3 chàng lính ngự lâm

red dust

Thành viên thân thiết
Thành viên thân thiết
Tham gia
20/12/2011
Bài viết
2.998
Chương 1


Ngày thứ hai đầu tiên của tháng tư năm 1625, thị xã Măng[SUP](1)[/SUP] dường như chìm trong một cuộc cách mạng. Nhiều người thấy đàn bà chạy trốn, trẻ con kêu khóc, liền vội vã khoác chiến bào vào và với một khẩu hỏa mai hoặc ngọn giáo để củng cố lòng dũng cảm, họ hướng về phía lữ quán Chủ cối xay. Trước lữ quán, một nhóm người chen chúc, mỗi lúc một đông thêm, nhốn nháo, ồn ào và đầy vẻ tò mò.

Thời buổi ấy, những cơn hoảng loạn luôn xảy ra. Ít khi không có thành này hay trấn nọ ghi vào sổ của mình một sự kiện nào đó thuộc loại ấy. Các lãnh chúa chinh phạt lẫn nhau; Quốc vương khai chiến với Giáo chủ; Tây Ban Nha khai chiến với Quốc vương. Rồi thì ngoài những cuộc chiến thầm lặng hoặc công khai, bí mật hoặc đường hoàng xảy ra. Lại còn bọn trộm cắp, lũ ăn mày, bọn giáo phái Canvanh, lũ sói, bọn lính hầu khai chiến với tất cả mọi người. Thị dân luôn vũ trang chống lại tất cả những điều đó, đôi khi chống cả nhà Vua. Tuy nhiên họ không bao giờ chống lại Giáo chủ và nước Tây Ban Nha. Vì thế khi nghe thấy tiếng náo động nhưng không thấy màu cờ vàng và đỏ,[SUP](4)[/SUP] cũng chẳng thấy bóng dáng đồng phục gia binh của Quận công Richelieu, đám thị dân liền đâm bổ về phía lữ quán. Đến đó rồi, mọi người nhận ra nguyên nhân sự náo động.

Đó là một chàng trai trẻ có vóc dáng như một Đông Kihôtê[SUP](5)[/SUP] mười tám tuổi bị lột vỏ, không mặc áo giáp, xà cạp mà chỉ mặc áo chẽn ngắn bằng len màu xanh lơ đã chuyển màu. Mặt chàng dài sạm nâu, gò má cao, quai hàm bành rộng, mắt mở to và thông minh với cái mũi khoằm nhưng thanh tú. Chàng có tướng mạo không lẫn được của người Gátxcong ngay cả khi đội mũ nồi gắn lông chim. Một người ít từng trải hẳn đã cho đó là con trai một chủ trại đi du hành nếu không thấy thanh gươm dài treo lơ lửng trên dải đeo da của chàng ta.

Do có một con ngựa và con vật đó rất đặc biệt nên chàng khiến người ta phải chú ý: đó là một con ngựa nhỏ màu vàng tên Bearn khoảng mười hai hoặc mười bốn tuổi. Bearn không có bờm đuôi nhưng có móng ở các vó và khi đi, đầu nó thõng xuống quá dưới gối. Điều đó làm tác dụng của chiếc dây cương trở nên thừa thãi nhưng nó vẫn đi nổi tám dặm một ngày. Không may thay, những phẩm chất của con ngựa lại bị che giấu hết dưới bộ lông kỳ dị và dáng đi khiếm nhã. Trong cái thời mà mọi người đều sành ngựa thì việc một chú ngựa nhỏ con của xứ Măng xuất hiện ở đây đã làm thị dân thiếu thiện cảm đối với nó và lan sang cả chủ của nó.

Cái cảm giác ấy lại còn nặng nề hơn đối với chàng D' artagnan trẻ tuổi. Dù có là một kỵ sĩ cừ khôi đến mấy với con ngựa như thế, chàng đã thở dài thườn thượt khi nhận món quà mà ông D' artagnan bố ban tặng. Chàng biết một con vật như thế ít ra cũng đáng giá hai mươi đồng vàng, còn những lời lẽ kèm theo là vô giá.

- Này con!

Vị quý tộc xứ Gascogne nói.

