu hỏi ám ảnh mà không bao giờ có được câu trả lời: tại sao bạn lại được cứu sống, chính bạn chứ không phải là những người khác? Chính bạn chứ không phải con cái bạn, vợ bạn, hay bố mẹ bạn...
Song song với công việc của một bác sĩ tâm lý, Mark còn tham gia viết bài về những thí nghiệm của mình trên các tạp chí phổ biến kiến thức có lượng phát hành vô cùng lớn. Thông qua các bài viết, anh quan tâm đến việc phổ biến rộng rãi những liệu pháp điều trị mới - trò chơi nhập vai, giấc ngủ thôi miên... - những liệu pháp mà anh đã tiến hành thử nghiệm với người cộng sự và cũng là người bạn thuở thiếu thời của mình, Connor McCoy. Dần dần, Mark đã trở thành một bác sĩ tâm lý nổi tiếng mà người ta thường xuyên thấy xuất hiện trên các Chương trình truyền hình và sự nổi danh bất ngờ đã đẩy cả hai người, anh và Nicole, bước lên bục sân khấu truyền thông. Trong số báo viết về những cặp vợ chồng nổi tiếng nhất New York, tuần báo danh tiếng Vanity Fair đã dành cho họ một bài báo dài tới bốn trang cùng những bức ảnh minh họa vô cùng quyến rũ. Một sự công nhận.
Nhưng câu chuyện cổ tích trên mặt giấy láng đã vỡ tan tành trong một sớm một chiều. Vào một buổi chiều tháng Ba, Layla, cô con gái năm tuổi của họ đã biến mất tại một trung tâm thương mại tại quân Cam, phía nam Los Angeles. Lần cuối cùng người ta nhìn thấy cô bé là khi cô đang ngắm nhìn những món đồ chơi được bày trong tủ kính của gian hàng Disney. Bảo mẫu của cô bé, một cô gái au pair[1] trẻ người Úc, đã để Layla một mình trong vài phút. Chỉ đúng bằng thời gian thử một chiếc quần jean hạ giá tại cửa hàng Diesel ngay bên cạnh...
Tổng cộng là bao nhiêu thời gian đã trôi qua trước khi cô nhận ra Layla biến mất? "Không quá năm phút", cô bảo mẫu khẳng định với những nhân viên điều tra. Cũng có thể nói đó là một khoảng thời gian khá lâu. Tất cả đều có thể xảy đến trong vòng năm phút.
Người ta đều biết rằng những giờ đầu tiên ngay sau khi một đứa trẻ biến mất là cực kỳ quan trọng. Chính trong khoảng thời gian này, người ta có nhiều cơ hội nhất để tìm thấy nó vẫn còn sống sót bình an. Qua bốn mươi tám tiếng, khả năng tìm thấy giảm xuống đến mức đáng báo động.
Trời mưa như trút nước vào ngày 23 tháng Ba đó. Mặc dù đứa trẻ biến mất giữa ban ngày ban mặt và tại một nơi luôn đầy ắp người qua lại nhưng các nhân viên điều tra gặp rất nhiều khó khăn trong việc thu thập những lời chứng đáng tin cậy. Việc xem xét các băng video giám sát chẳng đem lại kết quả nào, màn hỏi cung cô bảo mẫu cũng không khá hơn, cô này chỉ phạm tội mất cảnh giác chứ không phải bắt cóc đứa trẻ.
Thế rồi, nhiều ngày trôi qua...
Trong nhiều tuần liền, hơn một trăm cảnh sát với sự trợ giúp của đội chó nghiệp vụ cùng máy bay lên thẳng đã quần thảo kỹ lưỡng khu vực xảy ra vụ việc. Nhưng bất kể những nỗ lực do FBI triển khai, không hề có một chút dấu vết cụ thể nào cho phép tìm ra đứa trẻ.
... rồi nhiều tháng trôi qua...
Việc thiếu vắng những dấu vết điều tra khiến cảnh sát hoang mang. Không hề có bất cứ yêu cầu đòi tiền chuộc nào, không hề có bất kỳ dấu vết đáng tin cậy nào. Không gì cả.
... và nhiều năm trôi qua...
Kể từ năm năm nay, tấm ảnh chụp Layla vẫn còn được dán khắp các nhà ga, sân bay và các bưu cục, ngay cạnh tấm ảnh của những đứa trẻ mất tích khác.
Nhưng vẫn không thể tìm thấy Layla.
Như thể đã bốc hơi.
o O o
Đối với Mark, cuộc đời anh chấm dứt kể từ ngày đó, ngày 23 tháng Ba năm 2002.
Việc cô con gái mất tích đã khiến anh ngập chìm trong trạng thái cô đơn tuyệt vọng hoàn toàn. Bị cơn nội chấn do nỗi đau cùng cảm giác phạm tội gây ra giày vò, Mark đã rời bỏ công việc, người vợ và người bạn thân của mình.
Trong mấy tháng đầu, anh đã thuê các thám tử tư giỏi nhất để nối lại cuộc điều tra lần theo những chi tiết nhỏ nhặt nhất.
Không có bất kỳ kết quả nào.
Vậy là, chính bản thân anh tự tiến hành điều tra trong sự kiếm tìm vô vọng.
Cuộc điều tra tất phải thất bại này kéo dài ba tháng. Rồi sau đó đến lượt Mark cũng biến mất luôn, không hề để lại bất kỳ tin tức nào, không cả cho người vợ của mình cũng như cho Connor.
Nicole không rơi vào trạng thái trượt dốc như thế.
Ban đầu, nỗi tuyệt vọng của cô nhân lên gấp đôi do một mặc cảm tội lỗi đặc biệt: chính cô đã nài nỉ để Layla đi cùng mình đến Los Angeles, nơi cô sẽ trình diễn hàng loạt buổi độc tấu; chính cô là người đã tuyệt dụng cô bảo mẫu, do cô ta mà tấn thảm kịch mới xảy ra. Để đối mặt với những điều tồi tệ nhất, cô không tìm được cách chống đỡ nào khác ngoài việc hành động cực đoan, tiếp tục thực hiện các buổi hòa nhạc và ghi âm, thậm chí chấp nhận đề cập đến tấn thảm kịch của mình trên mặt báo hay truyền hình, chấp nhận là nạn nhân của thói tọc mạch vốn gây nhiều nguy hại.
Tuy nhiên, một vài ngày sau đó, nỗi đau trở nên không thể chịu đựng được. Khi không thể chống chọi lại những ý nghĩ bệnh hoạn của mình được nữa, Nicole thuê một phòng ở khách sạn và trùm chăm ru rú trong phòng như đang trong tình trạng ngủ đông.
Mỗi người sống sót theo cách riêng của mình...
o O o
Đột nhiên, một thanh củi gãy rắc một tiếng trong lò sưởi. Mark đột ngột rùng mình và mở choàng mắt. Anh ngồi bật dậy và sau một vài giây, anh tự hỏi mình đang ở đâu và điều gì đã xảy đến với anh.
Ngay khi nhìn thấy gương mặt Nicole, những ý nghĩ của anh dần dần được sắp xếp lại.
- Em có bị thương không? anh quay sang hỏi vợ.
- Không, là nhờ có anh đấy.
Trong tích tắc, anh dường như lại rơi vào trạng thái đờ đẫn trước khi đột ngột đứng bật dậy.
- Nằm xuống đi anh, em xin anh đấy, anh cần phải nghỉ ngơi!
Như thể không hề nghe thấy tiếng cô, anh bước vài bước về phía khung cửa kính. Đằng sau vách kính, đường phố rực rỡ ánh đèn, phủ một màu trắng xóa và lặng câm.
- Quần áo của anh đâu rồi?
- Em đã vứt hết đi rồi, Mark, chúng quá bẩn.
- Thế còn con chó của anh?
- Em đã đưa nó về đây cùng anh, nhưng... nó đã bỏ trốn rồi.
- Anh đi đây, anh vừa nói vừa lảo đảo bước ra phía cửa.
Nicole bước đến trước mặt chồng nhằm ngăn anh tiến thêm bước nữa.
- Nghe này anh, giờ đã là đêm, anh bị thương, kiệt sức... Chúng ta đã không gặp nhau kể từ hai năm nay rồi. Chúng ta cần phải nói chuyện.
Cô chìa tay về phía chồng, nhưng anh đẩy cô ra. Cô lại gần anh và anh kháng cự lại, rồi trong khi phản ứng, anh đã va vào kệ sách. Một khung ảnh rơi xuống nền nhà trong tiếng thủy tinh vỡ vang lên khô khốc.
Mark nhặt khung ảnh lên rồi xếp nó vào vị trí cũ trên giá sách. Mắt anh dán vào bức ảnh cô con gái. Đôi mắt xanh lục và long lanh niềm vui, nụ cười nở trên môi, cô bé đang hít thở bầu không khí hạnh phúc và niềm vui sống.
Vậy là điều gì đó đã tan vỡ trong anh và anh ngồi sụp xuống rồi bật khóc nức nở, lưng dựa vào tường. Đến lượt Nicole cũng thu mình sát vào ngực anh và họ ngồi như vậy rất lâu, người này lả đi trong vòng tay người kia, cùng nhau chia sẻ nỗi cô đơn tuyệt vọng, làn da mềm mại áp sát vào lớp da thô ráp, hương thơm tinh tế của nước hoa Guerlain hòa quyện với mùi hôi thối của những kẻ sống ngoài đường phố.
o O o
Nắm lấy tay chồng, Nicole đưa anh về phía phòng tắm và mở vòi hoa sen cho anh trước khi cô đi ra. Bị hương thơm xông lên nhức đầu của dầu gội đầu quyến rũ, Mark ở lì trong phòng tắm gần nửa tiếng dưới cơn mưa rào nhân tạo từ vòi hoa sen, nóng rẫy và có khả năng giúp con người hồi sinh. Mình mẩy vẫn còn ướt sũng, Mark giấu mình dưới chiếc khăn tắm to bản trước khi bước ra hành lang, để lại những vũng nước vương khắp nơi trên sàn nhà đánh véc ni. Anh mở cái trước đây từng là tủ quần áo của mình và nhận thấy quần áo của anh vẫn luôn nằm ở đó. Anh không buồn để mắt đến những bộ trang phục cũ - Armani, Boss, Zegna... những vết tích của một cuộc sống không còn là của anh nữa, và tự bằng lòng xỏ vào chiếc quần đùi, một chiếc quần jean may bằng vải dày, một chiếc tee-shirt dài tay cùng chiếc áo pull rộng.
Anh bước xuống cầu thang để gặp Nicole trong nhà bếp.
Kết hợp giữa đồ gỗ, đồ thủy tinh và kim loại, nhà bếp tạo ra một hiệu ứng trong suốt. Một dãy kệ bếp rộng và trống trơn chạy dọc theo chiều dài của bức tường, trong khi đó, chiếc bàn làm bếp chính được trang bị rất đầy đủ mời gọi bạn sửa soạn làm bếp. Những năm trước đây, chiếc bàn bếp này là nơi chứng kiến bầu không khí vui vẻ trong những bữa điểm tâm sáng của cả gia đình, những lần nếp thử bánh kếp và những bữa tối ngập tràn tình yêu thương. Nhưng đã lâu lắm rồi chẳng còn ai nấu nướng tại đây nữa.
- Em đã chuẩn bị cho anh món trứng ốp lết và vài lát bánh mì nướng rồi, vừa nói Nicole vừa rót cà phê vẫn còn bốc khói nghi ngút vào cốc cho chồng.
Mark ngồi xuống trước đĩa thức ăn của mình rồi bật đứng dậy gần như ngay lập tức. Đôi bàn tay bắt đầu run run. Trước khi động đến đồ ăn, anh cần phải uống. Uống rượu.
Dưới ánh mắt sửng sốt kinh ngạc của Nicole, anh cuống cuồng mở nút chai rượu đầu tiên rơi vào tay mình và tu hết nửa chai chỉ trong vòng hai ngụm. Trong chốc lát, khi cơn run rẩy đã nguôi ngoai, anh bắt đầu ngồi ăn phần ăn của mình trong khi vẫn giữ im lặng cho đến khi cuối cùng Nicole dám lên tiếng hỏi anh:
- Anh đã ở đâu vậy, Mark?
- Trong phòng tắm, anh trả lời mà không nhìn cô.
- Không, anh đã ở đâu trong hai năm qua?
- Bên dưới.
- Bên dưới nào cơ?
- Trong những đường hầm tàu điện ngầm, trong cống, trong đường ống dẫn nước, cùng với những người vô gia cư khác.
Hai hàng nước mắt lã chã tuôn rơi, Nicole lắc đầu ra dấu không hiểu.
- Nhưng tại sao?
- Em biết rõ tại sao, anh cao giọng nói.
Nicole lại gần chồng, để cầm lấy tay anh.
- Nhưng anh có một người vợ, Mark, một công việc, những người bạn...
Anh rút tay ra và đứng dậy:
- Hãy để anh yên!
- Hãy giải thích cho em một điều, cô hét lên để giữ anh lại, cái gì đã khiến anh sống như một kẻ vô gia cư?
Anh nhìn cô đăm đăm.
- Tôi sống như vậy bởi vì tôi không thể sống khác được. Cô có thể, còn thì không.
- Đừng tìm cách đổ lỗi cho em, Mark.
- Tôi không trách móc gì cô cả. Cứ việc làm lại cuộc đời nếu như cô muốn. Còn tôi, đó là một nỗi đau mà tôi không thể vượt qua.
- Anh là nhà tâm lý học, Mark. Anh đã giúp đỡ mọi người vượt qua tất cả các loại thảm họa.
- Nỗi đau này, tôi không muốn vượt qua, bởi đó là điều duy nhất níu kéo tôi với cuộc sống. Đó là tất cả những gì còn lại của con bé ở trong tôi, cô có hiểu không? Không có giây phút nào tôi không nghĩ đến con bé mà không tự hỏi kẻ bắt cóc đã làm gì con bé, con bé có thể ở đâu vào lúc này.
- Con bé đã chết, Mark, Nicole lạnh lùng ngắt lời.
Câu nói đó vượt quá sức chịu đựng của anh. Mark đưa tay về phía Nicole, tóm lấy cổ họng cô như thể sẽ bóp cổ cô.
- Làm sao cô có thể nói một điều như vậy?
- Đã năm năm rồi, Mark! Cô vừa hét lên vừa vùng thoát khỏi bàn tay anh. Năm năm không có một chút dấu vết dù nhỏ nhất, năm năm không có bất kỳ yêu cầu đòi tiền chuộc nào!
- Vẫn luôn có một cơ may nào đó...
- Không, Mark ạ, tất cả đã kết thúc. Chẳng còn một tia hy vọng hợp lẽ nào đâu. Con bé sẽ không xuất hiện lại trong một sớm một chiều. Điều đó không bao giờ xảy ra, anh hiểu chứ, KHÔNG BAO GIỜ!
- Cô im đi!
- Nếu người ta tìm ra điều gì, thì đó sẽ là cái xác của con bé, chẳng có gì khá nữa đâu.
- KHÔNG!
- Đúng vậy đấy! Và đừng nghĩ là chỉ có mình anh đau khổ vì chuyện đó. Em sẽ phải nói gì với anh đây, chính em, ngoài đứa con gái, em còn mất cả chồng của mình nữa?
Không trả lời, Mark vội vàng rời khỏi nhà bếp. Nicole theo sau anh, cô quyết tâm dồn anh vào chân tường:
- Anh không bao giờ nghĩ rằng chúng ta có thể có những đứa con khác à? Anh chưa từng bao giờ tự nhủ rằng cùng với thời gian, cuộc sống sẽ hồi sinh dưới ngôi nhà này chắc?
- Trước khi có những đứa con khác, tôi muốn tìm lại con gái tôi.
- Hãy để em gọi Connor. Kể từ hai năm nay, anh ấy tìm anh khắp nơi. Anh ấy có thể giúp anh vượt qua khó khăn để tiếp tục tiến lên.
- Tôi không muốn vượt qua khó khăn để tiếp tục tiến lên. Con gái tôi đang phải chịu đựng đau khổ và tôi muốn cùng chịu khổ với nó.
- Nếu anh vẫn tiếp tục sống ở ngoài kia, anh sẽ chết! Đó là điều anh muốn phải không? Vậy thì hãy làm thế đi! Anh hãy bắn một viên đạn vào đầu mình đi!
- Tôi không muốn chết, bởi vì tôi cần phải có mặt vào cái ngày người ta tìm ra con gái tôi.
Nicole cần sự giúp đỡ. Cô cầm điện thoại lên và nhấn số của Connor.
Nhấc máy đi, Connor, nhấc máy đi!
Ở đâu đó trong màn đêm đen kịt, rất nhiều tiếng chuông điện thoại vang vọng trong khoảng không. Nicole hiểu là Connor không trả lời điện thoại và cô đã thua trong cuộc chiến này. Một mình đơn độc, cô không thể giữ chồng mình lại.
Trong phòng khách, Mark nằm lại vào tràng kỷ và nghỉ thêm vài giờ nữa.
Anh thức dậy cùng ngày mới, lấy chiếc túi thể thao trong tủ quần áo để cho vào đó một chiếc khăn, một chiếc áo gió, vài gói bánh biscuit cùng khá nhiều rượu.
Nicole bổ sung vào bọc đồ này một chiếc điện thoại di động, một cục pin và một ổ sạc điện.
- Phòng khi anh quyết định gọi Connor, hay là nếu em tìm cách liên lạc với anh...
Khi Mark đẩy cánh cửa ra vào của ngôi nhà, tuyết đã ngừng rơi và những tia sáng đầu tiên của ngày mới đang điểm tô cho thành phố ánh phản chiếu phơn phớt xanh.
Ngay khi Mark đặt chân lên lớp tuyết phủ kín thành phố như một tấm áo choàng dày, chú chó Labrador đen tuyền bỗng hiên ra từ đằng sau thùng rác như có phép màu và bật ra những tràng sủa ăng ẳng. Mark trìu mến gãi nhẹ đầu chú chó. Anh chụm tay lại thổi thổi để sưởi ấm đôi bàn tay, quàng túi xách lên vai và nhằm thẳng hướng cầu Brooklyn.
Đứng trên ngưỡng cửa, Nicole ngắm nhìn người đàn ông của đời mình dần biến mất trong buổi sớm mai. Thế là cô chạy ra giữa phố để hét lên với anh:
- Em cần anh!
Loạng choạng, Mark quay lại cách cô khoảng chục mét rồi hơi nhấc cánh tay lên như thể anh đang tìm cách nói là anh rất lấy làm tiếc.
Rồi anh biến mất sau góc phố.
Chú thích
[1] Danh từ quốc tế hóa để chỉ những sinh viên được gửi sang nước ngoài sống như thành viên trong một gia đình nuôi hay trở thành anh chị cả trong gia đình nuôi người bản xứ để học ngôn ngữ và văn hóa.
 
CHƯƠNG 3 - AI ĐÓ GIỐNG MÌNH
Cuộc đời là một chuỗi sợ hãi.
BJÖRK
Người con gái mơ về một bình xăng và bao diêm.
Tựa đề một cuốn tiểu thuyết của Stieg LARSSON.
Văn phòng của bác sĩ Connor McCoy được đặt tại một trong những tòa tháp bằng kính của trung tâm thời gian Warner nổi tiếng, ở mạn phía Tây công viên Trung tâm.
Connor rất tự hào về văn phòng làm việc của mình bởi nó được thiết kế để giúp bệnh nhân có thể cảm thấy thoải mái khi ở đây và nhận được từ nơi này tất cả những điều kiện chăm sóc tốt nhất. Nhờ những lời truyền miệng, lượng khách hàng không ngừng tăng lên, ngay cả khi những phương pháp chữa bệnh không mấy chính thống của anh chẳng được các bạn đồng nghiệp ưa thích.
Vào đêm Giáng sinh này, Connor vẫn còn ở văn phòng, ngập trong đống giấy tờ hồ sơ bệnh án của một bệnh nhân. Anh cố nén một cái ngáp và liếc mắt nhìn đồng hồ đeo tay.
Một rưỡi sáng.
Dù sao chăng nữa cũng chẳng có ai đợi anh cả. Connor chỉ sống vì công việc và anh không có bạn gái cũng như gia đình. Anh đã mở phòng khám đầu tiên cùng Mark Hathaway, người bạn thuở thiếu thời mà anh cùng chia sẻ niềm đam mê ngành tâm lý học. Cả hai cùng lớn lên tại một khu phố nghèo ở Chicago. Cả hai đều đã từng biết rất rõ đau đớn là gì trước khi toàn tâm toàn ý cống hiến cả sự nghiệp cũng như sức lực của mình đề hiệu chỉnh những dạng liệu pháp điều trị khác nhau. Thành công của họ vô cùng rực rỡ cho đến khi tấn thảm kịch xảy đến với Mark. Connor đã làm tất cả những gì có thể, cùng với Mark nối lại các cuộc điều tra về vụ con gái anh mất tích khi cảnh sát đã bó tay. Nhưng sự giúp đỡ của anh là không đủ: đến lượt Mark cũng biến mất, kiệt quệ vì buồn đau. Việc người cộng sự của mình đã biến mất đã khiến Connor chìm ngập trong trạng thái rối loạn tột độ. Anh không chỉ mất đi người bạn thân thiết nhất, mà cùng lúc còn gặp phải thất bại nghề nghiệp lớn nhất.
Để xua đuổi những kỷ niệm tồi tệ, Connor rời khỏi ghế phô tơi và tự rót cho mình một chút rượu mạch nha.
Giáng sinh vui vẻ, vừa nói anh vừa nâng cốc hướng về phía hình phản chiếu của mình trong gương.
Bao quanh bằng các bức tường kính, căn phòng chìm ngập trong màn ánh sáng phi thực và tạo ra một tầm nhìn cao đến chóng mặt trông ra phía công viên. Nơi đây, tất cả đều đơn giản và ngăn nắp. Trên một giá sách bằng kim loại, hai bức tượng theo phong cách của nhà điêu khắc, họa sĩ Giacometti dường như vươn thẳng trong không gian, trong khi đó trên tường, một bức tranh đơn màu của Robert Ryman gây bối rối cho những ai chỉ nhìn thấy một khung tranh màu trắng. Đối với Connor, anh bị những biến đổi ánh sáng nhỏ nhất trên nền vải quyến rũ.
Đoán biết những điều vô hình, nhìn thấu vẻ bề ngoài...
Điều cốt yếu của nghề anh đang làm.
Với chiếc cốc trong tay, vị bác sĩ nghiên cứu vài bức ảnh trên màn hình máy tính xách tay của mình. Đó là chuỗi những hình ảnh chụp một khu vực não bộ của một trong các bệnh nhân của anh. Mỗi lần quan sát những bản âm này, Connor đều cảm thấy bị cuốn hút.
Đau đớn, yêu thích, hạnh phúc, bất hạnh: tất cả đều diễn ra trong đó, trong những bí mật của não bộ chúng ta, nằm giữa hàng tỷ nơ ron thần kinh. h.am m.uốn, ký ức, sợ hãi, hung hăng, suy nghĩ, buồn ngủ đều phụ thuộc một phần vào việc cơ thể tiết ra các chất hóa học khác nhau, các nơ ron truyền tín hiệu, chịu trách nhiệm truyền thông tin từ nơ ron này đến nơ ron khác. Bị những phát minh mới nhất về ngành thần kinh học quyến rũ, Connor đã trở thành một trong những người tiên phong phân tích nguyên nhân sinh học của chứng trầm cảm. Ví dụ như một nghiên cứu mà anh đã tham chỉ ra rằng khi một gien có chức năng vận chuyển ngắn hơn bình thường thì nó sẽ có xu hướng hướng bạn đến trạng thái trầm cảm hay tự tử. Do vậy mỗi người sinh ra không phải ai cũng giống nhau về khả năng đối mặt với những thử thách của cuộc sống.
Nhưng Connor không thể khẳng định chắc chắn nếu chỉ dựa vào thuyết tự định đoạt của gien. Tin chắc rằng tâm lý và sinh học có mối quan hệ mật thiết với nhau, vị bác sĩ trẻ này vẫn luôn chú ý tự trau dồi trong cả hai lĩnh vực: tâm lý học và thần kinh học. Hiển nhiên là hệ thống gien di truyền của chúng ta áp đặt chúng ta, nhưng trong suốt cuộc đời, não bộ của chúng ta có thể được tái lập trình nhờ những mối quan hệ tình cảm và tình yêu.
Đó là quan điểm của anh trong mọi trường hợp: không gì giữ vai trò quyết định mãi mãi.
Bác sĩ uống cạn một hơi cốc whisky của mình rồi mặc áo măng tô và rời văn phòng.
Trong tòa nhà có một khách sạn năm sao cùng nhiều nhà hàng và một câu lạc bộ jazz. Những âm thanh ồn ào náo nhiệt của bầu không khí lễ hội dội lại từ các tầng gác, càng làm tăng thêm nỗi cô đơn của nhà tâm lý học.
Trong thang máy, anh mở chiếc túi hai ngăn của mình ra để kiểm tra chắc chắn không quên bất cứ tài liệu nào mà anh cần nghiên cứu ở nhà vào ngày mai. Trong hai ngày tới, anh sẽ tổ chức một buổi hội thảo về tâm lý đám đông, và để đạt được hiệu quả, liệu pháp chữa bệnh kiểu này đòi hỏi phải có sự chuẩn bị vô cùng chu đáo.
Anh xuống đến bãi xe ngầm dưới lòng đất mà lối vào được bảo vệ bằng hệ thống nhận dạng võng mạc. Connor tuân thủ quá trình nhận dạng và đến lấy xe, một chiếc Aston Martin ánh bạc sáng lấp lánh như muôn nghìn ngọn lửa. Chỉ cần một động tác bấm nút trên chìa khóa để mở chiếc xe siêu tốc và rồi được đắm chìm trong mùi hương của lớp da bọc trong xe. Anh đặt chiếc túi lên ghế hành khách phía sau và rời khỏi gara nhằm hướng bùng binh Colombus. Tuyết vẫn liên tục rơi thành từng bông lớn khiến đường xá trở nên trơn trượt. Connor tiến về phía Đại lộ Mỹ nhằm thẳng hướng khu TriBeCa.
Trên radio của ô tô, thứ nhạc điện tử do nhóm Radiohead trình bày đưa ta đến với một tương lai không chắc chắn và phi nhân tính mà trong đó con người sẽ thất bại trong tất cả các cuộc đấu tranh của mình. Một thứ âm nhạc rất phù hợp với trạng thái tinh thần hiện tại của anh tạo ra một cảm giác bất ổn sâu sắc nãy giờ không hề buông tha anh.
Ở đoạn giao nhau với phố Broadway, anh cố thử tăng tốc đến mức độ nguy hiểm và suýt thì bỏ lỡ lối rẽ để rời khỏi đường. Càng ngày, anh càng hay thích cảm giác đùa giỡn với nguy hiểm. Một cách như mọi cách khác để cảm thấy mình vẫn còn sống.
Anh dừng trước đèn đỏ ở đầu khu Greenwich Village. Bẻ ngoặt vô lăng, anh thoáng nhắm mắt lại.
Mình cần phải trấn tĩnh lại!
Cho đến mới đây thôi, anh vẫn nghĩ nhờ vào nghề nghiệp của mình, anh đã có thể vĩnh viễn vượt qua những nỗi sợ hãi trước kia. Anh thậm chí đã viết một cuốn sách, Sống sót, để kể lại câu chuyện đời mình và gửi đi một bức thông điệp hy vọng. Nhưng việc Mark bỏ đi đã ném tất cả qua cửa sổ và anh lại rơi vào trạng thái thất vọng đáng nguy hiểm, cảm giác cô đơn có khả năng phá hủy rất lớn cùng cảm giác tội lỗi tồn tại dai dẳng.
Anh nhíu mày khi tiếng chuông điện thoại di động kéo anh ra khỏi trạng thái đờ đẫn. Anh lấy điện thoại từ trong túi áo vest ra và nhìn tên của người gọi trên màn hình:
Nicole Hathaway
Nicole ư? Họ gần như chẳng nói chuyện với nhau kể từ khi cô đi lại với anh chàng luật sự Eriq kia. Một gã đần ngu xuẩn. Trái tim anh đập liên hồi trong lồng ngực, đồng thời anh cũng hy vọng mà không quá tin vào điều đó, những tin tức mới về Mark. Hoàn toàn phấn khích, anh đang chuẩn bị ấn nút trả lời thì...
- CỨT THẬT!
Cánh cửa bên phía sau của chiếc Aston Martin đột nhiên bật mở và một bàn tay thò vào cướp lấy chiếc túi bằng da thuộc của anh. Không cần suy nghĩ, Connor nhảy ra khỏi xe rồi chạy đuổi theo gã kẻ cắp hay chính xác hơn... nữ đạo chích.
Bất chấp những bông tuyết đang tuôn rơi, anh vẫn phân biệt được mái tóc dài của một cô gái trẻ đang ôm chặt cứng món đồ ăn cắp được trong ngực mình.
Connor chạy mỗi lúc một nhanh hơn, mỗi bước chạy chỉ thiếu điều trượt ngã trên nền vỉa hè ngập nước. Khi anh chỉ còn cách cô gái chưa đầy hai mét bỗng nhiên cô ta đột ngột băng qua đường giữa dòng xe cộ, chấp nhận đối mặt nguy cơ bị đâm lộn nhào.
Con bé khốn khiếp!
Bất chấp mọi nguyên tắc cẩn trọng, Connor bám theo sát cô ta từng bước. Hơn bất cứ thứ gì trên đời, anh không muốn mất những tập hồ sơ được đựng trong chiếc túi ấy. Chúng chứa đựng cuộc sống riêng tư, những bí mật mang tính cá nhân nhất của bệnh nhân của anh.
Giờ đây anh đã ở vào vị trí thuận lợi, một lần nữa lấy lại được khoảng thời gian chậm trễ đối với nữ tội phạm. Khi nhận thấy cô gái đã kiệt sức, anh lao cả cơ thể mình về phía trước để đẩy ngã cô ta bằng tất cả trọng lượng của mình. Khuôn mặt cô ta cắm vào lớp tuyết, bất động, cánh tay bị vặn ngược ra sau áp chặt vào lưng.
- Trả lại tôi cái đó! Connor vừa ra lệnh vừa giật lấy chiecsetuis xách hai ngăn.
Sau khi thu hồi lại tài sản của mình, vị bác sĩ từ từ đứng dậy, đồng thời kiên quyết nắm chặt cánh tay của đối thủ để buộc cô ta đứng dậy cùng anh.
- Buông tôi ra! Cô gái vừa giãy giụa vừa kêu lên.
Chói tai vì lời yêu cầu, Connor kéo cô ta đi thêm nhiều mét nữa cho đến khi có thể nhìn kỹ cô ta dưới ánh đèn đường. Lúc bấy giờ anh mới thật sự nhìn rõ cô gái.
Đó là một cô gái trẻ khoảng mười lăm tuổi, dáng vẻ mảnh khảnh và tay chân dài ngoẵng. Làn da nhợt nhạt càng hiện rõ dưới mái tóc đen dài, cáu bẩn với những lọn tóc nhuộm màu hồng điều. Chiếc áo măng tô bằng sợi vinyl đã sờn phủ trên chiếc váy ngắn thoáng để lộ lớp đồ lót chồng lên nhau được một lớp tất lưới bao phủ bên ngoài.
- Buông tôi ra! Cô gái nhắc lại.
Vẫn giữ thái độ dửng dưng trước tiếng kêu thét của cô ta, Connor còn siết chặt cô gái hơn nữa. Một cô gái trẻ như vậy làm gì một mình giữa đêm tối, lại đúng vào đêm Giáng sinh này?
- Tên cô là gì?
- FUCK OFF! Cô gái lăng nhục anh.
- Bởi vì cô làm như vậy, nên tôi sẽ dẫn cô đến đồn cảnh sát!
- Đồ đểu cáng!
Cô ta giãy giụa mạnh đến nỗi chiếc ví từ túi áo măng tô văng ra ngoài. Bằng bàn tay khéo léo, Connor nhặt chiếc ví từ dưới lớp tuyết lên. Bên trong ví, một tấm Identity Card cho anh những thông tin lý lịch của cô gái đã ăn cắp túi của mình:
Evie Harper
Sinh ngày 3 tháng Chín năm 1991.
- Cô làm gì ngoài đường vào lúc hai giờ sáng như thế này, Evie?
- Trả lại tôi cái ví đó! Anh không có quyền!
- Tôi không nghĩ rằng cô đang ở trong một vị thế tốt để nói về các quyền, Connor nhận xét.
Anh thả cô gái ra. Vừa được tự do, Evie vội lùi lại vài bước, nhưng không chạy trốn. Cô gái đứng đối diện với anh vẻ thách thức.
Connor nhìn chằm chằm vào mặt cô gái. Evie đang run lên vì lạnh. Hai mí mắt cô thâm quầng đen sì, nhưng đằng sau lớp trang điểm như kiểu ma cà rồng kia, người ta có thể đoán được đôi mắt sáng với nỗi sợ hãi thơ trẻ cũng như bừng sáng một niềm quyết tâm lạ thường.
- Nghe này, tôi sẽ đưa cô về nhà bố mẹ.
- Tôi không có bố mẹ! vừa nói cô vừa lùi lại.
- Vậy thì cô sống ở đâu? Trong một trung tâm? Trong một gia đình nhận nuôi?
- FUCK OFF!
- Cái đó thì cô đã nói với tôi rồi, bác sĩ thở dài. Đó là tất cả những gì cô học được ở trường à?
Anh thể hiện thái độ vừa tức giận vừa cảm thông với cô gái. Evie khiến anh nhớ lại một người nào đó, nhưng anh không thể xác định là ai. Đặc biệt, anh cảm thấy cô đang sợ. Anh cũng đoán rằng cô đang đau khổ và nỗi đau này đã cuốn phăng tất cả trên đường đi của nó.
- Cô đang cần tiền à?
Không tiếng trả lời. Vẫn đôi mắt thể hiện rõ nỗi khiếp sợ mà cô đang cố tình che giấu.
- Để mua ma túy, đúng không? Cô muốn mua một cữ cho mình? Cô đang thiếu thuốc?
Evie liền phản ứng:
- Tôi không phải là con nghiện!
- Cô học trường nào?
- Chuyện đó chẳng liên quan gì đến anh cả!
Connor tiến lại gần Evie và cố giữ một khoảng cách hợp lý nhất.
- Nghe này, tôi là bác sĩ, tôi có thể tìm cho cô một nơi ở qua đêm nay.
- Anh muốn cứu tôi, đúng không?
- Tôi muốn giúp cô.
- Tôi không cần sự giúp đỡ của anh!
- Thế thì cô muốn gì?
- Tiền, thế thôi.
- Tiền để làm gì?
- Mẹ khỉ, anh là cớm hay gì đấy?
Connor giật khóa dính trên trên chiếc ví của Evie để xem bên trong có gì.
Không gì cả. Không một tờ giấy bạc nhỏ nhất. Không một đồng xu nhỏ nhất.
Anh để tấm chứng minh thư vào vị trí của nó rồi trả chiếc ví cho cô gái, cô giật nó lại bằng một cử chỉ thô bạo.
- Tôi trả tiền một bữa ăn nóng sốt cho cô được không? anh đề nghị.
- Và để đổi lại, tôi phải làm gì?
- Không gì cả, Evie, anh vừa hứa vừa lắc đầu.
Bấy giờ, cô nhìn anh với ánh mắt nghi ngờ. Cuộc sống đã dạy cô luôn nghi ngờ đàn ông, ngay cả khi có điều gì đó khiến người ta yên lòng toát lên từ người đàn ông này:
- Vậy tại sao anh muốn giúp tôi?
- Bởi vì cô khiến tôi nhớ đến một ai đó.
Evie dường như tỏ ra do dự, rồi lên tiếng:
- Tôi biến đây, tôi không cần anh phải trả tiền ăn cho tôi.
Nhưng Connor cố nài:
- Nghe này, có quán ăn diner ở hơi chếch phía trên Phố 14. Quán tên là Alberto. Cô biết ở đâu chứ?
Evie gật đầu ra hiệu mình biết, mặc dù hơi chút miễn cưỡng:
- Tôi sẽ đi lấy xe, Connor thông báo, rồi tôi sẽ xuống dưới đó ăn một bữa ra trò. Alberto, ở New York, đó là quán vô địch về hamburger. Nó chẳng có gì giống McDonald's đâu, rồi cô sẽ thấy...
- Tôi sẽ chẳng thấy cái gì cả.
- Dù sao thì tôi vẫn cứ ở đó. Vậy thì thế này, nếu trong vòng mười phút nữa cô đi ăn một cái hamburger có thịt bò chín tái cùng bánh mì giòn tan, với hành củ, dưa chuột bao tử thái lát và khoai tây áp chảo, cô sẽ biết tôi ở đâu.
Không chút vội vã, anh ngược lên phố bằng cách đi bộ giữa vỉa hè. Khi đã đi được khoảng hai mươi mét, anh quay người nhìn lại.
Ánh sáng từ ngọn đèn đường điểm tô thêm ánh bạc lên một vài bông tuyết vẫn đang liên tục rơi, tạo cho con phố một bầu không khí huyền ảo. Tê cóng vì lạnh, Evie không hề nhúc nhích một centimet. Thêm một lần nữa Connor lại bị vẻ mỏng manh dễ tổn thương và vẻ xanh xao như xác chết của cô tác động, như thể có gì đó trong cô đã chết.
- Tôi không đến đâu, cô gái khẳng định lại với vẻ thách thức.
- Tùy cô quyết định, Connor nói với cô.
o O o
Chưa đầy mười lăm phút sau, sau khi đã yên vị sau quầy của coffee-shop, Evie nghiến ngấu khẩu phần của mình với cảm giác ngon miệng của một người không được ăn gì từ hai ngày nay.
Đó là một diner mở cửa không giới hạn giờ giấc thơm lừng New Jersey với những chiếc ghế dài giả da đã sờn và ghế xoay mạ crôm. Trên tường, phía sau quầy thu ngân, một bộ sưu tập những bức ảnh với lời đề tặng bên dưới khiến người ta nghĩ rằng các diễn viên, ca sĩ nổi tiếng như Jack Nicholson, Bruce Springsteen hay Scarlett Johansson từng thường xuyên lui tới nơi này. Phía cuối nhà hàng, chiếc loa rì rầm phát ra một bản nhạc của tay ghi ta lão luyện Clapton cho khoảng nửa tá khách hàng đơn lẻ.
Bên ngoài, trên vỉa hè, Connor hút một điếu thuốc, và chăm chú nhìn cô gái trẻ qua lớp cửa kính như thể anh có thể xuyên thủng vẻ bên ngoài để khám phá những bí mật trong tâm hồn cô gá.
Evie để áo khoác cuộn tròn lại trên ghế băng và để mở chiếc gilê để lộ áo phông ngắn tay đen gạch chéo khẩu hiệu Kabbalists do it better. Trên cổ, ở đầu sợi dây chuyền bằng bạc treo một cây thập tự ngược và một ngôi sao năm cánh. Cô nghiến ngấu vội vàng chiếc hamburger của mình khiến xốt cà chua dây ra khắp mặt. Trong khi cô gái dùng khăn giấy lau, Connor nhận thấy cô quấn một miếng ego quanh các ngón tay. Đặc biệt anh còn nhận thấy những vết rạch phía bên trong cẳng tay. Nói rằng cô gái này không được khỏe lắm là một uyển ngữ. Connor cảm thấy cô đang bị xáo động bởi nhiều sức mạnh trái ngược nhau, vừa tràn đầy quyết tâm nhưng cũng đồng thời rất gần với sự tan vỡ.
Khả năng nhìn thấu tim gan người khác này anh đã chia sẻ cùng Mark kể từ khi cả hai còn niên thiếu.
Mark...
Nghĩ đến bạn mình, ánh mắt anh mờ đi. Thuở thiếu thời, họ từng hứa với nhau là luôn luôn tin tưởng nhau. Năm tháng dần trôi, họ đã biết cách đương đầu với khó khăn để cùng nhau vượt qua những đận khốn đốn mà cuộc đời không ngần ngại giáng xuống cả hai. Nhưng việc Layla mất tích đã phá vỡ những mốc son cũng như những hứa hẹn tốt đẹp của họ.
Connor hít một hơi thuốc cuối cùng rồi ném mẩu thuốc lá xuống nền tuyết. Vào đêm Giáng sinh này, anh có cảm giác mình đang mang trên vai mọi nỗi mệt mỏi chán chường của thế gian. Anh đang làm cái quái gì ở đây vậy, vào lúc ba giờ sáng, đông cứng mình lại trong giá lạnh thay vì ở nhà? Anh không thể tiếp tục theo đuổi kiểu sống này được nữa. Anh không thể cứu vớt tất cả mọi người. Trang phục của Mẹ Teresa dường như quá nặng để có thể khoác lên người. Có lẽ đã đến lúc phải nghỉ ngơi một chút, quên đi các bệnh nhân, rời xa Manhattan để đến một nơi nào đó và bắt đầu một cuộc sống mới.
Hồi sinh.
Trong vài giây, ý tưởng bất chợt đến này lang thang trong tâm trí anh như một liều thuốc mang lại sự khoan khoái, cho đến khi anh cảm thấy ánh mắt của Evie đang nhìn mình, từ phía bên kia cửa kính. Anh ngẩng đầu lên, và lần đầu tiên, ánh mắt họ thật sự giao nhau. Lúc bấy giờ Connor hiểu ra như một lẽ hiển nhiên rằng cô gái này khiến anh nghĩ đến ai.
Đến chính bản thân anh.
Tuy không hề quen biết cô gái, nhưng anh cảm thấy họ cùng chia sẻ một nỗi đau. Cô mang nỗi đau của mình như một ngọn cờ giương cao trong khi anh ngụy trang nỗi đau của mình đằng sau vai trò của một bác sĩ. Nhưng suy cho cùng, họ đều thuộc về một nhóm.
Connor quyết định vào lại không gian ấm cúng của coffee-shop. Tiếng đàn ghi ta của Clapton đã nhường chỗ cho tiếng ghi ta của Bob Dylan. Shelter from the Storm. Che chở khỏi giông tố. Một trong những bài hát yêu thích của anh, do Dylan viết năm 1975, sau khi chia tay người vợ Sara. Một bằng chứng về những tác dụng tích cực của nỗi buồn lên khả năng sáng tạo của người nghệ sĩ...
- Hamburger thế nào? Anh vừa hỏi vừa tìm cách ngồi xuống chiếc ghế băng phía trước cô.
- Không tồi, Evie vừa công nhận vừa uống một ngụm milk-shake.
Connor nghiêng người về phía cô gái trẻ. Nếu anh muốn giúp cô, anh cần phải biết về cô nhiều hơn nữa. Anh đưa vào giọng nói toàn bộ sức thuyết phục mình có:
- Vừa nãy cô nói rằng cô cần tiền...
- Bỏ qua đi, cô nói với anh.
- Không được, hãy nói với tôi, món tiền đó để làm gì? Tôi muốn hiểu.
- Chẳng có gì để hiểu cả!
- Nếu cô muốn nghĩ như vậy...
Connor thở dài. Vì cái quái quỷ gì mà anh lại luôn muốn giúp đỡ người khác dù rằng họ chẳng hề mong muốn?
Buồn lòng, anh rời bàn đến quầy bar và gọi một vại bia Corona trong khi vẫn để mắt đến Evie. Lo lắng không yên, cô gặm móng tay sơn đen sì của mình, mặt quay về phía cửa sổ.
Trong khi thanh toán tiền bia, Connor xem xét bên trong ví mình: ba tờ một trăm đô la vừa được rút từ máy rút tiền tự động. Để cảm thấy yên tâm, anh luôn cần có bên mình một khoản tiền lớn. Phản xạ thường thấy của một người từng sống trong cảnh nghèo khó.
Một ý nghĩ vụt xuất hiện trong đầu anh. Anh rời chiếc ghế đẩu đang ngồi để tiến lại gần ghế băng nơi Evie đang thu dọn đồ đạc của mình trước khi đi khỏi.
- Chúng ta sẽ chơi một trò chơi nhỏ nhé, vừa nói anh vừa đặt lên bàn một trong mấy tờ giấy bạc một trăm đô la.
- Trò chơi của anh tên là gì? Mua chuộc trẻ vị thành niên à?
- Tôi cứ tưởng là cô muốn kiếm tiền...
Cô nhìn tờ giấy bạc vẻ xen lẫn giữa khinh bỉ và tò mò. Bàn tay Connor che một phần tờ tiền và cô nhận thấy ngón tay đeo nhẫn của anh bị thiếu mất một đốt.
- Nếu cô muốn, nó sẽ là của cô, Connor vừa thuyết phục vừa đẩy tờ tiền hướng về phía cô gái trẻ. Cô trả lời câu hỏi của tôi và nó là của cô...
Cô nhìn chằm chằm, do dự bước vào một mớ bòng bong cô không nắm được lôgíc của nó. Nhưng, cuối cùng:
- Hãy đặt câu hỏi của anh đi...
- Tại sao cô lại cần tiền? Connor vừa hỏi vừa nhìn chằm chằm vào cô.
Evie đặt tay mình lại gần tờ bạc xanh.
- Để mua một khẩu súng, cô trả lời hiên ngang.
Cô với tay lấy tờ tiền rồi bỏ nó vào túi áo, ánh nhìn như thách thức Connor.
Đó là khoản tiền dễ kiếm nhất mà cô từng kiếm được trong đời.
Connor sững người. Anh sững sờ vì câu trả lời của cô gái. Hình ảnh khẩu súng bỗng hiện ra trong tâm trí anh, kèm theo sau là tiếng nổ và tiếng gào thét. Một kỷ niệ bị chôn vùi bấy lâu nay bỗng tái hiện mà không hề báo trước.
Cảm thấy khó ở, anh rút tờ tiền thứ hai trong ví ra và vẫn đặt nguyên vị trí cũ.
- Tại sao cô lại cần một khẩu súng?
Lần này, Evie do dự một lúc lâu. Phản ứng đầu tiên của cô là nói dối, nhưng cô đoán Connor sẽ nhận ra. Theo một cách nào đó, sự thật luôn quý và hiếm, và những tờ một trăm đô la mà anh trao cho cô là cái giá của sự thật đó.
- Bởi vì tôi muốn giết một gã đàn ông.
Câu trả lời rơi xuống như một bản án. Trước tiên là choáng váng, Connor lắc đầu, khiếp sợ trước câu trả lời của cô gái.
Tuy vậy anh vẫn rút tờ tiền thứ ba ra, để nó xuống bàn và đặt câu hỏi cuối cùng:
- Tại sao cô lại muốn giết một người đàn ông?
Lần này Evie không hề do dự. Cô đã đi quá xa để có thể lùi lại được. Vậy là cô đã thu dọn được những tờ đô la cuối cùng như người ta gom món tiền thắng trong ván bàn poker.
- Để trả thù.
Trong đầu Connor, những từ đó trỗi dậy từ quá khứ - sự trả thù khôn nguôi - khiến anh cảm thấy buốt lạnh dọc sống lưng.
- Thế là thế nào, trả thù cho cô à? Trả thù ai? Tại sao?
Nhưng Evie đã mặc áo khoác vào và quàng khăn lại.
- Rất tiếc, cô vừa nói vừa đứng dậy, đó là hai câu hỏi thêm và anh không còn gì để trả nữa rồi.
Bị mắc vào trong chính cái bẫy của mình, anh bất lực nhìn cô bước qua cửa nhà hàng.
- Đợi đã! Anh kêu lên để giữ cô lại.
Anh gặp lại cô trên phố. Tuyết vẫn rơi dày đặc, bao phủ lên thành phố một lớp vỏ bọc lặng câm và ngột ngạt.
- Cô không thể đi như thế này được. Trời đang lạnh, nguy hiểm đấy. Tôi sẽ tìm cho cô một nơi nghỉ tối nay.
Cô quay lưng lại phía anh, không hề có ý trả lời.
Như một cứu cánh cuối cùng, Connor cho tay vào túi lục tìm danh thiếp trên đó ghi tất cả những thông tin của anh.
- Trong trường hợp cô đổi ý...
Nhưng anh biết rằng trường hợp đó sẽ không xảy ra.
Trong khi băng qua phố, Evie đột ngột dừng lại giữa vạch dành cho người đi bộ và quay về phía Connor để đến lượt mình đặt một câu hỏi duy nhất:
- Người mà tôi khiến anh nghĩ đến... là ai vậy?
Trước cửa coffee-shop, Connor châm thêm một điếu thuốc mới. Những cuộn khói xanh, đông đặc vì giá lạnh, bay lơ lửng phía trên đầu anh.
- Chính là tôi.
Cô nhìn anh chằm chằm, vừa ngạc nhiên vừa cảm thấy bất an vì câu trả lời của anh. Lần cuối cùng ánh mắt họ giao nhau rồi Evie lại bước tiếp con đường của mình. Connor vừa nhìn cô khuất dần vào màn đêm, đồng thời vừa thở ra những luồng khói bồn chồn vào trong màn tuyết trắng xóa.
Dĩ nhiên, anh không thể cứu tất cả mọi người.
Nhưng hy vọng sống của một cô gái mười lăm tuổi,
tuyệt vọng, không chút phương tiện trong tay, giữa đêm đông, ở Manhattan là gì?
 
CHƯƠNG 4 - CON ĐƯỜNG CỦA ĐÊM
Khi soi gương mà bạn muốn đập vỡ gương, thì không phải chiếc gương là thứ cần phải đập vỡ mà chính bạn cần phải thay đổi.
VÔ DANH
Connor đỗ xe ở phố Broome và đi bộ qua hai khối nhà ngăn cách anh với căn hộ của mình. Như những khu còn lại của thành phố, SoHo cũng oằn mình dưới làn tuyết đơn điệu đang che kín biển hiệu của các phòng trưng bày nghệ thuật, nhà hàng và cửa hàng thời trang.
Anh đến trước một tòa nhà cast-iron được xây dựng với khung hoàn toàn bằng gang. Mặt tiền tòa nhà, vốn vừa được cải tạo lại, được trang hoàng bằng hàng trăm ngọn đèn, trong khi đó, trên vỉa hè, một anh chàng người tuyết vẫn chưa được đắp xong đứng chờ đợi, vẫn chưa có cả mũ, củ cà rốt và tẩu thuốc.
- Hãy luôn mang nó nhé, anh bạn thân mến, bác sĩ vừa nói vừa quấn chiếc khăn quàng của mình quanh cổ anh chàng người tuyết.
Trong tiền sảnh, Connor lấy thư từ của mình trước khi nhấn nút gọi thang máy. Thang máy đưa anh lên tầng cao nhất của tòa nhà, nơi có căn hộ của anh, một căn hộ sát mái rộng rãi được trang trí theo kiểu khắc khổ. Bên trong căn hộ, không hề thoang thoảng mùi thơm của bánh quy, mùi khói của món gà tây rô ti bỏ lò trong nhiều giờ liền. Không cây thông Nöel, không phòng cho trẻ em. Không chút hơi ấm, không bóng dáng cuộc sống. Anh đã mua căn hộ này cách đây năm năm, như một biểu tượng cho thành đạt của mình, nhưng anh chưa bao giờ bày biện đồ đạc cũng như trang trí nhà cửa. Công việc ngập đầu ngập cổ, quá nhiều những điều rối ren phức tạp... và nhất là chẳng có ai cùng chung sức dọn dẹp nhà cửa.
Trong khi dành cả cuộc đời mình để thăm dò tâm hồn người khác, anh lại là cả con người của bí mật và thần bí. Anh yêu phụ nữ, nhưng cho đến thời điểm hiện tại, tất cả những cuộc phiêu lưu tình ái của anh đều không hề có chút triển vọng nào trong tương lai. Ngay cả khi tất cả đều đang diễn ra rất tốt đẹp thì luôn xảy đến một thời điểm nào đó người bạn gái trách rằng anh là người không thể nắm bắt được. Làm sao anh có thể thú nhận rằng anh không thể tìm thấy trong mối quan hệ yêu đương một độ tin cậy vốn luôn là cầu nối giữa anh với các bệnh nhân?
Anh nén cơn ngáp và mở tủ lạnh lấy chai vang trắng Chardonnay đã vơi đến non nửa. Anh rót cho mình một cốc trước khi trở lại phòng khách. Vì căn hộ khá lạnh, anh ực một hơi hết chỗ rượu và không cưỡng lại ý muốn làm thêm cốc nữa.
Tối nay, anh cảm thấy xung năng tự hủy xưa cũ lại trỗi dậy trong mình. Anh đã dành cả cuộc đời để chiến đấu, nhưng anh biết cuộc chiến đấu này đòi hỏi tinh thần cảnh giác cao độ mọi lúc mọi nơi.
Anh tháo cà vạt, bước vài bước về phía vách kính tường rồi buông mình xuống tràng kỷ. Tâm trí anh vẫn luôn bị ám ảnh bởi hình ảnh cô gái lạ thường kia, Evie, người con gái đã tìm cách lấy trộm túi của anh. Anh nhớ lại nỗi tuyệt vọng mà anh đã đọc được trong ánh mắt cô, và một lần nữa, anh lại cảm thấy hối tiếc vì đã không thể làm gì giúp cô. Những lời nói đáng lo ngại của cô gái vẫn còn vang lên trong đầu anh cho đến khi khiến anh đau nửa đầu: "tôi muốn giết một gã đàn ông", "để trả thù".
- Đừng làm điều dại dột ngu ngốc đó, anh thì thầm như thể Evie có thể nghe mình nói. Cho dù hắn đã làm gì cô, cũng đừng giết hắn.
Đúng lúc đó, điện thoại đổ chuông. Anh nhíu mày. Chắc chắn đó là Nicole. Với tất cả những chuyện vừa xảy ra, anh đã quên gọi lại cho cô.
Anh nhấc máy.
Đó không phải là Nicole.
Đó là một cô gái trẻ, hoàn toàn lạc đi vì sợ hãi, cô thú nhận đã giết một người.
 
CHƯƠNG 5 - ÁNH SÁNG
Không thể thấy bình minh nếu không trải qua đêm dài.
Khalil GIBRAN
BA THÁNG SAU...
Đó là thời điểm cuối mùa đông, đầu mùa xuân.
Vầng dương hồng nhạt dần dâng lên cao trên bầu trời East Side, hứa hẹn một ngày mới chan hòa ánh nắng.
Không xa hai bên East Side là nhà thờ Notte-Dame, một nhà thờ xứ Tây Ban Nha nằm kẹt giữa một nhà kho và tòa cao ốc vô hồn. Khu nhà ở của nhà thờ bao gồm một trung tâm lưu trú tạm thời dành cho những người vô gia cư. Mặc cho cơ sở vật chất nơi đây vô cùng sơ sài - sàn nhà lát gạch vuông sứt mẻ, vách ngăn lung lay như sắp đổ, hệ thống ống dẫn hư hỏng nặng... -, nó vẫn được những kẻ sống lang thang đường phố đánh giá cao. Trái ngược với những trung tâm của chính phủ, họ biết rằng ở đây người ta không hề đặt bất cứ câu hỏi nào và họ có thể tìm thấy đồ ăn cũng như quần áo sạch.
Trong nhà ngủ dưới tầng hầm, hàng chục kẻ vô gia cư vừa mới kết thúc giấc ngủ ban đêm của mình trên những chiếc gi.ường gấp, trong khi tại phòng sinh hoạt chung ở tầng trệt, những người đầu tiên thức giấc đang tự phục vụ bữa ăn sáng thanh đạm. Đó là ổ ăn mày phiên bản thế kỷ XXI: ngồi bên một chiếc bàn, một phụ nữ vẫn còn trẻ nhưng răng đã móm gần hết đang tớp một bát đựng cà phê; bên cạnh đó, một gã người Nga cao to cụt tay vụng về bóp vụn chiếc bánh bích quy để ăn được lâu hơn; ngay gần sát cửa sổ, một lão già da đen hốc hác, dửng dưng với thức ăn, co rúm lại trong chiếc túi ngủ và lải nhải theo một chuỗi ám ảnh nào đó.
Đột nhiên, cửa ra vào mở toang và một người đàn ông mặc áo choàng đne, râu ria lởm chởm bước vào. Dù không ngủ ở đây, nhưng anh thường xuyên đến nơi này. Từ ít lâu nay, anh thường xuyên đến đây để sạc pin điện thoại di động trong khu nhà.
Ngồi sụp xuống, hoàn toàn dửng dưng với những gì xảy ra xung quanh, Mark Hathaway lê mình vào một góc phòng và tiến lại gần ổ điện trước khi cắm chiếc máy mạ crôm vào đó.
Anh đã không gặp vợ mình kể từ Giáng sinh. Hiện tại, anh chẳng giống bất cứ thứ gì. Tóc tai bù xù, ánh mắt lờ đờ, mặt đầy cáu ghét, từ lâu anh đã rời bỏ thế giới của người sống để dấn thân trong màn sương mù thường trực, chặng cuối cùng trước khi sụp đổ hoàn toàn.
Bạn có một tin nhắn mới.
Giọng nói đơn điệu với âm sắc kim loại trong chiếc điện thoại không gợi chút gì trong anh cho đến khi...
- Mark? Em đây...
Giọng nói này, ngược lại, anh biết giọng nói đó: đó là giọng của vợ anh. Mặc dù tâm trí bị màn sương mờ ảo bao phủ, anh vẫn nhận thấy những tiếng thổn thức trong giọng nói của cô.
- Hãy gọi lại cho em, việc khẩn cấp lắm.
Một khoảng lặng rồi:
- Em phải nói với anh điều này...
Vào lúc này, Mark tin rằng Nicole sẽ thông báo tìm ra xác của Layla. Anh chợt thấy một ảo tưởng tàn khốc: một tên yêu tinh ăn thịt người, một con thú vật, một cô bé đang gào khóc thét xuyên màn đêm, nhưng...
- Chính anh đã...
Anh không thể thở được nữa. Nhịp đập dồn dập của con tim vang lên tận thái dương.
- ... anh có lý, Nicole nhắc lại.
Một khoảng lặng mới. Lần này, anh không còn tin vào gì nữa, anh không còn hiểu gì nữa. Rồi:
- Họ đã tìm ra con bé...
Anh nhắm mắt lại, huy động sức mạnh để thì thầm lời thỉnh cầu mà không biết gửi đến ai.
- Con bé vẫn sống, Mark.
Một làn sóng bỏng rát chạy dọc suốt cơ thể anh và mặt đất. Lúc này đây, chính anh là người bật khóc.
- Layla còn sống.
 
CHƯƠNG 6 - SỐNG SÓT
Yêu là chăm lo nỗi cô đơn của người khác mà không bao giờ thỏa mãn nó, thậm chí không biết đến nó.
Christian BOBIN
Mark thậm chí không nghe lại tin nhắn một lần nữa. Layla còn sống! Mới phút trước thôi, anh như người đang chuẩn bị bước vào cõi chết, nhưng giờ đây, anh cảm thấy như được tái sinh, được kích động bởi tin tức vừa được nghe.
Anh rời khu cư xá, chạy dọc theo phố Stanton muốn hụt hơi để đến Little Italy. Rất nhiều lần, anh cố thử vẫy một chiếc taxi, nhưng không chiếc nào chấp nhận chở anh. Dù sao đi nữa, anh cũng chẳng có xu nào trong túi. Thây kệ, anh đi lậu vé tàu điện ngầm cho đến tận Brooklyn.
Trong toa tàu điện ngầm, anh ngồi phịch xuống một chiếc ghế để lấy lại hơi. Anh không thể thở được nữa, mắt anh mờ đi, nhưng anh không được phép suy sụp. Không phải lúc này. Anh phải trấn tĩnh lại, dần dần lấy lại trí lực của mình. Ngay cả khi đầu anh sắp nổ tung và tim anh đập dồn một trăm sáu mươi nhịp một phút.
HÃY HỒI SINH! Mày cần phải trở về là mày trước kia. Hãy làm điều đó vì Layla. Con bé còn SỐNG. Mày luôn biết điều đó mà. Mày không biết rõ tại sao, nhưng mày LUÔN biết điều đó.
Anh nhắm mắt lại và cố gắng sắp xếp các ý nghĩ theo trật tự.
Chính vì điều đó mà mày đã cưỡng lại mong muốn đặt dấu chấm hết cho tất cả. Được ở đó khi người ta tìm thấy con bé. Bây giờ, mày sẽ phải giúp đỡ con bé. Mày phải đầy nghị lực vì CON BÉ.
Anh giữ nguyên tư thế này một lúc lâu, và chỉ mở mắt để xem tên trạm dừng khi tàu vào ga.
Trong mớ hỗn độn đang ngự trị trong đầu anh, một điều gì đó bỗng đột nhiên lóe lên. Một trực cảm hơn là sự suy diễn thật sự.
Ngày tháng! Kiểm tra lại ngày tháng!
Trên một trong những chiếc ghế trước mặt Mark có tờ New York Post số ra buổi sáng. Anh vồ lấy tờ báo, cuống cuồng liếc nhanh để xem ngày: thứ Bảy, ngày 24 tháng Ba 2007. Tin nhắn điện thoại của Nicole là vào tối qua. Vậy là người ta đã tìm thấy Layla vào ngày hôm qua.
Ngày 23 tháng Ba 2007!
Tự thân nó, ngày này không hề gợi lên điều gì đặc biệt cả, nhưng đối với anh, ngày này được đánh dấu bằng một vệt sắt nung đỏ, trong trái tim và trong đầu óc anh.
Vào chính ngày 23 tháng Ba 2002, Layla mất tích.
Năm năm trước.
Chính xác không hơn không kém một ngày.
o O o
Mark bước vào con phố nhỏ yên bình của Brooklyn nơi có ngôi nhà từng là "nhà của anh", nhưng giờ nó không còn là nhà của anh nữa. Trên vỉa hè, anh nhận thấy có xe cảnh sát đậu ở vị trí cấm dừng đó.
Chỉ bằng hai bước chạy, anh đã bước lên bậc thềm nhà rồi gõ gõ vào cửa mà không chịu khó bấm chuông.
Khuôn mặt Nicole hiện ra nơi ngưỡng cửa. Chỉ một ánh mắt của cô đã nói lên tất cả: nỗi đau đớn vì sự vắng mặt, sức mạnh của tình cảm gắn bó chân thành... Rồi cái ôm siết đầu tiên bị cắt ngang bởi sự xuất hiện của một nhân viên FBI, khuất sau bóng vợ anh.
- Xin chào bác sĩ Hathaway, vừa nói viên cảnh sát vừa trình thẻ cảnh sát của mình. Frank Masrshall, văn phòng FBI California, tôi nghĩ là anh vẫn còn nhớ tôi.
Mark quay về phía viên cảnh sát. Có lẽ Nicole đã báo trước cho anh ta bởi anh ta không có vẻ ngạc nhiên khi thấy một tên lang thang đầu đường xó chợ đứng trước mặt mình. Anh ta có thân hình rắn roi kiểu như tài tử Ed Harris: béo lùn, tóc húi cua, vẻ mặt có phần nhân từ. Chính anh ta là người giám sát cuộc điều tra vụ mất tích của Layla.
- Con bé ở đâu rồi? Mark thốt lên. Layla ở đâu rồi?
Nicole mở miệng định nói nhưng Marshall đã trả lời thay cô:
- Cần phải hết sức thận trọng, bác sĩ Hathaway, vừa nhắc anh ta vừa đi về phía chiếc máy tính xách tay đang đặt trên bàn trong phòng khách. Hiện tại, chúng tôi không chắc chắn 100% đó có phải con gái anh không. Quá trình xét nghiệm ADN đang được tiến hành sẽ nói cho chúng ta nhiều điều hơn nữa.
Marshall nhấn một phím trên bàn phím và khuôn mặt một bé gái xuất hiện trên màn hình.
- Bức ảnh này được chụp vào hôm qua, vài tiếng sau khi cô bé tái xuất hiện.
Mark cúi sát xuống màn hình.
- Đó là Layla! Anh khẳng định không chút do dự. Đó là con gái của chúng tôi!
- Đó là điều tôi hy vọng, Marshall trả lời.
- Tôi muốn gặp con bé!
- Cô bé hiện giờ không ở New York, bác sĩ ạ.
Mark tiến về phía Marshall.
- Con bé đang ở đâu?
- Ở Los Angeles, trong một trung tâm chăm sóc y tế, bệnh viện Saint Francis Memorial.
- Như thế nào... con bé như thế nào rồi?
- Khó có thể nói được. Bác sĩ đang làm tất cả các xét nghiệm. Còn quá sớm để...
- Nó đã bị đánh đập, bị cưỡng hiếp?...
- Thẳng thắn mà nói, chúng tôi không biết gì về điều đó cả.
Mark bùng nổ:
- Sao cơ, các anh không biết gì về điều đó hả?
Anh tiến lại sát gần viên cảnh sát cho đến khi chạm vào anh ta và khinh bỉ nhìn anh ta bằng vẻ đe dọa.
- Bình tĩnh lại nào, vừa nói Marshall vừa lùi lại. Tôi sẽ đưa mọi việc vào trật tự như tôi đã làm với vợ anh.
Nicole dẫn hai người vào bếp và chuẩn bị cà phê cho cả hai. Hai người đàn ông ngồi sát cạnh nhau và Marshall lấy quyển sổ tay ghi chép trong túi ra để chắc chắn không bỏ sót điều gì.
- Một cô bé khoảng mười tuổi đã được tìm thấy ngày hôm qua, vào tầm mười bảy giờ, đang đi lang thang tại một trong những lối đi của SunShinePlaza ở Quận Cam, LA.
Mark lấy tay ôm đầu. Marshall tiếp tục:
- Độ tuổi, đường nét giống nhau, dấu vết khi sinh, vết sẹo ở cằm của cô bé: tất cả khiến chúng tôi nghĩ rằng đó là con gái anh.
- Trung tâm thương mại đó, Mark thở dồn, chính tại nơi đó...
- ... cô bé đã mất tích, cách đây tròn năm năm, chính xác không hơn không kém một ngày, Marshall bổ sung.
Một thoáng hoài nghi xuất hiện trên gương mặt Mark.
- Cùng một giờ, cùng một địa điểm, cách nhau đúng năm năm...
- Gọi đó là một sự tình cờ thật không chính xác, tôi đồng ý với anh.
- Thế còn Layla, con bé đã nói gì với anh?
- Vấn đề nằm ở chỗ đó, bác sĩ Hathaway, con gái anh không nói gì cả.
Mark nhíu mày.
- Con gái anh đến một từ cũng chẳng nói, Frank giải thích, không nói với chúng tôi cũng như không nói với các nhân viên y tế chăm sóc cô bé từ tối hôm qua.
Chứng lặng thinh hoàn toàn?
Mark đã suy nghĩ trong vai trò một bác sĩ. Rất nhiều lần, trong nghề của mình, anh đã chăm sóc những đứa trẻ bị chứng lặng thinh loạn tâm thần.
- Tôi nghe thế đủ rồi! vừa nói anh vừa đứng bật dậy. Tôi sẽ đi Los Angeles, tôi sẽ đi tìm Layla.
- Chúng tôi đã đặt sẵn chỗ cho anh vào ngày hôm nay hoặc ngày mai, Frank vừa nói vừa đến lượt mình đứng lên. Hãy gọi cho tôi khi anh đã sẵn sàng. Một trong những chiếc xe của chúng tôi sẽ chở anh ra sân banh ấy.
- Chúng tôi đã sẵn sàng, Mark dứt khoát. Không cần phải chờ đợi.
Bầu không khí im lặng gượng ép bỗng nhiên bao trùm cả căn phòng, rồi Nicole lên tiếng:
- Không!
Mark quay về phía vợ mình ra dấu không hiểu.
Thay cho câu trả lời, Nicole chỉ tay về phía vách kính. Mark nhìn tấm kính và nhìn hình ảnh phản chiếu trong đó như trong chiếc gương soi. Đó là hình ảnh một con người xa lạ, gầy gò, cáu bẩn, tóc dài thượt và bẩn thỉu, râu ria xồm xoàm, mặt hốc hác, mắt vằn máu. Anh khiến người khác sợ.
- Anh không muốn con bé gặp anh trong bộ dạng như vậy chứ, đúng không?
Xấu hổ, Mark cúi đầu, ra hiệu đồng ý.
o O o
- May mắn là tất cả các khách hàng của tôi không làm giống anh! Jo Callahan, một trong những barbershop truyền thống cuối cùng ở Brooklyn lẩm bẩm. Mất HAI NĂM mới đi cắt tóc một lần, thật không hợp lẽ chút nào, bác sĩ Hathaway! Và tôi thậm chí còn chưa nói đến bộ râu đâu đấy!
Người thợ cắt tóc già phải mất một tiếng nỗ lực mới hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của mình. Vốn làm việc cẩn thận, ông đặt một tấm gương hình oval phía sau gáy Mark để anh có thể đánh giá kiểu tóc mới của anh.
- Lần tới, tôi hy vọng không phải để quá lâu như vậy, Mark hứa.
Với mười phân tóc được cắt đi và bộ râu được cạo nhẵn nhụi, anh tự khám phá khuôn mặt mà anh phải khó khăn lắm mới nhận ra.
Sau khi rời khỏi tiệm cắt tóc, Mark lượn nhanh một vòng trong cửa hàng sang trọng ở Park Slope nơi anh từng thường xuyên lui tới khi vẫn còn là một bác sĩ trẻ đầy triển vọng và đầy tham vọng. Một chiếc quần âu, một chiếc áo vest cắt may rất khéo, và cuối cùng là chiếc áo phông có cổ thời trang có trang trí hình con cá sấu mạ bạc... hiển nhiên là quần áo làm nên thầy tu. Mới cách đây vài giờ thôi, anh chỉ là một kẻ thân tàn ma dại lang thang trong những khu ổ chuột nhếch nhác, thế mà giờ đây, chỉ với chút mỹ phẩm và vài thay đổi, anh lại một lần nữa có thể lừa phỉnh người khác.
Anh đi bộ quay lại căn hộ. Trước cửa nhà, chiếc xe cảnh sát đã biến mất.
Thế là rảnh rang!
Khi anh định bấm chuông thì sực nhớ ra là Nicole đã đưa lại anh chùm chìa khóa riêng. Anh mở cửa và bước vào hành lang. Các cửa sổ mở toang. Phòng khách chìm trong làn ánh sáng mùa xuân, tỏa ngát hương chanh và hương hoa cam. Một chiếc đĩa CD nhạc Keith Jarrett đang chạy trong dàn hi-fi, truyền khắp căn phòng một cơn mưa những âm thanh trong như pha lê. The Köln Concert: sự phong thần dành cho Jarrett, bản hòa âm ứng tấu hay nhất mọi thời đại, đĩa nhạc jazz thậm chí còn khiến cả những ai không yêu thích nhạc jazz cũng phải hài lòng. Mark đã bị cuốn theo dòng cảm xúc. Đối với Mark, chiếc đĩa nhạc có một giá trị tình cảm đặc biệt: Nicole đã tặng anh chiếc đĩa này vào thời điểm bắt đầu câu chuyện tình yêu của hai người.
- Nicole? Mark gọi.
Không tiếng trả lời. Chắc cô ấy đang ở trên gác.
Anh vội vàng bước lên cầu thang mấy bậc một.
- Nicole?
Anh mở cửa phòng tắm.
Tịnh không một ai.
Anh dừng lại trước ngưỡng cửa phòng ngủ. Gắn trên cánh cửa phòng là một tấm bưu thiếp có hai hình bóng quấn chặt lấy nhau bồng bềnh trong làn hơi nước mờ ảo. Mark nhận ngay ra đó là La Valse, bức tượng của Camille Claudel mà cả hai đã cùng chiêm ngưỡng ở bảo tàng Rodin trong chuyến du lịch đầu tiên tới Paris.
Âm nhạc của Jarrett, tình yêu đầy đam mê của Camille Claudel. Hai "chiếc bánh madeleine" do Nicole để lại kéo anh về với quá khứ xa xôi.
Nhưng vợ anh đâu rồi?
Lúng túng, anh gỡ tấm bưu thiếp ra khỏi cửa và nhận thấy ở mặt sau vài chữ viết vội:
Mark, tình yêu của em,
Đừng lo lắng gì cho em cả. Em vẫn ổn, tuy vậy em không thể đi Los Angeles bây giờ được.
Nhưng có một điều khiến em hết sức quan tâm: lại một lần nữa được ở bên anh và con gái của chúng ta.
Nhưng em không thể làm vậy.
Chuyến đi này anh phải tự đi một mình.
Mong anh thứ lỗi vì không thể nói nhiều hơn được nữa.
Sau này anh sẽ hiểu.
Cho dù sau này có xảy ra chuyện gì đi nữa, anh vẫn biết là em đã luôn yêu anh và sẽ mãi yêu anh.
Nicole
 