- Con ngựa này đã sống ở đây từ nhỏ. Bearn sắp tròn mười ba tuổi và con sẽ phải yêu quý nó. Đừng bao giờ bán nó, hãy để nó được chết danh dự và lặng lẽ lúc về già. Nếu đi đường cùng nó, con hãy đối xử với nó như đối với một lão nô bộc.
Tổ tiên đã truyền cho con vinh dự tới triều đình. Hãy bảo vệ danh hiệu quý tộc đó - danh hiệu mà tổ tiên đã giữ gìn hơn năm trăm năm nay - vì bản thân con và vì những người thân của con. Đừng bao giờ ủng hộ ai trừ Giáo chủ và nhà Vua. Con hãy nghe cho rõ: thời buổi bây giờ, một người quý tộc chỉ lập nghiệp bằng lòng dũng cảm, kẻ nào run sợ trong giây phút có thể để tuột mất cơ hội cả đời chỉ tới một lần.
Con phải can trường bởi hai lẽ: thứ nhất, chính vì con là dân Gátxcông và thứ hai, con là con của ta. Đừng sợ những cơ hội và hãy tìm kiếm những cuộc phiêu lưu. Những cuộc quyết đấu càng bị cấm đoán thì càng phải chiến đấu với gấp đôi lòng dũng cảm. Con trai à, ta chỉ có mười lăm đồng vàng, con ngựa của ta và những lời khuyên. Mẹ con sẽ cho con món thuốc của một bà Bôhêmiêng. Thuốc đó có công năng kỳ lạ, có thể chữa khỏi mọi vết thương không phạm vào tim. Con hãy tận dụng mọi thứ, hãy sống thật hạnh phúc và lâu dài. Ta chỉ còn một điều nữa để nói thêm, đó chính là tấm gương ta nêu với con. Tấm gương đó không phải là ta bởi ta chưa từng có mặt ở triều đình, ta chỉ tình nguyện tham gia chiến tranh tôn giáo. Người ta muốn nói tới là ông Treville - người vinh dự được chơi với Vua Louis XIII khi còn bé. Đôi khi trò chơi của họ chuyển thành các trận choảng nhau, và trong những trận chiến ấy nhà Vua không phải lúc nào cũng là kẻ mạnh hơn.
Những miếng đòn nhà Vua nhận được khiến Ngài càng thêm khâm phục và thân thiết nhiều hơn với ông Treville. Trong lần đầu tiên đến Paris, ông Treville đã chiến đấu chống lại những kẻ khác năm lần. Từ cái chết của nhà Vua quá cố đến khi nhà Vua trẻ trưởng thành, không kể các cuộc chiến tranh và các cuộc vây thành, ông đã chiến đấu bảy lần. Từ khi nhà Vua trưởng thành đến nay có lẽ cũng đã trăm lần. Vì vậy, dù những pháp lệnh, những chỉ dụ, những sắc lệnh[SUP](6) [/SUP]được ban ra nhưng ông vẫn cứ là đại úy ngự lâm quân, có nghĩa là chỉ huy binh đội Céda mà nhà Vua phải dựa vào đó, Giáo chủ phải kiêng nể.
Treville kiếm mười nghìn đồng tiền vàng mỗi năm - ngang với một đại lãnh chúa. Ông ta cũng khởi đầu như con. Hãy đến gặp ông cùng với bức thư này và hãy noi gương để được như ông.

Tới đây, ông D' Artagnan bố đeo thanh kiếm của mình cho con trai, trìu mến ôm hôn chàng lên hai bên má và cầu phúc cho chàng.

Rời khỏi phòng cha, chàng trai thấy mẹ mình đang đợi với phương thuốc trứ danh. Cuộc từ biệt ở đây lâu hơn và xúc động hơn cuộc từ biệt vừa rồi. Chẳng phải vì ông D' Artagnan bố không yêu con trai - kẻ nối dõi độc nhất của mình - mà là ông không muốn phó mặc mình cho cảm xúc. Còn như bà D' Artagnan, bà là mẹ. Bà khóc sướt mướt và phải khen chàng D' Artagnan con. D' Artagnan đã cố gắng để tỏ ra cứng rắn như một ngự lâm quân tương lai, nhưng bản năng khiến nước mắt chàng lã chã tuôn rơi, khó khăn lắm mởi giấu đi được một nửa .

Cùng hôm ấy, chàng trai trẻ lên đường và mang theo ba tặng vật của cha gồm mười lăm đồng vàng, con ngựa và bức thư cho ông Treville. Hơn nữa, chàng có cả những lời khuyên.

Với một hành trang như vậy, D' Artagnan thấy mình như một bản sao của nhân vật của Xécvăngtéc cả về tinh thần cũng như thể xác. Đông Kihôtê coi những cối xay gió như những gã khổng lồ và lũ cừu là nhứng đoàn quân, còn D' artagnan lại coi mỗi nụ cười là một sự lăng mạ và mỗi cái nhìn là một sự khiêu khích. Vì vậy, dọc đường từ Tarbes[SUP](7)[/SUP] đến Măng, chàng luôn giữ chặt nắm đấm, đặt tay lên đốc gươm đến mươi lần trong ngày. Tuy nhiên nắm đấm chưa hề chạm vào ai và gươm cũng không hề tuốt ra khỏi vỏ. Không phải vì con ngựa con màu vàng h.ãm tài kia không gây cười trên khuôn mặt khách qua đường mà chính vì bên sườn con ngựa còi ấy còn lạch phạch một thanh gươm dài đáng nể bên trên con mắt long lanh nom có vẻ dữ tợn hơn là kiêu hãnh. Khách qua đường cố nén để không rũ ra cười, hoặc dù không nén nổi cũng phải cố chỉ cười nửa miệng giống như những vai hề cổ. Do đó D' Artagnan vẫn đường đường oai phong nhưng không sao kiềm được cái tính nóng nảy khi đến cái thị trấn Măng khốn khổ này.

Khi chàng vừa xuống ngựa trước cửa lữ quán Chủ cối xay, chẳng người nào từ chủ quán, hầu bàn, người coi ngựa chịu tới giữ bàn đạp ngựa cho chàng leo xuống.

D' artagnan trông thấy một nhà quý tộc với vẻ kiêu kỳ tuy nét mặt hơi cau có, đang nói g ì đó với hai người gia nhân. Theo thói quen, D' Artagnan hoàn toàn tự nhiên tin rằng mình là đối tượng của câu chuyện và lắng nghe. Lần này chàng chỉ nhầm một nửa: vấn đề không phải là chàng mà là con ngựa của chàng. Gã quý tộc như đang liệt kê cho đám người nghe tất cả các thuộc tính của con ngựa và người nghe mỗi lúc lại phá lên cười. Mà chỉ một nửa nụ cười cũng đủ khơi dậy cái tính dễ nổi cáu của chàng trai trẻ. Những chuỗi cười ầm ĩ như thế làm D' Artagnan giận dữ.