CHƯƠNG 7 - MADE IN HEAVEN
Trong khi tôi sợ, nó tới
Và, trong khi tới, nỗi sợ hãi trong tôi giảm đi.
Emily DICKINSON
MƯỜI HAI GIỜ SAU
LOS ANGELES
BỆNH VIỆN SAINT FRANCIS MEMORIAL
Thang máy không ngừng đi lên. Bị dồn chặt vào trong góc, Mark Hathaway và Frank Marshall nhìn nhau vẻ gườm gườm, không ai nói gì. Trước khi thang máy dừng lại, viên cảnh sát FBI quyết định đặt câu hỏi chực đốt cháy môi mình:
- Anh không thấy kỳ lạ khi vợ anh không đi cùng chúng ta à?
Mark không đáp lại, tạo cho Frank cảm giác khó chịu khi thấy mình nói chuyện với hư không.
- Cũng không sao, Frank tiếp tục, cô con gái mà cô ấy tưởng là đã chết nay lại xuất hiện và...
- Anh muốn nói gì nào? Mark khó chịu cắt ngang.
Frank dường như do dự rồi tiếp:
- Nếu anh biết điều gì mà chúng tôi còn chưa biết về vợ anh, nếu anh có những nghi ngờ, anh phải nói cho chúng tôi. Đó là điều tôi muốn nói đến.
Nhưng Mark tiếp tục phớt lờ anh ta, thậm chí công khai quay lưng về phía anh ta. Anh cần quên cái tin nhắn lạ lùng Nicole để lạ cho anh, cái tin nhắn mà anh không biết cắt nghĩa ra sao. Hiện tại, anh phải nghĩ đến đứa con gái mà anh sẽ gặp lại trong vài phút tới. Không gì khác đáng để quan tâm, không gì khác có ý nghĩa với anh nữa.
- Còn một điều nữa, Frank nói thêm: vì sự cần thiết của cuộc điều tra, FBI không muốn tiết lộ việc con gái anh xuất hiện trở lại. Chúng tôi không đưa thông tin cho báo giới và trong thời điểm hiện tại, chúng tôi muốn cánh nhà báo nằm ngoài việc này.
- Tại sao?
- Chúng tôi có lý do riêng, viên cảnh sát trả lời thận trọng.
Nhưng Mark phản kích:
- Dĩ nhiên là anh không giải thích lý do cho tôi! Luôn là cái tật sinh bí mật của các người! Nhưng những điều đó đã kết thúc rồi: anh chẳng còn gì để lừa phỉnh tôi nữa.
Phiền lòng vì thái độ của Mark, Frank ấn nút dừng khẩn cấp, giữ chiếc thang máy lơ lửng giữa hai tầng bệnh viện để làm sáng tỏ tình hình.
- Chúng ta cần phải thống nhất rõ ràng, Hathaway: tôi để anh mang Layla về New York cùng, với điều kiện anh phải tôn trọng một số nguyên tắc.
- Tôi cóc quan tâm đến anh. Khởi động lại thang máy đi.
- Tôi yêu cầu con gái anh hàng ngày phải đến gặp bác sĩ tâm lý của Cục. Và ngay khi cô bé quyết định nói, chính chúng tôi sẽ thẩm vấn cô bé.
Điều này là quá đáng đối với Mark. Trong tích tắc, anh túm lấy cổ áo vest viên cảnh sát liên bang và dồn anh ta sát vào tấm gương trong thang máy bằng sức mạnh hung bạo không ngờ khiến chiếc thang máy mất cân bằng.
- Bác sĩ tâm lý, chính là tôi đây, hiểu chưa? Con gái tôi sẽ không gặp ai khác. Tôi là chuyên gia trong những ca kiểu này, là người giỏi nhất trong lĩnh vực của tôi.
Frank không tìm cách chống trả, chỉ nhận xét đơn giản:
- Anh có thể từng là người giỏi nhất, nhưng vào thời điểm hiện tại, anh chỉ còn là một gã đàn ông dữ tợn và hung hăng đa sống lang thang ngoài đường phố từ hai năm trước. Đó thực sự không phải những phẩm chất để an ủi một đứa trẻ đang bị sốc, anh đồng ý chứ?
Mark nắm chặt tay hơn, đồng thời còn siết mạnh hơn nữa.
- Anh đã không thể tìm thấy Layla! Nếu con bé ở đó, ngày hôm nay, đó không phải là nhờ công của anh. Vậy nên hãy để tôi được yên. Tôi sẽ lại kiểm soát mọi người. Vụ việc đã kết thúc.
Mark buông tay ra và ấn nút cho thang máy hoạt động trở lại.
Frank vừa chỉnh lại cổ áo vừa nhấn mạnh bằng một giọng lừng chừng:
- Vụ việc này sẽ chỉ kết thúc khi người ta tìm ra kẻ bắt cóc con gái anh.
o O o
Cửa thang máy mở ra một hành lang dài ốp kính, bên ngoài mưa gió đang quất liên hồi. Màn đêm đã buông xuống và ánh sáng của thành phố thiên thần Los Angeles trải dài như vô tận.
Mark cố gắng làm theo những chỉ dẫn mà người ta cung cấp cho anh. Phòng của Layla nằm ở cuối hành lang. Anh nhận thấy cánh cửa, cách anh khoảng bốn mươi mét.
Phòng 466.
Bốn mươi mét.
Trong bệnh viện, các bác sĩ và y tá đi lại rì rầm, nhưng Mark không nghe thấy điều gì. Náu mình trong lớp vỏ im lặng, anh chầm chậm tiến lên như con chim lặn đang ngưng thở. Anh sốt ruột và lòng đầy lo sợ. Để trấn an bản thân, anh nhắc đi nhắc lại rằng mình đã được rèn luyện để đối phó với tất cả các tình huống có thể xảy ra: có thể con gái anh không nhận ra anh hay tỏ ra hung hăng, có thể anh không đủ khả năng để nói chuyện với con bé, có thể...
Ba mươi mét.
Thời gian như kéo dài vô tận. Tại sao anh lại lo sợ đến thế? Nhưng anh có lý để lo lắng. Từ năm năm nay, chống lại tất cả mọi người, anh huy động tất thảy nguồn năng lượng trong mình để từ chối tin vào ý nghĩ cho rằng Layla đã chết. Anh chiến đấu bằng đầu óc hơn là dùng nắm đấm của mình. Đó là bài học mà anh và Connor rút ra từ thời thơ ấu đầy phức tạp trong khu phố thối nát ở Chicago. Chính niềm tin này đã định hướng lựa chọn nghề nghiệp của anh. Khi đau đớn đã quá sức chịu đựng và ta không thể đáp trả bằng những cú đánh thì ta cuộn mình lại rồi để mặc cơn bão đi qua. Luôn có một thời điểm nào đó kẻ thù mệt vì đã đánh quá nhiều. Luôn có một thời điểm mà cuối cùng cũng hứa hẹn một lối thoát.
Hai mươi mét.
Càng lại gần, anh càng cảm thấy tất cả những gì anh phải chịu đựng trong thời gian qua, tất cả những điều ấy đã từng cô đặc lại thành một khối, giờ lại trỗi dậy trong anh. Đó là một quãng thời gian dài, năm năm chìm trong vực thẳm đau đớn, tức là biết rằng con gái anh đang đau khổ và anh không thể làm gì giúp con bé. Thật khó khăn khi anh phải coi việc chính bản thân chịu đựng đau khổ là phương cách duy nhất trong nỗ lực chia sẻ cuối cùng.
Mười mét nữa.
Chỉ còn vài bước chân nữa và cơn ác mộng chấm dứt.
Hiện tại anh khó có thể tin vào điều đó.
Trong khi anh còn chưa bước tới chỗ cánh cửa, cửa từ từ hé mở.
Ban đầu, anh chỉ phân biệt được một quầng sáng phía trên bộ tóc xoăn nhô lên từ bộ pyjama màu hồng quá khổ. Rồi đến một bé gái, theo sau là cô y tá, khẽ mấp máy môi bước về phía anh.
Chính là con bé! Hiển nhiên là nó đã lớn hơn. Tuy nhiên anh vẫn thấy con bé quá nhỏ bé, quá mong manh dễ vỡ...
Trong tim mình, anh cảm giác như một quả lựu đạn vừa mới được rút chốt, nhưng để không làm con bé khiếp sợ, anh cố kìm nén mong muốn chạy đến bên con bé và chỉ phác một động tác bằng tay nhẹ nhàng.
Tứ chi anh run bắn.
Đừng chạy, Layla, đừng chạy!
Đứa trẻ không nhúc nhích. Khi đó Mark mới dám đưa mắt nhìn thẳng vào mắt con bé.
Một nghìn tám trăm hai mươi tám ngày kể từ khi con bé mất tích.
Anh đã chuẩn bị tư tưởng gặp một đứa trẻ hoảng hốt và ngơ ngác, nhưng anh không thấy trong mắt con bé nỗi khiếp sợ cũng như sự đau đớn. Ngược lại, con bé có vẻ bình tĩnh và ung dung. Bỗng nhiên con bé nhoẻn cười, rời tay khỏi cô y tá và chạy về phía Mark. Mark cúi người thấp xuống ngang bằng chiều cao con bé và cuối cùng cũng ôm con bé trong vòng tay.
- Mọi chuyện sẽ ổn thôi, con yêu, vừa nói anh vừa nhấc con bé lên.
Anh ôm con bé vào lòng và một tình cảm biết ơn vô hạn bỗng ngập tràn trong anh. Đó là một thứ tình cảm mạnh mẽ hơn rất nhiều những gì anh đã cảm thấy khi con bé được sinh ra.
- Tất cả đã kết thúc, anh thì thầm bên tai con bé. Tất cả đã kết thúc.
Để đánh dấu sự quay trở lại trạng thái bình thường này, anh lục tìm trong túi xách và lôi từ trong đó ra một con thỏ bông mà anh đã mang từ New York đến.
- Bố mang cho con con thỏ bông trắng này. Con còn nhớ chứ? Con không bao giờ ngủ mà không có Ông Thỏ.
Cô bé giành lấy con thú bông và ôm ghì vào lòng.
- Tất cả đã kết thúc, con gái bé bỏng của bố, Mark nhắc lại như thể để tự thuyết phục mình hơn nữa. Tất cả đã kết thúc. Chúng ta sẽ trở về nhà.
 
CHƯƠNG 8 - TRẠM CUỐI
Mơ giấc mơ bất khả
Mang nỗi buồn ra đi
Nóng ran vì cơn sốt
Đến nơi không ai đến.
Jacques BREL
NGÀY HÔM NAY
25 THÁNG BA 2007 - TÁM GIỜ SÁNG
SÂN BAY LOS ANGELES LAX
MARK
Chiếc taxi dừng trước nhà ga số 2, nhưng Mark không xuống xe ngay lập tức. Trên đường đến sân bay, Layla thiếp ngủ trên vai anh và anh không muốn đánh thức con bé đột ngột. Sau khi rời bệnh viện, hai bố con đã qua đêm tại khách sạn ở khu phố thương mại downtown. Layla vẫn không nói một lời, nhưng con bé có vẻ bình tâm và vui sướng khi gặp lại anh.
- Con sẽ nói lại được, anh hứa với cô con gái nhỏ đang thiu thiu ngủ.
Anh chắc chắn về điều đó. Chỉ cần con bé cảm thấy được bao bọc và được bảo vệ. Và Mark sẽ làm tất cả để con bé lấy lại niềm tin.
Qua lớp cửa kính ám đầy khói bụi xe ô tô, anh lo lắng nhìn sự náo động bao trùm khu vực quanh sân bay. Anh ghét Los Angeles, mức độ ô nhiễm, vẻ hời hợt cũng như tình trạng bạo lực của thành phố này. Thành phố khổng lồ này luôn tạo cho anh cảm giác rằng nó cuốn trôi tất cả trên đường đi của mình: cả thiên nhiên lẫn con người.
Ngồi trong tổ kén bảo vệ của chiếc ô tô, anh cảm thấy an toàn trong vài giây còn lại, được an ủi nhờ sự thanh khiết của âm điệu bản nhạc violon phát ra từ radio.
Bản nhạc này... mình biết bản nhạc này.
- Bản nhạc này thật hay, đó là bản gì vậy?
- Vũ điệu Sacon của Bach, người tài xế yêu nhạc vừa trả lời vừa đưa cho anh vỏ đĩa CD.
Mark xem xét bìa đĩa được minh họa bằng một bức ảnh đầy sức mê hoặc: nữ nghệ sĩ violon, ăn mặc nhẹ nhàng, khuôn mặt dựa vào mặt gương, tạo ra hình ảnh một người có hai mặt, trông vừa gợi cảm vừa đáng lo ngại. Trên chiếc nhãn vàng của thương hiệu nổi tiếng có đề tên nữ nghệ sĩ và Chương trình độc tấu:
Nicole Hathaway plays Bach
Partitas for solo violin[1]
Mark không kịp có thời gian để bối rối. Layla vừa mở choàng mắt. Cô bé vừa cười vừa nhìn bố rồi ngáp.
- Con mặc áo khoác vào đi, Mark nói, chúng ta sẽ lên máy bay.
Layla ngoan ngoãn vâng lời rồi cả hai rời taxi để bước vào sân bay.
Tại nhà ga, tình hình căng thẳng đến cực điểm. Ngay một tuần vừa rồi, việc phát hiện ra một âm mưu khủng bố mới ở Anh đã gieo rắc kinh hoàng lên cả hai bờ Đại Tây Dương, kéo theo hàng loạt báo động giả. Mức độ cảnh báo chống khủng bố được tăng từ cấp "nguy hiểm" lên tới "nghiêm trọng" và mỗi ngày có rất nhiều chuyến bay bị hoãn lại. Mark kiểm tra chắc chắn chuyến bay của mình không bị hoãn và vội vàng đến quầy check-in được chỉ định. Anh biết việc tăng cường lục soát hành khách và kiểm tra hành lý sẽ kéo dài thời gian làm thủ tục lên máy bay và anh muốn hoàn thành thủ tục này càng nhanh càng tốt.
Ở giữa đám đông, anh nắm chặt tay Layla, như thể anh có nguy cơ bị mất con bé thêm lần nữa.
- Bác sĩ Hathaway! Bác sĩ Hathaway!
Mark quay đầu lại, ngạc nhiên vì có người gọi mình.
Cách anh vài mét, một người đàn ông không quen đang chạy đến chỗ anh.
- Mickaël Philips, tôi làm việc cho nhật báo Herald, anh ta tự giới thiệu.
Mark chau mày.
- Tôi muốn anh phát biểu vài lời về con gái mình, vừa nói tay phóng viên vừa rút máy ghi âm trong túi ra.
- Chúng tôi chẳng có gì để nói với anh cả, vừa trả lời Mark vừa ôm chặt Layla, chân rảo bước.
Nhưng tay phóng viên vẫn theo sát anh và muốn tỏ ra có tài thuyết phục:
- Chúng tôi muốn đề nghị với anh một hợp đồng bảy mươi lăm nghìn đô la cho một cuộc phỏng vấn đi kèm loạt ảnh...
- Anh hãy biến đi! Mark nổi giận.
Khi quay lại nhìn, anh nhận thấy tay phóng viên rút điện thoại di động ra và định chụp trộm một bức ảnh.
Bằng tất cả nỗ lực bảo vệ Layla, Mark túm lấy cổ họng Philips, siết chặt khí quản cho đến khi tay phóng viên phải buông điện thoại ra.
Chiếc điện thoại di động rơi xuống đất và mark nghiền nát theo đúng phương pháp bằng gót giày của mình.
- Anh sẽ phải trả giá vì điều đó! tay nhà báo vừa xoa cổ vừa đe dọa.
Mark nhìn chằm chằm tay phóng viên trong vài giây, ngạc nhiên vì thái độ hung hăng của mình và diễn biến ngắn ngủi của cuộc cãi vã.
Trong khi Mark quay gót để đến khu vực đăng ký, anh nghe tiếng Philips cảnh báo:
- Ngươi đang dính vào rắc rối lớn đấy, Hathaway, và thậm chí ngươi cũng chẳng ý thức được đâu! Ta đã làm một cuộc điều tra của riêng mình: ta có những thông tin lẽ ra có thể chia sẻ với ngươi. Ngươi không biết rõ sự thật đâu! Cả về vợ ngươi lẫn con gái ngươi!
o O o
EVIE
Chiếc xe bus từ Union Station[2] tới thả hành khách xuống trước nhà ga số 2. Lẫn trong số hành khách đó có một cô gái trẻ khoảng mười lăm tuổi ăn mặc theo phong cách gô tíc[3]. Evie là người cuối cùng bước xuống xe. Vẫn còn chưa tỉnh ngủ hẳn, cô tự động bước vào nhà ga đi, và mắt nhắm mắt mở, cô chăm chú nhìn màn hình để kiểm tra giờ cất cánh chuyến bay của mình. Đêm qua cô đã ngủ trên một băng ghế và mình mẩy đau nhức. Bụng sôi òng ọc. Các khớp xương kêu răng rắc và xương cốt dường như muốn vỡ vụn ra. Cô thèm thuồng nhìn gian hàng Starbucks ở đó bán cà phê cùng bánh ngọt, nhưng cô không còn một đồng xu dính túi. Đói bụng, cô kín đáo nhặt cốc nước cam còn thừa và mẩu bánh xốp còn sót lại trung thùng rác của coffee-shop.
Trong vài tiếng nữa thôi, cô sẽ có mặt tại New York. Sau một sự việc đột xuất đáng buồn buộc cô phải đến Los Angeles, giờ đây cô có thể bắt kịp gã đàn ông mà cô đang theo đuổi. Cô đã có địa chỉ của hắn ta: một tòa nhà ở mạn Bắc Manhattan. Ngay khi tìm ra hắn ta, cô sẽ giết chết hắn.
Cô sẽ giết chết hắn.
Cô sẽ giết chết hắn.
Và có thể sau đó, đau đớn sẽ giảm bớt.
o O o
ALYSON
Chiếc xe hơi khổng lồ với trục xe hầm hố cùng hình dạng to bè khó khăn lắm mới đỗ được ở tầng thứ ba của khu đỗ xe ngầm trong nhà ga số 2.
Trong khoang lái của chiếc Porsche Cayenne, một bản nhạc hỗn tạp chán ngấy pha trộn giữa rap và R&B được vặn ở mức to nhất. Bên tay lái, một thiếu phụ trẻ hai mươi sáu tuổi, Alyson Harrison: mái tóc bạch kim cắt ngắn, quần jean bó của hãng Notify, thắt lưng buông thõng như thòng lọng, áo vest da bó sát.
Alyson tắt máy và đổ sụp xuống tay lái. Toàn thân cô run rẩy. Cô cần phải trấn tĩnh lại nếu muốn người ta cho cô lên máy bay. Để làm được điều đó, cô chẳng có đến ba mươi sáu kế. Cô lục trong chiếc túi hiệu Hermes để lấy hộp phấn bằng ngà. Bồn chồn lo lắng, cô hít liền hai liều ma túy rồi xoa xoa hai hàm răng bằng chút bột trắng. Đó là cách duy nhất để không bị sup sụp hoàn toàn. Không có cocaine, cô cảm thấy mình thật thảm hại, không đủ khả năng để đương đầu. Từ nhiều năm nay, cô đã mất khả năng kiểm soát việc sử dụng ma túy của mình, nhưng chất bột trắng luôn phát huy tác dụng.
Quả thực trong vòng chưa đến một phút, Alyson đã lấy lại được chút niềm tin và một lần nữa cảm thấy khỏe khoắn trở lại và có khả năng kiểm soát mọi chuyện. Cảm giác thoải mái này sẽ nhanh chóng chuyển thành trạng thái kiêu ngạo và quá nhạy cảm. Trong khi chờ đợi, cô chỉ cần tìm ra đủ sức lực để đặt mông vào chiếc máy bay này rồi bay trở lại New York.
Cô thay cặp kính cận áp tròng bằng những thấu kính mà: một chiếc màu hồng, một chiếc khác màu xanh da trời. Qua gương chiếu hậu, cô chỉnh sửa lại tóc mái, cố định nó bằng một chiếc kẹp tóc hình con bướm. Sau khi đã trang điểm xong xuôi, cô loạng choạng rời khỏi xe, vắt vẻo trên đôi giày cao gót và kéo chiếc túi du lịch có bánh xe tiến về phía trước.
Khi ánh đèn flash của đám thợ săn ảnh lóe lên, Alyson thấy hình ảnh phản chiếu của mình hiện lên bất động trong kính chắn gió của chiếc xe đang đỗ gần đó. Tấm kính phản chiếu lại cho cô một hình ảnh khiến người ta xót xa nhưng chính xác.
Hình ảnh một ả điếm nghiện cocaine có giá cả tỷ đô la.
o O o
Vậy là, họ đã ở đó, cả ba người, mỗi người cách nhau vài mét, trên một sân khấu nhỏ là đại sảnh của sân bay.
Mark, Evie, Alyson. Họ không hề quen biết nhau, chưa từng nói chuyện với nhau bao giờ, nhưng họ đã có một vài điểm chung.
Cả ba đều đang ở điểm có tính chất bước ngoặt của cuộc đời,
căng thẳng tột độ,
gần với sự sụp đổ.
Cả ba đều có một quá khứ đau buồn.
Cả ba đều thấy cuộc sống bị đảo lộn bởi sự mất tích hay cái chết.
Cả ba đều cảm thấy mình vừa là nạn nhân vừa là tội phạm.
Nhưng chỉ trong vài phút nữa, họ sẽ đi cùng trên một chiếc máy bay.
Và cuộc đời họ sẽ thay đổi.
o O o
- Nào, bố sẽ đi trước còn con theo sau, được chứ Layla?
Mark cởi áo vest và thắt lưng ra để lên băng chuyền rồi bước qua cổng kiểm tra an ninh.
Không có tiếng kêu báo hiệu.
- Đi nào, đến lượt con đó! Mark vừa nói với con gái vừa thu dọn tư trang của mình.
Lặng lẽ, cô bé tiến lại gần bố, nhưng khi bước qua, cô đã làm còi của hệ thống an ninh kêu váng lên.
- Bỏ hết đồ trong túi và cởi giày ra!
Nhã nhặn hơn một chút khiến mày khó chịu à, Mark vừa nghĩ vừa nhìn xoáy vào tay nhân viên an ninh.
Bác sĩ Mark liền quỳ xuống trước con gái để giúp cô bé cởi giày. Anh kiểm tra tất cả túi áo túi quần của con gái nhưng chúng đều rỗng không.
- Sẽ ổn thôi, con yêu.
Layla kéo tất xuống tận gót chân và một lần nữa, chiếc còi báo động lại kêu lên. Thật kỳ cục: Layla chỉ mặc một chiếc quần jean, áo phông và áo khoác.
Mark nhíu mày.
- Cái máy này của ông bị hỏng rồi!
Không thèm trả lời anh, tay nhân viên an ninh lại gần cô bé.
- Quay lưng lại, cô bé, và giơ tay lên!
Layla ngoan ngoãn thực hiện trong khi một nhân viên khác đưa máy dò tìm dọc theo cơ thể cô bé.
Chiếc máy đột nhiên kêu váng lên khi đến gần gáy cô bé.
- Thế nghĩa là thế nào? Mark cáu kỉnh hỏi.
Tay nhân viên rõ ràng không đủ khả năng để trả lời anh. Trước khi quyết định gọi cho đồng nghiệp thay máy dò tìm khác, anh ta thử lại lần nữa và kết quả thu được vẫn tương tự. Nhưng chiếc máy mới cũng không giúp tình hình sáng sủa thêm: tất cả đều khiến người ta nghĩ đến một thiết bị kim loại được gắn dưới da Layla.
Sửng sốt, tay nhân viên an ninh dùng tay ấn sát chiếc tai nghe vào tai và ngước mắt nhìn về phía camera an ninh để nói với một người đối thoại vô hình:
- Thưa bà, chúng ta có vấn đề...
o O o
Mark và con gái hiện đang ở trong một văn phòng bài trí cực kỳ đơn giản, giống như phòng hỏi cung tội phạm. Trước mặt họ, trong bộ vest công sở, một phụ nữ người Mỹ Latin với vẻ nghiêm khắc tự coi mình là COndoleezza Rice đang xem xét hộ chiếu của cả hai.
- Hãy giải thích cho tôi một điều, ngài Hathaway: Có phải con gái ông vừa mới trải qua một ca phẫu thuật.
- Tôi... tôi không biết, Mark khẳng định.
- Có phải người ta đã tiêm thứ gì đó vào gáy con gái ông: một con chíp điện tử hay một miếng cấy nào đó?
- Tôi không biết.
Người phụ trách an ninh ném cho Mark ánh nhìn khinh miệt.
- Vậy sao, ông không biết! Đó là con gái ông, đúng không?
- Đó là một câu chuyện dài, anh nói với giọng mệt mỏi.
Lúc bấy giờ Condoleezza quay về phía Layla.
- Cháu có đau ở phía sau đầu không?
Cô bé chịu đựng ánh nhìn không chớp mắt của bà Condoleezza đồng thời vẫn kiên quyết không nói.
- Nào, cháu bị mất lưỡi rồi à?
Tức giận, Mark bật dậy khỏi ghế.
- Chúng ta đi thôi! Mark quyết định, đồng thời nắm tay Layla. Thây kệ máy bay, chúng ta sẽ thuê xe ô tô.
- Ông sẽ không được rời khỏi đây đâu, người đối thoại với anh vừa khẳng định vừa chỉ vào đội quân đang đứng gác trước cửa văn phòng.
- ch.uyện ấy còn phải xem! Mark nổi nóng. Và trước tiên, hãy trả lại tôi hộ chiếu! Tôi chẳng có tội gì cả.
Cuộc tranh luận đạt đến đỉnh điểm xung đột khi chuông điện thoại reo.
- Vâng, tôi nghe! Condoleezza vừa ấn vào phím loa ngoài vừa nói.
- FBI đây, thưa bà, cô thư ký thông báo, đó là đặc vụ Frank Marshall.
- Bảo anh ta gọi lại sau.
- Anh ta nói việc rất khẩn cấp.
- Thôi được, nối máy cho tôi, bà ta nói rồi tắt hệ thống loa ngoài.
Mark ngồi lại xuống ghế, ngạc nhiên vì sự can thiệp này của Frank và tự hỏi rồi nó sẽ đi đến đâu.
Cuộc trao đổi điện thoại diễn ra chóng vánh, đánh dấu bằng hai từ "vâng" và một lần nữa "rõ thưa ngài" do Condoleezza nói trước khi gác máy.
Vẻ phật ý, bà ta ngước mắt nhìn về phía Mark và tỏ ra hối lỗi:
- Mọi việc đã ổn, bác sĩ Hathaway, vừa nói bà ta vừa trả lại hộ chiếu cho anh. Xin thứ lỗi cho chúng tôi vì đã làm phiền ông. Tôi chúc ông và con gái ông có một chuyến bay thoải mái dễ chịu.
o O o
Bối rối vì vụ kiểm tra làm mất thể diện này, Mark quyết định hai bố con có quyền được thưởng thức một bữa sáng ngon lành. Tại quầy bar của Bon Café, hệ thống coffee-shop do một người Pháp sáng lập, anh gọi hai đĩa thức ăn đầy tú hụ rồi cùng Layla đến ngồi ở chiếc bàn nhỏ gần một chậu cảnh. Anh cảm thấy hài lòng khi thấy cô con gái đang ăn ngon lành và cô bé cắn ngập răng chiếc bánh sừng bò "theo kiểu Paris" của mình, vừa ăn vừa uống cốc nước cam. Anh cũng tự hài lòng với tách cà phê và vừa uống, anh vừa lơ đễnh nhìn tờ USA Today được phát tặng miễn phí cho khách hàng.
o O o
Ga đi ngập tràn trong làn ánh sáng trắng dịu dàng.
Khi Mark và Layla vừa rời khỏi chỗ ngồi, một cô gái trẻ liền bước đến ngay sau họ và không hề gây chú ý, cô ngồi xuống bàn của họ để uống nốt chỗ nước cam còn thừa và hộp sữa chua thậm chí còn chưa bóc.
Evie cũng tranh thủ cơ hội để liếc nhanh các tiêu đề trên báo. Một bài báo có ảnh minh họa lớn chiếm trọn nửa trang nhất:
Tỷ phú Richard Harrison tự sát
Người sáng lập tập đoàn Green Cross, một trong những tập đoàn hàng đầu thế giới về hệ thống bán lẻ, đã từ trần ngày hôm qua tại New York, thọ bảy mươi hai tuổi. Thi thể vị tỷ phú đã được phát hiện trên tàu thuộc sở hữu riêng, ngập trong vũng máu sau khi tự bắn một phát súng săn vào hộp so. Theo thông tin chúng tôi nhận được, Richard Harrisond đã để lại cho người thân một lá thư giải thích lý do ông hành động như vậy. Ông chủ tập đoàn, người cách đây hai năm từng tiết lộ mình mắc bệnh Alzheimer, không thể chịu đựng được tình trạng suy sút tinh thần do căn bệnh gây ra nữa.
Tang lễ sẽ được cử hành vào chiều mai tại Manhattan.
Năm 1966, tại một thị trấn nhỏ thuộc bang Nebraska, Richard Harrison đã đặt những viên gạch đầu tiên trong việc xây dựng đế chế của mình khi mở một cửa hàng bán thực phẩm khô với giá chiết khấu, thành công đến ngay lập tức, và ông nhanh chóng mở thêm nhiều điểm bán hàng khác, ban đầu là ở trong vùng rồi mở rộng ra phạm vi cả nước. Số lượng cửa hàng của Green Cross không ngừng tăng lên trên đất Mỹ và hiện nay, con số này đã lên tới hơn sáu trăm đại siêu thị.
Là người ý tứ, nổi tiếng vì cung cách sinh hoạt chừng mực, Richard Harrison vẫn chỉ sống trong một ngôi nhà từ ba mươi năm nay. Tiền bạc dường như không làm thay đổi chút gì trong cuộc sống hàng ngày của người lãnh đạo tập đoàn luôn chú trọng xây dựng hình ảnh "Quý ông Bình Dân" không bao giờ phô trương sự giàu sang này.
Sự kín đáo và đời sống khổ hạnh của ông đối lập hoàn toàn với cô con gái duy nhất của mình, Alyson, người luôn có những hành động ngông cuồng thường xuyên được đưa trên mặt báo lá cải.
Evie ngừng đọc, mất tập trung bởi tiếng la hét đang nổi lên ở gần khu vực cửa tự động.
Bị một đại đội thợ săn ảnh bao vây, lóa mắt vì ánh đèn flash, Alyson Harrison vừa mới bước vào nhà ga sân bay. Yếu ớt như một cành cây non, gương mặt được cặp kính râm khổng lồ che đi một nửa, Alyson vất vả chịu đựng đám chó săn hiện đang bao quanh cô và vây dồn cô bằng hàng loạt câu hỏi.
FLASH - FLASH - FLASH Alyson! Phía bên này, Alyson! FLASH FLASH Cô đã phải chịu đựng nhiều, đúng không Alyson? FLASH Mối quan hệ của với BỐ MÌNH như thế nào? Hình như cô hối hận? Và MA TÚY, cô đã ngừng sử dụng rồi phải không? Alyson! FLASH - FLASH được thừa kế MỘT TỶ ĐÔ LA có ý nghĩa như thế nào với cô? Alyson! Có anh chàng nào trong cuộc sống hiện tại của cô không? FLASH - FLASH Cô sẽ quay trở lại bệnh viện chứ? Và ma túy, Alyson? Cô không trả lời, CÔ THỰC SỰ NGỪNG SỬ DỤNG RỒI CHỨ? FLASH
Bao nhiêu câu hỏi đổ ập xuống Alyson như bấy nhiêu nhục nhã.
Thuở ban đầu, khi các phương tiện truyền thông bắt đầu chú ý đến mình, Alyson cảm thấy rất vui thích. Sau đó, cô nghĩ mình đã nắm quyền kiểm soát và sử dụng báo chí phục vụ lợi ích của mình. Rồi cô ngày càng nổi tiếng hơn và chiếc bẫy càng ngày càng khép chặt. Đến hôm nay, không ngày nào không có một tay săn ảnh hay một gã nào đó có trang bị điện thoại di động mưu toan lấy đi chút riêng tư của cô.
FLASH - FLASH
Alyson đưa một tay lên che mặt để tự vệ. Lúc ấy những kỷ niệm trỗi dậy từ quá khứ với vận tốc của một chiếc boomerang.
FLASH...
... BACK
Chú thích
[1] Tiếng Anh trong nguyên bản: Nicole Hathaway trình bày nhạc Bach. Tổ khúc cho vĩ cầm độc tấu.
[2] Ga chính lớn nhất thành phố Los Angeles, bang California, Hoa Kỳ.
[3] Phong cách thời trang chú trọng màu đen trong trang phục và trang điểm, tạo cho người mặc vẻ bí hiểm, u sầu.
 
CHƯƠNG 9 - ALYSON - DÒNG HỒI TƯỞNG ĐẦU TIÊN
TÁM NĂM TRƯỚC
Kiều nữ thừa kế của đế chế Green Cross gây xì căng đan tại Quảng trường Thời đại
(AP - 18 tháng Mười 1999)
Tối qua, sau khi rời khỏi một nhà hàng sang trọng nơi cô vừa tổ chức tiệc sinh nhật lần thứ mười chín của mình, Alyson Harrison đã gây ra một vụ náo loạn tại Quảng trường Thời đại. Rõ ràng là ngà ngày say, Alyson đã ứng tấu một điệu vũ thoát y chậm ngay giữa phố, giữa những tiếng cười nhạo và những lời chửi rủa của đông đảo "quần chúng".
Từ khi cô dừng việc học để "toàn tâm toàn ý cống hiến cho những buổi dạ hội people và những buổi shopping, kiều nữ của tỷ phú Richard Harrison thường xuyên góp mặt trên báo chí với những hành động kỳ quặc và thái độ cư xử của một đứa con được nuông chiều".
o O o
Tính khí thất thường của Alyson
(AFP - 23 tháng Mười hai 1999)
Trong chuyến thăm Paris, nữ tỷ phú đã khiến toàn bộ nhân viên khách sạn George-V bị sốc.
Sau khi lượn qua các cửa hàng trên Đại lộ Champs-Elysées, Alyson đã đặt thêm - ngoài dãy phòng xa hoa lộng lẫy của mình - căn phòng thứ hai chỉ dành để đồ đạc. Một nữ nhân viên buồng phòng phát biểu: "Có ít nhất ba mươi hộp đựng giày, mà chỉ toàn những hãng có tên tuổi".
o O o
Steve và Alyson: chuyện nghiêm túc
(Onl!ne - 14 tháng Một 2000)
Tuần vừa qua kênh âm nhạc e-Muzic đã thong báo điều đó, nhưng kể từ hôm nay, điều này đã trở nên chính thức: tay chơi bộ gõ của nhóm nhạc rock 6thGear và kiều nữ của đế chế Green Cross đã thực sự ca chung một khúc tình ca kể từ hai tuần nay.
Steve Gleen, ba mươi mốt tuổi, nổi tiếng với thái độ cư xử của một bad boy và sở thích uống rượu. Steve và Alyson: món cocktail ngòi nổ tạo công ăn việc làm cho cánh paparazzi.
o O o
Xì căng đan tại Courchevel
(AFP - 12 tháng Hai 2000)
Tuần vừa qua, kiều nữ thừa kế của đế chế Green Cross rốt cuộc không xuất hiện ở khu trượt tuyết nổi tiếng trong dãy Alpes, nơi cô đã đặt hai đường trượt để sử dụng riêng. "Không ai nhìn thấy cô ấy cả. Cô ấy hẳn bị những lời phóng đại rùm beng trên các phương tiện thông tind dại chúng về điều kiện đón tiế của mình làm cho sợ hãi. Ở đây người ta không thích những quyền ngoại lệ," một nguồn tin địa nặc danh cho hay.
o O o
Nữ tỷ phú mắc chứng ăn cắp vặt.
(AP - 03 tháng Năm 2000)
Rõ ràng là Alyson Harrison không ngừng làm bậy! Cô gái tóc vàng hoe này đã bị bắt chiều qua vì tội ăn cắp lô quần áo trị giá hàng nghìn đô la tại một cửa hàng sang trọng ở Beverly Hills. Bố cô đã tuyên bố rằng ông sẽ cầu viện Jeffrey Wexler, một người nắm giữ vị trí chủ chốt trong đoàn luật sư để bào chữa cho cô.
o O o
Alyson được phóng thích!
(AP - 08 tháng Sáu 2000)
o O o
Steve và Alyson: chuyện tình kết thúc
(Onl!ne - 18 tháng Mười hai 2000)
o O o
Alyson Harrison bị buộc tội bỏ trốn!
(The Telegraph - 03 tháng Một 2001)
Là tỷ phú cũng không có quyền coi thường luật pháp.
Theo trang web QMZ.com, Alyson Harrison đã bỏ trốn sau vụ đụng xe may mắn là không có ai là nạn nhân. Vụ vi phạm có lẽ là không bị phát hiện nếu một người qua đường không quay lại cảnh này bằng điện thoại di động. Bị buộc phải thừa nhận hành vi của mình, Alyson đã gọi cho luật sư Jeffrey Wexler để tìm cách dàn xếp ổn thỏa với chủ sở hữu phương tiện.
o O o
Alyson Harrison lại có bạn trai mới
(Onl!ne - 12 tháng Hai 2001)
Kiều nữ nổi tiếng ăn chơi sau khi chia tay với tay rocker Steve Glenn đã tìm được niềm vui mới trong vòng tay của người hùng trong loạt phim truyền hình Pacific Pallissad, diễn viên Austin Tyler, người cô đã gặp trong khi quay một đoạn phim quảng cáo.
o O o
Alysson Harrison sạt nghiệp vì Roxy!
(AP - 06 tháng Ba 2001)
Kiều nữ Alyson ngày càng tăng những khoản chi quá mức cho phục trang để con chó của mình ăn mặc lịch sự. Vòng cổ nạm kim cương, "quần áo" được những nhà thiết kế thời trang tên tuổi thiết kế, những buổi điều trị bác sĩ tâm lý chuyên ngành chăm sóc chó: chẳng có gì là quá nhiều đối với Roxy, con chó xù Trung Quốc mà Alyson dẫn theo khắp nơi. "Khác với con người, tôi biết Roxy sẽ không bao giờ rời xa tôi," cô nàng nổi tiếng ăn chơi đã khẳng định như vậy để lý giải cho những khoản đầu tư của mình.
o O o
Một đoạn video nóng của Alyson bị tung lên Internet!!
(Onl!ne - 20 tháng Bảy 2001)
Sau khi bị mất điện thoại di động tại một hộp đêm ở Miami, kiều nữ Alyson lo ngại những dữ liệu lưu trữ trên điện thoại của mình sẽ bị sử dụng vào mục đích xấu. Ngoài danh bạ có tên những nhân vật ăn chơi đình đám trong giới thượng lưu, trong điện thoại của cô còn có rất nhiều ảnh và video cá nhân. Một trong những đoạn video đó, một đoạn phim ngắn khoảng hai phút quay cảnh yêu đương nóng bỏng của Alyson cùng bạn trai vừa được phát tán trên Internet.
"Tôi thấy sốc khi cảnh riêng tư của mình bị phát tán, Alyson phát biểu. Tôi muốn gửi lời xin lỗi tới bạn bè và gia đình mình."
Sau giây phút bối rối ban đầu, cô nàng nổi tiếng ăn chơi đã nhanh chóng lấy lại sự tự tin: "Quan hệ t.ình d.ục là chuyện hoàn toàn tự nhiên, tôi không cảm thấy mình phạm bất kỳ tội lỗi nào", cô nàng khẳng định.
o O o
Alyson Harrison tung ra mẫu đồ lót của riêng mình
(AP - 6 tháng Tám 2001)
Những mẫu thiết kế của Alyson sẽ chỉ được bán tại các cửa hàng thuộc hệ thống Green Cross.
o O o
Alyson lại một lần nữa độc thân?
(Onl!ne - 28 tháng Tám 2001)
o O o
Alyson trở thành tín đồ giáo phái Kabbale
(Keüters - 9 tháng Chín 2001)
Cũng giống như rất nhiều ngôi sao ở Hollywood, cô nàng tóc vàng kỳ quặc đã tyên bố mình là tín đồ giáo phái Kabbale, tôn giáo thời thượng mới nhất của những người nổi tiếng. "Tôi không bao giờ rời xa chiếc vòng tay tết bằng chỉ đỏ này. Nó giúp tôi tránh được rủi ro và cho phép tôi liên hệ với sức mạnh tinh thần của mình."
o O o
Nước hoa mang nhãn hiệu Alyson
(AP - 29 tháng Chín 2001)
Đến lượt kiều nữ thừa kế Harrison cho ra đời loại nước hoa mang tên mình. Cô ta đã liên kết với một hãng nước hoa nổi tiếng (do cha cô sở hữu!) để phát triển loại hương thơm của riêng mình và sản phẩm sẽ được bán vào dịp Giáng sinh tới.
o O o
Alyson Harrison, đã lại tu tỉnh?
(Onl!ne - 28 tháng Mười 2001)
o O o
Alyson Harrison muốn sản xuất phim
(Imdb.com - 20 tháng Mười một 2001)
o O o
Từ vận động viên này chuyển sang vận động viên khác...
(Onl!ne - 5 tháng Mười hai 2001)
Rõ ràng là Alyson Harrison rất quan tâm đến thể thao. Sau cầu thủ bóng đá Dave DeLaluna, giờ đến lượt nhà vô địch Olympic trong môn bơi lộ John Aldreen bị mắc vào lưới tình của kiều nữ tóc vàng.
o O o
Nước hoa Alyson thất bại hoàn toàn
(AP - 8 tháng Một 2002)
o O o
Alyson Harrison bị bắt vì lái xe trong tình trạng say xỉn
(Reuteurs - 12 tháng Một 2002)
Theo nguồn tin từ phía cảnh sát, nữ minh tinh màn bạc kiêm nhân vật đình đám trong giới ăn chơi thượng lưu đã bị bắt vào đêm thứ bảy, rạng sáng Chủ nhật tại Los Angeles vì tội lái xe trong tình trạng say xỉn.
Vụ bắt giữ diễn ra vào hồi hai giờ mười lăm phút sáng nay tại Beverly Hills sau khi xe mô tô cảnh sát phát hiện ra ô tô của Alyson đang ngoằn ngoèo trên mặt đường.
Cảnh sát không phải mất quá nhiều thời gian để tìm thấy một chai rượu Tequila đã uống gần hết trên ghế xe ô tô của cô.
Kết quả xét nghiệm nồng độ cồn trong máu cho thấy lượng cồn trong người cô Harrison, hai mươi hai tuổi, đã vượt quá giới hạn cho phép.
Viện kiểm soát sẽ quyết định khi nào cô nàng bị xét xử trước pháp luật.
o O o
Alyson bị kết án!
(Reuters - 24 tháng Hai 2002)
Hôm nay Alyson Harrison đã bị phạt một nghìn đô la và bị treo bằng lái xe trong vòng sáu tháng sau khi có kết quả dương tính trong xét nghiệm nồng độ cồn khi lái xe trong tình trạng say xỉn hôm 12 tháng Một vừa qua.
Kiều nữ thừa kế của tập đoàn Green Cross còn bị buộc phải theo một khóa học về những nguy hiểm khi uống rượu lái xe.
 
CHƯƠNG 10 - TRONG MÁY BAY
Đối mặt với mọi thử thách, con người chỉ có ba lựa chọn:
1) chiến đấu;
2) không làm gì;
3) chạy trốn.
Henri LABORIT
NGÀY HÔM NAY
25 THÁNG BA 2007 - MƯỜI GIỜ SÁNG
SÂN BAY LOS ANGELES LAX
"Kính thưa các quý bà quý ông, cơ trưởng McCarthy cùng phi hành đoàn rất vui mừng được đón tiếp quý vị trên chiếc máy bay Airbus A380 này trong hành trình đến Luân Đôn có quá cảnh qua New York. Chúng tôi đề nghị quý vị hãy trở về chỗ ngồi của mình và chờ máy bay cất cánh. Hãng hàng không Sangri-La Airline chúc quý vị một chuyến bay dễ chịu thoải mái nhất."
Khi bước lên máy bay, Mark không khỏi cảm thấy bất ngờ trước sự đồ sộ của chiếc máy bay. Chiếc Airbus với hai tầng chạy dọc theo thân máy có thể chở hơn năm trăm hành khách. Để tránh ùn tắt, hành khách đi vào khoang máy bay bằng hai chiếc cầu nhỏ dẫn đến các tầng khác nhau. Vẫn ôm chặt Layla trong tay, Mark phải mất mười phút mới tìm được chỗ của mình, vì kích thước máy bay quá lớn. Sau một vài chậm trễ trong việc giao hàng, hãng hàng không Singapore Shagri-La Airline là hãng đầu tiên khai thác loại máy bay chở khách khổng lồ do châu Âu sản xuất và hãng này đã không tiếc tiền để cải tạo lại nội thất bên trong máy bay cho thật xa hoa lộng lẫy. Với những ô cửa sổ rộng rãi và hàng ghế ngồi cách xa nhau, thậm chí khách đi hạng phổ thông cũng cảm nhận thấy sự sáng sủa và tiện nghi.
Mark và con gái ngồi hai chỗ ngồi cạnh nhau ở phía cuối tầng dưới. Khi họ đến hàng ghế của mình, một cô gái trẻ khoảng mười lăm tuổi, với mái tóc xơ xác và bẩn thỉu, đang thiu thiu ngủ ở chỗ ngồi cạnh cửa sổ. Có một chiếc ba lô đã cũ sờn đặt trên đầu cô gái với tờ giấy ghi:
Evie Harper
Layla ngồi giữa bố và Evie. Cô bé mặc một chiếc áo phông hồng kiểu Alice lạc vào xứ sở thần tiên mà Mark vừa mới mua cho tại cửa hàng miễn thuế. Follow the white rabbit[1] ... là khẩu hiệu phía dưới hình một chú thỏ kỳ cục bị bó chặt trong chiếc áo khoác dài và tay cầm chiếc đồng hồ quả quýt to đùng.
- Con ổn chứ? Mark hỏi mà không thực sự đợi câu trả lời.
Cô bé dịu dàng nhìn bố. Mark cảm thấy tim mình thắt lại, nhưng anh kìm nén được cảm xúc. Anh lục lọi trong chiếc túi mang nhãn hiệu của một hiệu sách rồi lôi từ đó ra một tập giấy vẽ và hộp bút dạ màu cùng hai quyển sách: một cuốn truyện dành cho trẻ nhỏ và tập đầu tiên của bộ Harry Potter.
- Bố mua cả hai bởi vì... bố thậm chí không biết liệu con có biết đọc không, Mark vừa thú nhận vừa bày những thứ đã mua lên chiếc bàn nhỏ. Cách đây năm năm, chính bố là người vẫn đọc truyện cho con trước khi con đi ngủ, con nhớ không?
Anh nhấp một ngụm nước khoáng trong chiếc chai đặt trước mặt và tiếp tục mẩu hội thoại với giọng tâm sự.
- Con biết đấy, con yêu, bố không có chút ý niệm nào về chuyện đã xảy ra với con. Bố không biết ai đã chăm sóc con trong suốt thời gian qua. Bố nghĩ rằng con đã phải chịu nhiều đau đớn và rằng con đã sợ. Sợ kinh khủng. Bố cũng biết con cảm thấy cô đơn, tuyệt vọng và chắc chắn con đã nghĩ chúng ta, cả mẹ và bố, bỏ rơi con. Nhưng đó không phải là sự thật. Không một giây phút nào mà bố mẹ không nghĩ đến con và bố mẹ sẽ hy sinh tất cả để tìm lại được con.
Chăm chú lắng nghe, miệng hé mở, cô bé chăm chăm nhìn bố.
- Bố không biết liệu con có nhớ bố làm nghề gì không, thiên thần của bố... Trước kia khi con hỏi về nghề của bố, bố đã từng trả lời con rằng là bác sĩ, nhưng là bác sĩ hơi đặc biệt một chút, bác sĩ chuyên chăm sóc những người bị tổn thương tâm hồn. Rất khó để giải thích: bệnh nhân đến gặp bố khi người ta đau đớn trong lòng. Họ đau đớn bởi vì họ phải chịu đựng những thử thách khiến trái tim họ bị tổn thương. Đó là những nỗi đau rất khó có thể chữa lành...
Bác sĩ dường như đang tìm kiếm từ ngữ để tiếp tục:
- Những người này rất hay cảm thấy mình mắc một tội lỗi nào đó, ngay cả khi họ không phạm tội gì hết. Nghề của bố là thuyết phục họ rằng họ có thể hồi sinh từ nỗi đau của họ. Không có vết thương nào là không thể hàn gắn được. Bố hết sức tin vào điều đó: con người có thể biến nỗi đau thành sức mạnh. Đó không là một điều gì đấy thần diệu. Điều này cần có thời gian. Thường thì người ta không thể khỏi bệnh hoàn toàn. Nỗi đau không bao giờ thật sự biến mất. Nó ẩn nấp ở đáy sâu tận cùng trong chúng ta, nhưng nó để chúng ta trở lại với cuộc sống và tiếp tục con đường của mình. Bố biết điều này không phải dễ hiểu, nhưng con là một cô bé thông minh mà.
Mark dừng một chút trước khi kết thúc:
- Bố kể với con điều đó để nói với con rằng bố sẽ làm tất cả để bảo vệ con và ở bên con, nhưng con phải để bố giúp con, con yêu. Ngay khi con sẵn sàng, con cần phải nói với bố, con cần phải kể cho bố nghe chuyện gì đã xảy đến với con. Bố có thể nghe tất cả, con biết chứ. Không phải bởi vì bố là bác sĩ, mà bởi vì bố là bố của con. Con hiểu chứ?
Thay cho câu trả lời, Layla khẽ mỉm cười.
Sau đó con bé chăm chú xem hai quyển sách trước khi quyết định chọn Harry Potter.
Mark chăm chú quan sát con bé trong nhiều phút liền: con bé đọc thật sự.
Con bé biết đọc, anh nghĩ. Ai đó dã dạy con bé đọc...
Nhưng ai cơ chứ?
Trong khi Layla cẩn thận lật từng trang truyện, Mark cố hết sức che giấu nỗi hoảng sợ của mình. Tuy nhiên trong đầu anh, hàng nghìn câu hỏi không lời đáp đan xen lẫn nhau: ai đã nuôi dạy con gái anh? Tại sao người ta lại thả con bé ra sau năm năm giam cầm? Tại sao con bé lại bị chứng câm lặng đáng sợ đó. Làm thế nào để lý giải chuyện ở cổng an ninh? Liệu có phải người ta thực sự đặt một vật thể lạ dưới da của Layla? Có thể lắm chứ, nhưng là loại nào? Một con chíp, có thể lắm chứ... Để định vị con bé? Để theo dấu con bé? Nhưng mục đích gì? Và Nicole... Tại sao đến lượt cô biến mất, như thể cô tự trách mình về điều gì đó. Đấy là còn chưa nói đến tay phóng viên biết được chuyện Layla xuất hiện trở lại trong khi FBI không hề công bố thông tin. Tại sao hắn lại cảnh báo anh: "Ngươi không biết rõ sự thật đâu! Cả về vợ ngươi lẫn con gái ngươi!"
Ngươi không biết rõ sự thật đâu...
o O o
Cùng lúc đó, ở phía trước tầng trên, các tiếp viên bị khuấy động bởi một sự náo động bất ngờ. Một con mắt đều đổ dồn về phía Alyson Harrison, người vừa mới xuất hiện trong khoang hạng nhất, một không gian ấm cúng bao gồm khoảng sáu mươi ghế ngồi ở điều khiển tự động.
Một nữ tiếp viên lịch sự và nhã nhặn dẫn Alyson đến tận ghế ngồi của mình.
- Nhiệt liệt chào mừng cô đã tham gia chuyến bay cùng Shangri-La Airline. Toàn thể đội ngũ nhân viên chúng tôi luôn sẵn sàng phục vụ cô và chúc cô một chuyến bay dễ chịu thoải mái.
Kính râm to đùng dính chặt trên mũi, Alyson thu mình trong ghế. Kể từ nay, những nơi công cộng luôn khiến cô không thoải mái. Cô không còn cảm thấy được an toàn nữa. Luôn có hàng chục cặp mắt soi mói và một tay paparazzi nghiệp dư sẵn sàng rút điện thoại di động ra với hy vọng có thể bán lại những tấm ảnh mình chụp cho một trang web chuyên về các ngôi sao thời trang, ca nhạc gossip nào đó và rồi bọn họ sẽ thay hồ đem ra chế giễu.
Vấn đề là cô không còn cảm thấy được an toàn ở bất kỳ nơi đâu. Kể từ nhiều năm nay, cuộc sống của cô là một chuỗi bất tận những ngày trôi dạt cùng hành động thái quá đang dần dần hủy hoại cô từng ngày, và khoản tiền tỷ đô la mà cô vừa được thừa kế cũng chẳng thay đổi được gì.
Trong cuộc sống, những thứ có giá trị nhất là không thể định giá.
Alyson phải mất rất nhiều thời gian mới có thể hiểu được điều này.
Quá nhiều thời gian.
o O o
Chiếc máy bay khổng lồ chạy đến đầu đường băng rồi dừng lại một chút trước khi cất cánh.
- Máy bay sẽ cất cánh trong vòng một phút nữa, cơ trưởng thông báo.
Với trọng lượng năm trăm sáu mươi tấn và được chia làm hai tầng, chiếc A380 này giống một chiếc tàu thủy biết bay hơn là máy bay đường dài thông thường.
Làm thế nào mà một thứ như thế này có thể bay lên không trung nhỉ? Evie tự hỏi khi nhìn qua cửa sổ máy bay. Đó là lần thứ hai Evie đi máy bay và cô cảm thấy ghét khi phải làm thế.
o O o
Viên phi công dận ga và chiếc máy bay bốn động cơ liền lấy đà chạy dọc đường băng.
Evie bắt đầu gặm móng tay.
Tốt rồi, thế là mày đã cất cánh... cô lẩm nhẩm.
Cô lo lắng nhìn xung quanh nhưng hình như không có ai để tâm đến khoảng thời gian mà máy bay bỏ ra để có thể cất cánh.
Thật là quá ngu ngốc khi chết vào lúc này, vào ngay trước khi hoàn tất việc trả thù.
o O o
Máy bay lăn bánh, lăn bánh, lăn bánh liên tục...
Từ tầng trên nhìn xuống đường băng quả thật rất ấn tượng. Ở độ cao hơn mười hai mét, hành khách như có thể bao quát đôi cánh khổng lồ của máy bay và dường như nhìn thấy toàn cảnh đường băng.
Có vấn đề gì đó, Alyson nhận định, cái thứ chết tiệt này lẽ ra phải bay trên trời rồi chứ. Tuy nhiên triển vọng về một vụ tai nạn không làm cho cô sợ. Sau tất thảy mọi điều, cái chết có thể là một giải pháp: chấm dứt mọi đau đớn, tủi hổ và mặc cảm tội lỗi. Chấm dứt nỗi sợ hãi luôn thường trực trong lòng cô. Dấu chấm hết cho tất thảy...
Đã từng rất nhiều lần cô tìm đến cái chết, nhưng luôn có một thứ gì đó đi ngược lại mong muốn của cô: liều thuốc không đúng, mạch máu cắt bị chệch hướng, cấp cứu đến quá nhanh...
Cho đến tận bây giờ, cô chưa từng thành công.
Cho đến tận bây giờ.
o O o
Mark lo sợ khi cảm thấy đường băng rung lên dưới hai mươi bánh xe của phần thân chính. Anh bị ảo giác đánh lừa hay chiếc máy bay này phải mất quá nhiều thời gian như vậy để có thể cất cánh?
Tuy vậy trong chiếc khay trước mặt, cuốn sách mỏng mô tả đặc điểm kỹ thuật của máy bay tự hào rằng công suất của động cơ máy bay tương đương với công suất của sáu nghìn chiếc xem hơi.
Nếu mày mạnh đến vậy thì mày còn chờ gì nữa mà không cất cánh?
Ánh mắt lo âu của Mark giao với ánh mắt cô gái trẻ ngồi gần cửa sổ ở cuối hàng ghế. Cô gái cũng không có vẻ yên lòng nữa. Chỉ duy nhất Layla, ngồi giữa hai người và đang đắm chìm vào cuốn sách, là không quan tâm đến những gì đang xảy ra xung quanh.
Cất cánh đi nào! Cất cánh đi nào!
o O o
Chạy đến cuối đường băng, gã khổng lồ của không trung dường như do dự trong giây lát trước khi nhấc tấm thân nặng năm trăm sáu mươi tấn khỏi mặt đất, khiến toàn bộ hành khách thở phào nhẹ nhõm
o O o
Chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi, chưa đầy sáu phút mà máy bay đã đạt đến độ cao bốn nghìn năm trăm mét.
Bồn chồn lo lắng, Mark vặn mình liên tục trên ghế. Bàn tay anh run run, mồ hôi rịn ra thành từng giọt trên trán và chạy xuống dọc sống lưng. Chứng đau nửa đầu khủng khiếp siết chặt lấy đầu anh như thể não anh vừa bị vắt kiệt.
Mark biết nguyên nhân của cơn khó ở này: do việc cai rượu mà ra. Anh đã không uống một giọt nào kể từ ba mươi sáu giờ qua và điều đó bắt đầu có ảnh hưởng đến anh. Tối qua rồi sáng nay, anh luôn có một mong muốn cháy bỏng là uống hết rượu ở quầy bar nhỏ trong phòng khách sạn. Hoàn toàn chú tâm đến niềm vui được gặp lại con gái, anh đã biết cách tự kiềm chế, nhưng đường phố đã kịp biến anh thành kẻ nát rượu. Chắc chắn anh có thể một mình thoát ra khỏi địa ngục này, nhưng điều đó đòi hỏi phải có thời gian. Trong nghề bác sĩ của mình, anh đã từng điều trị cho những bệnh nhân nghiện rượu trong giai đoạn cai rượu và anh biết điều gì sẽ xảy ra khi anh không uống nữa: mất phương hướng, hoang tưởng, chứng co giật, ảo giác thị giác hoặc thính giác.
Bên cạnh anh, Layla rời mắt khỏi cuốn sách và thận trọng nhìn anh. Để tạo vẻ bình thường, anh thử nháy mắt rồi mỉm cười, nhưng có điều gì đó nói với anh rằng con gái anh không bị đánh lừa về tình trạng sức khỏe của anh.
- Ông ổn chứ?
Cô gái ngồi cạnh cửa sổ lên tiếng hỏi. Mark chăm chú nhìn cô gái: nửa phụ nữ, nửa trẻ con, mái tóc nhuộm bẩn thỉu, trang phục gô tích kiểu cách nhưng nhàu nát, mệt mỏi trong ánh mắt cô gái chứng tỏ cô đã từng phải chịu nhiều khổ đau trong cuộc sống mặc dù tuổi còn khá trẻ.
- Ổn, anh trấn an. Cô tên là gì?
Cô gái lưỡng lự. Bản tính đa nghi đã ăn sâu vào con người cô. Nhưng có điều gì đó ở Mark khiến cô tin tưởng. Sự ấm áp trong ánh mắt anh nhắc cô nhớ đến người bác sĩ mà cô đã gặp cách đây ba tháng, ngay trước đêm Giáng sinh, người mà cô không bao giờ quên. Cô đã cố gắng không để lộ điều này trong khoảng thời gian ngắn ngủi họ ở bên nhau, nhưng cô cảm thấy gắn bó một cách kỳ lạ với vị bác sĩ đó. Rất thường xuyên, trong những thời điểm cảm thấy hoài nghi hay cô đơn, cô đột nhiên nghĩ đến anh. Vì vậy là, nỗi sợ hãi giảm đi và một niềm hy vọng còn mơ hồ về cuộc sống dễ chịu hơn thoáng xuất hiện trong tâm trí cô.
- Tôi tên là Evie, cô trả lời.
- Tôi là Mark Hathaway, và đây là con gái tôi, Layla.
- Xin chào Layla, Evie vừa nói vừa nghiêng người về phía cô bé.
- Con bé... con bé không nói được, bác sĩ giải thích.
Evie nhìn đôi bàn tay Mark.
- Đó là do thiếu rượu.
- Sao cơ?
- Ông đang cố ngừng uống phải không? Chính vì thế mà ông run như vậy...
- Không, Mark nói dối, đột nhiên cảm thấy xấu hổ đôi chút. Tại sao cô lại nói vậy?
- Vì mẹ tôi:, mẹ tôi cũng bị như ông.
- Nghe này, vấn đề khá phức tạp, Mark bắt đầu.
Anh ngừng một chút trước khi hỏi:
- Mẹ cô thế nào rồi?
- Bà ấy chết rồi.
- Ồ! ... Tôi rất lấy làm tiếc.
Tín hiệu fasten seat belt vừa tắt, điều đó có nghĩa là hành khách có quyền đứng dậy.
Evie đề nghị:
- Nếu ông muốn đi uống chút gì cho tỉnh táo, tôi có thể trông con gái ông giúp ông.
- Cảm ơn cô, nhưng mọi chuyện sẽ ổn thôi, Mark trả lời, đột nhiên anh cảm thấy nghi ngờ.
- Tôi nghĩ nếu ông không nhanh chóng uống một thứ gì đó, ông sẽ cảm thấy cực kỳ tồi tệ.
Mark thận trọng cân nhắc điều này. Đúng là anh càng lúc càng cảm thấy tồi tệ hơn. Chỉ trong có vài giờ, anh đã đột ngột từ bỏ cuộc sống của một kẻ vô gia cư, nhưng anh rất khó trở lại những vạch xuất phát ngày xưa. Đặc biệt là anh đã đánh giá thấp hậu quả của việc cai rượu đột ngột trước khi lên máy bay này.
Mark nhìn Layla. Liệu anh có thể để con bé một mình trong vài phút với cái cô Evie mà anh không hề quen biết này được không? Con bé sẽ phản ứng ra sao? Mặt khác, nếu anh muốn có thể giúp được con bé, anh cần phải uống một hay hai cốc để trở về trạng thái vững vàng.
- Con nghe này, con yêu, bố sẽ trở lại trong vòng năm phút nữa. Vậy con hãy ngoan ngoãn đợi bố ở đây cùng với cô gái này, con đồng ý chứ?
Sau đó anh quay về phía Evie.
- Có một quầy bar ở tầng trên. Nếu cô có bất kỳ vấn đề gì với Layla, ngay lập tức cô phải đến tìm tôi, cô hiểu chứ?
Evie gật đầu đồng ý.
Mark đứng dậy rồi đi vào nhà vệ sinh trước tiên. Cổ họng khô khốc, khuôn mặt nóng bừng, anh vừa khát nước vừa vã mồ hôi đầm đìa.
Anh bước vào ca bin nhỏ được làm hoàn toàn bằng thép crôm, sứ và gương kính. Ngay cả tại nơi đặc biệt này cũng có một ô cửa sổ to rộng cho phép nhìn thấy cả bầu trời bao la! Nhà vệ sinh thật sang trọng và trắng sáng, ngoại trừ một lá bùa: một khuôn trổ choán phần lớn diện tích tường nhà vệ sinh. Mark nhận ra "ba con khỉ khôn ngoan" mà anh có dịp thấy tại những ngôi đền đạo Phật trong một chuyến đi dự hội thảo ở Nhật Bản. Bằng tay của mình, con linh trưởng thứ nhất che mắt, con thứ hai bịt tai và con thứ ba che miệng. Bức khắc này được tóm tắt trong một câu: Không nhìn, không nghe, không nói. Theo tín ngưỡng, những ai thực hiện được lời dạy này sẽ đạt tới hạnh phúc, bình yên.
Hoàn toàn tâm đắc với câu châm ngôn kỳ lạ này, Mark tháo đồng hồ rồi rửa tay và vã nước mát lên mặt nhưng anh tránh nhìn vào tấm gương gắn trên bồn rửa.
Anh hơ tay dưới chiếc máy sấy tay tự động sau đó rời nhà vệ sinh. Anh vừa đi khỏi thì liền thay đổi ngay ý định: anh để quên đồng hồ trên kệ đựng đồ. Trở lại nhà vệ sinh, anh lấy lại đồng hồ và chuẩn bị rời khỏi thì bỗng im bặt.
Không thể nào...
Trên tường, bức hình ba con khỉ đã biến mất và thay vào đấy là một tấm ván nhỏ bên trên có điều gì đó rất đáng sợ và bệnh hoạn. Tấm ván tập hợp rất nhiều những biểu tượng mà anh đã từng gặp trong môn tâm lý học: trước tiên là một chiếc đồng hồ cát, một lưỡi hái tử thần và một bộ hài cốt: nói cách khác, thời gian trôi đi và thời gian chúng ta lãng phí, cái chết tất yếu và bất ngờ xảy đến, chúng ta lại trở về với cát bụi. Tiếp theo là một chiếc cầu nhỏ, dài và nguy hiểm: cầu Nại Hà, biểu tượng cho khó khăn khi vượt qua sông trong cõi âm. Để kết thúc là một chiếc thang, chiếc thang giải nạn, biểu tượng phổ biến cho sự thăng thiên của linh hồn, ngay gần chiếc thang là vị thần đầu sói đang chờ đợi: Anubis, người dẫn hồn, được xem như là người đồng hành của con người sau khi chết để dẫn dắt con người trong bóng đêm của cõi chết.
Phía trên bức họa này là một câu như thần chú:
KHÔNG CÓ GÌ PHẲI SỢ,
MỌI VIỆC ĐỀU CÓ THỂ HIỂU ĐƯỢC
Mark sững sờ. Anh thậm chí không hề nằm mơ! Bị tấm ván thôi miên, anh không tài nào rời khỏi nhà vệ sinh. Chính điều anh nhìn thấy làm anh đau đớn, dù rằng anh không hoàn toàn biết chắc nghĩa chính xác.
Anh phải tự ép mình đi ra, nhưng khi vừa đóng cánh cửa lại, anh không thể ngăn mình mở lại cửa để tiếp tục khám phá một lá bùa mới thay vào vị trí của tấm bùa cũ! Lần này là một con chim với bộ lông nhiều màu rực rỡ cũng đang dang đôi cánh khổng lồ trên toàn bộ bề mặt bức tường: chim Phượng hoàng, một con chim trong trí tưởng tượng của con người luôn hồi sinh từ đống tro tàn.
Trên biểu tượng hồi sinh này là câu:
MỘT NGƯỜI ĐÀN ÔNG CÓ THỂ BỊ HỦY HOẠI
NHƯNG KHÔNG ĐƯỢC KHUẤT PHỤC
Lần này Mark cảm thấy lo sợ thực sự.
Xong rồi, mình bị hoang tưởng rồi!
Những ảo giác do cai rượu mà anh rất sợ hiện đang xuất hiện một cách đáng ngại. Toàn thân anh nóng bừng. Anh không thể ngăn những ngón tay run rẩy, nhịp tim anh rối loạn.
Lẽ ra anh cần phải uống nước, sử dụng thuốc an thần và vitamin. Nhưng anh chẳng có gì trong tay cả. Tất cả những gì còn lại trong anh chỉ là ý chí. Anh nhắm mắt lại và sử dụng chút sức lực cuối cùng vào cuộc chiến nội tâm để tìm chút thanh thản.
Tất cả những gì mày nhìn thấy là giả tạo. Tất cả những điều đó chỉ diễn ra trong đầu mày mà thôi. Không hề có những lá bùa. Những hình ảnh chết chóc và hồi sinh, đó là nỗi sợ hãi và lo lắng của mày: di chứng của hai năm sống ngoài đường phố. Mày không có gì phải lo lắng. Layla đang ở cùng mày và mày sẽ sớm gặp lại Nicole thôi. Mày sẽ xây dựng lại gia đình thành công và tất cả sẽ trở lại như trước kia.
Khi anh choàng mở mắt ra, lá bùa đã biến mất không để lại chút dấu vết gì. Bức tường đã trở lại vẻ sáng bóng của mình.
- Này, thế nào, anh ị xong chưa? Một gã nào đó đứng ngoài cửa mất hết kiên nhẫn kêu lên.
Được chiến thắng bản thân nhỏ nhoi đó làm cho tươi tỉnh trở lại, anh vội vã rời nhà vệ sinh và tự nhủ suốt chuyến hành trình sẽ không bao giờ đặt chân vào đó nữa.
o O o
Coi trọng vai trò "người chị" của mình, Evie chăm chú theo dõi Layla không rời mắt. Vẫn luôn câm lặng, Layla hoàn toàn để tâm vào chiếc bút dạ và vẽ nguệch ngoạc trên tập giấy vẽ những hình dạng trừu tượng như lũ trẻ thường làm. Evie nhìn cô bé đầy trắc ẩn, vừa xúc động vừa bị thôi miên bởi thái độ câm lặng của cô bé.
Mười phút sau khi Mark đi khỏi, Layla rời mắt khỏi bức vẽ của mình.
Cô bé mở miệng, và đó chính là lúc điều kỳ diệu xảy ra:
- Nói cho em biết, mẹ chị vì sao mà chết? Layla hỏi cô gái trẻ.
Chú thích
[1] Tiếng Anh trong nguyên bản: Hãy đi theo thỏ trắng.
 