Thế nhưng D' artagnan trước hết muốn thấy rõ bộ mặt của kẻ hỗn xược đang nhạo báng mình. Chàng ném cái nhìn kiêu hãnh vào kẻ lạ mặt và nhận ra một người đ àn ông khoảng bốn mươi, bốn lăm tuồi có đôi mắt đen và sắc nhọn với nước da xanh tái, mũi cao, ria mép đen được tỉa xén hoàn hảo. Hắn ta mặc áo chẽn ngắn và quần ống túm màu tím có tua cùng màu, không có bất kỳ trang sức nào ngoài những rãnh xẻ quen thuộc để luồn áo lót qua đó.

D' artagnan tiếp nhận tất cả những đặc điểm đó một cách mau lẹ bởi linh tính mách bảo chàng rằng con người xa lạ kia ắt có một ảnh hưởng lớn đến đời chàng sau này.

Đúng lúc D' Artagnan đang chăm chăm nhìn nhà quý tộc thì hắn ta đưa ra một nhận xét về xứ sở của con ngựa còi, hai thính giả của hắn phá lên cười, còn bản thân hắn thì trái với thói quen thường lệ, cũng để lộ cho mọi người thấy. Một nụ cười nhạt llướt trên bộ mặt hắn. Lần này thì không còn nghi ngờ gì nữa, D' artagnan đã thực sự bị lăng nhục. Tin chắc như vậy, chàng kéo mũ xuống tận mắt và cố bắt chước một số điệu bộ trong chốn triều đình mà chàng thấy ở những bậc vương công du hành qua vùng Gátxcông. Chàng tiến lên, một tay đặt vào chuôi gươm. Khốn nỗi càng tiến lên, cơn giận mỗi lúc càng làm chàng thêm mất bình tĩnh. Đáng lẽ phải có một khẩu khí trang trọng và kiêu hãnh mà chàng đã chuẩn bị để phô diễn sự thách thức của mình, thế mà chàng chỉ còn thấy ngôn từ của một nhân cách thô lỗ kèm theo cách hành xử cuồng dại.

- Này, ông kia! - chàng hét lên - Cái ông nấp sau cánh cửa sổ kia! Phải, chính ông, hãy nói ta nghe xem ông cười cái gì nào, rồi chúng ta sẽ cùng cười.

Nhà quý tộc chậm rãi đưa mắt nhìn từ con ngựa lên chàng kỵ sỹ một hồi lâu rồi đôi lông mày hơi cau lại, hắn ta trả lời D' artagnan bằng một giọng mỉa mai và xấc xược không thể tả được:

- Tôi không nói với cậu.

- Nhưng ta, ta nói với ông!
Chàng trai trẻ giận sôi lên và hét to trước thái độ vừa xấc xược vừa nhã nhặn, vừa lịch thiệp vừa khinh miệt pha lẫn với nhau.

Kẻ xa lạ còn nhìn chàng một lát rồi với nụ cười thoáng qua, hắn bước từ từ ra khỏi lữ quán đi về phía D' Artagnan đứng thẳng đối diện với con ngựa. Thái độ b ình tĩnh và vẻ mặt châm biếm của hắn càng khiến cho bọn người vừa chuyện trò với hắn cười to gấp đôi.
D' Artagnan thấy hắn tiến đến, liền rút gươm nhích ra khỏi vỏ hơn một gang tay.

- Con ngựa này chắc chắn, hay đúng hơn là lúc trẻ từng có màu vàng cúc áo.

Kẻ xa lạ lặp lại những câu soi mói đã nói với bọn người nghe của y, tựa như không th èm để ý đến cơn điên giận sôi lên của D' Artagnan.

- Đó l à một màu rất quen thuộc của thực vật, nhưng đến nay rất hiếm thấy ở loài ngựa.

D' Artagnan giận giữ thét lên:

- Kẻ cười giễu con ngựa là kẻ không dám cười chủ nó!

- Tôi thường không hay cười, cậu trai trẻ. - Kẻ lạ mặt tiếp - Tự cậu cũng có thể thấy thế trên vẻ mặt của tôi, song tôi vẫn cười khi tôi thích.

- Còn ta? Ta không muốn người ta cười khi nó làm ta khó chịu.

- Thật thế ư? - Kẻ lạ mặt tiếp tục với vẻ càng bình tĩnh hơn bao giờ hết - Thế thì, chí lí quá đi rồi?

Rồi quay gót, hắn đang định trở vào lữ quán nhưng D' Artagnan không phải loại dễ bỏ qua như thế với một kẻ đ ã hỗn xược chế nhạo mình.

- Quay lại! Ông hay châm biếm, ta không muốn đánh ông phía sau lưng đâu.

- Đánh tôi, tôi ấy à? - Người kia vừa nói vưa quay gót lại nhìn chàng trai trẻ hết sức ngạc nhiên cũng như khinh bỉ - Chà, thế kia đấy. Chàng trai trẻ, cậu điên rồi.

Rồi hắn hạ giọng như thể nói với chính mình:

- Phiền thật. - y tiếp tục - Thế mà Hoàng Thượng cứ bắt ta phải đi tìm những kẻ can trường ở đâu đâu để tuyển vào ngự lâm quân của ngài!