CHƯƠNG 11 - EVIE - DÒNG HỒI TƯỞNG ĐẦU TIÊN
LAS VEGAS, NEVADA
CHẬP TỐI MỘT NGÀY THÁNG MƯỜI
HAI NĂM TRƯỚC
Một khu đất bỏ hoang ngập đầy cỏ dại và rác rưởi, một nơi nào đó ở ngoại ô Las Vegas, tách biệt hoàn toàn với khu vực rực rỡ ánh đèn neon của khu Strip[1].
Trên khu đất này có khoảng bốn chục chiếc xe moóc du lịch, phần lớn trong số chúng đã bị hư hỏng với những ô cửa kính vỡ toác, thành xe lồi lõm và mui xe sụp xuống. Chốn nương thân cuối cùng của nhóm dân cư hỗn tạp: những người lao động thu nhập thấp, những con người bất hạnh nhẵn túi vì cờ bạc vốn chỉ nghĩ ở lại đây trong vài ngày, "chỉ là quãng thời gian nghỉ ngơi", nhưng họ chẳng bao giờ thoát khỏi chốn địa ngục này.
Ở cuối khu đất, một chiếc xe mooc được chăm sóc khá kỹ, với mái tôn lượn sóng và phần phía trước có hàng rào bao quanh tạo cảm giác chiếc xe du lịch hao hao giống một ngôi nhà nhỏ.
Dưới mái hiên, một chiếc bàn bằng fooc mi ca trên đó có chồng sách khổng lồ, một chiếc đài đang phát nhạc dân ca Mỹ cùng một bể cá trong đó có một con cá còi cọc đang bơi lội tung tăng.
Ngồi bên bàn, Evie, mười ba tuổi, đang nhay nhay chiếc bút một lát trước khi viết liền một mạch đoạn cuối cùng của bài thu hoạch mà cô phải nộp cho thầy giáo vào ngày mai.
Đột nhiên, có giọng nói vang lên từ chiếc xe mooc bên cạnh gọi Evie:
- Date prisa, Evie, vamos a leggar tarde al trabajo![2]
- Ya voy, Carmina, dame dos minutos![3]
Cô gái trẻ nhanh chóng đi đi lại lại trong chiếc xe mooc và trong khi vừa đánh răng, cô vừa vội vàng đọc lại bài làm của mình và sửa đây đó một vài lỗi mà mình mắc phải.
Nào, nhanh lên cháu!
Miguel, người quản lý đội dọn vệ sinh ở khách sạn Oasis, không phải là người dễ dãi. Evie đã phải năn nỉ ông ta rất nhiều để ông ta nhận mình vào làm vài đêm một tuần mặc dù chưa đủ tuổi. Một công việc bèo bọt, tiền công năm đô la một giờ.
Cô gái trẻ vớ lấy cái chai sứt nằm lăn lóc trên bàn và súc miệng bằng một thứ hỗn hợp lạ hoắc gồm Coca light và thuốc đánh răng rồi nhổ luôn vào chậu trồng hoa. Sau đó cô sắp xếp đồ dùng học tập vào ba lô trước khi quay lại xe mooc để tạm biệt mẹ mình.
- Con đi đây, mẹ à.
Teresa Harper đang nằm dài ở tầng dưới chiếc gi.ường tầng.
Bà mới ba mươi tư tuổi nhưng trông có vẻ già hơn hai chục tuổi vì chứng viêm gan mãn tính mà bà mắc phải từ nhiều năm nay và căn bệnh này đã phát triển thành xơ gan rồi ung thư gan. Cách đây vài tháng, một cuộc phẫu thuật đã lấy đi của bà ba phần tư lá gan - vốn bị phồng lên do một khối u - và bà càng ngày càng khó chống chịu lại những tác dụng phụ của việc điều trị: sốt, buồn nôn, mệt mỏi rã rời, đau nhức mình mẩy.
Teresa nắm lấy tay cô con gái:
- Cẩn thận nhé, con yêu.
Bà đã nghỉ việc từ một năm nay và cả hai mẹ con chỉ sống nhờ vào khoản tiền mà cô con gái kiếm được cùng khoản trợ cấp xã hội ít ỏi chẳng đáng là bao.
- Mẹ đừng lo, Evie vừa đứng dậy vừa trả lời.
Cô nhẹ nhàng khép cửa chiếc xe mooc lại rồi nhanh chóng chạy sang nhà hàng xóm, bà Carmina, người làm cùng cô trong đội dọn vệ sinh khách sạn Oasis.
o O o
Evie trèo lên xe của Carmina, một chiếc Pontiac cũ kỹ với hàng ghế ngồi đã sụt hỏng cùng ống bô xả ra làn khói đen sì. Carmina là một phụ nữ Mexico to béo và khô khan. Bà có ba đứa con và một người chồng chẳng làm nên trò trống gì, suốt ngày trong tình trạng thất nghiệp. Vì bà không thích nói chuyện để chẳng phải nói gì nên trong suốt chặng đường đi bà không hề mở miệng, và điều đó chẳng khiến Evie phiền lòng. Cô khép mắt lại. Cô đang rất lo lắng bởi cô vừa hay tin cách đây vài ngày: chủ khu đất nơi họ đặt xe mooc đã quyết định bán khu đất cho một nhà thầu để xây dựng công viên giải trí. Cô không nói gì với mẹ để mẹ khỏi lo lắng, nhưng cô tự hỏi liệu họ sẽ ra sao nếu như người ta đuổi mẹ con cô đi. Kể từ ba năm qua, bất chấp bệnh tật của Teresa và cuộc sống hàng ngày bấp bênh, hai người phụ nữ đã tìm được chút yên ổn sau một thời kỳ khốn khổ. Rượu chè, ma túy, mại dâm... Teresa đã sống qua những năm 1990 như sống trong một hành lang dài tăm tối, thường xuyên chia sẻ những dụng cụ làm hỏng con người - xi lanh, bông, ống hút để hít ma túy - với những con người khốn khổ khác, và từ đó nhiễm căn bệnh viêm gan tồi tệ kia.
Vào thời gian đó, Teresa liên tục bị các tổ chức xã hội săn đuổi bởi họ muốn tách cô con gái khỏi bà để gửi đến một gia đình nhận nuôi. Để không phải xa mẹ, Evie đã sớm phát triển những kỹ năng tự chủ và trưởng thành đáng ngạc nhiên. Kể từ khi có thể nhớ được, cô đã luôn là một người trưởng thành trong gia đình. Trong những khoảnh khắc minh mẫn hiếm hoi, Teresa đã đưa lại một phần lương của mình cho chính cô con gái để tránh phung phí toàn bộ cho heroine. Chính cô là người lo chợ búa, thanh toán hóa đơn, giải quyết các vấn đề nảy sinh với láng giềng, rốt cuộc cô chính là người đã giúp mẹ thoát khỏi địa ngục ma túy.
Cuối cùng, cô trở thành mẹ của mẹ mình...
o O o
- Chúng ta tới nơi rồi, Carmina vừa thông báo vừa lay lay người Evie. Cầm lấy đồ của cháu đi.
Evie choàng mở mắt rồi vơ lấy ba lô để ở băng ghế sau.
Ô tô chạy trên Đại lộ Las Vegas. Giờ này, trời đã tối hẳn. Trong ánh sáng thừa thãi của đèn neon, các khách sạn với mặt tiền sáng loáng thỏa sức tranh đua vẻ đồ sộ của mình. Hình bóng khổng lồ của Oasis rực rỡ như nghìn ngọn lửa và nuốt trọn chiếc Pontiac cổ lỗ đi vào đậu ở bãi đỗ xe dưới lòng đất dành riêng cho nhân viên.
Với ba nghìn phòng, bốn bể bơi và một khu mua sắm, khách sạn như dành cho bậc đế vương. Ở đây, mọi thứ đều khổng lồ: khu vườn trong nhà trồng hàng nghìn cây cọ với một dòng sông nhỏ chảy qua, bãi biển cát trắng mịn, vườn bách thú là nơi nô đùa của nào là sư tử, hổ trắng cùng lớp vỏ băng được tái tạo như thật cho phép loài chim cánh cụt mập ú sinh sống cũng như bể cá có sức chứa trăm nghìn lít nước có thể nuôi được cá heo.
Trong mỗi phòng, đá cẩm thạch được lát từ sàn lên đến tận trần nhà, phong cách trang trí được thiết kế dựa theo nguyên tắc âm dương và thậm chí có cả màn hình tinh thể lỏng trong nhà vệ sinh.
Để hoạt động đúng cách, cỗ máy này cần cho hàng nghìn cá nhân "vô hình": nhân viên buồng phòng, nhân viên lau cửa kính, nhân viên bảo trì bảo dưỡng các loại...
Evie là một trong những cá nhân "vô hình" này. Mỗi tối cô được phân công một công việc khác nhau. Tối nay, cô cùng nhóm của Carmina chịu trách nhiệm lau dọn cầu thang dành riêng cho nhân viên. Một công việc nặng nhọc vất vả: ba mươi tầng lầu, lưng luôn phải cúi rạp xuống và cây lau nhà gắn chặt trong tay trong nhiều giờ liền...
o O o
HAI GIỜ SÁNG
Evie tranh thủ nghỉ ngơi đôi chút trong khoảng thời gian ngắn ngủi khoảng mười phút trên mái khách sạn. Tại đây, ở độ cao gần một trăm mét, Evie bao quát toàn bộ Las Vegas và dòng sông ánh sáng đang cuộn chảy dọc theo Strip.
Cô sinh ra tại thành phố này, thành phố mà cô thấy căm ghét cũng như cô khinh bỉ cái đám du khách đến đây chơi trò đánh bài Brix thảm hại hay phung phí tiền của vào các sòng bạc. Cô chẳng bao giờ hiểu nổi những gì mà đám người đó có thể tìm thấy tại những trung tâm vui chơi giải trí khổng lồ này, những nơi chỉ toàn gồm rặt thứ vô giá trị, hào nhoáng và giả dối.
Ở Las Vegas, người ta không thể đi quá ba bước mà không gặp một máy đánh bạc tự động. Máy đánh bạc có ở khắp nơi: trạm xăng, siêu thị, nhà hàng, quán bar, tiệm giặt là. Nhưng rất khó có thể tìm thấy một nơi để mua sách vở.
Sách vở, đó là thứ mà Evie yêu thích hơn tất thảy, đặc biệt là tiểu thuyết và thơ. Chính một trong các thầy cô giáo ở trường đã giúp cô khám phá văn học, và kể từ đó, văn học trở thành khu vườn bí mật của cô, tấm hộ chiếu đưa cô đi khắp nơi, một phương tiện bất ngờ để thoát khỏi sự tầm thường mà cuộc sống đã giam h.ãm cô trong đó.
Tại một trong nhiều cửa hiệu cầm đồ của thành phố, cô tìm thấy một lô tiểu thuyết được bán hạ giá với giá hai đô la: Trăm năm cô đơn, Âm thanh và Cuồng nộ, Tội ác và Trừng phạt, Của chuột và người, Bắt trẻ đồng xanh, Đồi gió hú, Giàn thiêu phù hoa.
Gracia Marquez, Faulkner, Dostoïevski, Steinbeck, Salinger, Brotë, Wolfe chỉ với giá của một gói khoai tây chiên.
o O o
BỐN GIỜ SÁNG
Kỳ cọ, kỳ cọ, kỳ cọ...
Giờ đây dường như quần áo của cô sặc mùi ứ đọng hôi thối. Lưng cô sụm xuống và cơn buồn ngủ ập đến. Để trụ vững, cô nghĩ đến tương lai và mẹ mình. Teresa đã được đư vào danh sách chờ nhận lá gan mới. Nhưng các cơ quan nội tạng vốn rất hiếm và Evie chỉ có một nỗi sợ hãi: rằng mẹ mình không sống được đến lúc ấy.
Mẹ cần phải trụ vững, cô lo lắng, mẹ chỉ còn cần phải trụ vững trong vài tháng nữa thôi.
Nhưng cùng lúc cô cảm thấy tội lỗi khi trông mong cái chết của một người hiến tạng nào đó.
o O o
ÁU GIỜ SÁNG
Evie nhận khoản tiền công từ người trưởng nhóm làm việc rồi rời khách sạn Oasis. Ở phía sau, trên đại lộ, một quán coffee-shop nhỏ đang phục vụ những vị khách đầu tiên trong ngày. Evie thích ngồi ở cuối phòng, một chỗ hơi tách biệt, tại một chiếc bàn trông ra phố. Tại đây, cô có được khoảng thời gian một tiếng trước khi bắt xe bus tới trường. Một giờ thoải mái dành cho cô, để làm điều cô yêu thích: đọc sách và viết lách.
Sáng nay cô gọi một cốc sô cô la nóng rồi lôi từ trong ba lô ra một cuốn sách được đóng gáy da mà cô thấy say mê. Cô đã nhặt được cuốn sách này vào đêm hôm trước trên bàn ngủ tại một phòng khách sạn. Chắc chắn là một vị khách nào đó đã để quên. Thật đặc biệt vì đó không phải là một cuốn tiểu thuyết hay tuyển tập thơ ca nào đó mà đó là tiểu luận do một bác sĩ chuyên khoa tâm thần thần kinh học New York viết ra.
Một ông Connor McCoy nào đó.
Cuốn sách của ông ta tên là Sống sót.
Và như thể ông ta viết cuốn sách đó dành riêng cho cô.
Ông ta nói chính xác điều mà cô đang trải qua, về sự cần thiết phải cứng rắn để có thể kiên cường đấu tranh chống lại điều tồi tệ nhất, về cái vỏ bọc bất khả xâm phạm mà cô đã kiên nhẫn xây dựng trong những năm qua và cái vỏ bọc đó cho phép cô không bị tiêu biến. Nhưng qua các Chương sách, Evie cũng tìm thấy cho mình một lời cảnh báo, một thứ mà cô đã có trực cảm nhưng không thể trình bày rõ ràng: không được quá khép mình, nếu không chúng ta chẳng thể cảm thấy bất cứ điều gì nữa. Trái tim chúng ta sẽ đóng băng và chúng ta chỉ còn là một xác chết sống và cuộc sống sẽ mãi mãi mất đi sự thi vị vốn có của nó.
Chính vì lẽ đó mà cô cố gắng xây dựng cho riêng mình một dạng khu vườn nội tâm, một liều thuốc của hy vọng và thanh thản mà cô giữ kín, chôn giấu sâu tận đáy lòng, sẵn sàng hé lộ vào một ngày nào đó..
Tương lai của cô ư? Cô vừa mơ ước trở thành một nhà văn vừa mong thành bác sĩ tâm lý để có thể giúp đỡ những người đang phải chịu đau khổ. Tuy nhiên cô biết rõ rằng mình sẽ không bao giờ có thể tiếp tục học được nữa. Trường đại học không phải là nơi dành cho con gái của một kẻ nghiện ma túy nặng sống trong một chiếc xe mooc du lịch và buộc phải làm việc ban đêm để có thể trang trải cuộc sống.
Evie nhấp một ngụm sô cô la nóng rồi viết vội vài từ vào cuốn sổ đóng gáy xoắn.
Cô thường xuyên cảm thấy cô đơn.
Vô cùng cô đơn.
Cô rất muốn chia sẻ suy nghĩ của mình với một ai đó hiểu mình.
Nhưng vì không có ai nên cô giao phó mọi hoài nghi cũng như bí mật của mình vào cuốn nhật ký.
Ở cuối cuốn nhật ký, cô đã thảo ra một danh sách. Đó là danh sách mười điều bí mật mà cô mong muốn sẽ trở thành hiện thực trong đời. Cô cũng biết rõ rằng những ước nguyện ấy rất khó có thể được thỏa nguyện vào một ngày nào đó, nhưng đôi khi cũng phải biết mơ ước, bởi vì nếu không...
N01: mẹ sẽ nhận được lá gan mới và mẹ sẽ khỏi bệnh.
N02: hai mẹ con sẽ tìm được một căn hộ mới với giá thuê không quá đắt.
N03: mẹ sẽ không bao giờ dùng ma túy và uống rượu nữa.
N04: không bao giờ trong đời mình bị ma túy hay rượu cám dỗ.
N05: hai mẹ con sẽ đi nghỉ vài ngày ở một nơi xa Las Vegas.
N06: mình sẽ đi học ở New York.
N07: một ngày nào đó mình sẽ biết bố đẻ mình là ai.
N08: mình luôn ý thức được rằng cũng có nhiều điều tốt đẹp trong cuộc sống.
N09: một ngày nào đó mình sẽ gặp được người hiểu mình.
Với n010, khá là phức tạp. Cô viết điều gì đó rồi cảm thấy xấu hổ, cô liền xóa điều vừa viết.
Chú thích
[1] Đường phố chính nổi tiếng nhất thành phố, nơi tập trung các khách sạn lớn và những hoạt động vui chơi phục vụ khách du lịch. (Chú thích của tác giả).
[2] Tiếng Tây Ban Nha trong nguyên bản: Nhanh lên Evie, chúng ta muộn làm mất!
[3] Tiếng Tây Ban Nha trong nguyên bản: Cháu đến đây, cô Carmina, đợi cháu hai phút thôi!
 
CHƯƠNG 12 - MARK & ALYSON
Tất cả được ghép nên từ tuổi thơ
Không phải chúng ta nói từ ngữ
Chính từ ngữ nói với chúng ta.
Witold GOMBROWICHZ
NGÀY HÔM NAY
TRÊN MÁY BAY
MƯỜI MỘT GIỜ BỐN LĂM PHÚT
Chiếc máy bay A380 tiếp tục bay với vận tốc đều đều và rẽ những đám mây đang bay lượn trên bầu trời phía trên rặng Thạch Sơn.
Mark bước lên chiếc cầu thang khổng lồ nối liền hai tầng của máy bay. Anh đi đến giữa tầng trên, nơi có Fliridita, một quầy bar lịch sự vốn là niềm tự hào của hãng hàng không Shangri-La Airlines. Âm nhạc thư thái, ánh sáng rực rỡ, ghế bành có tay vịn, tràng kỷ bằng da khâu chần: tất cả góp phần tạo ra một bầu không khí ấm cúng và dễ chịu. Trong không gian được thiết kế sang trọng này, người ta dễ dàng quên rằng mình đang ở trong một chiếc máy bay.
Mark ngồi trên một trong những chiếc ghế cao được bài trí quanh quầy bar. Phía sau quầy, một tay Đen để ria mép phô trương mái tóc châu Phi theo kiểu Jackson Five khiến anh ta trông gần như giống hệt Isaac, nhân viên phục vụ quầy trong series phim truyền hình Mỹ The Love Boat.
- Một ly đúp whisky không đá, vị bác sĩ gọi.
Chưa gì anh đã cảm thấy khá hơn nhiều. Chỉ riêng viễn cảnh được uống cũng gần như đủ để khiến anh cảm thấy dễ chịu.
Vì vậy khi Isaac đặt ly rượu trước mặt, Mark tự cho phép mình khoan nhấp ngay ngụm đầu tiên.
Anh quan sát xung quanh. Khách hàng đổ xô về quầy bar ngày một đông dần lên. Ngay bên cạnh anh, một phụ nữ trẻ hơi khêu gợi vừa đến ngồi. Trong khi chờ đợi đến lượt mình gọi đồ uống, Alyson lắc lư đầu theo điệu nhạc, một thứ nhạc pha trộn giữa électro và bossa.
- Tôi lấy cho cô chút gì uống nhé? Tay nhân viên quầy bar hỏi.
- Một ly daiquiri. Không đường nhưng với chút nước bưởi.
Alyson quay sang Mark và bắt gặp ánh mắt Mark đang nhìn mình.
- Đó là Hemingway's special[1], bác sĩ nói.
- Xin lỗi?
- Ly cocktail mà cô vừa gọi, cocktail daiquiri amer: đó là do Hemingway phát minh ra.
Vì Alyson không phản ứng lại, Mark tự thấy mình có nghĩa vụ phải giải thích.
- Nhà văn Hemingway.
- Tôi biết Hemingway là ai, cám ơn!
- Tôi rất lấy làm tiếc, Mark xin lỗi. Tôi không muốn làm cô khó chịu.
- Không, là do tôi, chỉ vì...
Do ảnh hưởng của cảm xúc không chế ngự được, Alyson giải thích rồi ngoảnh đầu sang hướng khác.
Tò mò, Mark quan sát cô gái chăm chú hơn: mái tóc màu vàng hoe, thân hình dong dỏng cao, vẻ bề ngoài trông như gái gọi...
Khi cô gái cúi xuống nhặt túi xác, Mark nhìn thấy phần đầu của một hình xăm ở chỗ hõm đốt sống lưng và anh nhận ra biểu tượng bánh xe luân hồi trong Phật giáo:
- Cô khỏe chứ? Anh lo lắng hỏi.
- Tôi ổn, Alyson khẳng định. Chỉ là vì anh nhắc đến Hemingway: đó là nhà văn mà bố tôi thích nhất.
Cô nhìn thẳng vào mắt anh và cảm thấy thoải mái đến kỳ lạ. Ở người đàn ông này toát ra một từ trường lại lùng, mang đến sự nồng ấm và tình người, tạo cho cô niềm tin và thúc đẩy cô tiếp tục:
- Bố tôi mất cách đây ít ngày, cô nói tiếp. Ông ấy tự tử.
- Tôi rất lấy làm tiếc.
- Một phát súng săn, như...
- ... như Hemingway, Mark kết thúc.
Alyson im lặng gật đầu đồng ý.
- Tôi là Mark Hathaway.
- Alyson Harrison.
Sau một phút do dự, cuối cùng Mark cũng dám đặt câu hỏi khiến anh băn khoăn:
- Tại sao một nửa số hành khách trên máy bay này nhìn cô chằm chằm vậy, Alyson?
Cô gái trẻ lúng túng thừa nhận:
- Mấy năm vừa qua, người ta thấy tôi xuất hiện rất nhiều trên mặt báo. Thực ra, báo chí, đó chỉ là khoa trương...
- Vậy à?
- Tôi cuộc là anh đã từng nhìn thấy anh của tôi trên báo. Nếu không, chắc chắn anh là người duy nhất.
- Tôi không xem một tờ báo nào kể từ năm năm nay, bác sĩ khẳng định.
- Thật sao?
- Thật.
Alyson tò mò nhìn Mark.
Đến lượt mình, bác sĩ nhìn lại cô gái và cảm thấy người phụ nữ trẻ này cần được thổ lộ tâm tình.
- Vậy đi Alyson, hãy nói cho tôi biết những gì tôi đã bỏ lỡ trong năm năm qua.
Chú thích
[1] Tiếng Anh trong nguyên bản: Tuyệt tác của Hemingway.
 
CHƯƠNG 13 - ALYSON - DÒNG HỒI TƯỞNG THỨ HAI
NĂM NĂM TRƯỚC
Alyson Harrison bị bắt ở Dubai vì tàng trữ ma túy
(AP - 11 tháng Chín 2002)
Kiều nữ nổi tiếng đã bị bắt ở sân bay Dubaï, nơi cô đến du lịch trong vài ngày. Tiểu thư Harrison sẽ bị xét xử trong tuần tới. Cô đã thừa nhận mang cocaine theo mình để sử dụng riêng, nhưng cô khẳng định là không hề sử dụng trên lãnh thổ Các Tiểu vương quốc Ẳ rập thống nhất này.
Đây không phải là lần đầu tiên kiều nữ tóc vàng trở thành trò cười cho dư luận như vậy, và tính đến thời điểm hiện tại, mỗi bước lầm lạc trong cách cư xử của cô đều được xử lý bằng sự can thiệp của người bố và khoản tiền hàng nghìn đô la. Nhưng vụ việc hiện tại, xảy ra bên ngoài lãnh thổ nước Mỹ, có thể không có cùng cách giải quyết như vậy. Chúng ta cần nhớ rằng Dubaï, một trung tâm thương mại quan trọng và vùng du lịch vô cùng phát triển, là một trong những nơi luật pháp xử lý tội phạm ma túy nghiêm khắc nhất thế giới.
o O o
Alyson Harrison bị phạt tù ba năm tại Dubaï vì 2 gam cocaine!
(AP - 18 tháng Chín 2002)
Sáng nay, cô con gái của doanh nhân Richard Harrison đã bị phạt tù ba năm. Tòa án đã xử cô phạm tội du nhập và tàng trữ cocaine trên lãnh thổ Các Tiểu vương quốc Ẳ rập thống nhất.
o O o
Bloomberg TV
... doanh nhân đầy quyền năng Richard Harrison, nhà sáng lập chuỗi siêu thị Green Cross đã đáp máy bay đến Dubaï sáng nay, nơi ông sẽ phải...
o O o
Tin giờ chót: Alyson Harrison cuối cùng đã được ân xá ở Dubaï
(AP - 19 tháng Chín 2002)
Một vấn đề nổi lên trong vụ việc của Harrison: chỉ vài giờ sau khi bị kết án phạt tù nặng, sáng nay Alysson Harrion vừa mới được nhà lãnh đạo Dubaï ân xá.
Ngay sau khi được ân xá, kiều nữ tóc vàng đã rời Các Tiểu vương quốc Ẳ rập thống nhất để quay trở lại Mỹ trên máy bay phản lực do bố cô thuê.
o O o
- Alyson, con nghe bố nói chứ?
Richard Harrison ngồi đối diện con gái trong máy bay.
Đó là người đàn ông tầm thước. Ông đeo kính cận, mặc áo pull cổ lọ, quần nhung và mang giày cỡ to. Đã từ lâu, ông có thói quen giấu mình đằng sau vẻ nhà quê, nhưng giữa chốn thương trường, đó là một người đàn ông đám gờm và đáng sợ.
- Có gì không ổn hả con yêu?
Cô gái trẻ, ngồi co ro trên ghế, cằm tỳ lên đôi chân đang gấp lại, đáp trả những lời đó.
- Bố còn dám hỏi con có gì không ổn sau những việc bố đã làm ư?
- Nhưng việc bố đã làm, bố đều làm để tốt cho con thôi, người bố trả lời bằng giọng mệt mỏi, và hãy tin bố, bố chấp nhận điều đó.
- Đáng lẽ con phải tự mình giải quyết...
Im lặng.
- Chúng ta không thể thay đổi việc đã rồi, Richard tiếp tục, nhưng con phải tự chịu trách nhiệm với bản thân bởi bố không thể luôn ở bên con để kéo con ra khỏi những rắc rối con tự gây ra.
- Con cóc cần, con đã có tiền của bố rồi.
Mặc dù bị tổn thương nhưng người bố vẫn không buông xuôi:
- Con phải ngừng sử dụng ma túy và đầu tư vào một thứ gì đó, Richard biện hộ: một dự án gì đó có ý nghĩa với con. Con có thể điều hành quỹ từ thiện mà mẹ đã thành lập...
- Hãy để mẹ được yên!
- Bố chỉ tìm cách giúp đỡ con thôi.
- Vậy thì hãy để con yên!
Richard chịu đựng sự xúc phạm mà không hề phản kháng.
- Con hung hăng với chính bản thân mình và những người khác, con luôn muốn gây tổn thương và tỏ ra khó chịu: bố biết sâu thẳm trong con, Alyson, con không như thế. Bố biết con thông minh và nhạy cảm. Con đang một mình vượt qua giai đoạn khó khăn. Nếu bố đã làm con đau, bố mong con hãy tha thứ, nhưng bố cầu xin con, đừng chìm sâu hơn nữa bởi nếu không, bố không bao giờ có thể kéo con ra khỏi đó được.
Không tiếng trả lời.
o O o
Nỗi đau của tôi chính là sự trả thù bản thân tôi.
Albert Cohen.
o O o
Alyson cai rượu và ma túy
(Onl!ne - 04 tháng Một 2003)
Hôm nay, kiều nữ thừa kế của đế chế Green Cross đã tự động đến bệnh viện tư Coolidge ở Malibu để cắt cơn nghiện ma túy và rượu. "Cô Harrison đã quyết định áp dụng những biện pháp hà khắc vì sự thoải mái của chính bản thân cũng như gia đình," Jeffrey Wexler, luật sư của Alyson tuyên bố tại một cuộc họp báo.
o O o
Alyson tái nghiện!
(Onl!ne - 14 tháng Tám 2003)
Alyson Harrison đã bị cấm lên máy bay của hãng hàng không United Airlines vì tình trạng say rượu quá mức của cô.
Trong khi chờ đợi chuyến bay đến Los Angeles tại sân bay Miami, Alyson đã uống rất nhiều cocktail tại quầy bar của sân bay trước khi rời quầy trong trạng thái say loạng choạng.
Nhân viên hãng hàng không đã từ chối để cô lên máy bay.
"Cô Harrison đã không kìm giữ được những lời lăng mạ đối với chúng tôi, một nữ nhân viên của United Airlines nói. Cô ấy đúng là đã say, chính cô cũng thừa nhận điều đó."
o O o
Richard Harrison trao ba phần tư tài sản cho các tổ chức từ thiện
(Reuters - 28 tháng Mười 2003)
Nhà tỷ phú Richard Harrison vừa thông báo ý muốn trao mười tỷ đô la cho nhiều tổ chức từ thiện và nhân đạo. Số tiền này tương đương với ba phần tư tài sản của ông sẽ được chia cho các tổ chức từ thiện khác nhau, trong đó có Shania Foundation mà chính ông đã cùng người vợ đầu tiên (mất năm 1994) thành lập và nay đang được điều hành bởi người vợ hiện tại: Stephanie Harrison.
o O o
THÁNG HAI NĂM 2004
Căn phòng ngủ màu phấn tại một trung tâm cai nghiện mới. Qua khung cửa sổ, ta có thể nhận ra những đỉnh núi phủ tuyết trắng xóa của tiểu bang Montana. Alyson đang thu dọn va li. Richard mở cửa rồi buồn bã nhìn cô.
- Bố vừa nói chuyện với giám đốc trung tâm. Ông ta không muốn giữ con ở đây nữa. Ông ta cho rằng con gây nguy hiểm cho những người khác ở trung tâm này.
- Tất cả những điều đó thật ngu ngốc! Người duy nhất mà con đặt vào trong tình trạng nguy hiểm, chính là con.
Richard vụng về thử giúp cô gấp chiếc áo pull nhưng cô con gái đã thô bạo giật lại chiếc áo từ tay ông. Không bối rối, vị doanh nhân lấy trong chiếc túi có quai đeo bằng da cũ sờn ra một cuốn brochute được ép plastic và một tấm vé máy bay.
- Nghe này, người ta có nói với bố về một trung tâm mới ở Thụy Sĩ. Đó không hẳn là một bệnh viện tư, đó đúng ra là một nơi con có thể nghỉ ngơi...
- Con chán ngấy những nơi như thế rồi, bố ạ.
- Vậy thì chúng ta trở về nhà.
Chẳng mất công trả lời, Alyson bước vào nhà tắm rồi bật máy sấy tóc.
Richard nài nỉ thêm bằng cách cố nói to để át tiếng máy sấy tóc:
- Hãy nghe bố, Alyson...
Ông ngắt điện của chiếc máy sấy để cô con gái chú ý:
- Có một bác sĩ mới mà bố muốn con đến khám ở New York: Tiến sĩ Connor McCoy, một bác sĩ tâm lý hoạt động độc lập. Ông ấy đang thí nghiệm các phương pháp chữa bệnh mới và bố tin là ông ấy có thể giúp con.
- Bố biết gì không, bố? Con sẽ tự về nhà bằng taxi.
- Ít nhất con cũng nên đọc cuốn sách ông ấy viết, Richard vừa đề xuất vừa đưa cho con gái cuốn sách tâm lý học thần kinh.
Vì Alyson không phản ứng gì, Richard cho cuốn sách vào va li của con gái: Sống sót, do Connor McCoy viết.
Ông cũng bỏ thêm vào đó tấm danh thiếp và địa chỉ liên lạc của bác sĩ, rồi cầm lại chiếc túi có quai đeo và sửa soạn rời khỏi phòng. Trước khi đi, ông quay về phía Alyson lần cuối.
- Còn một điều nữa bố muốn nói với con. Bố muốn con biết trước khi báo chí cho con biết điều này.
Đột nhiên cảm thấy lo lắng, Alyson rời khỏi phòng tắm. Theo bản năng, cô cảm thấy đó là điều quan trọng.
- Điều gì hả bố?
- Bố sắp chết rồi.
o O o
Richard Harrison mắc bệnh Alzheimer
(CNN.com - 15 tháng Ba 2004)
Doanh nhân Richard Harrison, bảy mươi mốt tuổi, đã mắc bệnh Alzheimer, theo như người phát ngôn của ông, luật sư Jeffrey Wexler thông báo sáng qua.
"Ông Richard thực sự mắc căn bệnh này, luật sư Wexler khẳng định. Những dấu hiệu đầu tiên xuất hiện cách đây hai năm, nhưng Richard vẫn rất chủ động. Mặc dù đã bắt đầu quên một số thứ, nhưng ông hoàn toàn ý thức được điều gì sẽ xảy đến với mình và mỗi sáng vẫn tiếp tục thức dậy để làm việc."
Chúng ta biết rằng đây là căn bệnh thoái hóa thần kinh cho đến ngày nay vẫn chưa thể chữa khỏi. Khi nghiên cứu khoa học còn chưa đạt được những tiến bộ quan trọng, trong vòng bốn mươi năm nữa sẽ có khoảng 15 triệu người Mỹ mắc căn bệnh này, trong khi hiện nay con số này là 14,5 triệu người.
o O o
2005
Một đêm mùa thu ở Las Vegas.
Vẻ bực bội, Russel Malone, viên quản lý khách sạn Oasis, lướt nhanh qua gian tiền sảnh khổng lồ bằng đá cẩm thạch và thủy tinh để chạy ra cầu thang máy ở hành lang. Ông ta lao vào buồng thang máy trong suốt, chiếc thang lao vút lên không trung theo chiều thẳng đứng trên khoảnh sân trong trung tâm rộng mênh mông, nơi kết hợp giữa sự hoang tưởng tự đại và việc lạm dụng yếu tố xa xỉ, người ta đã tái hiện theo kích thước thực một số công trình La Mã như: đài phun nước Trevi, cổng Titus, thậm chí cả một phần đấu trường Colisée. Thang máy đưa Russel đến tầng thứ ba mươi rồi tầng cao nhất: tầng của dãy buồng sang trọng nhất. Ông ta dừng lại trong giây lát trước căn hộ mà Alyson Harrison thuê. Rất nhiều khách hàng đã xuống quầy lễ tân phàn nàn về tiếng ồn ầm ĩ từ phòng cô gái thừa kế tập đoàn Green Cross phát ra. Quả thực vừa đến hành lang, người ta đã nghe thấy tiếng nhạc dội tới tận cuối hành lang. Russel nhận ra giọng ca của Kurt Cobain: The Man who Sold the World, bản phối khí lại bài hát của David Bowie do ban nhạc rock Nirvana trình diễn trên Chương trình truyền hình huyền thoại MTV Unplugged. Trong tích tắc, ông nhớ lại những năm tháng ở trường đại học và nhớ đến Joana, người bạn gái cũ đã tặng ông đĩa nhạc này. Vào thời đó, ông là con người hạnh phúc và vô lo. Nhưng chuyến đi ngược về quá khứ không kéo dài lâu. Chức vụ và trách nhiệm đã kéo ông trở về với thực tại.
- Cô Harrison? Vừa gọi ông vừa gõ cửa. Mọi chuyện ổn chứ ạ?
Vừa lúc nãy ông đã thử cố gọi cho cô rất nhiều lần nhưng Harrison không nhấc máy. Vì không có tiếng trả lời, ông quyết định sử dụng chiếc chìa khóa vạn năng của mình rồi bước vào căn hộ.
- Cô Harrison?
Russel đi khắp các phòng trước khi quyết định mở cửa nhà tắm. Căn phòng mù mịt hơi nước. Hơi lo lắng, ông kéo tấm rèm che vòi hoa sen và buông lời rủa.
Trong bồn tắm là cơ thể run rẩy của Alyson Harrison, cổ tay và mắt cá bị cứa rất sâu.
Trong phòng ngủ, trên chiếc bàn ngủ là một cuốn sách mà cô còn chưa có thời gian mở ra.
Sống sót, do Connor McCoy viết.
o O o
THÁNG SÁU NĂM 2006
Nautilus là một khách sạn hạng sang nằm ngoài khơi biển Caribê và chìm sâu dưới mực nước biển mười lăm mét. Đây là một trong những địa điểm mới đang rất được ưa chuộng, một nơi dành riêng cho số ít người thuộc giới tinh hoa: những nhà giàu mới nổi, những kẻ đại giàu, các ngôi sao hay các ngôi sao rởm của giới show-biz và thời trang. "Khách sạn dưới đáy biển" nổi bật với những căn phòng trong suốt cho phép chiêm ngưỡng đáy biển với điều kiện du khách không bị chứng sợ chỗ kín.
Lúc này là nửa đêm trong phòng số 33. Hai gã đàn ông ngà ngà say vừa rời phòng vừa trao đổi những lời tục tĩu về cô gái trẻ đang thiếp ngủ trên gi.ường.
Alyson thức dậy vài giờ sau đó. Cô đau đầu và nhanh chóng chạy vào nhà vệ sinh để nôn. Cô lê lết trở lại phòng và đổ sụp xuống đệm. Trên sàn nhà, một chai tequila rỗng không, hai bao cao su, những dấu vết của cocaine...
Alyson khóc.
Cô không thể nhớ thực sự đã xảy ra chuyện gì.
Rất thường xuyên, cô tin mình đã chạm đến tận đáy, chắc rằng mình không thể rơi xuống sâu hơn được nữa.
Nhưng mỗi lần như vậy, điều đó lại tỏ ra là sai.
Bởi đáy sâu hơn rất nhiều, sâu đến mức người ta không thể tưởng tượng được.
o O o
THÁNG MƯỜI MỘT NĂM 2006
Một chiếc cầu trên xa lộ, trong bóng đêm bao trùm Los Angles. Chiếc cầu nhỏ bằng bê tông bắc ngang qua hệ thống đường cao tốc freeways chằng chịt, cách ngã tư hai tầng trên xa lộ vài kilômét.
Alyson dừng xe trên làn đường dừng khẩn cấp. Cô bước qua hàng rào chắn bảo vệ rồi tuyệt vọng nhìn dòng xe ô tô trải dài hai mươi mét phía dưới. Tay nắm lấy hàng rào mắt cáo và gót giày cao gót run run đặt lên lan can mỏng manh bằng bê tông, thành lũy cuối cùng chắn trước khoảng không vô tận.
Cô chưa từng cận kề cái chết đến mức thế này. Đã từ lâu, cô là tù nhân của cuộc sống, của những hành vi và quá khứ của chính mình. Đã quá lâu rồi cô sống trong nỗi sợ hãi từng khoảnh khắc và trong sự chán ghét chính bản thân mình.
Hình như địa ngục chính là khi không còn hy vọng. Vì vậy đêm nay sẽ là dấu chấm hết cho tất cả.
Game over[1].
Đã đến lúc.
Tiếng còi xe cảnh sát hú dài trong đêm. Một chiếc ô tô rồi sau đó là hai xe máy dừng ngang hàng với cô. Bốn người đàn ông nhanh chóng tạo thành hình bán nguyệt cách cô trăm mét. Do họ tiến lại gần, cô kêu lên và bốn người liền đứng im. Họ đứng đó nhưng không thể làm được gì. Nếu muốn, cô có thể nhảy xuống. Giây phút tự do cuối cùng trước vực thẳm. Cảm giác mê đắm vì vẫn còn được lựa chọn.
- Đừng làm như vậy, cô gái!
Tay cớm trẻ nhất lên tiếng. Một gã Đen vừa tròn đôi mươi: dáng vẻ yếu ớt kiểu Otis Redding[2], cùng giọng nói u sầu và bộ ria mép trẻ trung.
- Đôi khi người ta cho rằng đó là giải pháp duy nhất, nhưng không phải vậy...
Giọng anh đầy cảm xúc và chân thành. Người ta có cảm tưởng cái gã trẻ tuổi này thấu đáo điều đó. Cũng phải nói thêm rằng cách đây năm năm, anh đã mất người chị gái sinh đôi. Chị anh đã giam mình trong chiếc xe gia đình, miệng ngậm ống cao su gắn liền với ống xả. Chính anh là người phát hiện ra thi thể của chị khi mở cửa gara. Trước đó không ai phát hiện ra điều gì cả.
- Chẳng còn gì khác nữa đâu, cô gái à! anh vừa trấn an vừa lại gần Alyson. Ngoài cuộc sống ra, chẳng còn thứ gì khác đâu...
Anh nắm lấy tay cô và cô để anh kéo đi.
o O o
NGÀY HÔM NAY
TRÊN MÁY BAY
MƯỜI BA GIỜ
Alyson vừa kết thúc câu chuyện của mình. Cô cụp mắt xuống, vừa kinh ngạc vừa ngượng nghịu khi tin tưởng một người hoàn toàn xa lạ như vậy. Mark đã nghe cô với thái độ chăm chú hiếm thấy. Khi cô kể cho anh nghe, cô cảm thấy mình được che chở, như ở bên trong một quả bong bóng.
Quả thực chỉ cần vài phút là đủ để Mark lấy lại những phản xạ của một bác sĩ tâm lý, vừa ghi chép nhẩm trong đầu vừa thử kết hợp trải nghiệm của Alyson với trải nghiệm của các bệnh nhân mà anh từng điều trị.
Bản thân anh cũng tìm thấy đôi chút thanh thản. Kết nối với con người, lội ngược dòng: đó chính là điều anh luôn yêu thích. Ngăn chặn sự trượt dốc xuống địa ngục của bệnh nhân và giúp đỡ họ dần trở với cuộc sống.
Mark chăm chú quan sát cô gái trẻ. Vào lúc này, anh chỉ có thể đặt cho cô một câu hỏi duy nhất:
- Cô tìm cách tự trừng phạt mình vì lẽ gì?
Alyson đưa mắt nhìn hướng khác và điều gì đó trong cô co rúm lại, chứng tỏ Mark đã đi đúng hướng. Chắc chắn rằng xung năng tự hủy đã bắt rễ đâu đó. Cô mở miệng và, trong một giây, cô thật sự tin mình sẽ thú nhận với anh bí mật đó và rũ bỏ điều tồi tệ đã gặm nhấm cô suốt những năm qua. Nhưng những từ ngữ bị chặn lại ở cổ họng và mắt cô ngấn lệ.
Mark muốn tiếp tục cuộc trao đổi nhưng đúng lúc đó máy bay rung chuyển. Isaac đã đánh đổ ly cocktail đang rót dở. Ai đó kêu lên và ánh đèn nhấp nháy.
Thưa quý khách, chúng ta hiện đang bay qua một vùng xoáy lốc, xin mời mọi người trở về chỗ ngồi của mình và thắt chặt dây an toàn.
Đâu đó có tiếng phản đối của một vài hành khách ở quầy bar, nhưng ai nấy đều răm rắp thực hiện theo.
- Tôi phải đi gặp con gái mình ở tầng dưới, Mark vừa giải thích vừa bật dậy khỏi ghế.
- Tôi hiểu, Alyson đáp lời.
Họ chia tay không nói gì thêm, nhưng vào lúc tạm biệt nhau, người này đọc trong ánh mắt người kia lời hứa sẽ sớm gặp lại nhau.
Chú thích
[1] Trò chơi kết thúc.
[2] Nam danh ca nổi tiếng người Mỹ, mất năm 26 tuổi vì tai nạn máy bay.
 