Người lạ vừa nói dứt, D' Artagnan đã vươn tay xỉa một mũi gươm thịnh nộ đến nỗi nếu không nhanh chân nhảy lùi lại, có lẽ đây sẽ là lần cuối cùng hắn được bông đùa. Người lạ mặt lúc đó thấy sự thể đã vượt qua trò nhạo báng liền rút gươm ra chào địch thủ. Nhưng cũng đúng lúc ấy, hai thính giả của y kèm theo chủ quán nhảy bổ vào D' artagnan và đánh chàng chàng bằng những đòn gậy, xẻng và que gắp than. Điều đó khiến D' artagnan phải quay lại đối mặt với trận mưa đòn, đối thủ của chàng cũng tra gươm vào vỏ. Hắn suýt là một diễn viên thì nay lại trở thành khán giả của một trận chiến - một vai mà hắn rất thạo với vẻ bình thản thường tình của mình, tuy vẫn không ngớt làu bàu:

- Cái giống Gascogne ôn dịch! Bê hắn lên con ngựa vàng cam của hắn và để hắn xéo đi.

(còn tiếp)
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
- Không trước khi ta giết mi đâu, đồ hèn! - D' Artagnan hét lên.

- Lại một thói Gascogne ! - nhà quý tộc lẩm bẩm - Ta thề đấy, lũ ascogne này đều là lũ bất trị! Nó đã muốn vậy thì cứ để nó tiếp tục múa may. Khi nào nó mệt nó sẽ ngừng.

D' Artagnan là người không bao giờ chịu xin thua. Cuộc đấu tiếp tục thêm mấy giây nữa. Cuối cùng, D' artagnan kiệt sức để tuột gươm, thế là một nhát gậy đánh gãy gươm làm đôi. Cùng lúc, một đòn khác nện chàng vào trán gần như cùng một lúc làm chàng lộn nhào, máu chảy đầm đìa và gần như bất tỉnh.

Chính vào lúc đó, từ mọi phía người ta chạy đến nơi đang xảy ra chuyện. Chủ quán sợ tai tiếng nên nhờ mấy gã hầu bàn khiêng kẻ bị thương vào bếp để chăm sóc qua loa. Còn nhà quý tộc thì đã trở lại chỗ cũ bên cửa sổ nhìn đám đông ấy một cách bồn chồn. Có vẻ như việc họ cứ đứng ỳ ra đấy làm cho hắn rất bực bội.

- Thế nào, thằng điên ấy ra sao rồi? - hắn quay lại khi nghe tiếng cửa mở.

- Thưa đại nhân, ngài không sao chứ ạ? - Chủ quán hỏi.

- Phải, hoàn toàn vô sự. Tôi đang muốn hỏi ông chàng trai trẻ của chúng ta ra sao rồi?

- Hắn đã khá hơn. Vừa rồi hắn bất tỉnh hoàn toàn.

- Thật thế ư?

- Nhưng trước khi ngất, hắn còn thu hết tàn lực réo tên ngài, vừa réo vừa thách thức ngài.

- Thế thì cái tên táo tợn ấy đúng là quỷ hiện hình rồi.

- Ồ không! Thưa đại nhân, không phải là quỷ vì trong khi hắn mê man, chúng tôi đã lục soát và thấy trong bọc hành lý của hắn có một áo lót cùng túi tiền mười hai đồng vàng.

- Thế thì... - Người lạ mặt lạnh lùng - hắn là dòng dõi bậc hoàng thân nào đó cải trang.

- Thưa ngài - Chủ quán nói tiếp - tôi nói là để ngài đề phòng.

- Và trong cơn điên hắn cũng không nói rõ tên ai?

- Có chứ, hắn vỗ túi nói: "Rồi ông sẽ thấy ngài Treville nghĩ thế nào về việc lăng mạ này đối với người được ngài ấy bảo vệ".

- Ông Treville ư? - Người lạ vừa nói vừa đăm chiêu - Hắn vỗ túi và thốt ra tên ông Treville ư? Xem nào... trong khi hắn bất tỉnh, tôi tin chắc ông nhìn vào chiếc túi đó. Trong túi có gì?

- Một phong thư gửi ngài De Treville, đại úy ngự lâm quân.

- Thật vậy ư?

- Thưa đại nhân, đúng vậy ạ.

Chủ quán vốn không được phú cho đầu óc mẫn tiệp nên không hề nhận thấy những lời nói của mình khiến vẻ mặt người lạ thay đổi thế nào. Người đó rời bậc cửa, chau mày ra chiều lo lắng.

- Quỷ thật! - hắn thầm thì qua kẽ răng - Treville chả nhẽ lại gửi đến ta tên Gátxcông này? Hắn non trẻ quá! Nhưng một đường gươm vẫn là một đường gươm, bất kể tuổi tác của người vung gươm, và người ta ít coi chừng một đứa trẻ hơn bất kỳ kẻ nào khác. Đôi khi chỉ cần một trở ngại nhỏ để cản phá một mưu đồ lớn.

Người lạ trở nên trầm tư trong ít phút.

- Này chủ quán! Ta không thể giết hắn, thế nhưng - hắn thêm bằng vẻ đe dọa lạnh lùng - hắn chướng mắt ta lắm. Hắn đang ở đâu?

- Trong phòng vợ tôi. Người ta đang băng bó cho hắn ở tầng gác một.

- Quần áo và bọc hành lý vẫn ở chỗ hắn chứ?