CHƯƠNG 14 - BÁNH XE CUỘC ĐỜI
Bánh xe cuộc đời quay nhanh đến nỗi không ai có thể đứng thẳng lâu được. Và cuối cùng, nó luôn kết thúc bằng cách quay trở về điểm xuất phát.
Stephen KING
NGÀY HÔM NAY
TRÊN MÁY BAY
MƯỜI BA GIỜ MƯỜI LĂM PHÚT
Chuyến bay 714 chao đảo dữ dội về phía trên biển mây.
Bị nỗi lo lắng giày vò, Mark trở về chỗ ngồi không chậm trễ. Làm sao anh có thể bỏ mặc con gái mà không trông nom đến nó trong hơn nửa giờ cơ chứ? Trong thoáng chốc, anh cảm thấy nỗi hoảng sợ xâm chiếm. Và nếu như anh chỉ thấy một chiếc ghế trống ở chỗ Layla thì sao? Anh hích tay, xô đẩy một vài người để tiến lên nhanh hơn. Và nếu như con gái anh lại biến mất một lần nữa do lỗi của anh thì sao? Khi bước lên hành lang, anh cảm thấy sàn máy bay chao đảo dưới chân mình. Và nếu...
Anh dừng cách ghế của mình mấy mét. Layla không nhúc nhích khỏi vị trí. Chiếc bút màu trong tay, mặt quay sang phía Evie, con bé tự hào khoe bức tranh với cô gái.
- Mọi việc ổn chứ? Mark vừa ngồi xuống vừa lo lắng hỏi.
- Rất tốt, Evie trả lời, kèm theo lời nói là cử chỉ gật đầu.
Bác sĩ Mark nghiêng người để xem bức tranh mà Layla vừa vẽ trong khi anh đi vắng.
- Bố có thể xem được chứ? Vừa hỏi anh vừa vuốt ve mái tóc con gái.
Vẫn luôn im lặng, Layla rút tay khỏi giá vẽ để bố có thể xem những bức vẽ.
Cô bé đã tô màu rất nhiều trang trong quyển tập vẽ. Trong phương pháp chữa bệnh tâm lý của mình, Mark rất nhiều lần sử dụng những bức vẽ để giúp các bệnh nhân trẻ giao tiếp tốt hơn. Ngày trước, anh thật sự có tài trong việc giải mã và phân tích những bức vẽ đó.
Trong khi chăm chú quan sát những bức vẽ của con gái, anh cảm thấy một niềm an ủi thực sự: đó là những bức hình với màu sắc sống động, toàn bươm bướm, ngôi sao và hoa. Mặc dù đã lâu không hành nghề nhưng anh có thể tin chắc rằng những bức màu của Layla không phải là tác phẩm của một đứa trẻ từng chịu chấn thương tâm thần mạnh.
- Rất đẹp, con yêu à, anh khen ngợi con bé.
Khi anh chuẩn bị đặt bức vẽ lên giá vẽ thì một thứ thu hút sự chú ý của anh: một dạng hình học được lặp đi lặp lại qua các trang vẽ mà ban đầu anh cứ tưởng đấy là một bông hoa hay một ngôi sao.
Biểu tượng này tượng trưng cho bánh xe luân hồi. Quy luật của số phận con người mà không có bất kỳ sức mạnh nào có thể thay đổi hướng, quy luật của chuỗi vô tận những khởi đầu: sinh, tử, sinh...
Biểu tượng này anh mới nhìn thấy cách đây không lâu được xăm trên hõm đốt sống lưng của Alyson! Đó cũng chính là hình tròn luôn cuốn hút Connor, hình tròn với tám gọng được xem như chỉ cho con người con đường để giải phóng khỏi nỗi khổ hạn.
- Sao con lại vẽ cái này, con yêu? Anh vừa lo lắng hỏi vừa nhìn thẳng vào mắt con gái.
- Con không biết, cô bé lí nhí trả lời.
Mark sững sờ. Layla vừa trả lời anh! CON BÉ NÓI ĐƯỢC! Liệu anh có nghe rõ hay không hay là đầu óc anh lại chơi khăm anh một vố?
- Con ổn chứ, con yêu? Anh hỏi nhưng đồng thời cũng lo sẽ không nhận được câu trả lời.
- Con hơi buồn ngủ, nhưng ổn ạ.
Mark cảm thấy mình vừa được giải phóng khỏi gánh nặng nhưng đồng thời anh cũng thấy lưỡng lự trước bước tiến triển vừa đạt được. Tuy bị thúc ép bởi hàng nghìn câu hỏi muốn đặt cho con gái, nhưng anh cũng cẩn thận để không dồn ép con bé quá.
- Cái máy bay này to bố nhỉ? Layla vừa nhận xét vừa mỉm cười.
- Ừ, Mark vừa đồng tình vừa cười với con gái, đó là máy bay lớn nhất thế giới.
- Nó bay nhanh chứ?
- Rất nhanh.
- Thế mà chúng ta không cảm thấy như thế! Cô bé vừa nhận xét vừa nghiêng người về phía Evie để ước lượng vận tốc qua cửa sổ máy bay.
- Đúng vậy, Mark thừa nhận. Chúng ta có cảm giác mình đang đứng im phía trên những đám mây, nhưng thực tế chúng ta đang di chuyển rất nhanh, gần một nghìn kilômét một giờ: đó là ảo thị.
- Ẳo thị?
- Nghĩa là đôi khi chúng ta bị vẻ bên ngoài đánh lừa, anh giải thích.
- Vậy hả bố?
Cô bé ra vẻ ngẫm nghĩ trong thoáng chốc về lời khẳng định đó trước khi đổi chủ đề.
- Con có thể ăn kem được không?
- Được chứ. Các tiếp viên hàng không chắc chắn sẽ mang kem cho con khi chúng ta ra khỏi vùng lốc xoáy.
- Con sẽ ăn một cái kem sô cô la với hạn nhân, cô bé nói với vẻ nghiêm túc nhất thế giới.
- Lựa chọn thật tuyệt vời.
- Đó là kem của hãng Häagen Dazs, cô bé giải thích.
- Con chắc chứ?
- Con chắc: con đã nhìn thấy trong tủ kính khi chúng ta đến đây. Và tin con đi, đó không phải là ảo thị đâu.
Layla mỉm cười với anh, tự hào vì phần đối đáp của mình.
Mark cảm thấy như được sống lại. Anh đã tìm lại được đứa con gái vẫn y như trước kia anh từng biết: lanh lợi, tràn đầy sức sống và biết lý lẽ. Lại một lần nữa hy vọng hơi điên rồ rằng mọi việc sẽ lại trở thành như xưa xâm chiếm anh. Nhưng trước hết anh cần phải tìm hiểu nguyên nhân vì sao Nicole lại trốn tránh đột ngột như vậy và nhất là làm sáng tỏ những tình tiết trong vụ bắt giữ Layla. Con gái anh đột nhiên trở nên hay nói. Anh cần phải tận dụng điều đó để hỏi han nhưng không thúc ép con bé quá.
- Con có muốn nói cho bố biết chuyện gì đã xảy đến với con không, con yêu? Anh hỏi bằng một giọng hết sức dịu dàng, đồng thời ngả người về phía con gái.
- Chuyện xảy đến với con khi con còn nhỏ á?
Anh gật đầu.
- Hiện giờ con chẳng có gì phải sợ nữa. Con sẽ gặp lại mẹ, ngôi nhà của con, phòng ngủ của con, trường học của con. Mọi việc sẽ trở lại như cũ, nhưng trước tiên, con phải nói cho bố biết con đã ở đâu trong những năm qua và nhất là... với ai.
Layla mở miệng như thể định trả lời bốp chát, nhưng rồi cô bé thay đổi ý định và dành thời gian suy nghĩ. Cuối cùng khi cô bé quyết định trả lời, đó là một đề xuất:
- Bố hỏi mẹ ấy.
Mark cảm thấy máu trong người anh đông cứng lại.
- Mẹ biết điều gì xảy đến với con à?
Layla ra dấu đồng ý.
- Không, Mark nói, anh nhầm rồi.
- Đó là sự thật, Layla khẳng định, cô bé giận dữ vì lời nói của mình bị nghi ngờ.
- Con chắc chứ?
- Chắc chắn, cô bé quả quyết không chút chần chừ.
Bàng hoàng, vậy nên Mark hỏi tiếp:
- Con gặp lại mẹ kể từ năm năm nay?
- Tất nhiên, con gặp mẹ thường xuyên.
- Sao chứ, con gặp mẹ thường xuyên à?
Layla dịu dàng nhìn bố. Đôi mắt cô bé bừng sáng. Bằng một câu, cô bé đặt dấu chấm hết cho cuộc nói chuyện.
- Bây giờ con muốn ngủ, bố ạ.
Vẫn còn bị sốc, Mark phải mất nhiều giây sau mới từ bỏ.
- Được thôi, con yêu, con nghỉ đi.
Anh bấm nút điều chỉnh độ nghiêng của ghế. Layla nghỉ ngơi, mắt nhắm nghiền và để mặc cho tiếng ro ro của động cơ ru ngủ.
Mark chìm đắm trong vực thẳm rối bời. Lời nói của con bé đáng tin đến đâu? Mặc cho vẻ ngoài bình tâm, nhưng Layla chắc chắn không tránh khỏi bị tổn thương tâm thần sau vụ bắt cóc. Có thể lời nói của con bé có phần nào đúng sự thật, nhưng Mark không tin Nicole có thể, dù cách này hay cách khác, có liên đới đến vụ bắt cóc con gái mình.
Layla ngủ say sưa. Mark dịu dàng ngắm con gái, cho đến khi cuối cùng con bé thở đều đều. Rất dịu dàng, anh vừa vuốt ve mái tóc của Layla vừa tìm kiếm một dấu vết sau tai. Layla thừa hưởng nhiều đường nét của Nicole và ánh mắt của Mark. Ít ra đó cũng là điều mà mọi người thường khẳng định: "Con bé thừa hưởng nụ cười của mẹ và ánh mắt của bố."
Tuy nhiên.
Tuy nhiên Mark biết rằng đó không phải là sự thật. Vì một lý do thật đơn giản, Layla không phải là con gái anh xét về mặt sinh học.
o O o
Khi anh quen biết Nicole, cách đây mười năm, cô vừa mới mang bầu. Đó là kết quả của mối quan hệ với nhạc trưởng người Pháp Daniel Grevin. Sáu mươi tuổi, xuất sắc, có học thức, nổi tiếng và được toàn thế giới biết đến, Grevin có quan hệ ngoài vợ ngoài chồng với các nữ nhạc công chơi nhạc dưới sự chỉ huy của ông ta. Chuyến phiêu lưu tình ái với Nicole chỉ kéo dài vài tuần, và chính nữ nhạc công violon là người chấm dứt mối quan hệ này.
Khi mang bầu, Nicole đã quyết định, hoàn toàn bất ngờ, giữ đứa bé lại mà thậm chí không hề nói cho Grevin biết. Cuộc gặp gỡ Mark đã cuốn phăng tất cả, Mark đã yêu quý và nuôi dạy Layla như chính con đẻ của mình. Chính anh đã đặt tay lên bụng Nicole để cảm nhận những chuyển động đầu tiên của em bé, đã cầm tay Nicole trong khi cô chuyển dạ. Anh đã ở đó khi con bé bắt đầu những hơi thở đầu tiên, những bước đi đầu tiên, những từ ngữ bi bô đầu tiên. Hạnh phúc được làm cha nhanh chóng khiến anh quên đi nguồn gốc thực sự của Layla. Cùng với Nicole, cả hai quyết định giữ kín điều đó cho riêng mình.
Đó là bí mật của họ. Đó là tình yêu của họ. Đó là con gái của họ.
Họ chưa từng nói điều này cho bất kỳ ai. Với Connor cũng không, thậm chí cả những điều tra viên từng phân tích kỹ càng cuộc sống của họ vào thời điểm Layla mất tích cũng không. Grevin đã chết vì một cơn đau tim vào cuối những năm 1990, và cùng với thời gian, bí mật này sẽ phai nhạt dần cho đến khi biến mất hoàn toàn.
Bởi tình yêu dệt nên mối liên kết trong gia đình, chứ không phải dòng máu.
o O o
Ngồi bên cạnh cửa sổ, Evie không bỏ sót một chi tiết nào trong cuộc đối thoại giữa Mark và con gái. Theo bản năng, cô gái trẻ cũng không thể ngăn mình thi thoảng lại đưa mắt nhìn bác sĩ. Tuy không biết gì mấy về câu chuyện của họ, cô nhận thấy sự hoang mang của người đàn ông này và mối quan hệ khăng khít gắn kết anh với con gái. Cô cảm thấy anh mất phương hướng, mệt mỏi vì thử thách, đồng thời cũng đoán rằng có lẽ vài năm trước anh là một người khác bây giờ.
- Cảm ơn cô đã trông con bé, Mark vừa nói với Evie vừa chỉ vào Layla.
- Không có gì.
- Tôi nghĩ là cô đáng được hưởng đôi lời giải thích, anh thừa nhận.
Tò mò, Evie quay sang phía Mark, và bằng vài câu, anh kể cho cô những chi tiết chính trong câu chuyện của mình kể từ khi Layla bị bắt cóc cho đến sự tái xuất hết sức bí hiểm của con bé vào năm năm sau.
- Tôi muốn biết: có phải con gái tôi đã kể cho cô điều gì đó trong khi tôi vắng mặt? Có phải con bé đã nói?
- Một chút...
- Có nghĩa là?
- Thực ra cô bé chỉ hỏi tôi một câu.
- Câu gì?
- Cô bé muốn biết điều gì đã xảy đến với mẹ tôi.
Bị kích thích trí tò mò, Mark khuyến khích Evie nói tiếp:
- Và cô đã trả lời con bé?
 
CHƯƠNG 15 - EVIE - DÒNG HỒI TƯỞNG THỨ HAI
LAS VEGAS, NEVADA
VÀI THÁNG TRƯỚC
Đã gần nửa đêm.
Khu đất cắm trại cũ nay đã phải nhường chỗ cho công trường xây dựng hoàn toàn chìm trong bóng tối. Chỉ còn khoảng chục chiếc xe moóc du lịch vẫn còn bám trụ một cách đơn độc nằm rải rác đây đó.
Chiếc xe lưu động của "gia đình" Harper được chiếu sáng bằng ánh nến. Tối nay Evie không phải làm việc. Nằm dài trên tràng kỷ, cô vừa lật giở tờ tạp chí cũ vừa nghe tiếng nhạc khe khẽ phát ra từ radio. Mẹ cô nằm bên cạnh. Ngay sát cô, chiếc bàn ngủ bằng gỗ ép ngập đầy những viên thuốc. Evie nén một cái ngáp và vào đúng lúc đang sửa soạn đi ngủ thì tiếng chuông kêu vang khắp phòng, đó là tiếng chuông điện thoại cầm tay dùng thẻ trả trước mà cô sử dụng hết sức dè sẻn.
- Alô?
Đó là cuộc gọi đến từ bệnh viện. Bác sĩ Craig Davis, điều phối viên Chương trình ghép gan, thông báo cho cô một tin vui: có một lá gan có thể sử dụng để ghép cho mẹ cô! Cần phải đến ngay lập tức!
Ngồi bật dậy, Evie đã ở ngay đầu gi.ường bà Teresa.
- Mẹ ơi! Dậy thôi mẹ ơi!
Bà Teresa thức giấc một cách khó nhọc. Evie giải thích tình hình cho bà bằng một vài câu rồi giúp bà chuẩn bị. Chưa đầy năm phút sau, hai người phụ nữ đã đứng trước chiếc xe moóc của người hàng xóm gần gũi nhất.
- Là mẹ con cháu đây, Carmina! Chúng cháu cần xe của cô, việc gấp lắm ạ!
Sau khoảnh khắc chờ đợi dường như vô tận, cuối cùng cánh cửa xe cũng mở ra, nhưng thay vì người phụ nữ bạn của hai mẹ con, đó lại là người chồng, Rodrigo, người đón tiếp hai mẹ con bằng một tràng chửi rủa như tát nước vào mặt.
- ¿ Pero qué coño pasa? Esta gente siempre jodién-dome[1] ...
Evie không hề nao núng và hiên ngang đối đáp lại người đàn ông Mexico này: những lời chửi rủa bằng tiếng Tây Ban Nha, cô cũng biết nhiều như ông ta! Sau cuộc trao đổi tử tế đó - Rodrigo - người đang tìm cách thoát khỏi cuộc trao đổi trong chiến thắng - cuối cùng cũng đồng ý chở hai mẹ con. Thế là giờ đây cả bốn người chui vào chiếc Pontiac Firebird xuất xưởng năm 1969, với hàng ghế hỏng và ống xả ra đời trước khi có những chuẩn chống ô nhiễm. Chiếc ô tô chạy ngoằn ngoèo. Nó chực đâm vào vỉa hè hay rào chắn đến mười lần. Mười: cũng bởi vì lượng bia Corona mà Rodrigo đã uống trước khi cầm lái...
May mắn thay, mọi người đã đến bãi đỗ xe của bệnh viện bình yên vô sự. Có những buổi tối mà may mắn luôn ở bên chúng ta như vậy.
Miễn là may mắn đó kéo dài lâu.
o O o
Khi Evie và Teresa vào đến sảnh bệnh viện, bác sĩ Craig Davis đã đích thân đợi để đón mẹ con họ.
- Cần phải làm thật nhanh! Vừa thông báo ông vừa cùng họ bước vào thang máy.
Văn phòng y sinh học chuyên quản lý việc phân phối các cơ quan nội tạng chỉ liên lạc với bệnh viện vào lúc tối muộn. Thực ra tất cả các bắt đầu từ giữa buổi chiều khi một cặp vợ chồng bị tai nạn mô tô trên đường Apple Valley. Cả hai đều đội mũ bảo hiểm và không chạy quá nhanh. Người chồng thoát khỏi vụ tai nạn gần như không một vết trầy xước. Người vợ thì không thể chữa khỏi: chấn thương sọ não. Bộ phận cứu hộ đã vận chuyển người vợ với sự hỗ trợ của các biện pháp hồi sức đến bệnh viện San Bernardino, nơi mà mọi thứ đều được sử dụng để cứu sống cô. Nhưng tất cả đã quá muộn. Mặc dù chuẩn đoán não bộ đã chết nhanh chóng được xác lập, nhưng cần nhiều thời gian để thuyết phục gia đình hiến nội tạng. Con người luôn muốn tin vào phép màu. Một bác sĩ nội trú đã tìm mọi cách giải thích cho người chồng hiểu rằng, trong tình trạng não chết, tất cả mọi chức năng thần kinh đều bị hủy hoại. Người chồng nghe những lời của anh chàng bác sĩ mà không hiểu anh ta nói gì. Anh nắm bàn tay vợ trong tay mình. Cô vẫn thở, ngay cả khi đó chỉ là theo phương pháp nhân tạo. Làn da cô vẫn còn ấm và người ta còn nghe thấy nhịp tim cô đập. Tuy vậy, sự sống không còn nữa. Chỉ là ảo tưởng rằng còn sự sống.
Cuối cùng người chồng cũng nhượng bộ vào lúc trước hai mươi mốt giờ một chút, khi anh ta hiểu rằng cách duy nhất kéo dài cuộc sống của vợ chỉ có thể là làm thế nào đó để cô sống qua người khác. Ngay lập tức, các nhân viên y tế liền lấy tim, phổi, tuyến tụy, ruột rồi chuyển chúng đến những địa điểm nhận khác nhau: Los Angeles, San Diego, Santa Barbara...
Còn lá gan được bảo quản trong hộp làm bằng thép, ngâm trong nước đá sao cho những viên đá được nghiền nhỏ giữ nhiệt độ tốt nhất. Hộp đông lạnh được vận chuyển bằng máy bay lên thẳng đến tận Las Vegas. Teresa nằm ở ngay đầu danh sách đợi ghép gan. Lá gan ghép này bà đã đợi được hơn hai mươi tư tháng rồi. Việc thiếu nội tạng để ghép cũng như nhóm máu đặc thù của bà đã trì hoãn một cách quá đáng thời gian chờ đợi. Chỉ còn một hoặc hai tháng nữa là căn bệnh sẽ giết chết bà.
- Một phòng mổ vừa mới trống, Craig Davis giải thích. Chúng tôi sẽ có thể phẫu thuật cho bà trong vòng một giờ nữa. Đúng bằng thời gian làm xét nghiệm sinh học.
- Tôi muốn con gái mình đi cùng, Teresa yêu cầu.
- Cô ấy có thể ở lại với bà cho đến khi người ta chuyển bà xuống phòng mổ, bác sĩ vừa ưng thuận vừa dẫn nữ bệnh nhân vào một căn phòng riêng.
Sau đó, tất cả diễn ra theo trình tự: một y tá lấy mẫu máu, gặp gỡ bác sĩ gây mê - người đã đảm bảo với bà "Bà sẽ thấy mình như mới thôi" - tắm vòi hoa sen nhẹ nhàng bằng chất Bétadin và rồi chờ đợi.
Trong vài phút, Evie ngỡ mình ở trên mây. Nỗi lo sợ mất mẹ khiến cô đau thắt bụng từ nhiều năm nay giờ đang dần dần dịu đi. Cô cảm thấy thực sự có điều gì đó nhẹ nhõm trong mình. Tối nay, cô muốn tin rằng mọi việc sẽ diễn ra tốt đẹp.
Ca ghép này, cô luôn tin tưởng vào nó. Từ nhiều tháng nay, cô chú tâm đọc các trao đổi trên diễn đàn và các trang web để hiểu bản chất chính xác căn bệnh của mẹ cô. Cô biết rằng cuộc phẫu thuật này là cơ hội chữa trị cuối cùng. Dĩ nhiên là ca ghép không làm "biến mất" một cách thần kỳ bệnh viêm gan, dĩ nhiên là vẫn có nguy cơ virus xâm nhập làm chỗ ghép nhiễm khuẩn, nhưng số liệu thống kê những ca sống sót trong một thời gian dài rất cao.
Những tuần vừa qua, Evie thường đến một nhà thờ ở Riverside.
Âm thầm đến.
Lần đầu tiên kể từ lâu lắm rồi, cô cầu nguyện.
Sẽ phải làm gì khi không còn lối thoát nào nữa?
Lúc còn nhỏ, cô tìm thấy niềm an ủi khi tin rằng thần bản mệnh luôn phù hộ cho mình. Rồi khi bước vào tuổi trưởng thành, cô không còn tin bất cứ thứ gì nữa. Không tin vào các vị thần, không tin vào Chúa trời, không tin vào Nghiệp quả.
Cách đây ít lâu, cô lại một lần nữa tự đặt cho mình nhiều câu hỏi.
Rất thường xuyên, cô có cảm giác rằng định mệnh lạ thường luôn đeo đuổi cô, như thể quá khứ và tương lai của cô từng được ghi đâu đó trong cuốn sổ Nam Tào...
o O o
Một tiếng đồng hồ đã trôi qua kể từ chuyến viếng thăm của bác sĩ gây mê.
Rồi một tiếng mười lăm phút.
Tại sao lại quá lâu như vậy?
Một lần nữa Evie lại cảm thấy bụng mình đau thắt. Cơn đau ấy chỉ ngưng nghỉ trong một thời gian ngắn. Cuối cùng khi bác sĩ Davis cùng người y tá cũng quay trở lại phòng, theo bản năng, cô gái trẻ cảm thấy có tin không tốt lành.
- Chúng tôi đã có kết quả xét nghiệm, Teresa, ông ta nói với vẻ bực mình.
Evie rụng rời nhìn vị bác sĩ đang phe phẩy tờ giấy trước mặt mẹ mình.
- Bà đã uống rượu vừa mới đây không lâu! Davis bực dọc. Mặc dù bà biết rằng điều đó khiến thỏa thuận của chúng ta vô hiệu!
Trong giây lát, câu nói dường như trôi lơ lửng trong không gian. Phi thực.
Nghẹt thở, Evie quay về phía mẹ.
- Tôi không hề uống bất cứ cái gì cả, bác sĩ! Sửng sốt, Teresa cam đoan.
- Chúng tôi đã kiểm tra trên hai mẫu khác nhau. Và mỗi lần đều cho kết quả dương tính. Bà đã không tôn trọng thỏa thuận, Teresa: ít nhất là sáu tháng cai rượu nghiêm ngặt trước khi tiến hành ghép gan. Chính bà đã cam kết như vậy.
- Tôi không uống gì hết, Teresa một lần nữa cãi lại.
Nhưng tay bác sĩ không nghe bà nói nữa.
- Gọi ngay cho người kế tiếp trong danh sách, ông ta yêu cầu y tá. Không thể để lãng phí miếng ghép được!
- Tôi không phải là kẻ nói dối, Teresa thét lên.
Lần này, bà không nhìn Craig Davis nữa mà nhìn Evie. Chính con gái bà là người bà đang tìm cách thuyết phục. Bà biết rằng cuộc chiến với tay bác sĩ đã thất bại từ trước rồi. Vả lại bà cũng chưa bao giờ tin vào chuyện ghép nội tạng này. Bà cảm thấy mình sẽ sớm chết trong nay mai, nhưng bà muốn giữ niềm tin của Evie.
- Mẹ thề với con là mẹ không hề uống lại, con yêu, vừa nói bà vừa bật dậy khỏi gi.ường.
Bực mình, Evie lùi hai bước.
- Câu nói này mẹ đã lặp đi lặp lại cả trăm lần kể từ khi con ba tuổi, mẹ...
- Con nói đúng, nhưng lần này...
- Con không còn tin mẹ nữa.
- Nhưng lần này là thật.
- Tại sao mẹ lại làm hỏng mọi chuyện như vậy, mẹ? cô hỏi, nước mắt lưng tròng.
- Con yêu... Teresa vừa mở lời vừa chìa tay ra.
Nhưng Evie tàn nhẫn hất tay bà ra.
- CON GHÉT MẸ! Evie vừa chạy vừa kêu lên.
o O o
NGÀY HÔM NAY
TRÊN MÁY BAY
MƯỜI BA GIỜ BỐN MƯƠI LĂM PHÚT
- CON GHÉT MẸ! Evie kết thúc. Đó là những từ cuối cùng tôi nói với mẹ.
- Cô không gặp lại bà ấy nữa à?Mark hỏi.
- Không. Không bao giờ.
Bác sĩ Mark trở nên im lặng trong vài giây, câu chuyện của cô gái trẻ khiến anh cảm thấy xúc động sâu sắc. Sau thời kỳ tạm lắng ngắn ngủi, máy bay giờ đây lại rơi vào vùng xoáy lốc mới. Bị chao đảo bởi những sức mạnh vô hình, gã khổng lồ của không trung tạo cảm giác gã đã bị nhiễm lạnh và răng va vào nhau lập cập.
- Thế rồi sau đó? Mark tiếp tục sau một lúc.
- Sau đó, bà ấy mất.
Chú thích
[1] Tiếng Tây Ban Nha trong nguyên bản: Còn chuyện quái gì nữa đây? Các người chẳng bao giờ ngừng làm phiền chúng tôi có phải không?
 
CHƯƠNG 16 - EVIE - DÒNG HỒI TƯỞNG THỨ BA
LAS VEGAS, NEVADA
Nghĩa trang Mountain View đầm mình dưới làn mưa gió.
Người ta vừa mới dắp đất lên quan tài của Teresa Harper. Vị linh mục đã ra về từ lâu và nghĩa trang gần như không một bóng người. Xung quanh ngôi huyệt vừa đắp chỉ còn Evie và Carmina xúc động đứng trầm tư.
Một tia chớp rạch ngang bầu trời và ngay sau đó là tiếng sấm rền.
- Cô đợi cháu trong ô tô nhé, Carmina lên tiếng đề nghị khi cơn mưa ngày một nặng hạt hơn.
Chỉ còn lại một mình, Evie quỳ sụp xuống trước nấm mồ và lau hàng nước mắt đang lã chã tuôn rơi trên đôi má gầy gò. Cô đã không gặp lại mẹ kể từ cuộc cãi vã giữa họ ở bệnh viện cách đây hai tháng. Không được ghép gan, Teresa cuối cùng cũng chỉ sống được thêm vài tuần. Dĩ nhiên là chính căn bệnh ung thư, rượu và ma túy cũng như cách bà tiêu hủy cuộc sống hơn là hưởng thụ nó đã giết chết bà. Nhưng vào giây phút này, Evie không thể tự ngăn mình để mặc cảm giác tội lỗi xâm chiếm. Cuối cùng khi cô cũng quyết định ra bãi để xe, quần áo cô đã ướt sũng; người cô run lập cập và rùng mình từ đầu đến chân.
Trú mình dưới tán ô, một phụ nữ nãy giờ quan sát Evie tiến lại gần. Cô ta quan sát đám tang từ xa mà không dám tham dự. Chiếc áo đi mưa màu xám, bộ quần áo cắt may cùng mái tóc mới uốn mang lại cho cô một vẻ ngoài sang trọng dù cho cô ta có vẻ ốm yếu. Cô mở thùng xe màu xám sẫm để lấy một chiếc khăn tắm bông xốp rồi đưa cho Evie khi cô lại gần.
- Cô lau khô người đi, nếu không cô sẽ ốm chết đấy, cô ta đưa ra lời khuyên bằng một giọng hơi pha trộn âm sắc Ý.
Ngạc nhiên, Evie nhận lấy chiếc khăn sạch và trú mình dưới tán ô rộng. Vừa lau mặt, cô vừa quan sát tỉ mỉ người đối thoại với mình và kết luận rằng cô ta quá sang trọng để có thể là một người bạn của mẹ mình.
- Tôi là Meredith DeLeon... người phụ nữ trước mặt Evie giải thích.
Cô ta dường như do dự vài giây trước khi kết thúc câu:
- ... chính tôi đã giết chết mẹ cô.
o O o
- Cách đây một năm, người ta chẩn đoán tôi bị ung thư gan, Meredith bắt đầu.
Hai người phụ nữ ngồi đối diện nhau tại quán Heaven Café nằm bên đường dẫn đến nghĩa trang. Hai tách trà nóng bốc khói nghi ngút trước mặt họ.
- Căn bệnh đã đến giai đoạn phát triển rất nhanh và rõ ràng là chỉ có ghép gan mới có thể cứu sống tôi. Bất hạnh thay tôi lại thuộc nhóm máu O, vì thế mà thời gian chờ đợi là vô cùng dài.
- Cùng nhóm máu với mẹ tôi, Evie nhận xét.
Meredith gật đầu trước khi tiếp tục:
- Cách đây hai tháng, vào chập tối, bác sĩ Craig Davis đã gọi đến nhà chúng tôi. Cùng với Paul, chồng tôi, chúng tôi đã gặp nhau nhiều lần khi tôi đến bệnh viện khám bệnh. Ông ta nói rằng có một miếng ghép thích hợp có thể sử dụng được, nhưng có một vấn đề.
- Một vấn đề?
- Vấn đề chính là mẹ cô: bà ấy ở ngay trước tôi trong danh sách nhận nội tạng...
Evie đột nhiên thấy cơn rùng mình lạnh buốt chạy suốt cơ thể, thậm chí điều gì đó trong đầu vẫn còn ngăn trở không cho cô đối diện với sự ghê tởm của tình hình.
- Craig Davis đã làm chúng tôi hiểu rõ rằng nếu chúng tôi chuẩn bị sẵn một "nỗ lực tài chính", ông ta sẽ xoay xở để loại mẹ cô ra khỏi danh sách nhận.
Sững sờ vì kinh ngạc, cuối cùng Evie cũng hiểu ra: họ đã thay đổi những phân tích mẫu máu của Teresa để làm người khác tin rằng bà vẫn thường uống rượu.
Trong đầu cô, dường như cô vẫn còn nghe thấy rõ từng lời năn nỉ của mẹ khi bà tự bào chữa:
TÔI KHÔNG PHẲI LÀ KẺ NÓI DỐI!
MẸ THỀ VỚI CON LÀ MẸ KHÔNG HỀ UỐNG LẠI, CON YÊU.
Không, mẹ cô không nói dối, tuy vậy chẳng một giây phút nào Evie tin những lời mẹ nói...
Đến lượt mình, khuôn mặt Meredith cũng biến đổi, nhưng cô quyết định đi đến tận cùng con đường cứu rỗi:
- Ban đầu tôi đã từ chối: tôi thấy việc làm này thật ghê tởm. Nhưng tôi đã chờ đợi quá lâu rồi và miếng ghép ngày càng trở nên vô cùng hiếm... Vậy nên cuối cùng tôi đã chấp nhận. Vào thời kỳ bệnh này, tôi buộc phải nằm liệt gi.ường và đau đến đờ người, gần như là chết hơn là sống. Paul kiếm được khá nhiều tiền. Sau khi thương lượng, Davis và Paul thống nhất một khoản tiền hai trăm nghìn đô la, nhưng từ đầu chí cuối, Paul để tôi được tự quyết định và đó là quyền lựa chọn mà tôi không muốn trao cho ai.
Trong thoáng chốc, Meredith như chìm đắm vào dòng suy nghĩ của mình, như thể cô ta đang sống lại những thời điểm kinh khủng đó.
- Tôi rất muốn nói với cô là tôi làm điều đó vì các con tôi, cô ta thổ lộ, nhưng đó không phải là sự thật. Tôi làm điều đó vì tôi sợ chết, tất cả chỉ có thế.
Meredith thẳng thắn nói ra điều đó. Lời tự thú này cô đã giữ trong lòng kể từ khi được tiến hành phẫu thuật.
- Cuộc sống đôi khi đặt ta vào những tình huống mà ta chỉ có thể thoát ra bằng cách từ bỏ những giá trị ta hằng bảo vệ, cô ta buông lời nhận xét như dành cho chính bản thân mình.
Evie khép mắt lại. Một giọt nước mắt lăn dài trên má nhưng cô không tìm cách lau đi.
Meredith tiếp lời một lần sau chót để nhấn mạnh:
- Nếu cô muốn đến cảnh sát, tôi sẽ lặp lại chính xác những gì tôi đã nói với cô và tôi sẽ tự chịu trách nhiệm. Bây giờ quyền quyết định thuộc về cô.
Evie đứng dậy rồi rời khỏi bàn:
- Hãy làm những gì cô cho là đúng, Evie khuyên trước khi rời quán cà phê.
o O o
Chiếc Pontiac cũ rích của Carmina dừng lại trước trạm xe buýt. Evie đóng sập cửa bên rồi lấy từ trong cốp xe ra một va li nhỏ cùng chiếc ba lô. Xe buýt Greyhound đi New York sắp sửa khởi hành. Sau khi bán hết những món đồ đạc còm cõi của mẹ mình, Evie hầu như chỉ thu được hơn hai trăm đô la và đã chi hết để mua vé một chiều lượt đi đến Manhattan. Đó là nơi mà Craig Davis làm việc từ nay về sau. Ban đầu Evie đã tìm ông ta ở khắp Las Vegas nhưng tay bác sĩ gian xảo hẳn đã rời khỏi California đến bờ biển Đông, ngay sau cái chết của mẹ cô.
- Cháu có chắc là cháu muốn đi không? Carmina hỏi trong khi đi cùng Evie đến điểm dừng xe buýt.
- Chắc chắn.
Trong đời mình, người phụ nữ to béo gốc Mexico này luôn không tin vào tình cảm. Bà nuôi dạy đàn con một cách cứng rắn và kiên trì tự xây dựng lớp vỏ bảo vệ để không động lòng trước bất kỳ hoàn cảnh nào.
- Cháu hãy bảo trọng, vừa nói bà vừa vỗ nhẹ lên má cô gái trẻ, một cử chỉ đối với bà là dấu hiệu thể hiện tình cảm không thể chối cãi được.
- Vâng ạ, Evie vừa trả lời vừa trèo lên xe buýt.
Cả hai người phụ nữ đều biết chắc rằng họ sẽ không bao giờ gặp lại nhau nữa. Carmina đưa hành lý cho Evie và gửi đến cô cái vẫy tay cuối cùng. Evie chỉ phát hiện ra sau đó ít lâu ba trăm đô la mà người phụ nữ Mexico vừa thả vào trong ba lô của cô.
o O o
Rốt cuộc, chuyến xe khách cũng chuyển bánh.
Ngồi trên ghế, Evie tựa đầu vào thành cửa sổ. Đây là lần đầu tiên cô rời Las Vegas.
Trong vài tiếng nữa, cô sẽ có mặt ở New York.
Sau đó cô sẽ làm điều cô cho là đúng.
Cô sẽ giết Craig Davis.
 
CHƯƠNG 17 - LOSING MY RELIGION[1]
Đôi khi tương lai hiện hữu trong ta mà ta không hề hay biết, và những lời tưởng là dối trá lại miêu tả một thực tế sắp xảy ra.
Marcel PROUST
NGÀY HÔM NAY
TRÊN MÁY BAY
MƯỜI BỐN GIỜ
- Thế rồi chuyện gì xảy ra sau đó?
Tín hiệu âm thanh vừa vang lên báo hiệu máy bay đã ra khỏi vùng xoáy lốc và cùng lúc giải thoát Evie khỏi trạng thái nhập hồn mà câu chuyện đã khiến cô đắm chìm trong đó.
- Chuyện gì đã xảy ra ở New York? Mark nài tiếp. Cô có tìm thấy kẻ đã sát hại mẹ mình không?
- Tôi...
Cô gái trẻ ngừng lời. Ngạc nhiên vì đã xưng tội đến ngần ấy, giờ đây cô lưỡng lự không biết có nên thổ lộ tâm tình tiếp hay không. Cô chỉ biết người đàn ông này cách đây vài tiếng đồng hồ. Sao cô có thể kể cho anh ta nghe những bí mật sâu kín nhất của mình, bởi cô, theo thói quen, đâu có tin tưởng bất kỳ ai? Bởi ánh mắt của anh ta, sự hiện diện của anh ta và sự lắng nghe của anh ta, tất cả ở anh ta dường như toát lên một vẻ hấp dẫn khiến cô thấy xáo động. Đột nhiên cảm thấy nguy hiểm, cô tìm cách chạy trốn khỏi ảnh hưởng của anh.
- Tôi phải đi vệ sinh, cô viện cớ.
Thế là Mark hiểu rằng mình đã "mất liên lạc" với Evie. Anh đứng dậy để cô gái có thể rời chỗ của mình và tiếc nuối nhìn cô đi xa dần.
Câu chuyện của cô khiến anh xúc động và bị xáo trộn, đột nhiên đưa anh trở về thời thơ ấu của mình và cả của Connor.
Anh đưa mắt nhìn con gái một lần nữa. Được ru ngủ trong tiếng ồn của bốn động cơ, con bé đang say giấc nồng, đầu nghiêng về phía ánh sáng cửa sổ.
Máy bay đã ổn định trở lại. Tín hiệu đèn xanh được bật lên, báo hiệu cho hành khách từ giờ có thể tự do đi lại. Một rơ le GSM được gắn vào khoang người ngồi cho phép hành khách có thể nhận và thực hiện cuộc gọi. Mark ngạc nhiên khi thấy một nửa số hành khách hối hả lấy điện thoại để điên cuồng bấm số tin nhắn. Anh buông tiếng thở dài. Trong vòng ba năm, lĩnh vực viễn thông hiển nhiên đã phát triển một bước dài. Rất nhanh chóng, người ta thường trực gắn chiếc tai nghe bên tai để có thể tiếp tục nói chuyện điện thoại trong giấc ngủ, trong những giấc mơ, trong khi làm tình... Người ta chưa bao giờ được giao tiếp nhiều đến thế, nhưng người ta cũng chưa bao giờ lắng nghe nhau ít đến thế. Trong khi càu nhàu phê phán thời đại, Mark chợt nhận ra mình đang cầm chiếc điện thoại của Nicole. Anh lôi điện thoại từ trong túi áo vest ra và - con người không thoát khỏi nghịch lý liền kề - thực hiện chính xác những gì anh vừa chê trách người khác cách đây vài giây trước. Anh không có tin nhắn, nhưng rất nhiều "cuộc gọi nhỡ" đều do cùng một số mà anh không biết gọi đến. Kể từ khi khởi hành, anh đã thử nhiều lần bắt liên lạc với vợ ở New York. Không thành công. Hẳn là Nicole không trở về nhà và anh không biết cô đang ở đâu.
Tuy vậy anh vẫn thử gọi số hiển thị trên máy.
Một hồi chuông, hai hồi chuông. Sau đó là tiếng máy trả lời tự động:
Xin chào, bạn đang gọi đến số máy của...
Thông điệp đột ngột dừng lại không để thời gian cho Mark xác định người chủ thuê bao.
- Mark à?
Anh lập tức nhận ra giọng của vợ.
- Nicole à? Anh đây.
- Anh ổn chứ?
- Nhưng em đang ở đâu? Anh lo đến phát điên lên đây.
- Em... em không thể nói lâu với anh được, anh yêu.
Mark nhận ra sự căng thẳng tột độ và hết sức lo lắng trong giọng nói của vợ mình. Và bất chấp cơn giận của chính mình, phản xạ đầu tiên của anh là trấn an cô về tình hình sức khỏe của con gái họ.
- Anh đang ngồi bên Layla! Con bé vẫn khỏe! Con bé đã nói chuyện với anh!
Nghe thấy tên mình, Layla choàng mở mắt và vừa ngáp vừa dụi mắt.
- Con muốn chào mẹ không? Mark vừa đề nghị vừa đưa điện thoại cho con gái.
- Không, Layla trả lời.
Ngạc nhiên, Mark cố nài:
- Con yêu, nói vài lời với mẹ, điều đó sẽ khiến mẹ vui lòng...
- KHÔNG! con bé nhắc lại với giọng quả quyết, đồng thời đẩy điện thoại ra xa.
Ngây dại, Mark nhìn chằm chằm con gái trong vài giây, cho đến khi Nicole nói với anh:
- Nghe này, Mark, em phải gác máy đây.
Nhưng Mark không nghe cô nói.
- Đợi đã! Tại sao con bé không muốn nói chuyện với em?
- Em biết chuyện xảy đến với Layla, Nicole thú nhận.
Lời thú tội vang lên như tiếng nổ bên tai.
- Em nói gì cơ? Mark nghẹt thở.
Một cảm xúc pha trộn giữa cơn thịnh nộ và nỗi thất vọng khiến anh đột nhiên nắm chặt tay lại.
- Em biết là con còn sống?
- Em rất lấy làm tiếc, Nicole xin lỗi.
- Nhưng chuyện quái gì đã xảy ra vậy, mẹ kiếp? Cuối cùng em cũng nói sự thật cho anh chứ?
- Anh không được giận em nhé.
- Anh suýt chết vì đau khổ! Anh bùng nổ. Trong mấy năm qua, em đã thấy anh trượt dốc! Em đã nhìn anh buông xuôi trong khi em biết rằng con bé còn sống?
- Không phải như anh nghĩ đâu, Mark. Em..
"GIỜ ĐỦ RỒI ĐẤY."
Phía sau bỗng một giọng nam giới cắt ngang lời vợ anh.
- Ai vậy? Mark hỏi.
- Chuyện phức tạp lắm. Em...
"GÁC MÁY NGAY, NICOLE!" giọng nói ra lệnh.
- Em đang ở với ai vậy? Mark hét lên.
- Không phải như anh nghĩ đâu, cô nhắc lại.
"GÁC MÁY NGAY, HOẶC CÔ SẼ LÀM HỎNG MỌI CHUYỆN!"
- Em yêu anh, cô nói thành thực.
Và tất cả chỉ có thế.
o O o
Bất động, ánh mắt lạc trong hư không, Mark khó khăn lắm mới trụ vững được. Mười phút đã trôi qua kể từ cuộc trao đổi ngắn ngủi với Nicole. Anh đã gọi lại số điện thoại đó nhưng lần này cuộc gọi của anh thậm chí còn không khởi động cả máy trả lời tự động. Vợ anh đã nói dối anh về con gái họ: một lời nói dối khủng khiếp; còn tồi tệ hơn cả sự lừa lọc; tồi tệ hơn tất thảy. Lần đầu tiên, một mối ngờ vực tai hại hiện hữu trong tâm trí anh. Liệu anh có thực sự hiểu người phụ nữ mà anh đã kết hôn? Từ hôm qua đến giờ anh chất chứa trong mình bao câu hỏi mà không có lời giải đáp.
Hết người này đến người khác, tay phóng viên mà anh đã từ chối trả lời ở sân bay rồi con gái anh dường như cũng đề phòng Nicole, nhưng anh đã không quan tâm đến những lời nhận xét của họ.
Từ giờ anh không biết phải làm gì. Anh cảm thấy trong tâm trí, trong tim, trong cơ thể mình một sự xáo trộn cả về tình cảm lẫn thể xác. Bốn mươi tám tiếng trước đây, anh vẫn còn sống ngoài đường phố, nhớn nhác đi loăng quẳng trong hệ thống cống ngầm của thành phố và chỉ sống nhờ vào rượu.
Vô cùng vui mừng khi tìm thấy lại Layla, anh có ý định thoát khỏi tình trạng đó một mình. Anh đã chiến thắng cơn nghiện trong chốc lát và kiềm chế những tác động của chứng sảng run, nhưng thế giới của anh, lại một lần nữa, mới sụp đổ và chiến thắng mong manh của anh không đủ khả năng kháng cự lại cú đòn mới của số phận.
Bối rối, anh nhìn chằm chằm đôi tay đang bắt đầu run. Người anh toát mồ hôi đầm đìa, anh nghẹt thở, anh cần phải hoạt động.
Trong khi đột ngột đứng dậy, ánh mắt anh dồn về phía con gái vừa mới ngủ lại được. Hơi thở con bé nhẹ nhàng và bình yên, khuôn mặt chìm trong làn ánh sáng của mặt trời. Chỉ điều đó thôi cũng đủ khiến anh dịu lại. Anh hiểu rằng chỉ mình con bé mới có thể cứu được anh. Anh cần con bé cũng như con bé cần anh. Chừng nào anh còn ở bên con bé, anh sẽ bảo vệ con bé và, theo một cách nào đó, con bé cũng làm điều tương tự cho anh.
o O o
Evie cúi mình xuống lavabo trong nhà vệ sinh rồi nôn hết bữa sáng còm cõi mà cô vừa ăn cách đây vài tiếng đồng hồ. Ngay từ sáng, cô đã thấy nôn nao và cảm giác đó càng lúc càng tăng trong suốt chuyến đi. Vả lại, trong thời gian qua, những phiền hà về mặt sức khỏe ngày càng tăng lên: chóng mặt, đau đầu, ù tai... Đấy là chưa kể đến sự nhạy cảm này ngày một tăng lên cuối cùng khiến cô trở nên mỏng manh dễ bị tổn thương hơn.
Cô đứng dậy, lau miệng rồi té chút nước lên mặt. Nhìn trong gương, cô thấy một khuôn mặt thảm hại. Một nỗi đau ám ảnh vạch hằn trên trán và cô cảm thấy máu chảy rần rật bên thái dương. Bầu không khí tù túng và ngột ngạt của căn phòng nhỏ khiến cô cảm thấy sợ chỗ kín. Cô cần phải nhanh chóng rời khỏi đây nếu không cô có nguy cơ bị ngất. Trong đầu cô, hàng chục hình ảnh đan xen trong chớp nhoáng. Những kỷ niệm, nỗi sợ hãi, những khoảnh khắc vui sướng, vụt tan biến. Trong thoáng chốc, cô thậm chí còn nghe thấy những lời thì thầm.
Cô định rời khỏi chỗ này thì chợt cảm thấy ngứa ran ở vai khiến cô phải gãi qua làn áo phông. Không những không đỡ đi mà cử chỉ đó lại càng làm tăng thêm cảm giác nhoi nhói, rồi nhanh chóng chuyển thành đau. Gần như vô thức, cô gãi đến bật máu, rồi đột nhiên hoảng hốt vì cảm giác mới lạ này. Khi kéo ống tay áo xuống, cô nhận thấy một dấu hiệu màu tím xuất hiện phía sau vai trái.
Khi đó cô vặn nghiêng mình để nhìn trong gương hình thù kỳ lạ được xăm trên da:
Chú thích
[1] Tên một bài hát nổi tiếng của nhóm nhạc rock Mỹ R.E.M, bài hát đã được dịch ra tiếng Việt mang tên "Niềm tin đã mất".
 
CHƯƠNG 18 - SỐNG SÓT
Đúng là có những kỷ niệm, nhưng ai đó đã điện khí hóa và kết nối chúng với lông mi của chúng ta, ngay khi ta nghĩ rằng mắt mình đang cay.
Mathias MALZIEU
NGÀY HÔM NAY
TRÊN MÁY BAY
MƯỜI BỐN GIỜ MƯỜI LĂM PHÚT
Ở độ cao trên mười hai nghìn mét, chuyến bay 714 vẫn thẳng hướng đến New York, lướt nhanh như con chim khổng lồ trên những đồng bằng rộng lớn.
Evie khép cửa nhà vệ sinh, kinh hãi bởi những gì vừa trải qua. Mồ hôi đọng lại thành giọt trên trán cô; ngực phập phồng, những cơn lạnh run chạy dọc cơ thể. Ai đã xăm, mà cô không hề biết, cái dấu hiệu chết tiệt này trên vai cô, cái dấu hiệu giống những bức vẽ của đứa bé gái ngồi ngay cạnh cô đến lạ kỳ?
Cô lảo đảo bước lên cầu thang và khó nhọc lắm mới mở được một lối đi giữa các tiếp viên đang phân phát đĩa thức ăn và những hành khách đang tự làm cho chân hết cóng để tránh chứng viêm tĩnh mạch và chứng nghẽn mạch phổi, "hội chứng mới của hạng phổ thông" mà các phương tiện truyền thông từng nói mãi trong các phóng sự.
Đến trước dãy ghế của mình, Evie vừa vào chỗ ngồi vừa cố hết sức không đánh thức Layla dậy. Cô cám ơn Mark đã tử tế lấy hộ cho cô một phần ăn.
- Cô không ổn à? anh hỏi khi nhìn thấy khuôn mặt biến sắc của cô.
- Không, chỉ là do mệt thôi, cô cam đoan nhưng cũng biết rõ rằng mình không đánh lừa được ai.
- Nếu tôi có thể làm được gì...
- Anh có thể đưa tôi cái ba lô.
Mark mở ngăn kéo để đồ nằm dưới ghế của cô. Dây khóa sáng lấp lánh kéo không hết và, khi anh nhấc chiếc ba lô lên, một quyển sách thò ra rồi rơi xuống đất.
Mark cúi xuống nhặt. Đó là một cuốn sách bìa mềm với bìa sách cũ sờn, và trang giấy quăn mép chắc do được đọc đi đọc lại nhiều lần. Tò mò, anh không thể ngăn mình liếc nhìn tựa đề:
Sống sót
Do Connor McCoy viết
Anh phác một cử chỉ ngạc nhiên. Cách đây vài năm, Connor đã viết cuốn sách này nhằm xua đuổi con quỷ của quá khứ. Đó là một tác phẩm chiết trung vừa như một cuốn tiểu luận tâm lý vừa giống một cuốn sổ kỷ niệm thời thơ ấu. Xuất phát từ kinh nghiệm bản thân cũng như những buổi trị liệu ấn tượng nhất mà anh đã chủ trì, Connor mở ra cho người đọc đường hướng để chiến thắng nỗi sợ hãi của họ, hiểu được những lo sợ và kháng cự khổ đau. Được xuất bản tại một nhà xuất bản nhỏ và vượt ra khỏi mọi tiêu chuẩn về khổ sách, cuốn sách không nhận được nhiều ưu ái khi phát hành cũng như những bài viết trên báo chí. Tuy nhiên nhờ người nọ rỉ tai người kia, cuối cùng cuốn sách cũng đến được với độc giả và cho đến nay đã có một lượng tín đồ đông đảo và nhiệt tâm.
Mark lật ngược cuốn sách. Trong bức ảnh ở bìa bốn, Connor nở một nụ cười u sầu kỳ cục mà anh biết quá rõ. Cuộc gặp gỡ không hề chuẩn bị trước với hình ảnh người bạn thân này đã làm nảy sinh một tình cảm hiện hữu trong Mark. Cả hai đã từng vô cùng thân thiết với nhau. Trước khi anh trượt dốc xuống địa ngục, họ chia sẻ cùng nhau mọi thứ. Tại sao anh không gọi cho Connor để thông báo tin tức về Layla? Tại sao anh không nghĩ đến điều đó cơ chứ?
- Đó là cuốn sách mà tôi thích nhất, Evie giải thích. Anh từng đọc nó rồi à?
- Nó do người bạn thân nhất của tôi viết ra, Mark vừa đưa trả cuốn sách vừa thừa nhận.
- Bạn thân nhất của anh? Chính là anh, người tên Mark mà tác giả thường xuyên nhắc đến?
- Đúng, chúng tôi đã lớn lên cùng nhau, trong cùng một khu phố ở Chicago.
- Tôi biết.
- Tại sao cô lại nói đó là cuốn sách cô thích nhất? Mark muốn biết.
- Bởi nó đã giúp tôi. Thật ngốc khi nói ra điều này, nhưng đôi khi tôi có cảm tưởng tác giả viết cuốn sách này cho tôi.
- Chắc chắn đó là lời khen ngợi hay nhất, Mark nhận xét.
- Nhưng tôi luôn tự hỏi... Evie bắt đầu.
- Điều gì?
- Những điều anh ta nói trong sách, tất cả là sự thật chứ?
- Tất cả đều là sự thật, Mark bảo đảm.
Sau một hồi im lặng, anh tiếp:
- Nhưng trong đó không có toàn bộ sự thật.
Evie nhíu mày:
- Nghĩa là?
- Có những điều quan trọng mà Connor không thể kể ra.
- Tại sao?
Mark đưa mắt nhìn Evie. Đôi khi anh cảm thấy mình có khả năng phán xét một con người trong tích tắc. Chí ít anh cũng biết rằng mình có thể tin cô.
Cô ấy là người bên mình, giọng nói thầm bên trong cất lên trấn an anh.
- Tại sao anh ấy không kể hết tất cả? Evie nài nỉ.
- Để không phải đi tù, Mark trả lời.
 
CHƯƠNG 19 - MARK VÀ CONNOR - DÒNG HỒI TƯỞNG ĐẦU TIÊN
THÁNG MƯỜI MỘT 1982
NGOẠI Ô CHICAGO
MARK VÀ CONNOR MƯỜI TUỔI
Khu phố Greenwood tại South Side của Chicago là nơi hội tụ của sự khốn cùng và bạo lực. Trải dài hàng kilômét là một khung cảnh bị tàn phá: vỉa hè sụt hỏng, những tòa nhà bỏ hoang, vỏ khung ô tô bị đốt cháy rụi, những khu đất hoang phủ đầy rác rưởi. Rất hiếm cửa hàng cửa hiệu: vài cửa hàng đồ khô nấp sau khung cửa sắt, duy nhất một siêu thị, một nhà băng, không hề có bệnh viện. Chỉ duy những cửa hàng bán rượu là đông đảo.
Đó là Bagdad dưới làn bom đạn ngay trong lòng nước Mỹ.
Gần như tất cả đều là da đen ở Greenwood. Và gần như tất cả đều nghèo. Đã từ lâu, tất cả những ai có thể đều đã rời bỏ cái chốn không chút hy vọng này, một nơi dường như đã chết gí tại chỗ.
Cậu bé Mark Hathaway sống cùng ông bố làm bảo vệ tại một trường công của khu biệt cư. Mẹ cậu bỏ đi khi cậu mới lên ba. Khi cậu hỏi: "Sao mẹ lại bỏ chúng ta đi?" bố cậu chắc chắn sẽ trả lời: "Bởi vì bà ấy không hạnh phúc."
Không, bà ấy không hạnh phúc trong ngôi trường được trang bị như pháo đài này. Quả thực nơi này chẳng khác gì một căn cứ quân sự: cửa sổ bị bịt kín, cửa ra vào bọc thép và cửa phát hiện vật bằng kim loại reo vang khi phát hiện ra súng và dao gập. Bạo lực giữa các băng nhóm xảy ra mọi nơi. Nhóm dân quân tự vệ do phụ huynh và các nhân viên cảnh sát về hưu được thành lập để giữ trật tự, nhưng không thành công. Rất nhiều đứa trẻ đến trường trong sợ hãi. Phần lớn trong số chúng từng chứng kiến những vụ đấu súng hay giết người và rơi vào trạng thái rối loạn sau chấn thương tâm thần.
o O o
Bảy giờ tối. Đang là mùa đông. Trường học vắng tanh. Tại một trong số các phòng học, ở tầng trên cùng, đều vừa được bật lên.
Mark, mười tuổi, đi về phía thư viện nhỏ đặt sát tường ở cuối phòng. Nói chung ra, "thư viện" là một từ quá to tát để chỉ kệ sách bằng gỗ dán trên đó có khoảng vài chục cuốn tiểu thuyết rẻ tiền. Mỗi tối, sau khi bố cậu bắt đầu uống cạn vài lon bia, Mark đến đây làm bài tập, một nơi mà cậu được yên tĩnh. Bố cậu nghiện rượu nhưng ông không hung bạo. Sau ba hay bốn chai Budweiser, ông chỉ có thói quen chửi rủa Reagan, Quốc hội, Hội đồng thành phố, bọn Đen, bọn châu Á, bọn Latin, người vợ cũ và, cuối cùng, là toàn bộ xã hội, chịu trách nhiệm về nỗi khốn cùng và bất hạnh của ông.
Mark lướt ngón tay dọc theo các cuốn tiểu thuyết xếp trên giá cho đến khi tìm thấy thứ cần tìm: To Kill a Mockingbird[1].
Cậu đã đọc được hai trăm trang rồi, nhưng cuốn sách khiến cậu thích thú đến mức cậu cố gắng mỗi tối chỉ đọc một Chương để kéo dài niềm vui sướng. Đó là câu chuyện tuyệt vời về vị luật sư một mình nuôi dạy hai con tại thành phố nhỏ ở Alabama, vào thời điểm Đại Suy thoái trong những năm 1930. Cuộc sống cứ yên bình trôi, cho đến một ngày ông buộc phải bào chữa cho một người da Đen vô cớ bị kết tội h.ãm hiếp một cô gái da Trắng. Bất chấp thái độ cố chấp và định kiến của đồng bào mình, vị luật sư vẫn cố gắng làm sáng tỏ sự thật.
Mark ngồi lên một chiếc bàn học sinh rồi lôi chiếc sandwich phết bơ đậu phộng từ túi giấy ra và đắm mình vào câu chuyện. Cuốn sách mang đến cho trái tim cậu niềm an ủi và cho cậu hy vọng rằng, đôi khi, trí thông minh và sự liêm khiết có thể chiến thắng bạo lực và ngu dốt. Trí thông minh... Đã từ lâu, cậu hiểu rằng mình không thiếu cái đó, ngay cả khi điểm số ở trường học toàn ở mức trung bình. Cần phải nói rằng, ở trong lớp, người ta không quá thích những học sinh giỏi, những kẻ thường xuyên bị dần cho một trận tơi bời vào giờ ra chơi. Vì vậy, cậu quyết định che giấu khả năng của mình, làm ra vẻ hùa theo bè lũ và tự trau dồi kiến thức một mình.
Bỗng nhiên, trong không gian im ắng của phòng học, cậu nghe thấy một âm thanh trầm đục lặp đi lặp lại. Lo lắng, cậu ngước đầu lên. Đường ống nước? Chuột? Tiếng động xuất phát từ kho chứa đồ, nơi thầy giáo để vật dụng sơn và vẽ. Phân vân giữa sợ hãi và tò mò, Mark do dự trong một vài giây trước khi quyết định mở cánh cửa trượt và phát hiện ra một cậu bé trạc tuổi mình đang lả đi ở góc tủ tường.
Ngờ vực, cậu này rời khỏi chỗ trú và chạy xô ra phía cửa ra vào. Ở đây, nỗi sợ hiện hữu khắp nơi và người ta thường xuyên nện nhau trước khi nói chuyện. Tuy nhiên, khi chạy ra đến gần cửa, cậu ta quay lại và, trong giây lát, hai cậu bé ngạc nhiên nhìn nhau.
- Cậu làm gì ở đây? Mark hỏi.
Mặc dù chưa bao giờ nói chuyện với cậu ta, nhưng Mark quen mặt cậu trai kia: một học sinh lạ thường và cô độc, có dáng vẻ của người ngoài hành tinh. Cậu thậm chí nghĩ mình biết tên cậu ta là Connor.
- Tôi ngủ, cậu kia trả lời.
Đó là một dạng như Huckleberry Finn, phiên bản cuối thế kỷ. Tóc cậu ta rối bù, người gầy gò, mặc quần áo bẩn thỉu và quá nhỏ so với khổ người.
Trong khi Connor chuẩn bị rời phòng, Mark hỏi:
- Cậu đói không?
Quả thực kiểu trực giác này đã từng giúp cậu đoán định được mối lo lắng của người khác.
- Hơi hơi, Connor thừa nhận bằng một khoảng lặng.
Trên thực tế, cậu ta chưa ăn gì từ sáng. Gia đình nhận nuôi cuối cùng dành cho cậu một cuộc sống khắc nghiệt: nhục nhã và thiến thốn là kỷ luật, với cái cớ để cho cậu "học cách sống".
Chỉ có điều cậu đã biết thế nào là cuộc sống rồi. Bị cha mẹ bỏ rơi ngay từ khi mới lọt lòng, bị đưa qua hết gia đình này đến gia đình khác, cậu đã trải qua tất cả, đã chịu đựng tất cả. Nhưng những nỗi khổ nhục đổ dồn lên cậu không khiến cậu bận tâm. Để tự bảo vệ, cậu có thói quen trốn vào thế giới nội tâm mà chỉ duy mình cậu ta có chìa khóa để mở.
- Cầm lấy này, Mark vừa đề nghị vừa đưa cho cậu ta nửa cái sandwich.
Cảm thấy bất ổn, Connor do dự trong giây lát. Cậu bao giờ cũng chỉ có thể tin tưởng vào chính bản thân mình mà thôi. Do bị tước đi tình yêu thương và lòng tử tế, cậu đã học cách dè chừng tất cả.
Do đó cậu để ánh mắt mình đắm chìm trong ánh mắt của Mark và điều gì đó xảy ra: sự thừa nhận thầm lặng, lời hứa tình bạn. Connor nhận lấy nửa chiếc bánh sandwich rồi ngồi xuống dựa lưng vào tường cạnh Mark.
Trong phút chốc, chúng đã lại trở thành những đứa trẻ như bao đứa trẻ khác.
o O o
1982, 1983, 1984...
BÊN NHAU TRỌN ĐỜI...
Kể từ đó Mark và Connor đều gặp nhau tại chính phòng học ấy. Bên ngoài là bất ổn, là ma túy, là những chiếc ô tô bị đốt cháy, là những băng nhóm tội phạm chém giết lẫn nhau và những khẩu súng truyền tay. Cả hai đã tạo ra một nơi trú ẩn yên bình, một nơi mà chúng không còn sợ hãi thót tim. Trải qua nhiều tuần, nhiều tháng, chúng học cách hiểu nhau và tin tưởng nhau.
Mark nhạy cảm, kiên trì và cảm thông với người khác, nhưng cậu cũng là người mong manh yếu ớt nhất, dễ bị ảnh hưởng nhất.
Connor bình tĩnh và biết suy nghĩ, nhưng cũng rất kín đáo và luôn bị bứt rứt bởi công cuộc kiếm tìm sự tuyệt đối.
Cả hai quyết định gắn bó với nhau trong nghịch cảnh.
Bên nhau, chúng cùng làm bài tập, cùng đọc sách, cùng nghe nhạc và thường xuyên bắt gặp nhau đang cười.
Lần đầu tiên trong đời, chúng khám phá ra rằng cuộc sống không chỉ là khổ đau và cô đơn.
Lần đầu tiên trong đời, chúng nhận ra rằng mối quan hệ giữa người với người không chỉ được thiết lập dựa trên mối quan hệ vũ lực.
Người này tìm thấy ở người kia sự bình yên về mặt tình cảm, một niềm tin, một sức mạnh.
Niềm tin rằng, cho dù có chuyện gì xảy ra, có thể luôn tin vào người kia.
Sức mạnh để không bao giờ bị hủy diệt.
o O o
THÁNG HAI NĂM 1984
Giờ là sáu giờ sáng ở Chicago và bầu trời đã chuyển sang sắc xanh. Như mọi khi, chính cái lạnh đánh thức Connor dậy. Cậu ngủ trong phòng ăn, trên một tấm đệm đặt ngay dưới đất, không ga phủ. Cậu thức dậy, đi vào nhà bếp, lau rửa mặt mũi trong bồn rửa bát rồi rời căn hộ trước khi những người khác thức giấc. Thành phố lạnh băng. Để đến trường, theo lô gíc thông thường thì cậu sẽ đi tàu điện trên không ở phía dưới nhà cậu, nhưng người ta đã đóng trạm dừng tại đó với hy vọng hạn chế tình trạng phạm tội. Đó là một trong những điểm đặc thù của Greenwood, nơi mà xe buýt sẽ không hoạt động trừ phi có cảnh sát hộ tống. Thế là Connor đi bộ, trên đường đi cậu sẽ nhặt những vỏ lon bằng nhôm để sau này bán lại kiếm vài đồng. Buổi tối, cậu lê la ở những trạm xăng trong khu vực South Side, đề nghị khách hàng để cậu đổ xăng hộ, cọ rửa ô tô hay lau chùi kính chắn gió để đổi lấy vài đô la.
Theo dòng thời gian, cậu đã học cách hiểu sự vận hành của khu phố, tình trạng bạo lực, sự bất công cũng như những luật lệ bí mật của nó. Nhưng người ta có thể hiểu được điều gì đó mà không bao giờ quen được chúng.
Khi cậu đến Phố 61, mặt trời vừa thức giấc và tỏa những tia sáng rực rỡ xuống công viên Hyde. Đó là một nơi lạ thường. Trong khi ta sống trong khu ổ chuột, thì trường đại học nổi tiếng Chicago lại ở đó, rất gần, với khoản tiền học phí lên tới ba mươi nghìn đô la cho mấy năm học và dành riêng cho những sinh viên xuất thân từ gia đình danh giá. Khu ổ chuột và trường đại học: thế giới thứ ba và "giáo đường tri thức", chỉ cách nhau vài mét...
Mỗi lần qua con phố này, Connor đều nhìn về phía Tây, hướng về phía ký túc xá. Tại sao cuộc sống giữa bên này và bên kia hàng rào lại khác nhau đến vậy? Quá dễ dàng với người này nhưng lại quá khó khăn với người kia? Liệu có cùng một cách lý giải cho tất cả điều đó? Một lô gíc nào đó hay Chúa tìm cách thử thách chúng ta?
Connor hoàn toàn chẳng biết chút gì về điều đó. Niềm tin chắc duy nhất của cậu, chính là cậu có trong mình sức mạnh để vượt qua "bên kia". Một ngày nào đó, cùng với Mark, cậu sẽ rời bỏ khu phố này.
Nhưng để đi đến đâu?
Và để làm gì?
Tất cả vẫn còn mù mịt, nhưng trong đầu cậu, phần đầu của câu trả lời đã hé lộ: giúp đỡ những người như cậu.
o O o
THÁNG TÁM NĂM 1986
MARK VÀ CONNOR MƯỜI BỐN TUỔI
- Hai mươi đều!
Trên sân bóng rổ oằn mình dưới cái nắng nóng, Mark và Connor, cởi trần, mình nhớp nháp mồ hôi, đang tranh tài trận đấu tay đôi gay cấn. Đặt sát tường, chiếc soundblaster với bộ loa trầy xước đang chơi bản Living in America, bản nhạc cuối cùng của James Brown.
Connor có bóng trong tay và thử ghi một điểm khó. Quả bóng nảy trên vòng tròn bằng kim loại, do dự trong giây lát, nhưng không lọt lưới. Mark lấy lại bóng rồi nhảy lên đập bóng mang lại chiến thắng trước khi thực hiện một điệu vũ của bộ tộc da đỏ Sioux nhằm chế giễu bạn mình.
- Mình để cho cậu thắng đó! Connor khẳng định.
- Được đấy! Cậu đã chứng kiến cú đập bóng theo đúng kiểu danh thủ Magic Johnson chưa?
Kiệt sức, hai cậu trai ngồi sát nhau, lưng dựa vào hàng rào mắt cáo. Một chai Coca đang ấm dần lên dưới ánh mặt trời được chuyền từ tay người này sang người kia.
Chúng kéo dài quãng thời gian im lặng rồi cuộc trao đổi xoay quanh chủ đề yêu thích: làm thế nào để thoát khỏi khu ổ chuột thành công?
Đã từ lâu, đó trở thành một nỗi ám ảnh. Tại khu South Side, không hề có tương lai, cũng chẳng có triển vọng. Tham vọng hiện thực duy nhất là sống sót và rời bỏ nơi đây.
Mark và Connor mong ước nhận được học bổng để có thể theo học một trong số các college của downtown. Chúng có nhiều điểm số tốt, nhưng thế vẫn chưa đủ để khiến người khác quên đi tai tiếng của ngôi trường chúng đang theo học.
Rất nhanh chóng, chúng hiểu rằng giải pháp chỉ có thể đến từ chính chúng và đừng trông chờ điều gì vào nhà trường. Nhưng để rời bỏ nơi đây, cần phải có tiền, rất nhiều tiền. Và hoạt động duy nhất cho phép kiếm tiền, chính là buôn bán ma túy.
Trong khu phố, hàng trắng hiện hữu khắp nơi. Quyền lực, công việc, mối quan hệ xã hội phụ thuộc vào việc buôn bán ma túy. Ma túy chẳng chừa một ai. Ai cũng có ít nhất một người họ hàng, một người bạn hay một người sống chung sử dụng hoặc buôn bán ma túy. Ma túy đi kèm theo nó là bốn kỵ binh trong sách Khải huyền: bạo lực, sợ hãi, bệnh tật và cái chết. Một số tay cớm thậm chí còn tích cực tham gia vào việc buôn bán bằng cách giữ lại một phần ma túy bị tịch thu để dùng riêng hay bán lại.
Mark và Connor biết rằng một tay buôn bán ma túy kinh doanh tốt kiếm được hàng nghìn đô la mỗi tuần. Xung quanh chúng đã từng có một số bạn học bỏ học, gia nhập một băng nhóm nào đó rồi tham gia vào công việc buôn bán sinh lợi cao này. Vậy nên, dĩ nhiên, vào một ngày, ý nghĩ đó nảy ra trong đầu chúng.
- Sao chúng ta không làm như vậy? Mark hỏi.
- Như cái gì cơ? Connor vừa hỏi vừa nhăn mày.
- Cậu biết rất rõ điều mình muốn nói mà. Chúng ta thông minh và tháo vát. Chúng ta có thể lợi dụng hệ thống này. Jargo đã từng đề nghị chúng ta làm việc cho hắn. Cậu biết hắn kiếm được bao nhiêu mỗi tuần không?
Connor bực dọc:
- Tớ không muốn nhúng mũi vào hàng trắng.
- Mình muốn nói với cậu về việc buôn bán, chứ không phải sử dụng. Nếu chúng ta xoay xở tốt, chỉ trong vòng hai năm, chúng ta có thể tiết kiệm được một khoản đủ trả tiền học phí. Đó là lý do chính đáng.
- Tớ không nghĩ đó là ý hay đâu.
- Chúng ta không phải là người đầu tiên. Cậu có biết điều Kennedy cha đã làm trong thời kỳ cấm vận không? Ông ta đã nhập rượu lậu. Chính từ đó mà ông ta dựng nên cơ nghiệp. Chính nhờ đó mà con trai ông ta mới trở thành tổng thống và chính nhờ đó mà chúng ta có quyền công dân.
- Cậu lẫn lộn tất cả rồi!
Đến lượt Mark nổi khùng:
- Vậy hãy chỉ cho mình cách nào khác để thoát khỏi đây đi! Chúng ta còn lựa chọn nào khác để có thể tiếp tục con đường học hành? Nếu chúng ta không thoát khỏi nơi đây, trong vòng mười năm nữa chúng ta hoặc sẽ nằm ở nghĩa địa, hoặc sẽ ngồi nhà đá!
- Tớ không có một giải pháp kỳ diệu, Connor thừa nhận, nhưng nếu chúng ta từ bỏ...
Đến đây, giọng cậu trở nên ngập ngừng, bởi cậu thấy ngượng ngùng. Cậu ngừng nói rồi vừa kết thúc câu vừa nhìn thẳng vào mắt người bạn thân.
- ... nếu chúng ta từ bỏ những giá trị của mình, chúng ta sẽ từ bỏ tất cả.
Mark muốn đáp trả bằng một điều gì đấy, nhưng thay vào đó, cậu nắm chặt tay, rồi quay về phía hàng rào mắt cáo và ra sức đấm vào hàng rào.
Lòng đầy tức giận và hổ thẹn, Mark cảm thấy hối hận vì đã có ý nghĩ đó.
Hiểu được tâm trạng của bạn, Connor đặt tay lên vai Mark.
- Cậu đừng lo, Connor trấn an bạn với vẻ chắc chắn nhất mà cậu có thể, cậu sẽ thấy một ngày nào đó, chúng ta sẽ có cơ hội của mình. Tớ không biết bằng cách nào, nhưng tớ thề với cậu là mình sẽ thoát khỏi đây.
o O o
13 THÁNG MƯỜI NĂM 1987
MƯỜI CHÍN GIỜ BA MƯƠI SÁU PHÚT
Ngồi khoanh chân, sách đặt trên đầu gối, tay bịt tai, Connor cố gắng không để ý đến sự lộn xộn xung quanh. Nhưng không thể, không tài nào tập trung được! Quá nhiều tiếng ồn: tiếng ti vi vô cùng ầm ĩ trong phòng khách mà chẳng có ai nghe nhưng cũng không ai tắt đi, tiếng nhạc vọng ra từ phòng ngủ, tiếng kêu gào của mấy đứa nhóc đang đánh chửi nhau. Chẳng có góc nào yên tĩnh cả. Phòng học mà cậu thường sử dụng với Mark sau giờ học từ giờ không thể vào được kể từ khi người trực đêm nhiệt tình thái quá nhất quyết đuổi chúng ra khỏi đó.
Phật ý, Connor sập cửa rời khỏi căn hộ. Cậu tiến vào cầu thang, nhưng không nấn ná ở đó lâu. Cậu biết đây là nơi hoạt động thường xuyên của những kẻ buôn lậu ma túy. Cuối cùng, cậu mắc kẹt trong khu vực để thùng đựng rác, nơi có rất nhiều công ten nơ bằng kim loại xếp hàng dài. Nơi này tối om và lạnh lẽo. Connor xem xét từng thùng đựng rác và rồi, không buồn kháng cự lại nữa, cuối cùng cũng tìm thấy nơi náu mình tại một trong số chúng, rỗng không và không quá bốc mùi. Thở dài, cậu mở quyển sách và lôi bút từ túi quần ra. Có điều gì đó khiến con người ta nản chí khi sa vào tình cảnh phải làm bài tập giữa đống thùng rác, nhưng cậu đã thề sẽ đấu tranh mà không bao giờ đầu hàng để có thể tiếp tục học lên cao. Ai biết được, có thể một ngày nào đó cuối cùng cơ hội cũng đến...
Rất nhanh chóng, cậu để cuốn sách mà thầy giáo đã khuyên cậu đọc lôi cuốn: Lịch sử dân gian Mỹ của Howard Zinn. Một bức tranh toàn cảnh lý thú về lịch sử nước Mỹ qua những nhân chứng là các dân tộc bị áp bức người Da đỏ, nô lệ, những kẻ đào ngũ trong Chiến tranh Ly khai, công nhân ngành dệt. Một cách để thấy rằng lịch sử mà dân tộc trải qua thường khác xa với phiên bản chính thức do sách giáo khoa nhà trường cung cấp.
Bị cuốn vào việc đọc sách, Connor không hề nghe thấy tiếng bước chân đang lại gần. Khi ló đầu lên, cậu thấy mình bị hai tên mà cậu biết sơ sơ bao vây, hai tay anh chị của khu phố vừa nhìn cậu vừa chế giễu:
- THẾ NÀO, THẰNG HÈN KIA, MÀY ĐẦM MÌNH TRONG ĐỐNG RÁC ĐẤY HẲ?
Connor bật dậy và cố thử thoát thân, nhưng đã quá muộn. Hai tên lưu manh đã nhấc cậu lên và đẩy cậu ngã nhào vào trong công ten nơ.
- MÀY BIẾT BỌN TAO SẼ LÀM GÌ VỚI NHỮNG THỨ RÁC RƯỞI CHỨ? Một giọng nói vang lên phía trên cậu.
Connor thử đứng thẳng dậy rồi đưa tay lên mũi. Mũi cậu đang chảy máu.
- BỌN TAO SẼ THIÊU RỤI CHÚNG! Tay buôn ma túy kêu lên.
Connor ngóc đầu nhìn hai kẻ tấn công và nhận thấy một trong số chúng đang cầm bi đông xăng ở tay. Cậu thậm chí không có thời gian để kêu lên thì đã bị té ướt ngực và cẳng chân.
- MÀY MUỐN LỬA CHỨ? Một trong hai tay anh chị vừa đề nghị vừa quẹt diêm.
Kinh hãi, Connor vẫn muốn tin rằng chúng đang tìm cách dọa cậu sợ, dù cho cậu biết rằng đối với hạng lưu manh này, mạng sống của con người chẳng hề có chút giá trị nào.
Thực tế là que diêm rơi thẳng từ trên xuống người cậu và xăng bốc cháy ngay lập tức. Connor thấy người mình bốc cháy như bó đuốc trong khi cái nắp của chiếc công ten nơ nặng nề khép lại.
Cậu nghẹt thở, giãy giụa, tìm cách thoát khỏi cái lồng bằng kim loại này. Cuối cùng công ten nơ lật nhào và giải thoát cậu, nhưng người cậu vẫn bị ngọn lửa thiêu đốt. Đau đớn tột cùng, cậu chạy tán loạn theo mọi hướng và đến sân của tòa nhà rồi lăn lộn dưới đất để dập tắt lửa trên mình.
Dần dần, mắt cậu mờ đi.
Cơ hội đã đến, nhưng không theo cách mà cậu mong muốn.
Trong giây lát, cậu hiểu rằng cuộc sống của mình đã thay đổi và sẽ chẳng còn gì giống như trước kia nữa.
Rồi cậu hôn mê.
Khi ấy cậu mười lăm tuổi.
Cậu chỉ muốn làm bài tập mà thôi.
Chú thích
[1] Tiểu thuyết Giết con chim nhại của Harper Lee. (Chú thích của tác giả).
 