- Tất cả đều ở dưới bếp. Nhưng một khi tên nhãi ấy làm phiền ngài...

- Hẳn rồi. Hắn gây cho ông một vụ bê bối mà đến người tử tế cũng không thể chịu nổi. Lên phòng ông đi, thanh toán mọi khoản cho ta rồi bảo cho người hầu của ta.

- Sao? Ngài rời khỏi đây à?

- Ông không tuân lệnh ta ư?

- Thưa vâng! Tất cả đã sẵn sàng để Ngài lên đường.

- Tốt lắm, hãy làm cái việc ta đã bảo ông đi.

"Lạ thật! - Chủ quán tự nhủ - Chả lẽ ông ta lại sợ thằng nhãi?".

Nhưng một cái nhìn quyền thế của người lạ kia đã chặn đứng luồng suy nghĩ đó. Chủ quán khúm núm chào và đi ra.

Người lạ tự bảo:

- Không nên để Milady bị tên kỳ quặc kia bắt gặp. Thế nào nàng cũng sắp qua đây. Tốt hơn là ta cứ lên ngựa đến đón gặp nàng trước. Giá như ta có thể biết bức thư gửi Treville nội dung thế nào!

Trong khi đó, chủ quán tin rằng chính sự hiện diện của gã trai trẻ khiến người lạ mặt kia phải bỏ đi. Ông ta liền đi tới phòng vợ mình và thấy D' artagnan đã tỉnh lại. Thế rồi ông ta giảng giải cho chàng hiểu rằng cảnh sát có thể gây phiền phức cho chàng vì chàng đã gây chuyện với một bậc đại thần rồi ông ta thúc ép tiếp tục cuộc hành trình dù chàng còn yếu.

D' Artagnan vẫn còn choáng váng, mình không áo chẽn, đầu quấn đầy băng. Chàng bị chủ quán vừa kéo vừa đẩy nên đành bước xuống thang gác. Nhưng vừa xuống tới bếp, vật đầu tiên chàng trông thấy chính là kẻ đã khiêu khích mình. Hắn đang ình thản nói chuyện ở bậc lên xuống của một cỗ xe thắng hai con ngựa lớn nòi Normande .

Người đàn bà trò chuyện với hắn là một phụ nữ từ hai mươi đến hăm hai tuổi. Vừa thoạt nhìn, chàng đã thấy ngay đó người đàn bà trẻ đẹp. Mà cái sắc đẹp ấy lại hoàn toàn xa lạ ở cái xứ sở phương Nam nơi chàng vẫn sốngng. Đó là một phụ nữ với nước da trắng xanh, tóc hung vàng xõa thành những chuỗi dài xuống hai vai, đôi mắt xanh to u hoài, đôi môi hồng và hai bàn tay như bạch ngọc.

Nàng trò chuyện sôi nổi với người lạ kia.

- Vậy, Đức ông lệnh cho tôi... - Người đàn bà nói.

- Phải quay lại nước Anh ngay tức khắc và trực tiếp báo trước cho ngài[SUP](8)[/SUP] nếu Quận công[SUP](9)[/SUP] rời London.

- Thế còn những chỉ thị khác cho tôi?

- Tất cả được bọc kín trong chiếc hộp này. Chỉ được mở khi đã ở bờ bên biển Măngsơ.

- Rất tốt. Còn ông, ông làm gì?

- Tôi trở lại Paris.

- Không trị tội thằng nhãi con hỗn xược sao? - Người đàn bà hỏi.

Người lạ định trả lời, nhưng vừa mở miệng thì D' Artagnan đã lao mình tới ngưỡng cửa và hét lên:

- Chính thằng nhãi hỗn xược mới trừng trị kẻ khác. Và ta hy vọng lần này kẻ mà thằng nhóc trừng trị sẽ không thoát khỏi như lần đầu.

- Sẽ không thoát khỏi ư? - Người lạ cau mặt cau mày hỏi.

- Không, trước một phụ nữ, ta cho là ông sẽ không dám trốn.

Milady kêu to khi thấy nhà quý tộc để tay lên gươm:

- Hãy nghĩ kỹ đã, hãy nghĩ, chậm một tý thôi có thể mất hết.

- Nàng có lý. - nhà quý tộc nói - Vậy nàng hãy đi theo con đường nàng. Ta đi đường ta.

Hắn gật đầu chào người đàn bà rồi nhảy phắt lên yên ngựa. Người đánh xe cũng quất mạnh đôi ngựa thắng. Hai bên phi nhanh về phía ngược nhau trên đường phố.

- Này, còn tiền chi phí? - Chủ quán với gọi, lòng mến khách đối với người lạ đã chuyển thành sự khinh bỉ sâu sắc khi thấy hắn xa dần mà không thanh toán tiền trọ.

- Trả đi! - Người lạ mặt vừa phi ngựa vừa quát tên hầu.

Tên này quăng xuống chân chủ quán vài ba đồng bạc rồi cùng phi theo chủ.

D' artagnan cũng lao theo tên hầu và la:

- A, đồ hèn! Đồ khốn nạn! Quý tộc rởm.

Nhưng người bị thương còn quá yếu không thể chịu nổi một cú lao mạnh như vậy. Mới được mươi bước, tai chàng đ ã ù, đầu hoa lên, máu như dồn lên mắt khiến chàng ngã lăn ra đường nhưng miệng vẫn còn la:

- Hèn! Hèn! Hèn!