CHƯƠNG 20 - MARK VÀ CONNOR - DÒNG HỒI TƯỞNG THỨ HAI
13 THÁNG MƯỜI NĂM 1987
HAI MƯƠI MỐT GIỜ MƯỜI TÁM PHÚT
Còi hụ đèn lóe sáng, chiếc xe cứu thương lao nhanh vào bãi đỗ xe dành cho các trường hợp khẩn cấp của Bệnh viện Chicago Presbyterian. Bất tỉnh, nằm trên băng ca, Connor ngay lập tức được lau rửa bằng nước ấm để làm nguội vùng da bị bỏng. Nhiều mẩu quần áo bị cháy đen bám chặt vào da cậu và cần phải gây mê cục bộ để lấy chúng ra. Sau khi luồn ống thở vào khí quản cậu, các bác sĩ cấp cứu tiến hành truyền dịch rồi chuyển cậu đến khoa chăm sóc những trường hợp bỏng nặng, ở đó cậu được bác sĩ Loreena McCormick chăm sóc.
Chính bà là người tiến hành đánh giá sơ bộ: năm mươi phần trăm bề mặt cơ thể cậu bị bỏng; hai cánh tay, hai cẳng chân và phần trước ngực là những phần bị thương nặng nhất. Phần dưới cổ và bàn tay phải cũng bị. Một vài trong số những phần bị bỏng này rất nghiêm trọng và phải tiến hành chẩn đoán quan trọng. Kỳ diệu thay là khuôn mặt của cậu không bị làm sao.
Loreena cùng đồng sự đặt Connor dưới máy trợ hô hấp và gây mê nhân tạo trước khi bắt đầu xử lý cục bộ bằng nước tắm khử trùng và bôi kem khử khuẩn. Sau đó các vết bỏng được băng bằng những miếng gạc tiệt trùng mà người ta sẽ phải thay liên tục trong đêm để giữ ẩm và tiệt trùng ở mức tối đa.
o O o
Bị biến thành xác ướp, người chằng chịt ống truyền dịch và thanh nẹp, Connor mắt nhắm nghiền nằm ngủ lại trong bầu không khí đờ đẫn của bệnh viện. Bên đầu gi.ường cậu, Loreena McCormick im lặng ngắm nhìn cậu. Cậu bé này đáng tuổi con trai bà.
Mặc dù ca trực đã kết thúc, nhưng bà vẫn không thể quyết định rời khỏi căn phòng. Thế giới dường như càng ngày càng trở nên thù nghịch, bất nhân và dã man hơn. Bà vừa mới tròn bốn mươi tuổi và biết chắc chắn rằng mình không bao giờ có thể làm mẹ được nữa. Lỗi là do nghề nghiệp của bà, do những cuộc phiêu lưu tình ái mà bà không thấy hợp, nhưng cũng chính là do nỗi sợ mà bà không bao giờ vượt qua được: nỗi sợ không đủ khả năng bảo vệ một đứa trẻ trong thế giới đang trở nên điên rồ này.
Trong khi bà đang lạc vào dòng suy nghĩ của riêng mình thì hai cánh cửa đột ngột mở ra, một cậu thiếu niên theo sau là nhân viên an ninh xuất hiện.
- Để tôi gặp cậu ấy, đó là bạn tôi! Mark kêu lên trong khi người gác cổng - một tay da đen khổng lồ nặng gấp ba lần cậu - tóm lấy cổ cậu.
Loreena can thiệp và thuyết phục người gác cổng buông cậu thiếu niên ra.
- Đó là bạn tôi! Mark vừa nhắc lại vừa tiến về phía gi.ường của Connor.
- Bố mẹ cậu ấy ở đâu? Loreena hỏi. Cháu biết họ không?
- Cậu ấy không có bố mẹ.
Loreena lại gần Mark.
- Tôi là bác sĩ McCormick, bà giải thích. Chính tôi là người chăm sóc cậu ấy.
- Cậu ấy sắp chết phải không ạ? Mark hỏi, nước mắt lưng tròng.
Lorenna lại gần hơn nữa và nhận thấy ánh mắt cầu xin của cậu thiếu niên.
- Cậu ấy sắp chết phải không ạ? Hãy nói cho cháu sự thật đi, cháu xin cô.
- Tình trạng của cậu ấy rất nguy kịch... Loreena thừa nhận.
Bà ngừng vài giây rồi nói:
- ... nhưng cậu ấy có thể có một cơ hội.
Bằng cái khoát tay, bà mời Mark ngồi xuống ghế.
- Cháu muốn sự thật, vậy thì đây: bạn cháu bị bỏng hơn một nửa cơ thể. Trong hai ngày tới, chúng tôi sẽ giữ cậu ấy ở trạng thái hôn mê nhân tạo. Nghĩa là cậu ấy sẽ ngủ và không phải chịu đau đớn. Cậu ấy còn trẻ và có sức khỏe tốt, cậu ấy không bị bỏng hô hấp và không hít phải khí độc. Đó là những tin tốt.
- Thế còn những tin xấu ạ?
- Vấn đề là những vết bỏng có nguy cơ bị nhiễm trùng. Khi da bị bỏng, nó không thể bảo vệ chúng ta trước sự xâm nhập của vi trùng. Vì vậy cơ thể chúng ta không còn các phương tiện để chống lại sự tấn công ồ ạt của các mầm bệnh nữa. Đó chính là nguy cơ sẽ xảy đến với bạn cháu: các vết thương sẽ trầm trọng hơn hoặc nhiễm khuẩn hết. Đó là...
- ... nhiễm trùng máu, cháu biết, Mark bổ sung.
- Vì thế cần phải kiên nhẫn và tha thiết cầu xin mọi chuyện sẽ diễn ra tốt đẹp.
- Cháu không tin vào Chúa, Mark nói. Cô có tin vào Chúa không?
Loreena nhìn Mark bối rối.
- Cô... cô cũng không biết nữa.
- Chính cô là người cháu muốn tin tưởng, Mark quyết định. Hãy cứu cậu ấy, cháu xin cô.
o O o
TRONG ĐẦU CONNOR
GIỮA SỰ SỐNG...
... VÀ CÁI CHẾT
Mình bay lên.
Không, mình đang rơi xuống.
Quá trình rơi tự do về phía bầu trời kéo dài vĩnh cửu.
Mình nhẹ bỗng. Mình nổi lên cao. Mình trượt trên tấm thảm bông. Mình bơi trong bể ánh sáng.
Mình khỏe khoắn.
Mình thấy tất cả. Mình hiểu tất cả.
Rằng tất cả đã được an bài.
Rằng tất cả đều có ý nghĩa: cái Tốt, cái Xấu, Nỗi đau...
Mình khỏe khoắn.
Nhưng mình biết điều đó không kéo dài lâu.
Và mình biết rằng mình sẽ quên tất cả.
o O o
15 THÁNG MƯỜI NĂM 1987
Hiện giờ giai đoạn nguy kịch trong những giờ đầu tiên đã qua, Loreena McCormick đang cố gắng loại bỏ tất cả những phần đã hoại tử càng nhanh càng tốt. Làn da của Connor luôn được gột rửa sạch. Vẫn còn khó có thể đánh giá một cách chính xác độ sâu của các vết thương. Trong thời điểm hiện tại, tình trạng bệnh lý của cậu ổn định, nhưng nguy cơ bị nhiễm trùng và ảnh hưởng đến hô hấp vẫn còn rất lớn.
Rồi sau đó, với con dao mổ trong tay, Loreena chăm chú rạch vài đường trên lồng ngực và cổ Connor để giảm áp lực lưu thông máu cục bộ và tránh làm vết thương thêm sâu. Sau đó bà lấy một mẩu tương đương với hai centimet vuông da ở phần dưới mông của Connor. Bà sẽ gửi mẫu da này tới phòng thí nghiệm ở Boston, nơi mà từ hai năm nay, người ta đã tìm ra một phương thức nuôi cấy tế bào từ một phần da người. Công nghệ này hiện đang trong quá trình thử nghiệm, nhưng bà vẫn muốn thử. Ngay cả khi bà biết rằng việc điều trị phải kéo dài nhiều năm và những di chứng vẫn còn rất nghiêm trọng.
Cuối cùng bà quyết định giảm liều lượng thuốc an thần xuống để Connor dần lấy lại ý thức.
o O o
TRONG ĐẦU CONNOR
GIỮA SỰ SỐNG...
... VÀ CÁI CHẾT
Mình vẫn bay, nhưng không nhanh, không mạnh như trước:
Dần dần, cơ thể mình trở nên nặng như chì.
Mình rời bỏ độ cao để tìm lại những cảm giác của con người.
Lại một lần nữa, mình sợ. Sợ đau. Sợ chết.
Quanh mình, những đám mây mất đi sắc trắng để chuyển thành hơi nước màu đỏ tía, nóng bỏng và ngột ngạt.
Mình đau khắp mình mẩy. Mình cháy nóng rực.
Hiện tại tất cả đều màu đỏ, tất cả như dung nham, tất cả nóng chảy.
Tất cả trở nên buồn bã.
Kết thúc chuyến du hành. Mình choàng mở mắt và...
o O o
16 THÁNG MƯỜI NĂM 1987
Khi Connor mở mắt, cậu đang nằm trong nhà kính khổng lồ và sáng sủa của khoa chăm sóc bệnh nhân bỏng nặng. Một âm thanh inh tai và lộn xộn ù ù trong đầu cậu. Ban đầu cậu thử cử động, nhưng ngay lập tức hiểu rằng đó là điều không thể. Thế nên cậu cúi đầu xuống để nhìn cái cơ thể bị băng kín mít của mình. Đột nhiên, kỷ niệm về tấn thảm kịch trỗi dậy và nhấn chìm cậu trong nỗi kinh hãi.
- Xin chào, cậu bạn thân của tôi, Mark trìu mến nói với Connor.
- Xin hoan nghênh cháu, Connor, Loreena chào đón cậu. Cháu cảm thấy thế nào rồi?
Cậu thiếu niên nhìn Loreena, rồi mở miệng, nhưng không thể trả lời.
- Cậu đừng lo, Mark an ủi, người ta sẽ chăm sóc cậu tốt thôi.
o O o
17 THÁNG MƯỜI NĂM 1987
Với sự trợ giúp của một y tá, Loreena gỡ một trong số những đoạn băng gạc quấn quanh lồng ngực của cậu bệnh nhân trẻ. Chính Connor thậm chí còn yêu cầu "được xem". Và giờ đây, điều cậu nhìn thấy khiến cậu kinh hãi. Nếu ban đầu cậu chớm có ý định làm người thì những ý định đó biến mất ngay khi cậu đưa ánh mắt nhìn xuống những vết thương. Chúng khiến cậu cảm thấy mình trở thành một con quỷ, một dạng Elephant Man[1] thối rữa. Cậu muốn khóc. Cậu không tìm thấy lối thoát. Làm thế nào để có thể chữa khỏi những cái đó?
- Cháu sợ là chuyện bình thường, vừa nói Loreena vừa nhìn thẳng vào mắt cậu.
Connor không rõ người nữ bác sĩ này nghĩ gì. Đôi khi bà ta có vẻ cục súc và luôn không thận trọng khi nói mọi điều. Nhưng Mark dường như tin tưởng bà ta. Bà ấy là người bên mình, cậu thậm chí đã trấn an bạn mình như vậy.
- Cô sẽ giải thích cho cháu, Loreena vừa bắt đầu vừa ngồi xuống bên cậu. Cô đã ghép da có nguồn gốc động vật lên những vết thương sâu nhất.
- Từ da của động vật?
- Đúng: từ da lợn, đó là thủ tục thông thường. Hệ thống miễn dịch trong người cháu sẽ đào thải miếng da đó, nhưng trong một thời gian, nó sẽ được dùng làm miếng băng gạc sinh học để tránh nhiễm trùng.
- Rồi sau đó?
- Sau đó bọn cô sẽ thử ghép da người.
- Miếng da đó cô lấy ở đâu?
- Trên người cháu. Đó gọi là cấy ghép tự thân. Bằng con dao cạo, cô sẽ lấy một số bề mặt da ở những phần cơ thể cháu không bị cháy. Sau đó cô sẽ ghép chúng lên vết thương của cháu.
- Như thế sẽ không đủ! Connor kêu lên. Cháu bị cháy khắp người.
- Cháu phải tin cô, Loreena yêu cầu.
- Làm sao cháu có thể tin cô khi mà cô chưa nói hết sự thật với cháu?
- Cháu có lý, nữ bác sĩ thừa nhận, như thế sẽ không đủ. Chính vì vậy mà bọn cô đã gửi mẫu tế bào da của cháu đến phòng thí nghiệm Boston, ở đó họ sẽ nuôi cấy để có được phần da lớn hơn từ chính da của cháu. Cháu hiểu chứ!
- Cháu hiểu mình sẽ chết.
o O o
THÁNG MƯỜI MỘT NĂM 1987
Lần ghép đầu tiên.
Nỗi đau khó tả chống lại những viên thuốc giảm đau.
Cánh tay phải của Connor đang bị nẹp chặt; cổ cậu bó trong mũ thạch cao.
Mark đến thăm Connor hàng ngày. Cậu đọc cho bạn nghe Bá tước Monte Cristo của Alexandre Dumas. Sự báo thù khôn nguôi của một người đàn ông, nạn nhân của bất công và đã bị ngồi tù trong mười lăm năm.
Sự báo thù khôn nguôi...
o O o
GIÁNG SINH NĂM 1987
Connor gầy gò đến mức đáng sợ.
Liệu người ta có thể sụt mười lăm ki lô trong vòng hai tháng?
Bác sĩ Loreena giải thích rằng, mặc dù được cung cấp lượng calo lớn, nhưng những vết bỏng nặng bị dị hóa dữ dội khiến cơ thể kiệt sức và làm cho những vết thương này dễ bị nhiễm trùng.
Tay phải của cậu bị nặng nhất.
Ngày 25 tháng Mười hai, người ta buộc phải cắt một đốt ngón tay của cậu.
Giáng sinh an lành!
o O o
THÁNG MỘT NĂM 1988
Kể từ khi Connor bị tấn công, cảnh sát chỉ đến thấm vấn cậu một lần duy nhất. Cậu đã kể tất cả cho họ. Cậu thậm chí cung cấp cả tên và địa chỉ, nhưng chẳng có gì xảy ra tiếp nữa.
Tuy nhiên Mark đã tiến hành điều tra: cả hai tay buôn ma túy vẫn đi lang thang ngoài khu phố, thậm chí không lẩn trốn cũng chẳng thèm làm ra vẻ kín đáo.
o O o
Trong đầu Connor, một ý nghĩ bắt đầu nảy ra. Ý nghĩ về sự trả thù khôn nguôi.
o O o
THÁNG HAI NĂM 1988
Tại chỗ này chỗ khác trên cơ thể Connor, những miếng da ghép không đem lại kết quả.
Lớp thịt không da vẫn lồ lộ.
Phải bắt đầu lại từ con số không.
o O o
Cánh tay phải giờ không thể sử dụng được, cậu buộc phải dùng tay trái để viết.
Để luyện tập, cậu vẽ lên tập giấy vẽ trong hàng giờ liền những phác thảo và chân dung.
Luôn là cùng một khuôn mặt. Một khuôn mặt khiến cậu nguôi ngoai.
Một khuôn mặt phụ nữ không biết xuất hiện từ đâu.
Một phụ nữ mà cậu còn chưa quen biết...
o O o
MÙA XUÂN - MÙA HÈ NĂM 1988
Những miếng ghép da này nối tiếng miếng ghép da kia và, dần dần, lớp da bề mặt tái tạo lại để thay thế những vết sẹo chằng chịt được nén lại với sự trợ giúp của vải co dãn.
Cách đây một thời gian, cậu bắt đầu học lại với một giáo viên giảng dạy từ xa dành cho những thanh niên nằm viện. Cậu không từ bỏ việc học. Bởi đó là điều duy nhất an ủi cậu ngoài sự có mặt thường trực của Mark.
o O o
MÙA THU NĂM 1988
Những vết bỏng ở chân buộc cậu phải nằm dài.
Một năm đã trôi qua mà cậu vẫn còn trong tình trạng đau đớn khủng khiếp.
Không ngày nào là không đau.
Không đêm nào là không gặp ác mộng.
Chỉ một điều chắc chắn là: người ta không thể vô sự thoát khỏi hành trình này.
Người ta không thể thoát khỏi đó trong tình trạng tốt hơn.
Người ta không thể thoát khỏi đó trong tình trạng khỏe hơn.
o O o
THÁNG MƯỜI HAI NĂM 1988
Buổi sáng ngày Giáng sinh.
Loreena McCormick mở cửa phòng Connor. Kể từ mười bốn tháng nay, hôm nay là ngày đầu tiên chiếc gi.ường ở đó không có người nằm. Hôm qua, cậu thanh niên đã được chuyển đến một trung tâm hồi phục chức năng ở đầu kia thành phố, nhưng bà không phải là người giám sát việc cậu chuyển đi.
Loreena đứng đó vài phút, bất động trong làn ánh sáng lạnh lẽo và xanh lơ đang tràn ngập khắp căn phòng. Thi thoảng, khi một trong số các bệnh nhân của bà rời khỏi khoa, bà cảm thấy vô cùng trống rỗng. Và đặc biệt là trường hợp ngày hôm nay. Trên gối, Connor đã để lại một phong bì cho bà. Ở mép gấp phong bì, ban đầu cậu viết "Bác sĩ McCormick", nhưng sau đó cậu đã gạch lời xưng hô quá trang trọng này chỉ để viết đơn giản:
Loreena
Bà để chiếc phong bì vào túi áo blouse. Lúc nào về đến nhà bà sẽ mở nó ra.
Trong ngăn tủ của chiếc bàn đầu gi.ường ngập đầy giấy. Loreena xem xét chúng: hàng chục bức vẽ cùng một khuôn mặt ám ảnh, khuôn mặt một thiếu phụ bà không quen biết.
Mắt bà nhìn chăm chú hồi lâu vào những phác thảo.
Rồi bà quyết định xếp chúng vào hồ sơ bệnh án của Connor.
Một ngày nào đó, có thể, bà sẽ biết được nhiều hơn.
o O o
THÁNG SÁU NĂM 1989
Connor nhận bằng tốt nghiệp phổ thông trung học.
Cậu rời trung tâm phục hồi chức năng và chuyển đến một hội quán thanh niên.
Trong vòng sáu tháng, cậu theo các buổi tập liệu pháp vận động và xoa bóp để các bộ phận cơ thể lấy lại sự linh hoạt. Cổ và lồng ngực cậu trở nên đỏ và tim tím. Việc các vết sẹo khi liền lại đã co rút khiến cậu không thể thực hiện nhiều chuyển động, buộc cậu phải học lại những cử chỉ đơn giản nhất: đi bộ, ăn, ngồi, viết...
Nhưng những vết sẹo khác, dù là vô hình, lại rạch hằn trong tâm hồn cậu và làm cậu đau khổ theo cách khác.
o O o
Lần đầu tiên kể từ một năm rưỡi qua, cậu bước ra đường và cậu sợ tất cả: ô tô, con người, cuộc sống... Tiếng động nhỏ nhất cũng khiến cậu run rẩy. Tất cả quá nhanh. Tất cả chỉ là sự tấn công.
Để nỗi đau dịu đi, cậu tin chắc rằng chỉ có một phương cách: sự trả thù khôn nguôi.
o O o
THÁNG MƯỜI NĂM 1989
Connor không phải mất quá nhiều thời gian để tìm chúng: cả hai tay anh chị buôn bán ma túy trú ẩn trong một tòa nhà đã được cải dụng, nằm ngay sau đường ray xe lửa. Nhiều ngày trôi qua, Connor theo dõi chúng để ghi lại thói quen và nắm bắt tình hình. Trong vòng hai năm, hai tay này đã được thăng cấp. Chúng không còn là những kẻ bán hàng thứ cấp nữa, mà thật sự là những tay trùm kiểm soát nắm phần lớn thị phần buôn bán heroine của khu phố Nam. Vì rất hiếm khi chúng di chuyển riêng lẻ, Connor chờ đợi thời cơ thích hợp để hành động.
Và thời điểm thích hợp, chính là tối nay.
Cậu thấy hai gã đó rời khỏi quán bar và có thể nhận thấy chúng đã ngà ngà say. Đến bãi đỗ xe, chúng chui vào chiếc Mustang cũ rích màu gỉ sắt. Connor để chúng đi trước, cậu thích chạy bộ để thử thách những vết thương.
Rốt cuộc khi cậu đến được khu nhà đổ nát, bấy giờ đã là hai giờ sáng. Cậu bước vào tiền sảnh tối om, nơi tất thảy các hộp đựng thư đã bị nhổ đi. Trong bóng tối, cậu bước lên cầu thang. Cậu không còn cảm thấy sợ nữa. Cậu bước đến trước cánh cửa dường như rung bần bật trước tiếng nhạc ầm ĩ phát ra từ phía bên kia. Bằng một cú đạp, cậu đạp gãy cánh cửa - một hành động mà cậu đã thực hiện hàng trăm lần trong Chương trình phục hồi chức năng của mình.
Đang ngồi trên chiếc tràng kỷ sụt hỏng, hai gã buôn ma túy sững sờ nhìn cậu. Chúng đã say và đang phê thuốc. Connor bước vào phòng. Đó là một căn hộ thảm hại ngập trong thứ ánh sáng vàng vọt và xanh lục. Trên chiếc thùng gỗ để đóng hàng được dùng làm bàn la liệt bơm kim tiêm, một gói bột trắng và một khẩu súng với báng súng mạ bạc đặt trên một chiếc va li nhỏ mở toang, bên trong toàn đô la.
Một trong hai tên trùm ma túy chìa tay với khẩu súng, nhưng đã quá muộn. Connor vừa mới đá chiếc va li văng ra và chính cậu là người vớ được khẩu súng.
Cậu chĩa nòng súng về phía hai tên trùm, sẵn sàng nhả đạn.
Hai gã vừa nhìn cậu vừa lắc đầu.
- Mẹ kiếp, nhưng mày là thằng nào? Một trong hai tên hỏi.
- Tao là ai à?...
Connor đứng bất động. Cảnh tượng này, cậu đã diễn đi diễn lại hàng chục lần trong đầu, nhưng không bao giờ cậu dự kiến rằng hai kẻ tấn công mình thậm chí không nhận ra cậu.
Cậu cho tay vào túi áo bu dông và lôi ra một cặp còng cảnh sát, mua với giá năm đô la từ một tay cớm biến chất.
- Còng tay vào lò sưởi! cậu ra lệnh.
- Đợi đã, chúng ta có thể thương...
Tiếng súng nổ cắt ngang câu nói của tay trùm ma túy. Hắn ta đưa tay ôm đùi và nhận thấy đùi mình đẫm máu.
- Còng tay lại, Connor nhắc lại.
Hai gã vô dụng răm rắp làm theo, tự còng tay mình vào lò sưởi bằng gang vốn không nổi lửa từ lâu lắm rồi.
Tao là ai à?...
Connor tắt bộ dàn hi-fi đang phát một bài rap inh tai.
Tao là ai à?...
Cậu cởi áo bu dông và áo sơ mi.
Hiện giờ cậu đang cởi trần trước mặt hai kẻ đã tấn công mình và cậu trưng ra cho chúng xem những vết bỏng, như một nghi lễ của người nguyên thủy.
Tao là ai à?...
Mắt hai gã đàn ông lộ rõ vẻ chẳng hiểu gì. Ánh mắt chúng ánh lên nỗi sợ hãi và sững sờ.
Connor bước ra hành lang, lấy bi đông xăng mà cậu mang theo rồi quay trở lại phòng.
Tao là ai à?...
Giờ đây, vai diễn đã đảo ngược.
Nạn nhân trở thành đao phủ và đao phủ là nạn nhân.
Cái tốt thành cái xấu; cái xấu thành cái tốt.
Tao là ai à?... cậu vừa tự hỏi vừa đổ xăng vào hai kẻ tấn công mình trươc skia.
Chúng hét lên, nhưng cậu không nghe thấy chúng. Những tiếng kêu khác, trong đầu cậu, vang lên như tiếng vọng lại:
THẾ NÀO, THẰNG HÈN KIA, MÀY ĐẦM MÌNH TRONG ĐỐNG RÁC ĐẤY HẲ? MÀY BIẾT BỌN TAO SẼ LÀM GÌ VỚI NHỮNG THỨ RÁC RƯỞI CHỨ? BỌN TAO SẼ THIÊU RỤI CHÚNG!
Tao là ai à?... cậu vừa tự hỏi vừa quẹt diêm.
Vào thời điểm lửa bắt đầu bén cháy, cậu nghĩ lại điều mình đã nói với Mark trước kia: nếu chúng ta từ bỏ những giá trị của mình, chúng ta sẽ từ bỏ tất cả.
o O o
NGAY ĐÊM HÔM ĐÓ
NĂM GIỜ SÁNG
Chiếc Mustang màu gỉ sắt đậu dọc theo vỉa hè, ngay cạnh trường công.
Connor xuống xe, nhặt một nắm sỏi rồi ném vào một trong số những ô cửa sổ của căn hộ người bảo vệ.
Chỉ phải đợi vài giây và đầu Mark xuất hiện.
- Cậu làm cái quái gì vậy, Connor? Cậu biết mấy giờ rồi không?
- Mặc quần áo đi, Mark. Mang theo ví, tiền bạc và giấy tờ đi.
- Để làm gì?
- Không tranh cãi nữa.
Mark gặp lại cậu bạn sau năm phút.
- Chuyện gì xảy ra vậy? Mark hỏi. Mặt cậu bẩn kìa.
- Lên xe đi, Connor vừa ra lệnh vừa chỉ vào chiếc Mustang.
- Nhưng con xe này là của ai vậy?
- Nào nhanh lên! Tớ sẽ giải thích cho cậu trên đường đi.
Connor ngồi trước vô lăng và bắt đầu chạy về phía Loop. Được năm phút, cậu quay sang phía Mark để hỏi:
- Cậu có nhớ điều tớ đã nói với cậu: một ngày nào đó cậu sẽ có cơ hội thoát khỏi đây để đi học tiếp không?
- Chắc chắn là mình nhớ.
- Thế này nhé, cơ hội của cậu, chính là tối nay, cậu vừa khẳng định vừa chỉ về phía chiếc va li bằng kim loại mà cậu lấy từ nhà hai tay trùm ma túy.
Mark mở chiếc va li nhỏ và bật ra tiếng huýt sáo.
- Tất thảy đống xìn này là gì vậy?!
- Đó là để trả học phí cho cậu.
- Nhưng...
- Nghe này, chúng ta không có nhiều thời gian, vậy nên đừng làm phức tạp mọi chuyện thêm nữa.
Connor lục tìm trong túi áo rồi đưa cho Mark vé tàu.
- Tớ sẽ chở cậu đến nhà ga trung tâm. Sẽ có tàu đi New York khởi hành lúc sáu giờ mười lăm. Cậu mang tiền theo người và không bao giờ quay trở lại đây. Cậu hiểu chứ?
- Thế còn cậu, khi nào cậu gặp lại mình?
- Không bao giờ, Connor vừa trả lời vừa lái xe vào bãi đỗ xe ngầm của nhà ga.
o O o
SÁU GIỜ SÁNG
Hai người bạn ngồi sát bên nhau trong khoang lái ô tô đậu tại vị trí trả tiền. Connor vừa mới kết thúc câu chuyện của mình và Mark vẫn còn thấy sốc.
- Cậu phải đi đi, Connor vừa nói vừa nhìn đồng hồ. Tàu sắp chạy rồi.
- Nhưng còn cậu, cậu sẽ làm gì? Mark hốt hoảng hỏi.
- Tớ sẽ đến đồn cảnh sát trình diện, Connor vừa trả lời vừa rời khỏi chiếc Mustang.
Đến lượt Mark xuống xe và theo sát gót bạn mình.
- Mình sẽ không đi nếu không có cậu.
- Cậu ngừng than vãn đi! Connor bực mình. Tớ sẽ không bao giờ rời khỏi đây được nữa, tất cả đã kết thúc! Tớ đã để lại dấu vết khắp nơi. Cảnh sát sẽ chẳng mất nhiều thời gian trước khi tìm ra tớ.
- Chưa chắc, Mark nói, ngọn lửa, nó sẽ phá hủy tất thảy. Và rồi cả hai gã đó, ai thương tiếc chúng cơ chứ? Chẳng ai cả! Cảnh sát sẽ nghĩ là các băng nhóm tội phạm thanh toán nhau, chỉ có thế thôi.
Hai cậu trai đi đến ke đường sắt. Dù đang là sáng sớm, hành khách đã chen chúc đông nghịt dọc theo đường ray.
- Nào, Connor nói, chúc may mắn, bạn thân mến.
- Hãy đi cùng mình! Mark vừa bước lên toa tàu vừa kêu lên. Chúng mình luôn nói là sẽ đi cùng nhau mà.
Cậu muốn nói thêm điều gì đó nhưng giọng cậu đã bị át bởi tiếng còi inh tai báo hiệu tàu sắp khởi hành.
Đứng trên ke, Connor không để bạn mình nói tiếp.
- Nghe này, Mark, cậu phải khỏe mạnh. Cậu có thể bắt đầu một cuộc đời mới, nhưng đối với tớ, tất cả đã quá muộn rồi: tớ chẳng còn chút sức lực nào nữa, tớ chẳng là gì nữa cả.
- Mọi chuyện sẽ ổn thôi, mình sẽ giúp cậu! Cả hai chúng ta luôn cùng nhau đối mặt với mọi chuyện. Chính nhờ thế mà chúng ta mới vượt qua được!
Vị trưởng ga đi kiểm tra xem các cửa lên xuống đã đóng hết chưa.
Connor bước vài bước trên ke. Đột nhiên, toàn bộ nỗi sợ hãi được kìm nén nay lại trỗi dậy. Cậu cảm thấy mình run rẩy, bồn chồn. Trong đầu cậu, tất cả nhòa đi. Âm thanh biến dạng trước khi trở nên không thể nghe được nữa. Đột nhiên, im lặng hoàn toàn. Đột nhiên cậu lảo đảo rồi ngã vật xuống.
Mark đã nhảy xuống ke. Cậu cúi xuống bạn mình, đỡ bạn dưới cánh tay và, bằng tất cả sức lực, kéo bạn vào bên trong toa tàu.
Sau hồi còi cuối cùng, đoàn tàu chuyển động với những tiếng động kéo dài và những cú giật nảy mình.
o O o
Khi đầu tàu rời khỏi nhà ga, những tia nắng mặt trời đầu tiên chiếu rọi nó. Mark nhìn qua ô cửa kính. Một làn ánh sáng màu tía và da cam chiếu xuyên qua đám mây.
Trong suốt cuộc đời, cậu sẽ luôn nhớ đến màu của bầu trời vào buổi sáng hôm đó.
Buổi sáng cả hai cùng nhau ra đi.
Chú thích
[1] Bộ phim kinh điển Người voi của điện ảnh Mỹ sản xuất năm 1980.
 
×
Quay lại
Top