- Quả là hắn rất hèn! - Chủ quán vừa lẩm bẩm vừa tới gần D' artagnan, cố nịnh bợ để làm lành với chàng trai tội nghiệp giống như con sếu với con ốc sên trong chuyện ngụ ngôn[SUP](10)[/SUP].

- Phải, quá hèn! - D' Artagnan lẩm bẩm - nhưng nàng... quá đẹp!

- Ai, nàng nào? - Chủ quán hỏi.

D' Artagnan ấp úng:

- Milady ấy.

Rồi chàng lại ngất lần thứ hai.

- Thế là hòa - Chủ quán nói - Ta mất hai, nhưng lại còn được tên này, mà ta tin chắc sẽ giữ lại được ít nhất mấy ngàyi.

Mười một đồng vàng vừa đúng là số tiền còn lại trong túi tiền của D' Artagnan.

Chủ quán đã tính theo mười một ngày bệnh, với giá một đồng vàng một ngày, nhưng tính vắng mặt khách trọ. Sáng hôm sau lúc n ăm giờ, D' artagnan thức dậy, tự mình xuống bếp, yêu cầu cho chàng rượu vang, dầu, cây hương thảo, ngoài các vị thuốc khác không nắm được t ên. Tay chàng cầm đơn thuốc mẹ cho, chế thành một loại cao rồi xoa lên các vết thương đầy người, tự thay mới băng gạc và không muốn chấp nhận bất cứ thày thuốc nào giúp. Chắc hẳn nhờ công dụng của loại cao Bôhêm và có lẽ cũng nhờ sự vắng mặt của mọi loại bác sĩ, ngay tối hôm ấy chàng đã tự đi lại được và hôm sau gần như khỏi hẳn.

Nhưng lúc trả tiền cây hương thảo, dầu và rượu vang, khoản chi duy nhất của chủ thì con ngựa vàng, theo như chủ quán nói, ít ra cũng đã ăn gấp ba lần mức à người ta coi như hợp lý so với tầm vóc của nó. D' artagnan chỉ thấy trong túi áo mình cái túi đựng tiền bằng nhung đã sờn với mười một đồng tiền vàng, còn phong thư ngài De Treville đã biến mất.

Chàng trai trẻ kiên nhẫn tìm bức thư, lộn đi lộn lại đến hai mươi lần những túi áo lớn nhỏ, lục đi lục lại bọc hành lý, mở rồi lại đóng túi đựng tiền. Chàng lại rơi vào cơn điên giận và suýt nữa lại một phen làm đi tong món dầu thơm và rượu vang. Thấy cái đầu kẻ tồi tệ kia đang bốc nóng và đe dọa đập phá hết đồ nội thất nếu không tìm ra cho bức thư, chủ quán đã vơ lấy một ngọn giáo cùng vợ y với cán chổi và lũ hầu bàn thủ sẵn đòn gậy.

- Bức thư tiến cử của ta! - D' artagnan gào lên - Bức thư tiến cử của ta! Mẹ kiếp! Nếu không, ta sẽ xiên chả tất cả như nướng chim ngói cho mà xem!

Khốn nỗi chàng không làm được điều đe dọa. Gươm của chàng từ trận đầu đã bị gãy làm đôi mà chàng đã hoàn toàn quên mất. Vì vậy, khi chàng muốn tuốt gươm, chàng chỉ thấy một mẩu gươm dài khoảng một gang tay mà chủ quán đã cẩn thận tra vào vỏ. Phần còn lại của lưỡi gươm, tay chủ quán đã khéo léo sửa thành một cái xiên nướng thịt.

Song nỗi thất vọng đó chưa chắc đã ngăn nổi chàng trai hung hăng nếu chủ quán không nghĩ đến việc người khách lạ đã đòi hỏi y. Hắn hạ mũi giáo xuống hỏi:

- Nhưng thật ra bức thư ấy ở đâu?

- Phải, bức thư ấy ở đâu? - D' artagnan hét - Trước hết ta báo cho ông biết, bức thư ấy là gửi cho ngài De Treville, và nó phải được tìm thấy. Hoặc nếu không tìm thấy, chính ngài sẽ biết cách tìm ra!

(còn)
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
tiếp tục đi bà bụi
 
Lời đe dọa khiến chủ quán hoảng sợ. Thế là ông ta vứt giáo, ra lệnh cho vợ mình và bọn gia nhân cũng vứt hết gậy gộc để đi tìm bức thư. Sau một hồi tìm kiếm không kết quả, chủ quán nói:

- Bức thư đó có cái gì quý giá ư?

- Nó chứa đựng vận mệnh của ta.

- Những ngân phiếu thanh toán ở Tây Ban Nha ư? - chủ quán lo lắng hỏi.

- Những ngân phiếu trong ngân khố đặc biệt của Hoàng thượng.

D' artagnan đáp như vậy vì cho rằng bức thư tiến cử ấy có thể giúp chàng được phục vụ nhà Vua. Câu trả lời có đôi chút mạo muội nhưng cũng không hoàn toàn là dối trá.

- Chết! - Chủ quán hoàn toàn thất vọng.

- Nhưng không sao! - D' artagnan tiếp tục với vẻ bộc trực vốn có - Tiền không là gì, thư mới là tất cả. Ta thà mất nghìn bạc còn hơn mất bức thư đó.

Đầu chủ quán đang mụ mị đi vì không tìm thấy gì thì bỗng lóe lên một tia sáng. Ông reo lên:

- Bức thư không hề mất!

- Hả! - D' artagnan hỏi. - Không mất? Ai lấy?

- Lão quý tộc hôm ấy. Lão đã xuống bếp, nơi để chiếc áo chẽn của cậu. Lão ở đấy một mình. Tôi tin chính lão đã lấy cắp bức thư.

- Ông nghĩ vậy à? - D' artagnan chưa tin lắm bởi trong bức thư chẳng có gì khêu gợi lòng tham cả. Bất kỳ lũ người hầu hoặc khách trọ nào cũng sẽ chẳng kiếm được chút lợi lộc gì khi chiếm hữu tờ giấy đó. D' artagnan tiếp:

- Vậy ông nghi ngờ lão quý tộc xấc xược ấy?

- Tôi chắc chắn như vậy. Khi tôi báo cho lão ta biết cậu có bức thư gửi ngàii Treville và được ngài ấy bảo trợ, lão tỏ ra rất lo lắng và hỏi tôi bức thư đó ở đâu rồi đi ngay xuống bếp.

- Vậy đó chính là kẻ cắp đồ của ta rồi! Ta sẽ khiếu nại với ngài De Treville và ngài sẽ khiếu nại chuyện này với Đức Vua.

Nói rồi chàng oai vệ rút ra hai đồng tiền vàng đưa cho chủ quán. Chủ quán tay cầm mũ, tiễn chàng đến tận cửa. Chàng cưỡi con ngựa vàng đi tới tận cổng ô Saint-Antoine ở Paris mà không gặp một tai họa nào khác. Đến đây chàng trai trẻ bán con ngựa lấy ba đồng vàng. Cái giá như vậy là quá cao rồi, bởi D' artagnan đã làm nó kiệt sức trong đoạn đường cuối. Người lái ngựa mà D' artagnan đã nhượng lại con Bearn trả giá ba đồng vàng mà không hề giấu giếm chàng là mình đưa ra cái giá ấy chẳng qua chỉ vì màu lông độc đáo của nó.

Vậy là D' artagnan đi bộ vào Paris. Chàng cuốc bộ mãi tới khi tìm được một phòng trọ phù hợp với khoản tiền ít ỏi của mình ở phố Phu đào huyệt , cạnh vườn Luychxămbua.

Suốt thời gian còn lại trong ngày, chàng ngồi khâu những mảnh ren viền mà mẹ chàng đã tháo từ chiếc áo hầu ông D' artagnan bố rồi lén đưa cho chàng, vào chiếc áo chẽn của mình. Tiếp đó, chàng đến phố Thợ rèn và đặt làm một lưỡi gươm.

Hóa ra vịị trí dinh quán của ngài De Treville ở phố Chuồng chim câu cũ, nghĩa là đúng ngay cạnh phòng D' artagnan đang thuê. Có vẻ như đó là một sự khởi đầu may mắn cho những thành công tiếp theo của cuộc hành trình.

Tin vào hiện tại và tràn trề hy vọng trong tương lai, chàng đi ngủ và mơ giấc mơ về một dũng sĩ. Giấc ngủ kéo chàng đến tận chín giờ sáng - cái giờ mà chàng phải dậy để đến nhà ngài De Treville danh tiếng.

(hết chương 1)


Chú thích:

(1) Măng: Thị trấn thuộc lưu vực sông Loa nước Pháp.

(2) Giáo phái Canvanh: Giáo phái do Han Canvanh làm Giáo chủ, là một giáo phái Tin lành cải cách và phát triển mạnh ở Pháp, Thụy Sĩ.

(3) Pháo thành La Rochelle: Thủ phủ của quận Chafente.

(4) Màu cờ vàng và đỏ: Màu cờ Tây Ban Nha.

(5) Đông Kihôtê: Nhân vật chính đồng thời cũng là tên cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của Cervatès - nhà văn người Tây Ban Nha.

(7) Tarbe: Thị trấn thuộc tỉnh Gascogne, vùng Thượng Pyrenée.

(8) Ý nói Giáo chủ Richelieu.

(9) Quận công De Buckingham.

(10) Truyện ngụ ngôn của La Fontaine: con sếu muốn thò mỏ vào trong cái vỏ cứng của ốc sên để ăn thịt nó.
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
Chương 2



De Troavin, gia đình vẫn hay gọi ông như thế. Còn ông lại tự gọi mình là De Treville. Ông cũng khởi nghiệp như D' artagnan, nghĩa là không một xu dính túi. Lòng quả cảm phi thường đã đưa ông lên đỉnh cao của nấc thang khó khăn nhất mà người ta gọi là "sự sủng ái của triều đình". Ông đã leo từng bậc một.

Cha của De Treville đã phục vụ trung thành cho đức Vua quá cố trong cuộc chiến chống lại Liên minh(3) đến những vấn đề rắc rối về tiền bạc. Vua Henri IV trao cho ông quyền được mang gia huy con sư tử vàng trên men sứ đỏ chói với dòng châm ngôn: Trung thành và dũng mãnh. Thế là quá nhiều vinh dự, nhưng lại quá tầm thường để sống dễ chịu. Ông để lại cho con trai tài sản duy nhất: thanh gươm và câu châm ngôn ấy. Nhờ hai tặng vật đó và cái tên không một vết nhơ của cha mình, ông De Treville được nhận vào dinh của hoàng tử. Ông phụng sự bằng thanh gươm của mình và trung thành với châm ngôn ấy đến mức vua Louis XIII - một trong những lưỡi gươm cừ khôi của vương quốc phải nói rằng: Nếu chọn trợ thủ, hãy chọn nhà Vua rồi tới De Treville. Mà có thể chọn Treville trước cả nhà Vua nữa.

Treville biết điểm yếu của chủ mình. Nhờ sự khéo léo, ông chiếm được ân sủng lâu dài và bền vững của một ông vua mang tiếng là không chung thủy với bạn bè. Ông De Treville được những con người trong ngự lâm quân tôn thờ, ca ngợi hết lời. Họ luôn run sợ trước mặt ông như học trò trước thầy mình. Họ nhất nhất vâng lời và sẵn sàng chết để rửa sạch điều quở trách dù nhỏ nhặt.

Hôm D' artagnan tới trình diện, vừa bước qua cánh cửa đồ sộ tua tủa những đinh dài đầu bốn cạnh, chàng như bị rơi vào giữa một đám người mang gươm kiếm gặp gỡ nhau ở trong sân. Họ gọi nhau, cãi cọ nhau và chơi đùa với nhau. Để vạch được một lối đi giữa lớp sóng cồn ấy thì phải là một sĩ quan, một đại lãnh chúa hoặc một mỹ nhân. Chàng trai trẻ tiến vào giữa đám ồn ào và hỗn độn đó, kéo sát thanh gươm dài vào bên chân mảnh khảnh, một tay cầm vành mũ dạ với nụ cười nửa miệng của một gã tỉnh lẻ lúng túng lại muốn làm ra vẻ đàng hoàng. Đi qua khỏi toán quân, chàng mới thở được dễ dàng hơn. Biết họ đang quay lưng lại nhìn mình, D' artagnan dù là người khá tự tin nhưng đây là lần đầu tiên trong đời chàng thấy mình là một kẻ ngốc.

Lúc tới cầu thang còn tồi tệ hơn. Ở bậc thang có bốn tên lính ngự lâm đang tiêu khiển bằng một trò luyện tập trong khi mười hai đồng đội khác chờ đến lượt mình tham gia. Ba người kia chống đòn bằng những đường gươm khá điêu luyện. D' artagnan thoạt đầu nghĩ những gươm sắt đó đều là những gươm tập, đầu gắn bi tròn. Nhưng rồi chàng nhận ra ngay một vài vết đâm do mỗi thanh gươm rất sắc nhọn. Cứ mỗi vết xây xát, bọn chúng cười phá lên như lũ điên.

Mọi người vây quanh bọn họ. Điều kiện nâng tới mức, người nào bị gươm đâm phải bỏ cuộc và mất lượt tiếp theo. Trong năm phút, cả ba đều bị đâm trúng, người vào cổ tay, người vào cằm, người khác vào tai, còn bản thân người ở bậc trên chống giữ không bị dính mũi nào. Theo đúng luật chơi, người này được ba lần ưu tiên.

Cái trò giết thì giờ này không đến nỗi quá khó khăn nhưng nó đã làm cho chàng du khách trẻ kinh ngạc. Chàng tưởng như mình được đưa đến xứ sở của những gã khổng lồ Gulivơ và sợ hãi. Trên bậc nghỉ người ta không đánh nhau nữa mà kể những chuyện đàn bà, chuyện triều đình...

Ở tiền sảnh, chàng rất đỗi ngạc nhiên khi nghe người ta cao giọng chỉ trích thứ chính trị làm châu Âu run rẩy và đời tư của Giáo chủ mà bao nhiêu bậc vương công quyền thế đã bị trừng phạt vì đã dám thọc sâu vào. Họ cợt nhạo đôi chân vòng kiềng và chiếc lưng gù của Giáo chủ. Một vài người hát Thánh ca Giáng sinh về phu nhân De Eghiông và phu nhân Combalê trong khi những người khác chắp nối những câu bông đùa lại để chống lũ thị đồng và bọn cận vệ của Quận công Giáo chủ. D' artagnan thấy mọi thứ thật khủng khiếp.

Thế nhưng, khi vô tình nhắc đến tên của nhà Vua khi báng bổ Giáo chủ, lập tức như có ngay một miếng giẻ nút ngay vào những cái miệng kia. Chúng e dè nhìn quanh mình như thể lo sợ vách phòng ông De Trevi lle không đủ kín. Nhưng rồi một câu bóng gió đưa câu chuyện trở lại với Đức ông và lúc đó những tràng cười lại nổ ra và có phần vui vẻ hơn. Chúng soi mói không chừa bất kỳ hành vi nào của Giáo chủ.

"Chắc chắn những kẻ đó sẽ sớm bị tống vào ngục Bastille và đem treo cổ thôi - D' artagnan nghĩ vậy - Và ta sẽ bị coi như kẻ đồng mưu với họ. Cha ta sẽ nói sao? Người đã dặn dò ta rất kỹ phải kính trọng Giáo chủ. Nếu như Người biết ta cùng hội cùng thuyền với bọn tà giáo như thế, Người sẽ nghĩ như thế nào?"

D' artagnan không dám tham gia vào cuộc trò chuyện mà chỉ dồn hai mắt nhìn, vểnh tai lên nghe, căng hết ngũ quan ra. Dù tin vào những lời khuyên răn của cha nhưng chàng vẫn cảm thấy mình bị bản n ăng lôi kéo đến chỗ ca ngợi hơn là trách cứ những điều chưa hề được nghe nói đang diễn ra ở đây.

(còn)
 
Hiệu chỉnh bởi quản lý:
×
Quay lại
Top